Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Đề tài tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước của dân do dân vì dân huỳnh thị viễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.14 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
KHOA LÝ- HÓA - SINH

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
ĐỀ TÀI: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà
nước của dân do dân vì dân”.

GVHD: ThS Bùi Phước Ý
SVTH: Huỳnh Thị Viễn
Năm :2012-2013

1


A PHẦN MỞ ĐẦU
1 lý do chọn đề tài:
Có thể nói khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời sự nghiệp của chủ tịch
HỒ CHÍ MINH là giành độc lập cho dân tộc, đêm lại sự tự do hạnh phúc
cho nhân dân “tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập,dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc,ai cũng được học hành. Khát vọng và lý tưởng ấy
xuyên suốt mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của
người. Ngày 2-9-1945 tại quảng trường ba đình lịch sử, chủ tịch Hồ Chí
2


Minh đã long trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước việt nam
dân chủ cộng hòa, mở ra một trang sử mới trong hàng ngàn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc việt nam.nhân dân ta từ kiếp nô lệ trở thành
người làm chủ đất nước,nước ta từ một nước thuộc địa trở thành quốc gia
độc lập, có chủ quyền, tự quyết định vận mệnh của mình. Nhà nước ta


được xây dựng từ cách mạng tháng 8-1945 là nhà nước kiểu mới- nhà nước
pháp quyền của dân do dân vì dân. Với tư cách là người làm chủ đất nước,
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã lập nên những chiến công trong
đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước và đưa nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội. Thực hiện công cuộc đổi mới 25 năm qua, chúng ta đã giành
được những thành tựu to lớn đưa đất nước từng bước thoát khỏi tình trạng
nghèo nàn,lạc hậu về kinh tế văn hóa xã hội ngày càng phát triển,dân chủ
được mở rộng đời sống tinh thần của người dân được cải thiện. Thành công
của công cuộc đổi mới càng làm cho chúng ta thấm thía bài học “dân là
gốc”. Tuy nhiên cũng thẳng thắng thừa nhận rặng rằng trong bộ máy nhà
nước cũng có một bộ phận cán bộ công chức chưa làm tròn trách nhiện với
nhân dân,chưa thật sự là công bộc của dân, quyền làm chủ của nhân dân có
lúc có nơi chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ. Để giữ vững nền độc
lập và phát triển kinh tế theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của nước
ta thì Đảng ta cần phải vận dụng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Để hiểu hơn về quy chế dân chủ của nước ta, nghiên cứu và đề xuất giải
pháp phát huy hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân đối với nhà nước, đó
là lý do em chọn đề tài “tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của
dân do dân vì dân”.
2 Mục đích yêu cầu:
Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước của dân do dân vì dân. Nắm vững những nội dung cơ bản
3


trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân ,vì
dân.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng:tư tưỡng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân do dân vì
dân.

Phạm vi nhiên cứu: trên đất nước việt nam.
4 Những đóng góp chính của đề tài :
Đối với bản thân: hiểu hơn về quy chế dân chủ của nhà nước ta,em sẽ cố
gắng học tốt để trở thành người công dân có ích cho xã hội, hoàn thành tốt
bổn phận, trách nhiệm của mình đối với đất nước.
Đố với xã hội: đưa ra những giải pháp góp phần phát huy quyền là chủ đất
nước của nhân dân, góp phần xây dựng cán bộ đảng viên trong sạch có đạo
đức cách mạng.
5 Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chứng, phối hợp các phương pháp phân tích,
tổng hợp ,điều tra,và đọc tài liệu.

B NỘI DUNG
I Cơ sở lý luận và thực tiễn
1 Cơ sở lý luận
a Tư tưỡng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân do dân vì dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước lấy dân làm gốc; Gốc có vững,
cây mới bền. Người rất tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không
dân cũng chịu.Khó vạn lần dân liệu cũng xong” (1). Quan điểm của Hồ Chí
Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân là quan điểm xuyên suốt, cơ

4


bản, bao trùm toàn bộ quá trình phát triển của dân tộc ta. Nhà nước của dân
do dân vì dân theo Hồ Chí Minh:
Nhà nước của dân: Tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong
xã hội đều thuộc về nhân dân.Nhân dân có quyền quyết định những vấn đề
liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc. Nhà nước của dân là dân là chủ,
người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm những việc pháp

luật không cấm và có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp
luật. Đồng thời là người chủ cũng phải thể hiện năng lực, trách nhiệm làm
chủ của mình.Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ
để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra
chỉ là thừa uỷ quyền của dân, là “công bộc” của dân; phải làm đúng chức
trách và vị thế của mình, không phải đứng trên nhân dân, coi khinh nhân
dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho
dân”.
Nhà nước do dân: Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu
của mình. Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi
tiêu, hoạt động. Nhà nước do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Hồ Chí
Minh yêu cầu: Tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và sự kiểm soát của nhân dân.
Nhà nước vì dân: Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có Nhà nước thực sự của
dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát mới có thể là nhà nước vì dân.
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân,
không có đặc quyền đặc lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ
Chí Minh yêu cầu:
“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh...”(2)

5


Cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo
hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người lãnh đạo
phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, gần gũi
nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, “Người thay mặt dân phải đủ cả
đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”.

b Quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước của dân do dân vì dân
Quan điểm của Đảng ta về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân
Về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa , Đại hội XI tiếp tục khẳng định:
“Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống, ở mỗi cấp, trên tất cả các
lĩnh vực” (3)
Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa cần phả thực hiện đồng bộ các giải
pháp: Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước. Mọi đường lối, chính sách, pháp luật đều vì lợi ích nhân
dân, dựa trên ý kiến nhân dân. Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán
bộ, đảng viên và công chức phải thật sự công bộc của dân. Đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Xác định các hình thức tổ chức, cơ chế
thích hợp để thu hút tạo điều kiện cho mọi tầng lớp nhân dân tham gia công
việc chung của Nhà nước. Nhân dân thụ hưởng và thực hiện quyền và nghĩa
vụ. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đổi với nhân dân.
Có cơ chế để nhân dân thường xuyên tham gia đề xuất kiến nghị với Đảng
và Nhà nước, phát huy vai trò lãnh đạo, nêu cao trách nhiệm đối với sự
nghiệp đổi mới. Bộ máy nhà nước và thiết chế hệ thống chính trị vừa tổ chức
6


thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, vừa tham gia để xuất ý kiến với
Đảng trong quá trình xây dựng và hoạch định chính sách. Tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân
Đại hội XI chỉ rõ phương hướng “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta là của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”(4). Xây dựng cơ chế

vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc
tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; bảo đảm quyền lực Nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan Nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, tính khả thi của văn bản pháp luật.
Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các
hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền. Trong tổ chức và hoạt
động của Quốc hội, cần hoàn thiện cơ chế bầu cử để nâng cao chất lượng đại
biểu. Nâng cao chất lượng bầu cử. Tăng số lượng đại biểu chuyên trách một
cách chuyên nghiệp, có khả năng đề xuất sáng kiến. Thực hiện tốt nhiệm vụ
quyết định các vấn đề quan trọng đất nước, vấn đề nhân sự, vấn đề ngân
sách. Đổi mới tổ chức hoạt động của Chính phủ, đẩy mạnh cải cách hành
chính. Luật hóa cơ cấu tổ chức của Chính phủ, tổ chức bộ quản lý đa ngành,
đa lĩnh vực. Phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương.
Về hệ thống cơ quan tư pháp cần xây dựng cơ chế phán quyết về vi phạm
hiến pháp trong lập pháp, hành pháp, tư pháp. Về tổ chức hoạt động của Hội
đồng Nhân dân và Ủy ban nhân dân, cần nâng cao chất lượng hoạt động và
vai trò giám sát. Phải làm cho các quyết sách của Hội đồng nhân dân thực
quyền hơn.

7


Về tổ chức, bộ máy hành chính và hoạt động của cơ quan hành chính cán bộ,
công chức. Chấn chỉnh bộ máy, ban hành luật về các tổ chức. Xác định rõ cơ
quan, công chức Nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép. Có cơ chế
đưa người kém phẩm chất ra khỏi bộ máy nhà nước.
Vấn đề phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là một nội dung lớn, quan trọng trong đường lối đổi
mới của Đảng ta. Đây là kết quả của một quá trình 25 năm đổi mới, tiến

hành tổng kết thực tiễn - phát triển lý luận của Đảng. Trong điều kiện hội
nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện để làm cơ
sở lý luận - thực tiễn giúp Đảng ta có đủ bản lĩnh và năng lực lãnh đạo nhân
dân ta đưa sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước tiếp tục giành được những
thắng lợi to lớn hơn.
c Pháp luật về xây dựng nhà nước của dân do dân vì dân:
Trong Lời nói đầu Hiến pháp 1946 đã khẳng định: “Cuộc Cách mạng tháng
Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền
dân chủ cộng hoà” (5). Đó là lời khẳng định đanh thép về bản chất chế độ
chúng ta - một chế độ do nhân dân làm chủ. Dân chủ, như chúng ta biết,
trước hết là hình thức tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên nguyên tắc:
“Toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân”. Nguyên tắc đó phải được xác định
dứt khoát trong Hiến pháp. Bởi vậy, trong khi xác định nhiệm vụ trung tâm
sau khi giành được chính quyền là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn
toàn và “kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”, Hiến pháp 1946 đã xem
việc “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” là một
trong ba nguyên tắc cơ bản cần nắm vững khi xây dựng Hiến pháp cách
mạng của chúng ta.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc đó, tinh thần “Nhà nước của dân, do
dân, vì dân” được thể hiện đậm nét trong Hiến pháp 1946. Chẳng hạn, “Tất
8


cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”(6) “Chế độ
bầu cử là phổ thông đầu phiếu” (7) “nhân dân có quyền bãi miễn các đại
biểu mình bầu ra”(8).“Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và
những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia”(9). “Nghị viện nhân dân do
công dân Việt Nam bầu ra”; “Nghị viện nhân dân họp công khai, công chúng
được vào nghe”; “những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra
nhân dân phúc quyết”; …

Từ những điều được ghi nhận trong Hiến pháp này có thể thấy, tinh
thần nhà nước của dân, do dân, vì dân:Nhà nước đó do nhân dân lập ra thông
qua tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu và kín,nhà nước đó hoạt động theo
nguyên tắc vì lợi ích của nhân dân, “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh” (2)
, mọi hoạt động của Nhà nước phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân
dân, nhân dân có quyền tỏ tín nhiệm hay bất tín nhiệm đối với Chính phủ;
“Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” tự nó, mọi cơ
quan nhà nước không có quyền; mọi quyền lực mà Nhà nước có được đều
do nhân dân uỷ quyền cho nó.
2 Cơ sở thực tiễn
Hoạt động xây dựng nhà nước của dân do dân vì dân của Hồ Chí minh
Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, ngày 3-9-1945, một ngày
sau khi tuyên bố nước Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ
thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp.
Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một
hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc
9


Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai, gái từ
18 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu,
nghèo, tôn giáo, dòng giống... Và quy định ngày tiến hành Tổng tuyển cử
là 23-12-1945”.
Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên là một cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh dân
tộc hết sức quyết liệt. Đồng thời để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân và
tôn trọng quyền tự do dân chủ của nhân dân, tôn trọng người tài năng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể
quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc

nước nhà”. Riêng đối với các phe chống đối Chính phủ ta (bọn Việt cách,
Việt quốc...) chúng ta vừa kiên quyết đấu tranh chống lại mọi sự phá hoại
chống đối của họ, đồng thời cũng đã cố gắng nhân nhượng, hòa giải nhằm
tạo bầu không khí ổn định cho cuộc Tổng tuyển cử. Trước tình hình còn rất
nhiều khó khăn và phức tạp đó do vậy, ngày 18-12-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký sắc lệnh: hoãn cuộc Tổng tuyển cử đến ngày chủ nhật 6-1-1946.
Ngày 5-1-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu.
Người nhấn mạnh: “Ngày mai là một ngày sẽ đưa quốc dân ta lên con đường
mới mẻ, ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là
ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình... Ngày
mai dân ta sẽ tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng thay mặt
mình và gánh vác việc nước... Ngày mai, tất cả các bạn cử tri đều phải nhớ
đi bầu cử, ngày mai mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một
người dân độc lập, tự do”.
II Thực trạng và giải pháp
1 Những mặc tích cực và hạn chế về nhà nước của dân do dân vì dân
10


a Tích cực:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ khác hẳn về bản chất và đối lập về
nguyên tắc với dân chủ tư sản. Đó là chế độ dân chủ “gấp triệu lần” hơn bất
cứ chế độ dân chủ nào trong lịch sử như V.I.Lênin từng khẳng định. Thực
thi dân chủ sai nguyên tắc, vô nguyên tắc đều là trái với lí tưởng của cách
mạng, với bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, có thể dẫn đến hậu quả khó
lường. Xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, thì việc dân chủ hóa
sẽ trượt sang dân chủ phi xã hội chủ nghĩa và đồng nghĩa với việc thủ tiêu
chủ nghĩa xã hội. Cần nhớ lại một bài học đau xót và thấm thía về sự vi
phạm dân chủ và thực thi dân chủ sai nguyên tắc ở Liên Xô trong thời gian

cải tổ. Những đơn thuốc “công khai hóa”, “dân chủ hóa”, “đa nguyên chính
trị” đưa ra nhằm cải tổ chủ nghĩa xã hội lại tạo “thời cơ”, điều kiện thuận lợi
cho các thế lực thù địch ráo riết hơn, quyết liệt hơn trong mưu đồ chống phá
và dẫn đến thủ tiêu chế độ Xô viết.
Thực tiễn cho thấy, bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của nền dân chủ nước ta
ngày càng thể hiện sinh động trong cuộc sống hằng ngày của quần chúng
nhân dân. Kể từ khi khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), các tầng lớp nhân dân lao động Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức đứng lên
làm chủ, tự mình tổ chức, cai quản và xây dựng xã hội mới. Đó là thành tựu
vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Chế độ dân chủ ở nước ta, xét về bản chất,
là một thể chế chính trị mà trong đó quyền lực chính trị - xã hội thuộc về
nhân dân; là chế độ bảo đảm quyền làm chủ trên thực tế của nhân dân trong
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tinh thần; phát huy cao độ tính
tích cực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và thông qua Nhà nước xã hội chủ
11


nghĩa. Quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thể hiện trong các văn bản
hiến pháp, pháp luật, mà ngày càng được thể hiện sinh động trong cuộc sống
hằng ngày.
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu
vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể
hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trong xã hội ta,
mọi công dân Việt Nam đều có quyền tham gia quản lí xã hội một cách trực
tiếp, hoặc thông qua người đại diện do mình lựa chọn. Trong các cuộc bầu
cử Quốc hội và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, tỉ lệ cử tri đi bầu rất cao.
Tỉ lệ đại biểu là nữ, người dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo trong Quốc hội
ngày càng cao, nhất là tỉ lệ nữ là đại biểu Quốc hội đứng thứ hai trong khu

vực châu Á - Thái Bình Dương, đứng thứ 9/135 nước trên thế giới. Việc
truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn của Quốc hội; việc thực hiện đối
thoại trực tuyến của Chủ tịch nước, của Thủ tướng Chính phủ… với nhân
dân; những cuộc tiếp xúc của các đại biểu với cử tri chuẩn bị cho các kì bầu
cử Quốc hội đã tạo điều kiện tốt hơn cho người dân thực hiện quyền làm
chủ, thực thi quyền kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước và đề đạt
nguyện vọng, ý kiến của mình. Điều đó thể hiện sâu sắc bản chất tốt đẹp và
tính ưu việt của chế độ dân chủ ở nước ta.
b hạn chế:
Tuy nhiên, công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn
chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước. Năng
lực xây dựng thể chế còn hạn chế, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách
chưa đồng bộ, thống nhất. Công tác điều hành, tổ chức thực thi pháp luật có
những mặt còn yếu. Tổ chức bộ máy ở một số cơ quan nhà nước còn chưa
12


hợp lý, chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng
chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu
đề ra, còn nhiều thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu. Cải cách
tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử
trong một số trường hợp chưa chính xác, tình trạng án tồn đọng, án bị hủy,
bị cải sửa còn nhiều. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt
được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng,
chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã gây ra những khó khăn, cản
trở, làm hạn chế thành tựu của đất nước, trong một số lĩnh vực còn tạo nên
bức xúc xã hội.Việc thực hiện quy chế dân chủ (QCDC) ở các loại hình cơ

sở vẫn chưa đáp ứng yêu cầu, còn yếu kém, khuyết điểm. Có nơi, có lúc còn
vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; không ít nơi, chưa thực hiện tốt công
khai, dân chủ, chưa phát huy đầy đủ tinh thần làm chủ, trách nhiệm làm chủ
của nhân dân trong tháo gỡ khó khăn, tham gia giải quyết những bức xúc từ
cơ sở. Việc thực hiện QCDC, công khai, minh bạch các chế độ, chính sách,
nhất là các chế độ, chính sách về nhà, đất, tài chính, tài sản, tiền lương, tiền
thưởng; về quy hoạch, kế hoạch, giá cả đền bù khi thu hồi đất... có nơi chưa
thực hiện nghiêm túc theo quy trình, quy định của Nhà nước, để xảy ra tham
nhũng, vi phạm pháp luật. Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa được quan
tâm đúng mức, nhận thức về thực hiện QCDC ở cơ sở chưa đồng đều; trách
nhiệm của một số ban chỉ đạo, của Mặt trận, đoàn thể, thủ trưởng cơ quan,
đơn vị có nơi, có lúc chưa được đề cao. Đến nay, vẫn còn nhiều nơi chưa
xây dựng được quy chế, nhiều công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
chưa triển khai thực hiện; chất lượng thực hiện QCDC ở nhiều cơ sở chưa
13


cao. Sự phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể trong công tác chỉ
đạo, kiểm tra, tổng kết và nhân rộng các điển hình có nơi thiếu chặt chẽ,
chưa đồng bộ; thiếu kiên quyết trong việc xây dựng và ban hành các quy
chế, quy định, quy trình thực hiện công khai, dân chủ...
c Nguyên nhân:
Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức về dân chủ chưa đầy đủ, trách nhiệm
của một số cấp ủy, chính quyền chưa tập trung chỉ đạo, thiếu kiểm tra, đôn
đốc; chưa cụ thể hóa các quy chế, quy định, quy trình công khai, dân chủ ở
cơ sở; chưa coi trọng việc sửa đổi, bổ sung quy chế, quy ước sát với thực
tiễn của từng loại hình cơ sở; chưa phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt
trận, các đoàn thể nhân dân; việc sơ kết, tổng kết, nhân rộng các điển hình
chưa được coi trọng; chưa kiểm điểm, phê bình nơi làm yếu và thiếu quan
tâm giúp đỡ nơi có khó khăn.

2 Giải pháp:
- Phát huy dân chủ, tính công khai, đối thoại trong thảo luận, hoạt động
chất vấn tại các buổi tiếp xúc cử tri.
- Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ
các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ,
công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt
động công vụ.

14


- Cần có các buổi tập huấn cán bộ,nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo,
chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước.
- Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn
thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn
thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.
- Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa
cấp bách, vừa lâu dài.
- Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ
quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước.
- Công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ
bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước,
- Huy động đóng góp của nhân dân, quản lý và sử dụng đất đai, tài sản
công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ.
- Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà nước bảo đảm
cuộc sống cho cán bộ, công chức.
C KẾT LUẬN

Với khuôn khổ hạn hẹp của bài tiểu luận và sự hạn chế của bản thân em,
nên bài viết không thể tránh khỏi những sai sót. Bài viết thể hiện mong
muốn tìm ra những giải pháp thiết thực nhằm thực hiện có hiệu quả quy
chế dân chủ ở địa phương, góp phần vào sự nghiệp xây dựng nhà nước của
dân do dân, vì dân của đất nước.

15


Tài liệu tham khảo
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, NXBCTQG, H.2002, tr.212
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 84-85.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011, tr.85.
(5) Văn phòng Quốc hội: Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992
và Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.7.
(6) Dẫn trên, tr. 8.
(7) Dẫn trên, tr.11
(8) Dẫn trên, tr.11.
(9) Dẫn trên, tr.11.
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.47.

16



×