Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền và ý nghĩa hiện thời của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.99 KB, 67 trang )

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách
mạng thuộc xã Kiêm Liên, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Người không
những là một nhà văn hóa kiệt xuất mà còn là một nhà cách mạng, một vị anh
hùng giải phóng của dân tộc, của nhân loại. Người đã để lại cho chúng ta một
di sản tinh thần vô giá, một hệ tư tưởng có giá trị về nhiều mặt. Không chỉ đối
với Việt Nam mà ngay cả nước thuộc địa lúc bấy giờ, tư tưởng của Người cũng
được xem là một cuốn kim chỉ nam cho phong trào giải phóng dân tộc của các
nước vô sản trên toàn thế giới. Tư tưởng của Hồ Chí Minh là sự kết tinh tuyệt
vời của văn hóa dân tộc Việt Nam, lý tưởng cộng sản Mác – Lênin, tư tưởng
của các nhà cách mạng Pháp, tư tưởng tự do của Hoa Kỳ, văn hóa phương
Đông, văn hóa phương Tây và phẩm chất cá nhân của Người.
Tư tưởng của Người rộng lớn, bao quát những vấn đề cách mạng của Việt
Nam. “Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, về giải phóng giai cấp, giải phóng
con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết
dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân,
do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân;
về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư; về chăm lo bồi dưỡng cán bộ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ
trung thành của nhân dân”.
Trong các di sản tư tưởng mà Người để lại thì tư tưởng về xây dựng
Nhà nước pháp quyền là một nội dung cơ bản, cốt lỏi. Có thể nói, quan điểm
về Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân đã xuyên suốt quá trình
cách mạng của Hồ Chí Minh, nhất là trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo công
cuộc xây dựng đất nước.
Hơn nữa thế kỷ qua, Nhà nước kiểu mới do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng


lập (sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945) ngày càng được củng
1
cố , hoàn thiện và phát triển, liên tiếp đạt được những thành tựu to lớn về mọi
mặt, điều này trong các văn kiện Đại hội toàn quốc của Đảng cộng sản Việt
Nam đánh giá cao. Tuy nhiên, những yếu kém của bộ máy Nhà nước ngày
càng bộc lộ rõ: “Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, việc thi hành pháp luật chưa
nghiêm, tổ chức bộ máy Nhà nước kồng kềnh, kém hiệu lực và hiệu quả thấp,
nạn quan liêu, lãng phí và tham nhũng nghiêm trọng, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ còn yếu, sự lãnh đạo của Đảng chưa được tăng cường đúng
mức…” Những khuyết điểm đó đã làm cho hiệu quả hoạt động của Nhà nước
bị hạn chế.
Thực tế cho thấy, cải cách nền hành chính và bộ máy Nhà nước là yêu
cầu tất yếu khách quan của công cuộc đổi mới và bảo vệ đất nước hiện nay.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Qúa
trình ấy phải dựa trên cơ sở vận dụng một cách sáng tạo cơ sở Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiển đất nước và những kinh nghiệm
xây dựng Nhà nước Việt Nam hàng chục năm qua, có tính đến kiến thức và
kinh nghiệm tiên tiến trên thế giới”.
Bước sang thế kỷ XXI, trước những cơ hội lớn và thách thức lớn, Đảng
ta khẳng định: mục đích của cải cách, hoàn thiện Nhà nước là nhằm phát huy
đầy đủ quyền và năng lực làm chủ của nhân dân, giữ vững trật tự, kỷ cương xã
hội. Vì vậy, cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước không thể tách rời
việc phát huy dân chủ tăng cường pháp chế và gắn liền với xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước.
Trước nhu cầu thực tiễn đất nước hiện nay, kế thừa các thành tựu nghiên
cứu đã đạt được, tôi chọn đề tài: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước pháp quyền và ý nghĩa hiện thời của nó” làm đề tài nghiên cứu khóa
luận tốt nghiệp chuyên ngành Triết học.
2

2. Tình hình nghiên cứu
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một tư tưởng lớn và xuyên suốt trong
tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt
thời gian hoạt động cách mạng của mình Hồ Chí Minh đã giành một sự quan
tâm lớn tới việc xây dựng một Nhà nước kiểu mới Nhà nước pháp quyền dân
chủ nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân. Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng
(1994) đã khẳng định: “ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật”. Cho đến nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền nói chung và tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền nói riêng trong đó có những công
trình có giá trị lý luận và thực tiển lớn như:
- TS. Phạm Ngọc Dũng (chủ biên) với “ Hồ Chí Minh vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác, LêNin về xây dựng Nhà nước pháp quyền”,
học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (Nxb chính trị quốc gia,
2009).
- Tập thể tác giả TS. Phạm Ngọc Anh,PGS.TS. Bùi Đình Phong với “
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt
Nam” (Nxb Lao động, Hà Nội 2003).
- Tác giả Lê Minh Quân với “ Xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay” (Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.)
- Tác giả Nguyễn Văn Thảo với “ Xây dựng Nhà nước pháp quyền
dưới sự lãnh đạo của Đảng”( Nxb chính trị quốc gia Hà Nội, 2006).
Ngoài ra còn nhiều bài viết về tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà
nước pháp quyền được đăng trên các tạp chí triết học và tạp chí khoa học như:
Tác giả Trần Kỳ Đồng “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân và việc xây dựng Nhà nước đó ở Việt Nam hiện nay” tạp

chí triết học số 5 (156) tháng 5 – 2004; Tác giả Nguyễn Thế Phúc “ Tư tưởng
3
Hồ Chí Minh về một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ”, tạp
chí khoa học Huế, số 44, 2008; GS.TSKH. Nguyễn Duy Qúy với “ Xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” Tạp chí triết
học(198) số 11 tháng 11-2007…
Những công trình trên điều phân tích tổng quát về vấn đề Nhà nước pháp
quyền nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền nói riêng, sự
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của Đảng ta. Trên cơ
sở kế thừa các công trình đó, tác giả muốn làm rõ hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước pháp quyền và ý nghĩa hiện thời của nó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Tác giả đi sâu nghiên cứu những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây
dựng Nhà nước pháp quyền.
Nghiên cứu ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
và sự vận dụng của Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta.
Khẳng định tính khoa học, giá trị nhân văn và tính cách mạng sâu sắc
của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ nội dung của chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
pháp quyền
- Tìm hiểu thực trạng công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở tư tưởng Nhà nước pháp quyền của
Hồ Chí Minh, đề tài nghiên cứu đưa ra những giải pháp để tiếp tục xây dựng
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
4. Đối tượng nghiên cứu
Do giới hạn của khóa luận tốt nghiệp, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu và tìm
hiểu những quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp
quyền và ý nghĩa hiện thời của tư tưởng này trong việc xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của các tài liệu chính trị, triết học về Nhà
nước pháp quyền, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về Nhà nước
4
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, củng như các đề tài nghiên cứu khoa học các tài
liệu liên quan tới đề tài.
Tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử
mácxít, kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic.
Đồng thời, sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp và một số
phương pháp khác để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đề tài đặt ra.
6. Đóng góp của đề tài
Góp phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền và vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong công cuộc đổi mới
ở nước ta hiện nay.
Bản thân tôi qua nghiên cứu hiểu sâu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Nhà nước pháp quyền và ý nghĩa hiện thời của nó đã giúp tôi củng cố
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và tư tưởng của Bác Hồ kính yêu. Đó là
vốn quý giúp tôi có được những tư liệu này phục vụ nhiệm vụ học tập.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, khóa luận tốt
nghiệp gồm có 2 chương :
Chương 1: : Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam
Chương 2: Ý nghĩa hiện thời của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
5
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC

PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
1.1.Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam
1.1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển những giá trị
truyền thống dân tộc
Dân tộc Việt Nam có một truyền thống vẽ vang về dựng nước và tổ chức
Nhà nước. Truyền thống này đã có sự tác động theo nhiều chiều hướng khác
nhau tới tuổi trẻ của Hồ Chí Minh, mà ảnh hưởng sâu sắc nhất, in đậm trong
suy tư của Người là tinh thần hòa thuận, tạo công sức dựng nước cùng ý thức,
ý chí quật cường, khôi phục và giữ vững chính quyền của các thế hệ đi trước.
Chính tinh thần dựng nước và giữ nước của cha ông đã truyền cho Hồ Chí
Minh niềm tin, sức mạnh và quyết tâm giành độc lập tự do cho dân tộc.
Nhà nước Văn Lang của dân tộc Việt Nam là sự mở đầu truyền thống dân tộc
về tổ chức Nhà nước, nó khẳng định thành quả, công lao to lớn của dân tộc. Nhà
nước ra đời sớm là cơ sở, nền tảng vững bền cho quá trình tồn tại và phát triển về
sau của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Với Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, người
Việt đã có một lãnh thổ chung, một tiếng nói chung, một cơ sở kinh tế - xã hội
gắn bó trong một thể chế Nhà nước sơ khai, một lối sống mang sắc thái riêng,
biểu thị trong nền văn minh văn hóa chung, đã khẳng định sự tồn tại của mình
như một quốc gia văn minh có đủ điều kiện và đủ khả năng vững vàng tiến lên
vượt qua mọi thử thách bảo táp của lịch sử.
Nhà nước từ thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc đến thời kỳ độc lập tự
chủ về căn bản đó là tổ chức Nhà nước được thiết lập sau khi đánh bại quân
xâm lược. Tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử mà
việc xây dựng chính quyền có những hình thái tổ chức, tính chất và mục tiêu
Nhà nước khác nhau. Chính quyền tự chủ Hai Bà Trưng mới chỉ là mầm móng
6
đầu tiên của một chính quyền độc lập. Đến chính quyền tự chủ họ Khúc (950 –
938) đã là một chính quyền độc lập từ trung ương đến cấp xã, mà đường lối

chính trị chung của Khúc Hạo là “chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị,
nhân dân điều được yên vui”. Chính quyền trung ương độc lập thời Ngô
Quyền, theo nhận xét của Ngô Sỉ Liên thì “Có thể thấy được quy mô của đế
vương”. Đến Đinh Bộ Lĩnh, “bắt đầu định giai phẩm cho các quan văn võ và
tăng đạo”. Là kết quả của cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, Nhà nước độc lập
tự chủ từ họ Khúc đến Tiền Lê, có tiếp thu ít nhiều chính quyền đô hộ phương
Bắc. Nhưng nét nổi trội, xuyên suốt, trước sau nhất quán là các vương triều
luôn luôn vươn lên tự khẳng định ở mức độ cao hơn chủ quyền quốc gia đối
với nạn ngoại xâm và củng cố thêm sức mạnh của Nhà nước tập quyền trên cơ
sở cố kết các cộng đồng công xã nông thôn vào cộng đồng quốc gia dân tộc.
Thời Lý, với việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La đổi tên nước thành Thăng
Long với ý đồ mưu toan việc lớn, tính kế thừa lâu dài cho con cháu đời sau,
phản ánh niềm tự hòa, lòng tin, quyết tâm của cả dân tộc giữ vững nền độc lập
của tổ quốc.
Thế kỷ XV, Nhà nước ta bước vào thời kỳ mới, thời kỳ phát triển của Nhà
nước Trung ương tập quyền. Đó là một bộ máy Nhà nước quan liêu, to lớn,
nặng nề, các chế độ cai trị được thể chế hóa một cách cụ thể. Quá trình tổ chức
hoạt động của bộ máy Nhà nước có sự giám sát lẫn nhau của một số cơ quan
Nhà nước. Nhìn chung, ở giai đoạn này nước ta là một quốc gia hùng mạnh,
vừa được bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, vừa đánh bại mọi âm mưu xâm lược từ bên
ngoài.
Thời kỳ chế độ Đàng trong – Đàng ngoài là một giai đoạn lịch sử đặc biệt
của Việt Nam. Bộ máy Nhà nước mang tính chất quan liêu, chuyên chế, cồng
kềnh, phức tạp, nặng nề về quân sự, nhân dân bị đèn nén nặng nề, đời sống
cực khổ. Nạn tham nhũng trở nên phổ biến, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay
gắt. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là là tiêu biểu nhất dẫn tới việc thiết lập vương
triều Quang Trung, một vương triều nặng tính chất quan liêu như các triều đại
7
phong kiến trước đó, vừa thể hiện ý thức độc lập và tự cường dân tộc, mà thể
hiện rõ nét là chăm lo đến việc khôi phục kinh tế và phát triển văn hóa.

Bước sang thế kỷ XVIII, khép lại với việc chấm dứt vương triều Tây Sơn,
nhường chổ cho triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam với một Nhà nước
quân chủ chuyên chế tập trung cao độ Triều Nguyễn, So với việc tăng cường
xây dựng, phát triển các Nhà nước trước khi xuất hiện nhà Nguyễn, việc củng
cố chế độ phong kiến triều Nguyễn là việc làm đi ngược lại quy luật khách
quan, không phù hợp với xu thế phát triển của thế giới ở thế kỷ XIX, khi mà
phương thức sản xuất phong kiến đã trở nên lỗi thời. Vì vậy, vấn đề Nhà nước
triều Nguyễn với nhiều hạn chế và tiêu cực của nó, là một trong những nguyên
nhân dẫn tới việc suy vong không thể tránh khỏi. Nhà nước chìm vào một thời
kỳ khủng hoảng triền miên, trầm trọng, dẫn tới sự thất bại trước những nhiệm
vụ lịch sử.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi thực dân Pháp đã đặt ách đô hộ hoàn
toàn vào nước ta. Chúng đã thiết lập được bộ máy cai trị thực dân phong kiến
trên toàn cõi Đông Dương.
Hơn hai mươi năm sống, học tập trong môi trường văn hóa gia đình, quê
hương dân tộc, Hồ Chí Minh được học tập và tiếp xúc với các thầy giáo và
những sỉ phu yêu nước đầy nhiệt huyết mà trước hết là người cha thân yêu, rồi
phan Bội Châu, Vương Thúc Qúy, Hoàng Phan Quỳnh…, ngoài những trang
sách nho giáo như Trang Thiên Tự, Tam Kinh tự, Ngũ Tự Kinh, Kinh Thư…
Hồ Chí MMinh còn đọc nhiều sách về lịch sữ Việt Nam, nguồn tri thức phong
phú trong các trang sử đã giúp Người hiểu biết về các truyền thống đoàn kết
chống địch họa, thiên tai trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu
dài, gian khổ của dân tộc.
Lịch sử tư tưởng Nhà nước pháp quyền là tinh hoa văn hóa nhân loại, với
những quan điểm tiến bộ và nhân văn, là một trong những hành trang quý báu
và có vai trò nền tảng để Hồ Chí Minh tiếp biến những yếu tố hợp lý về xây
dựng một Nhà nước thực sự dân chủ trong chiến lược đưa nước ta quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội.
8
1.1.1.2 Giá trị nhân bản và nhân văn trong văn hóa phương Đông và

phương Tây
Ngoài truyền thống văn hóa dân tộc, Hồ Chí Minh còn tiếp thu có chọn
lọc những giá trị văn hóa, những mặt tích cực, những giá trị nhân bản tư tưởng
dân chủ nhân văn của văn hóa phục hưng, của cách mạng tư sản phương Đông
và phương Tây.
Trước hết là ở văn hóa phương Đông: xuất thân trong môt gia đình nhà
nho yêu nước, Hồ Chí Minh sớm có điều kiện tiếp xúc với văn hóa phương
Đông, trong đó có giá trị nhân bản của Nho giáo, phật giáo và nhất là tư tưởng
nhân bản sâu sắc. Theo tư tưởng này thì “ dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh” để giải thích quan niệm này Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ lợi ích của nhân dân
là trước hết, thứ đến là lợi ích của quốc gia, còn lợi ích của nhà vua thì không
đáng kể” [31;91]. Hoặc tư tưởng “dân là gốc cho nước, gốc mà kiên cố thì
nước mới được an ninh”. Đó là những yếu tố hợp lý của Nho giáo mà Hồ Chí
Minh đã tiếp biến.
Là một người phương Đông, nhưng để thực hiện hoài bảo cứu nước Hồ
Chí Minh đã phải dày công nghiên cứu, tiếp thu, chọn lọc phê phán tinh hoa
văn hóa tư sản phương Tây trong vấn đề tổ chức, hoạt động của Nhà nước,
nhất là quan niệm về bản chất dân chủ, nhân đạo của Nhà nước, quan niệm về
xây dựng Nhà nước pháp quyền, về các quyền tự do, dân chủ, quyền công dân
và quyền con người
Trong hành trình tìm đường cứu nước, qua khảo sát chế độ ở Anh, Pháp,
Mỹ… những năm đầu thế kỷ XX, người phát hiện ra chính quyền ở đó vẫn ở
trong tay một số ít người. Vẫn tồn tại mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản, nhưng tuy cách mạng Mỹ thành công đã hơn 150 năm, nhưng công
nông vẫn cực khổ, vẫn lo tính cách mệnh lần thứ hai. Chế độ Nhà nước tư sản
Mỹ và Pháp “tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa, cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông
Pháp hãy còn phải mưu cách mệnh lần nữa, mới hồng thoát khỏi vòng áp bức.
9
Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”. Đứng về phía nhân dân, người

xác định: cách mạng Việt Nam sau khi thành công sẽ không thiết lập loại Nhà
nước này. Nhưng khi xây dựng Nhà nước kiểu mới, người vẫn chú ý tham
khảo đến những yếu tố tích cực, hợp lý của tư tưởng vè Nhà nước và pháp luật
của bản Tuyên ngôn đọc lập năm 1776 và bản hiến pháp nước Mỹ, trong bản
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1789 của Pháp và tác phẩm tinh thần
pháp luật của Mông- téc- xki-ơ (1689 – 1755) một nhà tư tưởng Pháp tiêu biểu
về lý luận Nhà nước pháp quyền. ( Tác phẩm tiếng Pháp đầu tiên mà Hồ Chí
Minh dịch ra tiêng Việt là tinh thần pháp luậtcủa Mông -téc –xki- ơ). Không
chỉ ở trong xây dựng hiến pháp năm 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên ở vùng
Đông Nam Á và xây dựng chính quyền mới sau cách mạng tháng Tám năm
1945, Hồ Chí Minh mới chú ý kế thừa tinh hoa tư tưởng Nhà nước pháp quyền
của những chế độ khác nhau, mà sau đó xây dựng Hiến pháp 1959, Hiến pháp
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Người tiếp tục khẳng định:
“chúng ta cần phải nghiên cứu lỷ tình hình của nước ta, nghiên cứu lại bản
Hiến pháp năm 1946, phải tham khảo Hiến pháp của các nước bạn và một số
nước tư bản có tính chất điển hình”. Để xây dựng bộ máy Nhà nước ta.
Từ năm 1923, khi đến Liên Xô, người đã khảo sát kỉ mô hình Nhà nước
kiểu mới: “Đảng cộng sản cầm quyền tổ chức ra chính phủ, công , nông, binh,
phát đất ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền, không bắt dân đi
chết cho tư bản và đế quốc chủ nghĩa nữa, để thưc hành chủ nghĩa thế giới đại
đồng”. Đó là Nhà nước ra đời sau cách mạng tháng Mười Nga 1917. Về thực
chất, đây là một hình thức Nhà nước phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân
lao động. Người quyết định lựa chọn con đường cách mạng tháng Mười với
kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa đó.Tuy vậy, Hồ Chí Minh không sao chép
máy móc hình thức Nhà nước Xô Viết. Theo con dường cách mạng vô sản,
Người vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý cơ bản chủa chủ nghĩa
Mác – Lênin về bản chất dân chủ vô sản, về chủ thể quyền lực phải thuộc về đa
số, về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước xã hội chủ nghĩa để sáng lập
10
Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, một Nhà nước kiểu

mới ở Việt Nam. Một Nhà nước pháp quyền trên nền tảng liên minh công
nhân, nông dân và tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ngoài ra trong khi nghiên cứu cách mạng thế giới, trước hết là cách
mạng Pháp, Hồ Chí Minh đã có điều kiện nghiên cứu, tham khảo và kế thừa
những giá trị tích cực về phương pháp xây dựng mô hình Nhà nước kiểu mới
của Môngtécxkiơ, Vônte (1694 – 1778), Rútxô (1712 – 1778), những người
tuyên truyền chủ nghĩa tự do, bình đẳng của giai cấp tư sản, một xu hướng tư
tưởng tiến bộ lúc bấy giờ. Tiếp thu có chọn lọc tư tưởng của các nhà khai sáng,
trong nhiều bài viết, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò, vị trí của pháp luật.
Như vậy, với thắng lợi của cách mạng tháng Mười, Nhà nước Xô viết,
Nhà nước của chuyên chính vô sản đã đem lại cho nhân dân nền dân chủ thực
sự, tỏ rõ sức sống của một chế độ mới, một lực lượng mới, những người làm
chủ vận mệnh của mình. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, nhân dân đã bắt
tay vào xây dựng xã hội chủ nghĩa không có bốc lột áp bức. Hồ Chí Minh đã
cố gắng làm tất cả, nguyện cống hiến đời mình để xây dựng một Nhà nước
kiểu mới như thế phù hợp với hoàn cảnh thực tế Việt Nam.
Người nhận thấy, những tư tưởng tiến bộ điều hướng vào nhân dân,
phục vụ cho hòa bình của nhân loại, vì một tương lai tốt đẹp hơn. Người biết
kế thừa các tư tưởng đó một cách có hệ thống, có chọn lọc, không sao chép
máy móc, củng không phủ định một cách đơn giản, mà có sự phân tích sâu sắc
tìm ra những yếu tố tích cực bổ sung vốn kiến thức và tư tưởng của mình.
1.1.1.3 Quan điểm lý luận về Nhà nước pháp quyền của chủ nghĩa Mác
– Lênin
Người tiếp thu những giá trị nhân bản và nhân văn trong tinh hoa văn
hóa phương Đông và phương Tây và cuối cùng đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin. Đây là một bước ngoặc cơ bản trong quá trình phát triển của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Người đã coi chủ nghĩa Mác – Lênin là kim chỉ nam và là mặt
trời soi sáng con đường đi tới thắng lợi vẽ vang của dân tộc.
11
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin là một bước ngoặc vĩ đại trong lịch

sử tư tưởng nhân loại, đồng thời đánh dấu bước chuyển mới về chất trong lịch sử
xác định nội dung hoàn chỉnh về Nhà nước, Nhà nước pháp quyền. Vấn đề Nhà
nước là một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong chủ nghĩa Mác
– Lênin. Với phương pháp duy vật biện chứng về lịch sử, Mác, Ănghen và Lênin
đã kế thừa, phát triển và đấu tranh không khoan nhượng với các nhà chính trị -
pháp lý của thời đại trước và đương thời.
Mặc dù khái niệm Nhà nước pháp quyền chưa được các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác – Lênin sử dụng, nhưng quan điểm cốt lỏi của Nhà nước pháp
quyền trong Nhà nước cách mạng lại được các ông đề cập đến một cách sâu
sắc, khoa học và cách mạng. Đó là Nhà nước kiểu mới, “ Nhà nước của nhân
dân” Nhà nước được xây dựng trên cở sở chế độ “ dân chủ triệt để”, “dân chủ
đến cùng”, pháp chế nghiêm minh theo hướng giải phóng con người, giải
phóng giai cấp và giải phóng xã hội. “ Biến Nhà nước từ cơ quan đứng trên xã
hội thành cơ quan hoàn toàn phục vụ xã hội”, “pháp luật phải lấy xã hội làm cơ
sở”, “luật pháp tồn tại vì con người”. Quan điểm cốt lỏi của Nhà nước pháp
quyền được thể hiện qua những tác phẩm: Góp phần phê phán triết học pháp
quyền của Hêghen (1843 ), Gia đình thần thánh hay phê phán sự phê phán có
tính phê phán (1844), Hệ tư tưởng Đức (1846), Sự khốn cùng của triết học
(1847), Chống Đuyrinh (1848), Nhà nước và cách mạng (1917), những nhiệm
vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết…
Ngay sau khi giành chính quyền ở nước Nga năm 1917, Lênin đã khẳng
định rằng: một trong những điều kiện để giữ và củng cố chính quyền công nông
là phải tuân thủ pháp luật một cách tuyệt đối. Người khẳng định vai trò của pháp
luật và pháp chế trong quản lý xã hội mới, coi đó là một trong những điều kiện
cơ bản để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Từ những lý luận sắc bén đó Người đã tiết thu có chọn lọc, vận dụng
sáng tạo, phát triển những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – lênin vào hoàn cảnh
12
cụ thể ở nước ta, hình thành tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền – Nhà
nước của dân, do dân, vì dân của Người.

1.1.2. Cơ sở thực tiễn và sự khảo nghiệm
1.1.2.1. Tình hình trong nước ảnh hưởng đến quá trình hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có
nhiều biến động. Trong nước chính quyền triều Nguyễn đã lần lượt ký kết các
hiệp ước đầu hàng,thừa nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt
Nam.Đến cuối thế kỷ XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu
“CầnVương” cuối cùng cũng thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ ra lỗi thời
trước các nhiệm vụ lịch sử.Các cuộc khai thác thuộc địa khiến nước ta có sự
biến chuyển và phân hóa, giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản bắt
đầu xuất hiện. Đây chính là tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước giải
phóng dân tộc Việt Nam cuôi thế kỷ XX.Cùng thời điểm đó cũng có rất nhiều
phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng đều thất bại vì do chưa có hướng đi đúng
đắn. Vì vậy mà phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng
lợi phải đi theo con đường mới.
Trong suốt bề dày của lịch sử nhân loại, thực tiển tổ chức và thực thi
quyền lực Nhà nước cho thấy một bức tranh toàn cảnh về các kiểu Nhà nước
đương thời trong lịch sử. Tiếp thu những tích cực của các kiểu Nhà nước củ,
Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc, rút ra được những bài học từ những hạn
chế của các kiểu Nhà nước trước đây, từ đó xây dựng cho mình một hệ tư
tưởng về một Nhà nước kiểu mới – Nhà nước phục vụ quyền lợi của nhân dân
lao động. Từ những hạn chế nhìn thấy được từ cách tổ chức của các kiểu Nhà
nước Việt Nam đương thời đã bất lực trong việc xây dựng đất nước cũng như
giữ nước trước sự xâm lược của thực dân Pháp. Con đường cứu nước theo hệ
tư tưởng phong kiến của các phong trào kháng chiến chống Pháp như phong
trào Cần Vương; khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám điều lần lượt thất bại.
Nhà nước tư sản - sự cai trị của chính quyền tư sản – thực dân Pháp ở
Việt Nam khi đó đã gây cho nhân dân một cuộc sống khó khăn về kinh tế, bị
13
chà đạp về nhân phẩm; những giá trị dân chủ cao đẹp của trào lưu triết học

khai sáng Pháp thế kỷ XVIII và cuộc đại cách mạng tư sản Pháp (1789 )
trương lên làm khẩu hiệu: Tự do – Bình đẳng - Bác ái đã không được thực
hiện ở thuộc địa, ở Việt Nam và trong thực tế cũng không thực hiện với đông
đảo nhân dân lao động ở ngay nước Pháp, cũng như các nước tư bản ở khắp
châu lục mà Nguyễn Ái Quốc đã đi qua.
Với bản thân Nguyễn Ái Quốc, tại hội nghị Hòa bình ở Vécxây (1919 ),
thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người đã gửi đến hội nghị
bản Yêu sách của nhân dân An Nam đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc
mình, tập trung vào hai nội dung cơ bản:
Một là: Đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông
Dương như đối với người Châu Âu.
Hai là: Đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân: quyền tự do
ngôn luận, báo chí, tự do lập hội, tự do cư trú…
Văn bản này dựa trên chính pháp lý tư sản để đòi lại quyền con người
cho Việt Nam nhân một Hội nghị quốc tế nhưng đã bị từ chối.
Trong thời gian 1920 – 1930, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc, tìm hiểu,
nghiên cứu các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và các kiểu, các hình
thức Nhà nước mà những cuộc cách mạng này xây dựng sau khi cách mạng
thành công, và rút ra kết luận: Khi dành chính quyền, thiết lập một bộ máy Nhà
nước tư sản thì giai cấp tư sản quay lại đàm áp, bóc lột nhân dân, không thực
hiện chính những điều mà họ đã khẳng định trong tuyên ngôn. Quyền lực Nhà
nước không thuộc về nhân dân, do đó quyền lợi chính đáng của nhân dân
không được thực hiện. Như vậy, Nhà nước dù được tổ chức dưới bất cứ hình
thức nào mà mang bản chất tư sản thì không bao giờ mang lại cho nhân dân lao
động cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc.
“ Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là
làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay
14
bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh
phúc” [19;280].

Hồ Chí Minh khẳng định: Nhà nước Việt Nam sau khi giành được độc
lập không mang bản chất tư sản.
Với thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam
Châu Á. Đó là minh chứng hùng hồn cho tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam thuộc địa, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc
đến thắng lợi, lập ra chính quyền cách mạng của dân, do dân, vì dân.
1.1.2.2. Bối cảnh quốc tế thế giới ảnh hưởng đến quá trình hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Bối cảnh quốc tế thế giới trong giai đoạn này cũng đang có những biến
chuyển to lớn. Chủ nghĩa tư bản từ cạnh tranh tự do chuyển sang độc quyền đã
xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc
đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa. Chính vì vậy đã dẫn đến các
cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân chống lai sự bóc lột của chúng. Lên đến
đỉnh điểm là cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917đã lật đổ Nhà nước tư sản,
thiết lập chính quyền Xô Viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người.
Chế độ phong kiến đã hết vai trò lịch sử và sự thay thế của chế độ tư bản chủ
nghĩa là một tất yếu lịch sử. Hồ Chí Minh tìm hiểu, nghiên cứu các cuộc cách
mạng điển hình trên thế giới và các kiểu, các hình thức Nhà nước mà những cuộc
cách mạng này xây dựng sau khi cách mạng thành công đã rút ra những bài học
và kinh nghiệm sâu sắc:
Về cách mạng Mỹ 1776, đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống sự xâm
lược của thực dân Anh, Hồ Chí Minh đánh giá: tuy Tuyên ngôn độc lập 1776
có câu rằng: ‘Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của
mình, quyền làm ăn cho sung sướng… Hễ Chính phủ nào mà có hại cho dân
chúng thì dân chúng phải đập Chính phủ ấy đi , và gây nên một Chính phủ
15
khác”, nhưng thực chất: “ Bây giờ Chính phủ Mỹ lại không cho ai nói đến cách
mệnh, ai đụng đến Chính phủ!” [ 19;270 ]; và tuyên bố Tuyên ngôn độc lập

của Mỹ tuy phản ánh quyền lực tối cao của nhân dân trong việc xây dựng
chính quyền Nhà nước, nhưng Nhà nước Mỹ lại rơi vào tay bọn ít người, do đó
“ cách mạng thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực
khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai”, Hồ Chí Minh khẳng định: “ ấy là vì
cách mệnh Mỹ là các mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách
mệnh đến nơi” [ 19;270 ]
Về cuộc cách mạng tư sản Pháp diễn ra ba lần: 1789;1848,1870: “ cách
mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh
không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”, vì vậy “ mà nay công nông Pháp
hãy còn phải mưu tính cách mệnh lần nữa mới hồng thoát khỏi vòng áp bức”
[ 19;274 ].
Về cuộc cách mạng vô sản tháng 10 Nga 1917 Nguyễn Ái Quốc đã nhận
thấy cuộc cách mạng vô sản này thực sự đề cao vai trò của nhân dân, giành
chính quyền về tay nhân dân, lập nên các Xô Viết công nông binh. Đây thực sự
là cuộc cách mạng triệt để, đưa lại quyền lợi thực sự cho nhân dân lao động.
Từ nhận thức này, Người khẳng định: chỉ có cách mạng Nga là đã thành công
và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do,
bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng dã dối như đế quốc chủ nghĩa
Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mạng Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa
chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân và dân bị áp bước các thuộc
địa làm cách mạng để lật đổ các đế quốc chủ nghĩa và tư bản trên thế giới. Hồ
Chí Minh kết luận, cách mạng Việt Nam nên làm theo cách mạng tháng Mười
Nga 1917; Quyền lực Nhà nước thuộc về số đông người. Khi đến Liên Xô
Người thấy một kiểu mô hình Nhà nước mới: “ Phát đất ruộng cho dân cày,
giao công xưởng cho thợ thuyền,… ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành
chủ nghĩa thế giới “đại đồng”[19;280].
16
Mô hình Nhà nước đó đã gợi ý cho Hồ Chí Minh về một kiểu Nhà nước
sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai.

Từ thực tiển và nhu cầu phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam,
xu thế vận động của lịch sử nhân loại, bằng sự nhạy cảm của một nhà chính trị
lão luyện và sáng suốt vì một tấm lòng vì nước vì dân, “nước lấy dân làm gốc”,
trên cơ sở khảo cứu các loại hình Nhà nước tiêu biểu đương thời, Hồ Chí Minh
lựa chọn và chủ trương xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Nhà nước dân chủ nhân dân là là hình thức chính quyền “ rốt cuộc” Hồ Chí
Minh đã tìm ra được, từng bước được xác lập ở nước ta, trở thành Nhà nước
duy nhất hợp pháp, hợp hiến sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Những tư
tưởng của Người về Nhà nước tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới của dân tộc
Việt Nam.
1.2.Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam
1.2.1. Xây dựng một Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Xây dựng Nhà nước pháp quyền là khát vọng cháy bỏng hối thúc Người
ra đi tìm đường cứu nước. Trong suốt quá trình hoạt động ở nước ngoài củng
như cho đến lúc trở về trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã khảo
cứu tất cả các mô hình Nhà nước trên thế giới để chuẩn bị những cơ sở lý luận
cho việc thành lập Nhà nước Việt Nam khi cách mạng thành công. Qúa trình
nghiên cứu khảo nghiệm đó, Người đã hiểu tường tận pháp luật của các nước
trên thế giới, đặc biệt là ở Mỹ, Anh, Pháp, Nga… Đây là những nước có nền
lập pháp ra đời sớm và phản ánh đầy đủ cơ bản về quyền của con người, quyền
của các dân tộc, điều đó được thể hiện rất rõ trong hai bản Tuyên ngôn độc lập
của cách mạng Mỹ 1776, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng
Pháp năm 1791. Chính vì vậy mà trong bản tuyên ngôn khai sinh ra nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Người đã trích dẫn lại hai bản Tuyên ngôn đó. Điều
này nó dự báo cho cách mạng Việt Nam và tính vượt trước của chủ tịch Hồ
Chí Minh, bởi vì Người thấu hiểu rằng ‘‘một cuộc cách mạng thành công, để
cho các nước và thế giới công nhận, đặc biệt là Mỹ thì cuộc cách mạng đó phải
17
có một cuộc Tuyên ngôn’’ để tuyên bố cho thế giới biết. Đó củng là cơ sở tạo

nên động lực cho chúng ta bảo vệ nền độc lập của dân tộc, một thành quả cách
mạng đem lại, một Nhà nước Việt Nam mới ra đời.
Sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, trong phiên họp đầu tiên của
chính phủ lâm thời ngay 03/09/1945 Người đã nêu ra nhiệm vụ phải xác lập
nền tảng dân chủ và pháp quyền cho Nhà nước kiểu mới, đó là tổ chức tổng
tuyển cử và xây dựng Hiến pháp. Người cho rằng : trước đây chúng ta đã bị
chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân phong kiến không
kém phần chuyên chế, cho nên nước ta không có Hiến pháp được. Nhân dân ta
không được hưởng quyền tự do dân chủ, vì vậy, nước ta phải có một nền Hiến
pháp dân chủ cần phải tổ chức càng sớm càng tốt một cuộc tổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu. Hiến pháp năm 1946 không chỉ là pháp lý để xây
dựng một Nhà nước hợp hiến, hợp pháp, mà còn là nền tảng để ban hành các
văn bản pháp luật cụ thể để đảm bảo việc thực hiện các quyền dân chủ của
nhân dân. Với việc bầu ra quốc hội và xây dựng bản hiến pháp đầu tiên trong
lịch sử, Nhà nước đã trở thành Nhà nước hợp hiến, hợp pháp duy nhất của toàn
thể dân tộc Việt Nam. Nhà nước đó tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp
và pháp luật với mục tiêu dân sinh, dân quyền và dân tộc. Ngày 2/3/1946, quốc
hôi khóa I đã họp phiên đầu tiên lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ
chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm chủ tịch Chính phủ liên
hiệp đầu tiên. Đây là Chính phủ có đầy đủ giá trị pháp lý để giải quyết một
cách có hiệu quả những vấn đề đối nội, đối ngoại của Nhà nước Việt Nam mới.
Chúng ta biết rằng, nếu bản Tuyên ngôn là văn bản pháp lý quan trọng để thế
giới công nhận cách mạng thắng lợi, thì Nhà nước do nhân dân bầu ra với chế
độ phổ thông đầu phiếu mới là một Nhà nước hợp hiến, hợp pháp mới được thế
giới và các thể lực khác công nhận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan niệm mới về Nhà nước pháp quyền,
đó là Nhà nước quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật, nhưng không phải là
hệ thống pháp luật bất kì, mà là hệ thống pháp luật dân chủ. Tư tưởng về pháp
18
luật dân chủ của chủ tịch Hồ Chí Minh củng đã được thể hiện trong nghị quyết

trung ương Đảng lần thứ VII ( tháng 11/ 1940), đó là yêu cầu phải ban bố hiến
pháp dân chủ, ban bố những quyền tự do cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do
tư tưởng, tư do tính ngưỡng, tự do hội họp ‘‘trăm điều’’,‘‘thần linh pháp
quyền’’ trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm mọi người, mọi hoạt động ở mọi
lúc, mọi nơi, kể các cơ quan lập pháp,hành pháp, tư pháp và nhân viên Nhà
nước từ xã đến Trung ương do dân cử ra phải có ý thức đặt mình dưới ‘‘ thần
linh pháp quyền’’ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, song đó phải là
pháp luật mang tính dân chủ, thể hiện được lợi ích của số đông, chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng, luật pháp của chúng ta là ý chí của giai cấp công nhân,
pháp luật của chúng ta hiện nay bảo vệ quyền lợi hàng triệu người lao động,
pháp luật của chúng ta là pháp luật thực sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do
dân chủ rộng rải cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do nhưng
tự do trong kỉ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do
của người khác. ‘‘Người nào quyền tự do của mình quá mức mà vi phạm đến
tự do của người khác’’.
Khác với hệ thống pháp luật tư sản, pháp luật của Nhà nước ta thểhiện ý
chí của đại đa số nhân dân, phản ánh lợi ích và công cụ để bảo vệ lợi ích của
đại đa số nhân dân lao động. Đó là hệ thống pháp luật thực sự dân chủ ‘‘ vì nó
bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rải cho nhân dân lao động’’. Tuy nhiên, dân
chủ ở đây được hiểu là dân chủ trong kỉ luật, chứ không phải dân chủ vô Chính
phủ, dân chủ trong giới hạn cho phép. Vì vậy, chủ tich Hồ Chí Minh yêu cầu
trong thực thi pháp luật phải đảm bảo tính hiệu quả và nghiêm minh. Có như
vậy mới đảm bảo tự do cho công dân và tạo điều kiện cho sự phát triển ổn
định, bền vững của xã hội. tư tưởng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về pháp luật
không chỉ là đề cao pháp luật dân chủ mà còn mang đậm tính nhân văn. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã biết kết hợp nhuần nhuyễn pháp luật và đạo đức trong
quản lý xã hội. Kế thừa văn hóa phương Đông nhưng không tuyệt đối hóa dẫn
đến Đức Trị như Khổng Tử, hoặc Pháp trị của Hàn Phi Tử, dùng cái nọ loại trừ
19
cái kia, mà chủ tich Hồ Chí Minh kết hợp nhuần nhuyễn pháp luật và đạo đức

trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội ‘‘Chính phủ phải hết sức làm gương,
nếu làm gương không xong thì dùng pháp luật để trừng trị những kẻ hối lộ, đã
trị, đa trị và sẻ trị cho kì hết’’. Tôn trọng Hiến pháp, tuân thủ pháp luật là nghĩa
vụ, trách nhiệm của mọi công dân, nhân viên các cơ quan lập pháp, hành pháp,
tư pháp, nhất là đảng viên giữ vai trò chủ chốt phải gương mẫu đi đầu. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ; đảng viên chẳng những phải giữ kỉ luật sắt mà còn
phải giữ gìn kỉ luật chính quyền của cơ quan, đoàn thể của nhân dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, đảng viên đặc biệt là cán bộ cấp cao phải nêu cao
thực hiện pháp luật. Người nghiêm khắc phê bình những cán bộ đảng viên “cậy
thế mình là người của Đảng, phớt lờ cả kỉ luật và cả cấp trên trong các đoàn
thể nhân dân hoặc các cơ quan Chính phủ. Những đồng chí mắc bệnh ấy không
hiểu rằng: những đảng viên cần phải làm kiểu mẩu phục tùng kỷ luật của Đảng
và của đoàn thể nhân dân và cơ quan chính quyền cách mạng” [19;167]. Nếu
đảng viên, nhất là đảng viên giữ vị trí chủ chốt không xung phong gương mẩu,
thì việc gì củng sẻ khó thực hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng: “cán bộ
phải ra sức tuyên truyền giải thích và làm gương mẫu”[20;349].
1.2.2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền do nhân dân lao động làm chủ
Nhà nước dân chủ nhân dân theo quan điển của Hồ Chí Minh là một Nhà
nước dân chủ kiểu mới, Nhà nước do nhân dân lao động là chủ và nhân dân lao
động làm chủ. Xây dựng Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là một tư
tưởng nhất quán trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh. Đây củng là kết
luận có tính nguyên tắc mà người rút ra được khi khảo cứu các cuộc cách mạng
Mỹ, Pháp, Nga và các kiểu Nhà nước được hình thành sau các cuộc cách mạng
đó. Ngay từ những năm 1927, Hồ Chí Minh đã khẳng định dứt khoát: “Chúng
ta hi sinh làm cách mệnh, thì hãy làm cho đến nơi, nghĩa là làm cách mệnh rồi
thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay bọn ít người. Thế mới
khỏi hi sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”[19;270]. Trong
cương lĩnh đầu tiên của Đảng-cương lĩnh độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã
20
hội, được Hồ Chí Minh soạn thảo thông qua 2 – 1930, khái niệm dân chúng số

nhiều đã được cụ thể hóa, bao gồm quần chúng công – nông – binh, những bộ
phận đông đảo, chủ yếu nhất trong cơ cấu dân cư. Nhà nước Việt Nam kiểu
mới thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc mà nồng cốt là công – nông - tri thức.
Tất cả mọi người dân Việt Nam, không phân biệt gái trai, giàu nghèo, nòi
giống, dân tộc, giai cấp, tôn giáo đều là người của Nhà nước, có trách nhiệm
xây dựng Nhà nước. Ngay từ ngày đầu mới thành lập, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. “Nước
ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…Nói tóm lại, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân”[20;698].
Tính chất dân chủ nhân dân, quyền lực Nhà nước là của dân trở thành một
nguyên tắc nền móng trong tổ chức xây dựng Nhà nước mới và được quy định
rõ trong các bản Hiến pháp nước ta. Điều 1 Hiến pháp năm 1946 quy định
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền binh trong nước
là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt gái trai, nòi giống hay tôn
giáo”. Còn điều 4 của Hiến pháp 1959 ghi rõ: “ Tất cả quyền lực trong nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa điều thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền
lực của mình thông qua Quốc Hội và Hôi động nhân dân các cấp do nhân dân
bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh: Nhà nước Việt Nam là Nhà nước
do nhân dân lao động làm chủ hàm chứ trong đó hai hạt nhân lý luận đặc sắc.
Một là: Đây là phương thức tiếp cận nội hàm dân chủ chủ yếu của Người.
Bản chất dân chủ của Nhà nước thể hiện ở vị trí của người dân trong Nhà nước
đó. Định nghĩa “dân chủ là dân là chủ” rất súc tích, ngắn gọn, nhưng lại có ý
nghĩa khái quát cao, phản ánh quá trình phát triển tư tưởng tiến bộ của loài
người trong vấn đề dân chủ.
Hai là: Nó xuất phát từ một quan niệm truyền thống có giá trị phổ quát, xác
định rõ dân là gốc của một nước, ở phương diện thứ hai này cho thấy, tính chất
dân chủ là đặc trưng nổi bật của chính quyền Nhà nước kiểu mới. Nó khẳng
21
định nguồn gốc, sức mạnh, và chủ thể quyền lực Nhà nước là ở nhân dân lao

động. Trong nước ta nhân dân là người nắm rõ mọi quyền lực, còn các cơ quan
Nhà nước do nhân dân tổ chức ra, nhân viên Nhà nước là người được ủy
quyền, thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, trở thành công bộc của
nhân dân. Thể chế dân chủ cộng hòa đã thay đổi tận gốc quan hệ quyền lực
chính trị và thực hiện quyền lực, nhân dân được đặt ở vị trí cao nhất, Nhà nước
không còn là công cụ thống trị, nô dịch dân như trong thời kỳ phong kiến.
Trong Nhà nước dân chủ, nhân dân là người có địa vị cao nhất. Vận dụng
quan niệm của Nho giáo “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” Hồ Chí
Minh đã nhiều lần khẳng định Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân”,
chỉ có nhân dân, do địa vị tối cao của mình, mới có quyền quyết định những
vấn đề quan trọng của quốc gia dân tộc và đất nước; chỉ có nhân dân mới trở
thành chổ dựa vững chắc của Nhà nước.
Nhà nước phải dựa vào nhân dân, sức mạnh của Nhà nước bắt nguồn từ sức
mạnh của nhân dân, của quần chúng lao động – đó là nguyên tắc quan trọng
nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước. Chân lý phổ biến cho mọi thời
đại đó thường được Người khẳng định trong một cách nói dân gian rất đơn
giản, mộc mạc, dễ nhớ.
Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân
Sự thành bại của cách mạnh, sức mạnh của Nhà nước điều gắn với vai trò
của quần chúng nhân dân lao động. Trên thực tế, lực lượng của nhân dân lao
động là rất lớn, khả năng của nhân dân là phi thường. Trong mọi vấn đề cách
mạng, nếu có dân là có tất cả, ngược lại không có dân thì thất bại trong tầm
tay.
Nhận thức rõ vai trò của quần chúng nhân dân, Hồ Chí Minh chủ trương
xây dựng Nhà nước của nhân dân. Nhà nước do nhân dân là Nhà nước tin dân,
thấy được mọi lực lượng ở nơi dân, chính quyền từ xã đến Trung ương điều do
dân bầu ra, đoàn thể từ Trung ương tới xã do nhân dân tổ chức nên. Nhà nước
22
do nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng

nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhà
nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của nhân
dân. Do đó phải phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể trong công tác
quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào lực lượng của dân,
dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. Nhà nước do nhân dân trong tư tưởng của
chủ tịch Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo thông qua các mối quan hệ trong xã
hội, các đoàn thể chứ không phải các Nhà nước bao cấp, lo thay cho dân. Chức
năng của Nhà nước là quản lý, điều hành xã hội ở cấp vĩ mô.
Sau này, Hồ Chí Minh còn giải thích rõ mối quan hệ của Nhà nước và nhân
dân. Dân là chủ thì Chính phủ là đầy tớ. Làm việc ngày này không phải là để
thăng quan, phát tài, nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính
phủ. Nhưng khi dân dùng đầy tớ làm việc cho mình, thì phải giúp đở Chính
phủ, nếu Chính phủ sai thì phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi. Theo
Hồ Chí Minh để quan hệ của dân và Nhà nước, người cầm quyền – công bộc
có thể thực hiện theo đúng nghĩa của nó, cần có các điều kiện:
Trước hết đối với dân: khi trao quyền ủy quyền cho Nhà nước, cán bộ công
chức Nhà nước thì tin cậy, tin tưởng, phải cho họ có thực quyền thì mới thực
hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình, mới làm lợi cho dân, trừ hại cho
quần chúng.
Còn đối với cán bộ công chức, người cầm quyền muốn làm tròn bổn phận
“công bộc” của dân thì phải làm thế nào để dân tin, dân phục, dân yêu. Muốn
vậy, phải biết gần dân, sát dân, hiểu dân, thương dân, biết sử dụng sức mạnh
của dân.
Nhà nước do nhân dân làm chủ là một suy nghĩ nhất quán, một mong muốn
và đồng thời là một yêu cầu của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Người đã nhiều lần
khẳng định “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm
chủ”[24;452]. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, quyền làm chủ của nhân dân
càng trở nên cần thiết, toàn diện hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh và có ý nhắc
23
nhở: “Nhà nước ta ngày nay là của tất cả nhân dân lao động. Vậy công dân,

nông dân, tri thức cách mạng cần nhận rõ rằng: hiện nay nhân dân lao động là
những người làm chủ nước nhà, chứ không phải là những người làm thuê cho
giai cấp bốc lột như thời cũ nữa. Chúng ta có quyền và có đủ điều kiện để tự tay
mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc của mình”. Quyền làm chủ Nhà nước
của nhân dân là một giá trị dân chủ, một thành quả cách mạng đem lại. Bởi thế
tất cả nhân dân ta phải hiểu một cách sâu sắc rằng: nước nhà là một nước của
nhân dân ta, nhân dân ta là người chủ của nước nhà, quyền làm chủ đó là do
cách mạng thành công và kháng chiến thắng lợi đem lại cho nhân dân ta.
Dân làm chủ thì mọi người, mọi dân tộc phải chung sức làm cho dân giàu,
làm cho đời sống của nhân dân ta được cải thiện, làm cho con cháu ta ngày
càng sung sướng. Đặt vấn đề như vậy, Hồ Chí Minh muốn lưu ý hai mặt tác
động lẫn nhau của quyền làm chủ: Làm chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển đất nước nước, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước của dân, do dân và vì dân là Nhà nước dân chủ, thể hiện quyền
lực của giai cấp công nhân, đông thời củng là bảo đảm thực thi quyền lực của
nhân dân lao đông. Quan điểm này của chủ tịch Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt tất cả các quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt
Nam. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước do nhân dân lao động làm
chủ là một nội dung trọng yếu trong việc kiện toàn, đổi mới tổ chức, hoạt động
của Nhà nước ta, là môt đặc trưng tổng quát của mô hình cấu trúc xã hội chủ
nghĩa theo quan niệm của Đảng.
1.2.3. Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân mang bản chất của
giai cấp công nhân
Quán triệt tinh thần học thuyết Mác – Lênin về bản chất giai cấp của Nhà
nước, Hồ Chí Minh xác định rất dứt khoát, rất rõ ràng bản chất giai cấp công
nhân của Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam. Chúng ta gọi Nhà nước là
Nhà nước của dân, do dân và vì dân không có nghĩa là “Nhà nước của toàn
dân”, Nhà nước phi giai cấp. Hồ chí Minh chỉ rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước
24

×