THÁNG 5 NĂM 2006
DIỄN ĐÀN PTBV CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI
KẾT QUẢ XÂY DỰNG ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP
TS. Đặng Tùng
Vụ trưởng Vụ KHCN,
Phó Trưởng Ban chỉ đạo PTBVCN.
Ngày 17/8/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg
ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình nghị
sự 21 của Việt Nam) nhằm phát triển bền vững đất nước trên cơ sở kết hợp chặt chẽ,
hợp lý và hài hoà giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Thực
hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, được sự hỗ trợ của Dự án VIE/01/021, Bộ
Công nghiệp triển khai xây dựng Định hướng chiến lược phát triển bền vững công
nghiệp (Chương trình Nghị sự 21 ngành công nghiệp) nhằm đưa ra những định hướng
lớn, mang tính chiến lược để các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp làm căn cứ để
xây dựng các chương trình hành động thực hiện phát triển bền vững trong giai đoạn
đến năm 2010 và định hướng đến 2020.
Việc xây dựng Chương trình nghị sự 21 ngành công nghiệp được thực hiện
trong điều kiện có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức.
Thuận lợi cơ bản là sự ổn định về chính trị - xã hội, những thành tựu về phát triển
kinh tế đất nước, những thắng lợi về ngoại giao, an ninh, quốc phòng, những
chuyển biến mạnh mẽ về cải cách hành chính và luật pháp trong giai đoạn vừa qua
đã tạo ra các điều kiện thuận lợi cho công nghiệp phát triển.
I. Thực trạng và thách thức đối với phát triển bền vũng ngành công
nghiệp
a) Thành tựu và thách thức trong phát triển sản xuất công nghiệp
Triệt để khai thác các điều kiện thuận lợi, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, sản
xuất công nghiệp trong giai đoạn vừa qua đã duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và đạt
được những thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực vào nhịp độ phát triển kinh tế của đất
nước:
- Đến năm 2005 cả nước có hơn 20.000 doanh nghiệp công nghiệp, tăng gần
gấp đôi so với năm 2000 với tổng số lao động ước tính là 5,6 triệu người, đạt tốc độ
tăng trưởng bình quân là 13,7%/năm trong giai đoạn 2000-2005. Số lượng các doanh
nghiệp công nghiệp tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ
sản, dệt may và da giày.
- Giá trị sản xuất công nghiệp cả nước năm 2005 ước đạt 410.566 tỷ đồng (theo
giá CĐ 94), tăng hơn 2,07 lần so với năm 2000 (198.326 tỷ đồng). Tăng trưởng giá trị
sản xuất công nghiệp bình quân 5 năm tăng từ 13,92%/năm trong giai đoạn 1996 - 2000
lên 15,7%/năm trong giai đoạn 2001-2005, vượt chỉ tiêu đề ra cho 5 năm là 13%.
- Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41,1% năm 2005
(vượt mục tiêu của Đại hội IX đặt ra là 38-39% vào năm 2005).
1
THÁNG 5 NĂM 2006
DIỄN ĐÀN PTBV CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI
- Giá trị gia tăng của sản xuất công nghiệp (VA) năm 2005 ước 138,398 tỷ đồng
(giá cố định 94), đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 10,3%/năm cho giai đoạn 20012005 và cao hơn tăng trưởng GDP cả nước, đóng vai trò động lực thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
- Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục có tăng trưởng cao từ 14,4 tỷ USD năm 2000 lên
32,23 tỷ USD vào năm 2005, trong đó, hàng công nghiệp chiếm 76%. Sản lượng của
nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao và tiêu thụ tốt trên thị trường trong nước và
xuất khẩu như điện, than, xi măng, thép cán, động cơ điện, động cơ diesel, máy thu hình,
quạt điện, ôtô lắp ráp, xe máy, thiết bị toàn bộ, máy móc phục vụ canh tác, giấy bìa các
loại, sản phẩm may mặc, da giầy, rượu bia, thuốc lá bao, sữa hộp …
- Ngành công nghiệp tiếp tục chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng dần tỷ trọng
công nghiệp chế biến nhờ phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, phát triển thị
trường và năng lực sản xuất, chế tạo thiết bị. Cơ cấu của các thành phần kinh tế trong
công nghiệp cũng có chuyển biến tích cực: khu vực nhà nước có xu hướng giảm dần từ
41,8% vào năm 2000 xuống 35,5% năm 2005; khu vực ngoài quốc doanh và khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng dần. Sự tham gia của các thành phần kinh
tế trong sản xuất công nghiệp đã thúc đẩy sản xuất công nghiệp đa dạng hơn cả về quy
mô sản xuất, trình độ công nghệ, chủng loại và chất lượng sản phẩm, đáp ứng những
nhu cầu khác nhau của các tầng lớp dân cư có mức thu nhập khác nhau cũng như yêu
cầu của từng thị trường xuất khẩu khác nhau.
Tuy nhiên, ngành công nghiệp cũng gặp không ít khó khăn, thách thức trong việc
duy trì sự phát triển bền vững trong giai đoạn tới, đặc biệt khi Việt Nam gia nhập
WTO. Đó là sự cạnh tranh ác liệt trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng, trong khi công nghệ của các ngành công nghiệp nước ta phần lớn còn lạc hậu, chậm
được đổi mới, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, trình độ và công
cụ quản lý kinh doanh trong các doanh nghiệp còn yếu làm cho sức cạnh tranh của sản
phẩm công nghiệp thấp. Sự thiếu chủ động về nguyên liệu vật tư đầu vào cho sản xuất
trong nước, thiếu các thương hiệu mạnh cho các sản phẩm công nghiệp, chất lượng tăng
trưởng công nghiệp và giá trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp của nhiều ngành thấp ...
cũng là những khó khăn, thách thức không nhỏ cho sự phát triển bền vững của ngành
công nghiệp trong những năm tới. Thêm vào đó, trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới, khi hàng rào thuế hạ thấp, các sản phẩm của Trung Quốc và nhiều nước
ASEAN dễ dàng thâm nhập vào thị trường Việt Nam, cạnh tranh sẽ diễn ra càng gay
gắt hơn trên thị trường nội địa.
b) Các hoạt động bảo vệ môi trường công nghiệp
Bên cạnh những thách thức về duy trì tốc độ tăng trưởng và năng lực cạnh tranh,
các ngành công nghiệp cũng gặp không ít những vấn đề thách thức về môi trường. Do
một tỉ lệ khá lớn các nhà máy, xí nghiệp được đầu tư từ thời bao cấp với công nghệ, thiết
bị lạc hậu; nhiều cơ sở hoạt động không có hệ thống xử lý khí thải và nước thải hoặc hệ
thống hoạt động kém hiệu quả, phân bố gần hoặc đan xen với các khu dân cư (thường
hình thành sau khi có nhà máy) nên tình trạng ô nhiễm môi trường không khí, môi trường
nước khá nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống của người dân xung quang nhà máy.
2
THÁNG 5 NĂM 2006
DIỄN ĐÀN PTBV CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI
Thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước và Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, trong thời
gian qua ngành công nghiệp đã quan tâm triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường
như xây dựng các chương trình/đề án về bảo vệ môi trường ngành công nghiệp nhằm
thực hiện các chương trình ưu tiên trong Chiến lược Bảo vệ môi trường Quốc gia,
chương trình xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết
định 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, đề án “Hạn chế và giảm dần việc sử
dụng hoá chất độc hại, các bao bì làm từ các loại vật liệu khó phân huỷ trong công
nghiệp, thay thế bằng các nguyên vật liệu thân thiện với môi trường”, chương trình
“Áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp” trong khuôn khổ chương trình hợp tác
Việt Nam - Đan Mạch trong lĩnh vực môi trường do Chính phủ Đan Mạch tài trợ, đề
án tăng cường quản lý chất thải rắn tại các khu công nghiệp v.v..
Theo Quyết định số 64 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công nghiệp được giao
chỉ đạo 65 cơ sở xếp trong danh sách gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng áp
dụng các biện pháp xử lý như di chuyển địa điểm, đổi mới công nghệ, nâng cấp hệ
thống xử lý chất thải và xây dựng mới hệ thống xử lý chất thải. Nhìn chung các đơn
vị thuộc Bộ quản lý đã tiến hành các bước thực hiện theo Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ và có kế hoạch cụ thể cho các năm tiếp theo với mục tiêu hoàn
thành đúng tiến độ quy định. Các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hầu hết
đã áp dụng các biện pháp xử lý để giảm thiểu ô nhiễm. Ngoài việc chỉ đạo các doanh
nghiệp trong danh sách của Quyết định 64 nghiêm túc thực hiện các biện pháp giảm
thiểu ô nhiễm, Bộ Công nghiệp đã phối hợp với UBND Thành phố Hồ Chí Minh
triển khai thực hiện chương trình di dời các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng trên địa bàn Thành phố. Đến nay đã có 465 cơ sở thực hiện di
dời, 372 cơ sở đã ngưng sản xuất, 47 cơ sở đã thay đổi ngành nghề.
Bộ Công nghiệp cũng đã chỉ đạo tổ chức tốt mạng lưới quản lý môi trường
ngành nhằm giúp Bộ quản lý tốt các hoạt động BVMT, ngăn ngừa và nắm bắt kịp thời
các vấn đề ô nhiễm môi trường phát sinh, nhanh chóng đưa ra các biện pháp quản lý
phù hợp. Hoạt động nghiên cứu, đào tạo nâng cao nhận thức và năng lực quản lý và
BVMT cũng được Bộ quan tâm chỉ đạo triển khai có kết quả:
- Chỉ đạo triển khai nhiều chương trình, dự án nghiên cứu phục vụ BVMT như
Dự án “Kế hoạch tổng thể ngăn ngừa ô nhiễm công nghiệp” với sự tài trợ của JICA Nhật
Bản, Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Bộ về sử dụng năng lượng tiết kiệm và
hiệu quả, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 102/2003/NĐ-CP phê duyệt Chương
trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 20062015 (Quyết định số 79/2006/QĐ-TTg), ....
- Chỉ đạo các Tổng Công ty xây dựng các Quy chế BVMT ngành, Chiến lược
và Chương trình BVMT lồng ghép trong các Chiến lược, quy hoạch phát triển ngành
như các ngành điện, than, dệt may...
- Tổ chức nhiều lớp tập huấn và hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp công
nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn và hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO
14000, tổ chức các phong trào xanh sạch đẹp trong các doanh nghiệp công nghiệp,
3
THÁNG 5 NĂM 2006
DIỄN ĐÀN PTBV CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI
phát động các tuần lễ Quốc gia về Nước sạch và vệ sinh môi trường; Ngày môi trường
thế giới ...
c. Các hoạt động về chăm lo trách nhiệm xã hội trong phát triển công nghiệp
Khía cạnh xã hội trong phát triển bền vững công nghiệp chủ yếu tập trung vào
các hoạt động nhằm ổn định phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm cho xã hội, tạo
thu nhập ổn định cho người lao động, từ đó góp phần ổn định và phát triển xã hội,
chăm lo công tác bảo vệ môi trường công nghiệp, chăm lo các vấn đề vệ sinh môi
trường, đảm bảo điều kiện an toàn cho người lao động ...
Trong giai đoạn vừa qua, những nội dung này đã được Bộ công nghiệp quan
tâm, chỉ đạo thực hiện thông qua các chương trình về bảo vệ môi trường, bảo hiểm xã
hội cho người lao động, tổ chức các Tuần lễ nước sạch vệ sinh môi trường, Tuần lễ an
toàn lao động, phòng chống cháy ổ, vệ sinh an toàn thực phẩm, triển khai các chương
trình phát triển cây nguyên liệu giấy, thốc lá, bông ở các vùng sâu, vùng xa, góp phần
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân ở vùng sâu, vùng xa
như Cao bằng, Lạng Sơn, ...
II. Xây dựng Định hướng chiến lược về phát triển bền vững công nghiệp
Nhằm thực hiện Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam, Bộ Công
nghiệp đang chỉ đạo xây dựng Định hướng chiến lược phát triển bền vững ngành công
nghiệp . Nội dung cơ bản sẽ tập trung vào một số định hướng chiến lược sau:
1. Tập trung phát triển mạnh những ngành có lợi thế so sánh để tạo tích luỹ cho
CNH, thu hút lao động xã hội, bao gồm các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt
may, giày dép, lắp ráp cơ điện tử, chế biến nông - lâm - thủy - hải sản, ngành công
nghệ cao như công nghệ điện tử tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới...; kêu gọi
đầu tư nước ngoài vào những ngành công nghiệp cần nhiều vốn, dựa vào nguồn tài
nguyên như dầu khí, luyện kim, ...
2. Từng bước chuyển hướng xuất khẩu sản phẩm sơ cấp sang xuất khẩu dựa
chủ yếu vào xuất khẩu sản phẩm thứ cấp nhằm nâng cao ưu thế so với các nước trong
việc khai thác, sử dụng nguồn lao động dồi dào; khuyến khích xuất khẩu, mở rộng các
hình thức hợp tác quốc tế, đồng thời nhận thêm các nguồn vốn ODA và FDI, tạo môi
trường cho người lao động tiếp xúc với công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm, nâng
cao trình độ chuyên môn và quản lý, góp phần nâng cao chất lượng và năng lực khai
thác nguồn nhân lực.
3. Từng bước tái cơ cấu công nghiệp theo hướng giảm dần tỷ trọng khu vực nhà
nước, tăng dần khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài; chú trọng phát triển hệ thống
doanh nghiệp vừa và nhỏ; hình thành các tập đoàn công nghiệp đa thành phần, đa ngành
nghề để phối hợp sức mạnh và lợi thế của các thành phần, các ngành nghề, đồng thời làm
đối tác cho các hoạt động kinh tế quốc tế, trụ cột cho nền kinh tế quốc dân.
4. Thực hiện cơ cấu phân bố công nghiệp theo hướng phát triển và dịch chuyển
các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động về nông thôn, hình thành công nghiệp
nông thôn, phát triển mạnh doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn cho hoạt động sơ
chế, chế tạo chi tiết, linh kiện cho các cơ sở công nghiệp lớn, tập trung ở các đô thị
trong điều kiện đặc thù Việt Nam, đảm bảo phát triển cân đối; chú trọng phát triển
4
THÁNG 5 NĂM 2006
DIỄN ĐÀN PTBV CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI
công nghiệp theo các tuyến giao thông (cảng biển, trục giao thông, trục đường thuỷ,
bộ) để phát huy các lợi thế.
5. Chú trọng đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp nhằm nâng cao
chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp, giảm ô nhiễm môi trường, sử
dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; đặc biệt trong ngành khai thác và chế
biến khoáng sản.
6. Đổi mới tổ chức, quản lý KH&CN, nâng cao vai trò của KHCN trong việc đổi
mới, hiện đại hóa công nghệ của các ngành, đồng thời tăng cường tiếp nhận, làm chủ và
phát triển các công nghệ mới, hiện đại.
7. Phát triển công nghiệp đi đôi với bảo vệ môi trường. Thực hiện tốt công tác
quản lý và bảo vệ môi trường, đầu tư mới và cải tạo các hệ thống xử lý chất thải nhằm
thực hiện nghiêm chỉnh việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng; chú trọng áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn; nghiên cứu hình thành và
phát triển ngành công nghiệp môi trường, ưu tiên ứng dụng công nghệ sạch và công
nghệ thân thiện với môi trường.
8. Tăng cường công tác vệ sinh an toàn, bảo hộ lao động, an toàn cháy nổ, đặc
biệt trong ngành khai thác mỏ; khuyến khích áp dụng các hệ thống quản lý theo tiêu
chuẩn quốc tế như ISO 9000, ISO 14000, SA 8000, HACCP; quan tâm chăm lo đời
sống, sức khỏe, bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
9. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về phát
triển bền vững trong ngành công nghiệp.
10. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thu hút hỗ trợ của quốc tế về kinh
nghiệm, kỹ thuật, công nghệ và tài chính để hội nhập, phát triển và bảo vệ môi trường
công nghiệp.
III. Các chương trình/Đề án ưu tiên thực hiện Định hướng chiến lược phát
triển bền vững công nghiệp
Để thực hiện các định hướng chiến lược nêu trên, cần hình thành và tổ chức triển
khai tốt các Chương trình ưu tiên sau:
1. Chương trình phát triển thị trường sản phẩm công nghiệp Việt Nam, bao gồm
các nội dung chủ yếu như: củng cố thị trường trong nước, xúc tiến thương mại, mở rộng
thị trường xuất khẩu, xây dựng thương hiệu sản phẩm, xây dựng sàn giao dịch, ...
2. Chương trình nghiên cứu KH&CN phục vụ đổi mới, hiện đại hóa công nghệ,
phát triển sản phẩm trong các ngành công nghiệp nhằm nâng cao chất lượng và sức
cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp, giảm ô nhiễm môi trường, sử dụng tiết kiệm và
hiệu quả năng lượng, tài nguyên thiên nhiên.
3. Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp ứng dụng công nghệ mới, bao
gồm các nội dung chủ yếu như: tạo dựng thị trường công nghệ, thành lập quỹ hỗ trợ
doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới.
4. Chương trình phát triển các vùng cây nguyên liệu giấy, thuốc lá, bông, góp phần
chủ động nguyên liệu cho sản xuất và tham gia chuyển dịch cơ cấu, xóa đói giảm nghèo
5
THÁNG 5 NĂM 2006
DIỄN ĐÀN PTBV CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI
cho đồng bào các vùng sâu vùng xa (Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thanh
Hóa, Ninh Thuận ...).
5. Chương trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, thu hút lực lượng lao động
người Việt Nam từ các nước vào phát triển công nghiệp.
6. Chương trình hỗ trợ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới nhằm cung cấp thông
tin về tiến trình hội nhập, thông tin về rào cản kỹ thuật trong thương mại (TBT), giúp các
doanh nghiệp công nghiệp chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Chương trình phát triển các ngành chủ lực, có doanh thu lớn như nhóm ngành
công nghiệp khai thác (than, dầu khí, các khoáng sản kim loại và phi kim loại), nhóm
ngành công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động (dệt may, da giày, chế biến nông lâm
sản, thực phẩm…), nhóm ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp cơ điện tử, nhóm ngành
công nghiệp sử dụng nhiều thành tựu công nghệ.
8. Chương trình chuyển dịch công nghiệp về nông thôn, bao gồm ngành điện,
ngành cơ khí, ngành hoá chất, ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy - hải sản,
công nghiệp khai thác, công nghiệp dệt may, da giày.
9. Chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (thực hiện Chương trình
mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt).
10. Chương trình khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng các hệ thống
quản lý theo các tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, SA 8000, HACCP.
11. Chương trình “Áp dụng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp” (Hợp phần
sản xuất sạch hơn trong khuôn khổ chương trình hợp tác Việt Nam - Đan Mạch trong
lĩnh vực môi trường do Chính phủ Đan Mạch tài trợ).
12. Chương trình xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn
môi trường ở tất cả các khu công nghiệp (thực hiện chương trình ưu tiên của Chiến
lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020).
13. Chương trình áp dụng công nghệ sản xuất sạch và thân thiện với môi trường
(thực hiện chương trình ưu tiên của Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020).
14. Chương trình phục hồi môi trường ở các vùng khai thác khoáng sản (thực
hiện chương trình ưu tiên của Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020).
15. Chương trình xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
16. Đề án "Hạn chế và giảm dần việc sử dụng hoá chất độc hại, các bao bì làm
từ các loại vật liệu khó phân huỷ trong công nghiệp, thay thế bằng các nguyên vật liệu
thân thiện với môi trường".
17. Đề án "Tăng cường quản lý chất thải rắn tại các khu công nghiệp" (thực hiện
Chỉ thị số 23/2005/CT-TTg ngày 21/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh công
tác quản lý chất thải rắn tại các khu đô thị và khu công nghiệp).
6
THÁNG 5 NĂM 2006
DIỄN ĐÀN PTBV CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI
18. Đề án hạn chế và giảm dần việc sử dụng các loại bao bì làm từ các loại vật
liệu khó phân hủy trong công nghiệp, thay thế bằng các loại vật liệu thân thiện với môi
trường.
19. Chương trình kiểm soát ô nhiễm vi sinh vật và tồn dư hoá chất trong quá
trình chế biến thực phẩm (thực hiện Quyết định 28/QĐ-TTg ngày 06/01/2003 của Thủ
tướng Chính phủ).
20. Chương trình đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (thực hiện Quyết định số
43/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch hành động Quốc gia đảm bảo
vệ sinh an toàn thực phẩm đến năm 2010).
IV. Một số khó khăn trong triển khai Chương trình nghị sự 21
- Chưa có kinh nghiệm của các nước về xây dựng và thực hiện Chương trình
nghị sự 21 riêng cho ngành công nghiệp. Các nước thường chỉ xây dựng Chương trình
Nghị sự 21 cho quốc gia và các địa phương.
- Chưa xây dựng được hệ thống tiêu chí về phát triển bền vững công nghiệp.
- Tuy ngành công nghiệp trong các giai đoạn 1996-2000 và 2001-2006 đạt tốc
độ tăng khá trưởng cao và ổn định nhưng còn thiếu bền vững; một số ngành như dệt
may, da giày, điện tử ... chủ yếu là gia công cho các hãng nước ngoài nên giá trị gia
tăng của một số ngành chưa cao, chưa khẳng định được thương hiệu trên thị trường
quốc tế, chưa chủ động được nguyên liệu đầu vào, thị trường đầu ra, mẫu mã sản phẩm
...
- Các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thường là các cơ sở
có công nghệ, thiết bị lạc hậu, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, do đó cũng
gặp khó khăn trong việc đầu tư cho xử lý môi trường và chăm sóc trách nhiệm cho
người lao động và cộng đồng.
- Năng lực tài chính của nhiều doanh nghiệp chưa đủ mạnh để đầu tư cho các
chương trình đổi mới, hiện đại hóa công nghệ, phát triển sản phẩm, thị trường, thương
hiệu và bảo vệ môi trường, chăm sóc trách nhiệm cho người lao động và cộng đồng.
- Do lịch sử để lại, trong quá trình phát triển, nhiều doanh nghiệp, khu công
nghiệp bị đan xen trong các khu đô thị và cân cư và trở thành nguồn gây ô nhiễm cho
công đồng dân cư lân cận cơ sở công nghiệp./.
7