Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận vai trò của hoạt động tuyên truyền trong quản lý nhà nước và tài nguyên môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.38 KB, 29 trang )

Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

MỞ ĐẦU

Ngày nay, bảo vệ tài nguyên và môi trường đã trở thành vấn đề trọng yếu,
mang tính toàn cầu. Ở nước ta, vấn đề này đã trở thành sự nghiệp không chỉ của toàn
Đảng, toàn dân mà còn là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối chủ
trương, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Tài nguyên cung cấp những yếu tố cơ bản thiết yếu để tiến hành quá trình xây
dựng, phát triển sản xuất, bên cạnh môi trường là điều kiện đảm bảo quá trình phát
triển, tăng trưởng bền vững.
Thực tế cho thấy, quá trình khai thác, sử dụng tài nguyên đòi hỏi phải tiến
hành nghiêm túc, cần có sự nghiên cứu kĩ lưỡng để đảm bảo yếu tố môi trường. Tài
nguyên môi trường luôn có mối quan hệ gắn bó thiết yếu, quan hệ mật thiết trong
tiến trình phát triển. Trong thời gian qua, vấn đề khai thác tài nguyên, đảm bảo giữu
gìn môi trường đang đặt ra nhiều yêu cầu bức thiết. Tài nguyên bị khai thác cạn kiệt,
không tính đến yếu tố bảo tồn và mở rộng. Song song đó là vấn đề ô nhiễm môi
trường, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân, gây nhiều khó khăn
cho quá trình phát triển bền vững của đất nước.
Thời gian gần đây, vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang diễn biến phức tạp.
Đặc biệt, tại khu vực Tây Nguyên nói chung và Đăk Nông nói riêng đang nổi lên
vấn đề được quan tâm – khai thác quặng Bôxit trên địa bàn Đăk Nông. Những vấn
đề này đã đặt ra những yêu cầu trong công tác quản lý tài nguyên trên địa bàn tỉnh.
Việc khai thác tài nguyên này đòi hỏi phải được quản lý chặt chẽ bởi lẽ: bôxit là một
loại tài nguyên quý giá của quốc gia, hoạt động khai thác bôxit kéo theo những ảnh
hưởng nghiêm trọng đến các nguồn tài nguyên khác (rừng – nguồn tài nguyên lớn
của toàn tỉnh sẽ bị ảnh hưởng, một diện tích lớn đất đai bị san ủi phục vụ việc khai

1




Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

thác và xây Dựng cơ sở hạ tầng, tài nguyên nước bị ảnh hưởng…) và ảnh hưởng lớn
đến môi trường của vùng.
Trước các vấn đề nêu trên, nâng cao hoạt động QLNN về Tài nguyên và Môi
trường là cần thiết trước yêu cầu của tình hình thực tế.

NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

1. Một số vấn đề chung về Tài nguyên – Môi trường
- Khái niệm về Tài nguyên (Resource):
Hiện nay, còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm tài nguyên. Theo nghĩa
hẹp, “tài nguyên là các nguồn vật chất tự nhiên mà con người dùng nó làm nguyên,
nhiên liệu cho các hoạt động chế tác của mình để có được vật dụng”. Theo nghĩa
rộng, “tài nguyên là toàn bộ các yếu tố tự nhiên có giá trị, là nguồn vật chất để con
người có thể sử dụng phục vụ cuộc sống và phát triển của mình”.
Ngoài cách hiểu trên, tài nguyên còn có thể được hiểu là tất cả các dạng vật
chất, văn hoá và tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị
sử dụng mới cho con người. Tài nguyên bao gồm các nguồn vật liệu (đất, nước,

rừng, khoáng sản), năng lượng (năng lượng dầu mỏ, gió, mặt trời...), thông tin có
trên Trái đất và trong vũ trụ mà con người có thể sử dụng phục vụ sự sống và phát
triển của mình.
Hiện nay việc phân loại tài nguyên được dựa theo nhiều phương thức khác
nhau như theo trữ lượng, chất lượng, công dụng, khả năng tái tạo và nguồn gốc phát
sinh. Tùy từng trường hợp nghiên cứu cụ thể mà có thể sử dụng một hoặc tổ hợp
nhiều phương pháp phân loại tài nguyên. Sự phân loại có tính chất tương đối vì tính
đa dạng và đa dụng của tài nguyên và tùy theo mục tiêu sử dụng khác nhau. Các
cách phân loại phổ biến:
- Theo quan hệ với con người: tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên xã hội.
- Theo phương thức và khả năng tái tạo: tài nguyên tái tạo và tài nguyên
không tái tạo.
- Theo bản chất tự nhiên: tài nguyên đất, nước, rừng, biển, khoáng sản, khí
hậu, năng lượng, di sản văn hoá kiến trúc, tri thức khoa học và thông tin.

3


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

- Khái niệm về Môi trường (Environment): “Môi trường bao gồm các yếu
tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống,
sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”(Mục 1, điều 3 Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005 được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005).
Khái niệm môi trường chung này tùy theo mục tiêu nghiên cứu mà được phân
chia một cách chi tiết hơn. Theo cách phân chia tương đối theo nguồn gốc thì môi
trường được quan niệm thành 3 dạng là môi trường tự nhiên, xã hội và nhân tạo:

* Môi trường tự nhiên: bao gồm các nhân tố vật lý, hoá học, còn được gọi là
môi trường vật lý, tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người.
+ Môi trường vật lý (Physical environment): để chỉ các yếu tố nhiệt độ, bức
xạ, áp suất khí quyển, màu, mùi, vị...
+ Môi trường hoá học (Chemical environment) : chỉ những nguyên tố và các
hợp chất hoá học. Đây là dạng môi trường “vô sinh” (abiotic).
+ Môi trường sinh học (Biological environment): gồm động vật, thực vật, vi
sinh vật. Đây là dạng “biotic”.
Khái niệm “môi trường sinh thái” được sử dụng nhiều vì suy cho cùng mọi
vấn đề môi trường đều do nguyên nhân suy giảm sinh thái.
* Môi trường xã hội: phản ánh mối quan hệ giữa con người và con người tạo
nên sự thuận lợi hay cản trở cho sự phát triển xã hội.
* Môi trường nhân tạo: môi trường của tất cả các yếu tố vât lý - hoá học sinh học và xã hội, chịu sự chi phối của con người và sự biến đổi do hoạt động của
con người. Ví dụ: những toà nhà - những khối bê tông khổng lồ đặc biệt ở các “trade
center” ở các nước phát triển.

4


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

Ngoài cách phân loại dựa trên nguồn gốc ở trên, môi trường còn có thể được
hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Theo nghĩa rộng: môi trường bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên, xã hội có
ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của con người và các nguồn tài nguyên phục vụ
cho đời sống con người. Theo nghĩa này khái niệm môi trường bao gồm cả nghĩa tài
nguyên.
- Theo nghĩa hẹp: môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và xã hội, ảnh

hưởng tới chất lượng sống của con người mà không xem xét đến vấn đề tài nguyên.
Theo nghĩa này thì môi trường chỉ “chất liệu môi trường”.
Tuy nhiên, sự phân chia các khái niệm này chỉ là tương đối, phục vụ cho các
mục tiêu nghiên cứu chuyên ngành. Các hợp phần và yếu tố của môi trường luôn có
mối liên hệ và quy ước với nhau.
2. Một số vấn đề chung về quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường:
* Quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường: QLNN về tài nguyên và
môi trường là tổng hợp các giải pháp luật pháp, chính sách, kinh tế, kỹ thuật... nhằm
hạn chế tác động có hại của phát triển kinh tế xã hội đến môi trường.
Nội dung QLNN về tài nguyên và môi trường thể hiện cụ thể trong từng vấn
đề tài nguyên cũng như môi trường: chính sách tài nguyên môi trường, tiêu chuẩn
môi trường, đánh giá môi trường chiến lược; bảo tồn và sử dụng tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo vệ môi trường
đô thị và khu dân cư, bảo vệ môi trường biển… Về cơ bản, nội dung QLNN về môi
trường bao gồm các nội dung sau:
- Ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường;
- Ban hành hệ thống tiêu chuẩn và bộ chỉ thị về môi trường; thẩm định, phê
duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM);
5


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, kế hoạch quốc gia về bảo vệ môi
trường;
- Xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc môi trường; đánh giá hiện trạng, dự
báo diễn biến môi trường và quản lý thống nhất thông tin, dữ liệu về môi trường;
- Ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách thuế, phí về bảo vệ môi

trường;
- Bảo đảm ngân sách đầu tư cho công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường, các kết cấu hạ tầng quan trọng về môi trường và các dịch vụ bảo vệ môi
trường mà khu vực ngoài nhà nước không thể đầu tư;
- Tổ chức nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và kinh nghiệm
quản lý trong bảo vệ môi trường;
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về môi trường và đào tạo nguồn nhân lực
cho hoạt động bảo vệ môi trường;
- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
- Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp
luật về môi trường;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp, bồi thường thiệt hại về môi trường.
* Các mục tiêu chủ yếu của công tác quản lý nhà nước về môi trường:
Mục tiêu chủ yếu của QLMT là phát triển bền vững, đảm bảo sự cân bằng
giữa phát triển KT-XH và bảo vệ môi trường. Phát triển KT-XH tạo tiềm lực
BVMT. Và ngược lại bảo vệ môi trường tạo các tiềm năng tự nhiên và xã hội mới
cho phát triển KT-XH. Tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, hệ thống
chính trị, pháp lý, mục tiêu phát triển ưu tiên của từng quốc gia mà mục tiêu QLMT
có thể khác nhau.

6


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

Theo Chỉ thị 36/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị Ban chấp hành
Trung ương Đảng, một số mục tiêu cụ thể của công tác QLMT Việt Nam hiện nay
là:

- Khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong
các hoạt động sống của con người.
- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản luật pháp bảo vệ môi trường, ban hành các
chính sách phát triển KT-XH phải gắn với bảo vệ môi trường, nghiêm chỉnh thi hành
Luật Bảo vệ môi trường.
- Phát triển đất nước theo nguyên tắc phát triển bền vững được Hội nghị
Thượng đỉnh về Môi trường và phát triển bền vững tại Rio de Janneiro (Braxin)
tháng 6/1992 thông qua.
Để xây dựng xã hội phát triển bền vững, các nhà môi trường đế ra 9 nguyên
tắc bảo vệ môi trường. Những nguyên tắc này bao gồm:
• Tôn trọng và quan tâm đến đời sống cộng đồng
• Cải thiện và năng cao chất lượng cuộc sống con người
• Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của trái đất


Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm tài nguyên không tái tạo

• Giữ vững trong khả năng chịu đựng của trái đất
• Thay đổi thái độ, hành vi và xây dựng đạo đức vì sự phát triển bền vững
• Tạo điều kiện để cộng đồng tự QLMT của mình
• Tạo cơ cấu quốc gia thống nhất thuận lợi cho việc phát triển bền vững
• Xây dựng khối liên minh toàn thế giới về bảo vệ và phát triển bền vững

7


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT


Tuy nhiên, các nguyên tắc này thực sự khó áp dụng trong thực tế của một thế
giới vốn nhiều biến động về kinh tế, chính trị, văn hóa. Sau RIO-92, đã có thêm rất
nhiều cố gắng mới trong nghiên cứu các nguyên tắc phát triển bền vững, nhằm mục
tiêu bổ sung hoàn thiện, hoặc chi tiết hóa làm rõ nghĩa hơn, hoặc giản lược hóa, làm
cho nó dễ hiểu và dễ áp dụng hơn. Một trong những cố gắng theo hướng giản lược
các nguyên tắc của phát triển bền vững đã được thực hiện bới Luc Hens, một giáo sư
ngành sinh thái nhân văn học người Bỉ. Đó là các nguyên tắc:
• Sự ủy thác của nhân dân;
• Phòng ngừa;
• Bình đẳng giữa các thế hệ;
• Bình đẳng trong nội bộ một thế hệ;
• Phân quyền và ủy quyền;
• Người gây ô nhiễm phải trả tiền;
• Người sử dụng phải trả tiền.
Luc Hens đã lựa chọn trong số các nguyên tắc của Tuyên bố Rio-92 về Môi
trường và phát triển để xây dựng một hệ thống các nguyên tắc mới của phát triển bền
vững. Mặt khác, trong các nguyên tắc này của Luc Hens, ông quan tâm nhiều tới
khía cạnh thể chế. Các nước trên thế giới cũng đã bước đầu thể chế hóa các nguyên
tắc này, trong đó có cả ở Việt Nam.
Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX nêu lên 3 mục tiêu chủ yếu về bảo vệ môi trường của
nước ta trong thời gian tới là:

8


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT


- Ngăn ngừa, hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường
do hoạt động của con người và tác động của tự nhiên gây ra. Sử dụng bền vững
nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
- Khắc phục ô nhiễm môi trường, trước hết ở những nơi đã bị ô nhiễm nghiêm
trọng, phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái, từng bước nâng cao chất lượng môi
trường.
- Xây dựng nước ta trở thành một nước có môi trường tốt, có sự hài hòa giữa
tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; mọi
người đều có ý thức bảo vệ môi trường, sống thân thiện với môi trường.
* Các nguyên tắc chủ yếu của công tác quản lý môi trường:
- Hướng công tác quản lý môi trường tới mục tiêu phát triển bền vững kinh tế
xã hội đất nước, giữ cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường.
- Kết hợp các mục tiêu quốc tế - quốc gia - vùng lãnh thổ và cộng đồng dân cư
trong việc quản lý môi trường.
- Quản lý môi trường cần được thực hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ
tổng hợp thích hợp.
- Phòng chống, ngăn ngừa tai biến và suy thoái môi trường cần được ưu tiên
hơn việc phải xử lý, hồi phục môi trường nếu để gây ra ô nhiễm môi trường.
- Người gây ô nhiễm phải trả tiền cho các tổn thất do ô nhiễm môi trường gây
ra và các chi phí xử lý, hồi phục môi trường bị ô nhiễm. Người sử dụng các thành
phần môi trường phải trả tiền cho việc sử dụng gây ra ô nhiễm đó.
II. VAI TRÒ, TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN TRONG
QLNN VỀ TN-MT:
1. Định nghĩa

9


Nhóm IV


QLNN – KHCN – TN&MT

- Hoạt động tuyên truyền là quá trình đưa ra những chủ trương, chính sách,
biện pháp của chủ thể quản lý đến với đối tượng quản lý nhằm hướng đối tượng theo
ý chí của chủ thể, đạt mục tiêu đề ra.
- Hiện nay hoạt động tuyên truyền cần hiểu đúng hơn là “hoạt động truyền
thông”. Đây là quá trình trao đổi thông tin, ý tưởng, tình cảm, suy nghĩ, thái độ giữa
các cá thể, các nhóm người.
“ Truyền thông môi trường” là quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp
cho người có liên quan hiểu được các yếu tố môi trường then chốt, mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau giữa chúng và tác động thích hợp để giải quyết vấn đề về môi trường.
Theo khoản 2, Điều 5, luật Bảo vệ môi trường :“ đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền,
giáo dục, vận động, kết hợp các biện pháp tài chính, kinh tế và các biện pháp khác
để xây dưng ý thức tự giác, kỷ cương trong bảo vệ môi trường”.
- Hoạt động tuyên truyền, giáo dục bảo vệ tài nguyên môi trường là trách
nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt nó là trách nhiệm của các cơ quan
quản lý nhà nước. Cụ thể: UBND các cấp ( điểm d, khoản 2, Điều 122, Luật Bảo vệ
môi trường), của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ( Khoản 1, Điều 124, Luật Bảo vệ môi
trường)
- Các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ chỉ đạo thực hiện hoạt động tuyên truyền
về giữ gìn tái tạo nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường. Cụ thể:
+ Tuyên truyền giáo dục môi trường là hoạt động chủ yếu trong công việc tổ
chức và quản lý của các cơ quan nhà nước (. Đây chính là công cụ quản lý của nhà
nước về tài nguyên và môi trường.
+ Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của quần chúng, huy động toàn dân tham
gia thì công tác bảo vệ mới thành công. Công tác này có vai trò to lớn trong sự
nghiệp bảo vệ môi trường.
10



Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

+ Thực hiện tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về môi trường để
vấn đề này trở thành trách nhiệm của toàn xã hội, “ sự nghiệp của toàn dân”.
2. Vai trò của hoạt động tuyên truyền trong QLNN về TN-MT
Thứ nhất: Giúp các đối tượng liên quan nhận thức và có sự quan tâm đến vấn
đề môi trường, tìm kiếm các giải pháp khắc phục, giúp các đối tượng bị ảnh hưởng
có giải pháp tự vệ trước sự ô nhiễm môi trường.
Thứ hai: Huy động các biện pháp,kinh nghiệm, kỷ năng, bí quyết tham gia
vào chương trình bảo vệ môi trường.
Thứ ba: Thương lượng, hòa giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp về
môi trường giữa các cơ quan và trong nhân dân
Thứ tư : tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội tham gia vào bảo vệ môi
trường, xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
Thứ năm: Tác động đến ý thức người dân làm cho họ thay đổi hành vi của
mình tác động tiêu cực đến môi trường.
3. Tác động của hoạt động tuyên truyền trong QLNN về TN-MT
a. Phương thức tác động:
Để vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, của
toàn dân thì hoạt động tuyên truyền cần thực hiện thông qua một vài phương thức
sau:
Một là: phổ biến kiến thức pháp luật, tuyên truyền, phổ cập hóa nhận thức môi
trường theo các chương trình và các thông tin môi trường trên các phương tiện thông
tin đại chúng ( báo chí, ti vi, radio, pa nô, áp phích, tờ rơi, phim ảnh...)
Hai là: mở các lớp tập huấn nhằm chuyển thông tin tới các nhóm thông qua
hội thảo tập huấn, huấn luyện, họp nhóm, tham quan, khảo sát...
11



Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

Ba là: đưa nội dung này vào trong giáo dục, đào tạo ở tất cả các cấp học, trong
đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp...
Bốn là: đào tạo chuyên gia về môi trường.
Năm là: có biện pháp khuyến khích những tập thể, cá nhân, doanh nghiệp có
những việc làm tốt, có những sáng kiến trong giữ gìn, bảo vệ môi trường.
b. Tác động của hoạt động tuyên truyền:
Thông qua các biện pháp, phương thức tuyên truyền phong phú, đa đạng mà
có sự tác động chuyển biến mạnh mẽ trong ý thức, hành vi của đối với người dân,
các tổ chức, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh…. Cũng như làm thay đổi
nhận thức của nhân dân về vai trò của TN-MT đối với cuộc sống, đối với sự phát
triển trên toàn xã hội, giúp họ hiểu được thực trạng của TN- MT hiện nay của đất
nước ta như thế nào.
Thứ nhất: Tác động đến hành vi, ý thức đến người dân, các tổ chức, các doanh
nghiệp, các công ty, các cơ sở sản xuất kinh doanh…
Một là, tác động đến ý thức:
-

Người dân:
Người dân đã có ý thức giữ gìn vệ sinh chung. Ở thành thị hầu hết người dân

đều tham gia đóng đầy đủ phí và lệ phí nhằm bảo vệ môi trường, đó là các phí đánh
vào người sử dụng các dịch vụ công cộng về xử lý và cải thiện chất lượng môi
trường như hệ thống thoát nước, hệ thống thu gom, xử lý chất thải, phí sử dụng nước
sạch, phí sử dụng đường và bãi đỗ xe...Cụ thể như: “phí vệ sinh”. Phí này dung để
trả cho việc chất lượng môi thu gom rác thải của từng hộ gia đình, (mức phí là

15000đ/ tháng/ gia đình). Ở nông thôn, nhiều phong trào “xanh, sạch, đẹp từ trong
nhà ra đến ngõ”, “ nhà nhà sạch, làng làng sạch”. Hệ thống kênh mương được xử lý
theo định kỳ hàng tháng...
12


Nhóm IV

-

QLNN – KHCN – TN&MT

Tổ chức, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất:
Khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, thuế ý thức bảo vệ môi trường.

chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật thong qua việc đóng đầy đủ các
loại thuế, phí và lệ phí nhằm bảo vệ môi trường. Cụ thể: thuế Tài nguyên, thuế
TNDN, thuế TTĐB, lệ phí cấp giấy phép hành nghề chế biến gỗ vá các lâm sản
khác, lệ phí cấp giấy phép khảo sát, thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản, lệ phí
cấp giấy phép sử dụng nguồn nước, phí bảo vệ môi trường, phí kiểm tra vệ sinh thú
y…
Khái niệm “sản xuất sạch hơn” đã được hình thành. Sản xuất sạch hơn thực
hiện các biện pháp đổi mới hoặc cải tiến dây chuyền công nghệ, cải tiến quá trình
quản lý trong quá trình tổ chức sản xuất sao cho nguyên, nhiên vật liệu được sử dụng
một cách có hiệu quả cao hơn, chi phí cho nguyên nhiên vật liệu ngày càng thấp
hơn, các chất phế thải ngày càng ích hơn và sạch hơn.
“Sản xuất sạch hơn” có các nội dung cơ bản :
-

Đối với quá trình sản xuất : đó là việc bảo toàn nguyên liệu, năng lượng, loại


bỏ các chất liệu độc hại, giảm chất thải, giảm độc tính của các dòng thải, giảm chất
thải trước khi chúng ra khỏi quá trình sản xuất
-

Đối với sản phẩm: sản xuất sạch hơn tập trung giảm thiểu tác động môi trường

đối với các sản phẩm từ khâu khai thác cho đến khâu thải bỏ cuối cùng.
-

Đối với dịch vụ: sản xuất sạch hơn đòi hỏi việc sử dụng các cách phòng ngừa

liên quan đến vấn đề thiết kế, lựa chọn tốt hơn cho phát triển dịch vụ.
“Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ thì các bên sử dụng dịch
vụ môi trường rừng phải chi trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ.”
Theo Nghị định, các tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ du lịch có hưởng lợi
từ dịch vụ môi trường rừng sẽ phải trả tiền dịch vụ môi trường rừng tính bằng 1-2%
13


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

trên doanh thu thực hiện trong kỳ. Dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng,
cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên, sử dụng nguồn nước từ rừng
cho nuôi trồng thủy sản. cũng phải trả tiền dịch vụ môi trường”.
Như vậy hầu hết các doanh nghiệp, tổ chức, cơ sở sản xuất đều ý thức được
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong việc tham gia bảo vệ môi trường
Hai là, tác động đến hành vi của người dân, tổ chức:

Mọi người dân từ thành thị cho đến nông thôn đều có ý thức giữ gìn vệ sinh
chung, không xả rác bừa bãi, tố giác các hành vi xâm hại đến môi trường, phá hoại
đến tài nguyên, đồng thời khai thác hợp lý nguồn tài nguyên.
Ví dụ điển hình cho hành vi tố giác của người dân đối với hành vi xâm hại tới
môi trường: sáng 18/8/2003 hơn 250 hộ dân thôn Phú Sơn, xã Hòa Khương, Hòa
Vang, Đà Nẵng đồng loạt kéo đến nhà máy xi măng Cosevco 19 yêu cầu đơn vị này
tạm đóng cửa vì gây ô nhiễm môi trường ( Báo Lao động ngày 19/8/2003).
Hay mới đây là vụ công ty Vedan làm ô nhiễm sông Thị Vải làm thiệt hại cho
hơn 5000 hộ dân sống quanh khu vực sông. Người dân đã lên án, tố cáo buộc công
ty phải bồi thường thiệt hại cho họ và phải ngừng mọi hoạt động khi chưa có hệ
thống xử lý nước nước thải đạt tiêu chuẩn.
Thứ hai: làm thay đổi nhận thức của nhân dân về vai trò của TN-MT đối với cuộc
sống, đối với sự phát triển trên toàn xã hội, giúp họ hiểu được thực trạng của TNMT hiện nay:
Người dân nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của nguồn tài nguyên, ý nghĩa
của hoạt động bảo vệ môi trường không chỉ trong hiện tại mà cho cả tương lai, là
yếu tố quan trọng chi sự phát triển bền vững- định hướng mà bất kỳ quốc gia nào
cũng đặt lên hàng đầu. “Phát triển kinh tế nhanh và bền vững” là mục tiêu mà Đảng

14


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

và Nhà nước ta đã đề ra trong vòng 5 năm tới ( 2010- 2015, trong định hướng chính
trị của Đảng).
Phát triển bền vững = công bằng xã hội + tăng trưởng kinh tế + bảo vệ môi trường

◄Như vậy bảo vệ môi trường là một thành tố quan trọng, là cơ sở cho phát

triển bền vững.
c. Thực tiễn sự tác động của công tác truyền thông:
Giáo dục, truyền thông môi trường: Phổ cập kiến thức nâng cao dân trí qua các
hệ thống thông tin đại chúng có vai trò to lớn trong việc huy động thu phương. Sử
dụng phương tiện thông tin và sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý
môi trường.
Hệ thống tổ chức quản lý môi trường: Xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức
quản lý môi trường từ thành phố đến phường xã. Phân công, phân nhiệm rạch ròi, cụ
thể và thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả. Đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, tài
chính, tập huấn đội ngũ cán bộ bảo vệ môi trường của thành phố bảo đảm đủ mạnh.
Huy động cộng đồng tham gia quản lý về bảo vệ môi trường: Xây dựng cơ chế
để huy động, tập hợp được trí tuệ liên ngành, đoàn kết thu hút sự tham gia tự nguyện
của đông đảo cộng đồng, các tư nhân, hình thành một mặt trận mạnh mẽ, giải quyết
có kết quả, ngăn chặn ô nhiễm suy thoái môi trường tài nguyên, phục hồi các hệ sinh
thái bị xuống cấp. Bên cạnh các tổ chức Nhà nước theo hệ thống chính quyền cần
khuyến khích các tổ chức tư nhân, các cộng đồng phường, làng xã hoạt động theo
phương thức tự nguyện, có sự hỗ trợ của chính quyền. Mạng lưới cộng tác viên có tổ
chức, có trang bị kiến thức, công nghệ chắc chắn sẽ hoạt động tốt, vươn tới những
nơi mà tổ chức chính quyền không với tới được.

15


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

“Nghị quyết số 01/2005/NQLT-HPN-BTNMT về việc phối hợp hành động bảo vệ
môi trường phục vụ phát triển bền vững do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - Bộ
Tài nguyên và Môi trường ban hành”:

Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, giáo dục, vận động phụ nữ tham gia bảo
vệ môi trường gắn các nội dung bảo vệ môi trường với các Chương trình công tác
trọng tâm do Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đề ra.
Đẩy mạnh công tác xây dựng và nhân rộng mô hình phụ nữ tham gia bảo vệ
môi trường ở các cấp Hội, đặc biệt chú trọng ở những nơi có các vấn đề môi trường
bức xúc, đòi hỏi sớm được giải quyết, góp phần phòng, chống ô nhiễm, suy thoái
môi trường, cải thiện môi trường sống và làm việc của cộng đồng.
Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông để trang bị các kiến
thức, kỹ thuật, công nghệ về bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên cho cán bộ Hội các cấp. Tổ chức biên soạn và cung
cấp các tài liệu giáo dục về môi trường phù hợp với đối tượng phụ nữ. Lồng ghép
nội dung giáo dục về môi trường với nội dung giáo dục về giới, sức khoẻ, xoá đói
giảm nghèo và các nội dung công tác của Hội nhằm tăng cường hiệu quả công tác
giáo dục về môi trường.
Xây dựng đội ngũ cộng tác viên, tuyên truyền viên là cán bộ Hội phụ nữ và các
ngành Liên quan có đủ kiến thức và kỹ năng vận động, huy động phụ nữ, cộng đồng
tham gia bảo vệ môi trường.
Tổ chức các hoạt động truyền thông giáo dục bảo vệ môi trường bằng nhiều
hình thức đa dạng, phong phú, thông qua hệ thống thông tin đại chúng của Hội, của
trung ương, địa phương, ngành; tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật và
công nghệ bảo vệ môi trường cho cán bộ Hội phụ nữ các cấp, tuyên truyền viên,
cộng tác viên; chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường;

16


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT


hoạt động hưởng ứng Tuần lễ quốc gia Nước sạch - vệ sinh môi trường (29/ 4 - 06/
5) và ngày Môi trường thế giới (05/6) hàng năm; sinh hoạt Câu lạc bộ phụ nữ bảo vệ
môi trường và các hoạt động truyền thông giáo dục khác nhằm nâng cao ý thức,
trách nhiệm của phụ nữ tham gia bảo vệ môi trường.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện phong trào " Xanh - Sạch - Đẹp " và các hoạt
động khác phù hợp với tình hình, điều kiện từng địa phương, gắn với việc thực hiện
các phong trào " Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sốn văn hoá khu dân cư " do Mặt
trận Tổ quốc Việt nam phát động và phong trào " Phụ nữ tích cực học tập, lao động
sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc ", cùng 6 chương trình công tác trọng tâm do
Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đề ra.
Về tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường: Công tác tuyên
truyền, nâng cao nhận thức và ý thức về bảo vệ môi trường đã được đặc biệt coi
trọng. Các lớp đào tạo, tập huấn ngắn hạn trong nước và nước ngoài về môi trường
đã nâng cao rõ rệt kiến thức và pháp luật về môi trường cũng như kỹ năng quản lý
cho các cấp lãnh đạo, cán bộ quản lý các cấp, các doanh nghiệp và các tổ chức xã
hội.
Các tổ chức với rất nhiều chương trình, hoạt động tuyên truyền, vận động
cộng đồng tham gia. Các hoạt động thường thấy là tổ chức ra quân tổng vệ sinh
đường làng, ngõ xóm, khu vực công cộng định kỳ hằng tháng hoặc hằng quý; ký
cam kết, phát tờ rơi, tổ chức các lớp tập huấn…Ngoài ra, vào các dịp Tết trồng cây,
ngày Môi trường thế giới 5-6 hay Tuần lễ vệ sinh môi trường nước sạch. Từ 29-4
đến 6-5, các địa phương, đoàn thể cũng đều tổ chức mít-tinh kỷ niệm, tuyên truyền,
cổ động trên đường phố…Các nội dung tuyên truyền bảo vệ môi trường được lồng
ghép trong các chương trình hoạt động khác chẳng hạn. Mặt trận Tổ quốc có chương
trình lồng ghép phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” với việc
bảo vệ môi trường,…
17


Nhóm IV


QLNN – KHCN – TN&MT

d. Tồn tại của sự tác động:
Thực tế cho thấy, các hoạt động tuyên truyền, vận động của hệ thống các tổ
chức đoàn thể xã hội chưa thực sự có tác dụng lôi kéo người dân cùng tham gia.
Những nỗ lực cổ động trực quan, những đợt ra quân chưa tạo được sự thay đổi lớn
về nhận thức. Trong khi đó, chưa có chế tài đủ mạnh xử lý nghiêm những trường
hợp vi phạm, đặc biệt là đối với doanh nghiệp. Tâm lý “nhờn” các quy định pháp
luật về bảo vệ môi trường đang diễn ra ở bộ phận không nhỏ người dân.
Sự tham gia của cộng đồng vào bảo vệ môi trường có nhiều lợi ích, không chỉ
tạo thêm nguồn lực tại chỗ cho sự nghiệp bảo vệ môi trường, mà còn là lực lượng
giám sát môi trường nhanh và hiệu quả, giúp các cơ quan quản lý môi trường giải
quyết kịp thời sự cố ô nhiễm môi trường ngay từ khi mới xuất hiện.

III.

NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN TRONG QLNN
VỀ TN-MT

1. Nội dung
- Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong nhân dân nhằm nâng cao
nhận thức của người dân về môi trường, về trách nhiệm bảo vệ môi trường.
- Phổ biến kiến thức pháp luật cho toàn dân: Luật Môi trường, Luật Bảo vệ
môi trường, và các văn bản qui phạm Pháp luật khác về tài nguyên, môi trường,
nhằm nâng cao ý thức tự giác giữ gìn và bảo vệ môi trường là làm đúng theo pháp
luật.
- Tuyên dương, khen thưởng những cá nhân, tập thể có sáng kiến, thành tích
trong hoạt động bảo vệ tài nguyên môi trường.


18


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

- Tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống các biểu hiện sai trái, tiêu
cực, vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường: Doanh nghiệp xả nước,
rác thải trộm ra môi trường, hành vi chặt phá rừng bừa bãi…
- Giới thiệu và nhân rộng các mô hình tiên tiến về quản lý và bảo vệ tài
nguyên và môi trường cho các địa phương học tập và tham quan.
- Tuyên truyền nâng cao tinh thần trách nhiệm, tình cảm của mọi tầng lớp
nhân dân đối với các lực lượng đang làm nhiệm vụ bảo vệ tài nguyên, môi trường
quốc gia: Cảnh sát môi trường, Kiểm lâm…
- Phát động phong trào xây dựng nếp sống văn minh,văn hoá, xanh sạch …
VD: Làng em xanh, sạch, đẹp”, “khu phố sạch đẹp không rác thải”, “tuyến đường
không rác”,
2. Hình thức tuyên truyền
a.

Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng

- Giới thiệu các văn bản qui phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường trên
các phương tiện thông tin đại chúng: truyền hình, báo chí, đài truyền thanh, tạp chí
khoa học…
- Tổ chức các cuộc thi, chương trình tìm hiểu về tài nguyên và môi trường.
- Tổ chức các cuộc tuần hành, ra quân vệ sinh môi trường.
- Xây dựng các bộ phim, phóng sự, bài báo… có nội dung về tuyên truyền bảo
vệ môi trường.

- Xây dựng các câu khẩu hiệu, cổng chào, panô, biểu ngữ, tranh cổ động về môi
trương tại các nơi công cộng có tác động vào nhận thức của người dân.
- Nêu các gương điển hình về cá nhân, tập thể có thành tích trong việc bảo vệ
môi trường để mọi người học tập. Đồng thời đấu tranh lên án những cá nhân, tập thể
19


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

có hành vi huỷ hoại môi trường, phát động “văn hoá tẩy chay” đối với sản phẩm của
các doanh nghiệp có hành vi huỷ hoại môi trường (VD: Công ty Vedan)
b.

Xây dựng đội ngũ tuyên truyền

- Xây dựng đội ngũ tuyên truyền có kiến thức, kĩ năng và tâm huyết.
- Lực lượng thanh niên tình nguyện là lực lượng nòng cốt trong việc tuyên
truyền bảo vệ môi trường đến người thân, gia đình và xã hội.
c.

Thông qua hệ thống giáo dục quốc dân

- Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc dân ở tất cả các
cấp học.
- Tổ chức các buổi ngoại khoá, chuyên đề về đề tài bảo vệ tài nguyên và môi
trường.

20



Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

IV. TỔNG KẾT
Trước những tác động rõ rệt của biến đổi khí hậu ở nước ta những năm gần
đây, chúng ta càng nhận thức được rằng: bảo vệ môt trường, chống biến đổi khí là
nhiệm vụ cấp bách và lâu dài không chỉ của Chính hoặc các cơ quan liên quan, mà
là của tất cả mọi người dân. Để mọi người dân đều có ý thức bảo vệ môi trường thì
chúng ta cần có những biện pháp cụ thể, từng bước để tuyên truyền, giáo dục và
nâng cao, ý thức tự giác của mỗi người. Hiểu được tầm quan trọng của công tác
tuyên truyền, Chính phủ và các cơ quan đã có những biện pháp cụ thể nhằm nâng
cao chất lượng môi trường ở Viêt Nam như:
- Bộ Chính trị (khóa IX) đã ban hành Nghị quyết 41-NQ/TW “Về bảo vệ môi trường
trong thời đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước”
- Luật bảo vệ môi trường năm 2005.
- Luật đa dạng sinh học năm 2008.
- Lần đầu tiên nhóm chỉ tiêu về môi trường đã được xây dựng đưa vào các chỉ tiêu
kinh tế -xã hội 5 năm 2006-2010 và hình thành mục chi ngân sách cho sự nghiệp
21


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

môi trường với mức chi hàng năm không dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước. Lực
lượng cánh sát môi trường đi vào hoạt động.

- Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam thành lập theo Quyết định số 35/2008/QĐ-TTg
ngày 3/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ.
Có thể nói, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường
và cố gắng tạo mọi điều kiện để công tác bảo vệ môi trường cũng như hoạt động
tuyên truyền đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, môi trường ở Việt Nam chưa có những
chuyển biến rõ rệt. Để công tác bảo vệ môi trường đạt hiệu quả cao thì ý thức của
người dân về bảo vệ môi trường phải được nâng cao. Vì thế, công tác tuyên truyền
đóng vai trò quan trọng nhất. Ngay trong Nghị quyết 41-NQ/TW, Bộ Chính trị cũng
xác định: “Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm, ý
thức bảo vệ môi trường. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong
tuyên truyền về bảo vệ môi trường; đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền,
làm cho nhân dân hiểu rõ hậu quả trước mắt cũng như lâu dài của ô nhiễm môi
trường và biến đổi khí hậu đối với sức khỏe con người, đời sống xã hội và sự phát
triển bền vững của đất nước”.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền ở Việt Nam hiện nay chưa đạt được hiệu quả
cao. Các chiến dịch truyền thông nhân “Tuần lễ Quốc gia về Nước sạch và vệ sinh
môi trường”, “Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn” thường chỉ diễn ra theo đợt chứ
không thường xuyên, nên không tạo sự lan rộng trong ý thức cộng đồng. Những
cuộc đi bộ, đi xe đạp vì môi trường diễn ra rất rầm rộ, nhưng sau đó thì không có gi
thay đổi không khí vẫn cứ bụi, đường phố vẫn đầy rác, người dân vẫn dùng bao
nylon, nhà máy vẫn cứ xả nước thải chưa qua xử lý ra môi trường tự nhiên… Còn
trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam, Bảo vệ môi trường chưa được xem là một môn

22


Nhóm IV


QLNN – KHCN – TN&MT

học, mà mới chỉ được đem vào một số tiết học ngoại khóa, trong khi các quốc gia
khác, môn học môi trường có ở mọi cấp học.
Để công tác tuyên truyền bảo vệ môi trường ở Việt Nam đạt hiệu quả, chúng
ta cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Nghiên cứu kĩ các đối tượng giáo dục (trình độ, nghề nghiệp, môi trường
sống...) để lựa chọn phương pháp tuyên truyền, giáo dục cho phù hợp.
- Lập kế hoạch giáo dục thống nhất từ cấp trên xuống cấp dưới để phối hợp
nhịp nhàng, hiệu quả.
- Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, giáo dục để tạo ra sự linh hoạt về
không gian và thời gian tiến hành công tác giáo dục.
- Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng trong tuyên truyền những kiến
thức về môi trường tự nhiên
- Trong công tác giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho dân cư, cần đặc biệt
chú trọng tới đối tượng học sinh, sinh viên. Cụ thể, trong nhà trường nên lồng
ghép nội dung bảo vệ môi trườngvào các giờ học một số môn khoa học tự
nhiên và cả một số môn khoa học xã hội, đồng thời chuẩn bị các tranh, ảnh áp
phích, tờ rơi,… có nội dung về môi trường để giờ học thêm sinh động. Ngoài
ra có thể tổ chức các cuộc thi vẽ, thơ, nhạc, ca dao về nội dung bảo vệ môi
trường. Bên cạnh truyền đạt lý thuyết cần tổ chức cho học sinh tham quan
những mô hình khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên không hợp lý, không
bền vững cũng như các mô hình thân thiện với môi trường có tác dụng tích
cực đến quá trình phát triển bền vững. Tạo điều kiện cho các em tham gia các
hoạt động bảo vệ môi trường như trồng, chăm sóc, bảo vệ vườn cây trong
trường, ngoài đường phố, trong công viên... Đây là những việc làm giúp các
em tiếp cận thực tiễn, gợi ra các hành vi tốt, xây dựng đạo lý, ý thức trách
nhiệm với môi trường tự nhiên, đồng thời giúp chúng biết phân tích, xử lý

23



Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

thông tin, vận dụng tri thức vào các hành động thân thiện với môi trường ở
ngay tại nơi mình sống.
- Trong nhà trường, đặc biệt là tiểu học, cần lồng ghép vào bài giảng về ý thức
bảo vệ môi trường. Để đạt hiệu quả cao, thầy cô cần là những người đi tiên
phong, làm gương và khuyến khích học trò trong việc bảo vệ môi trường bằng
những việc làm nhỏ nhặt nhưng rất ý nghĩa như: tiết kiệm điện, giấy, nước
sạch, không vứt rác bừa bãi.
- Các phong trào như hưởng ứng ngày Môi trường thế giới hay Tết trồng cây
cần được duy trì xuyên suốt.
- Tổ chức các đội thanh niên vận động hộ gia đình ở từng địa bàn tham gia ký
cam kết chung tay bảo vệ môi trường xanh- sạch- đẹp.
- Bên cạnh các hoạt động truyền thông gây ấn tượng mạnh, cần chú trọng các
thông tin sâu có tính ứng dụng cao, gắn với nhu cầu cụ thể của từng đối tượng
ở từng địa bàn. Ngoài ra, cần chú trọng phát triển các kênh thông tin môi
trường theo hướng đa dạng, đa chiều.
- Thực hiện tốt công tác trồng và bảo vệ rừng. Khoáng đất rừng cho người dân,
gắn lợi ích của họ với rừng để họ có ý thức phải bảo vệ nguồn lợi ích của
mình.
Ngoài những biện pháp trong công tác tuyên truyền, chúng ta cần thực hiện một số
biện pháp khác để hoạt động bảo vệ môi trường đạt hiệu quả:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Trước mắt tập trung xây
dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường; xây
dựng Luật Đa dạng sinh học và các văn bản hướng dẫn thi hành; xây dựng các định

mức kinh tế, kỹ thuật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; từng bước hoàn thiện cơ
chế, chính sách thúc đẩy xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển dịch vụ
môi trường; nhanh chóng triển khai trong thực tế các công cụ kinh tế trong quản lý
môi trường như phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn, phí bảo vệ môi trường
24


Nhóm IV

QLNN – KHCN – TN&MT

đối với khí thải, các hình thức đặt cọc, ký quĩ môi trường; nâng cao hiệu quả và từng
bước mở rộng phạm vi hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường quốc gia và thành lập
các Quỹ Bảo vệ môi trường các địa phương.
Thứ hai, kiện toàn và tăng cường hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước
về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến cơ sở; chú trọng phát triển tổ chức quản lý
môi trường ở các Tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty nhà nước, các Ban Quản lý
khu kinh tế, khu công nghiệp và khu chế xuất. Phát triển các tổ chức sự nghiệp môi
trường và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Thứ ba, nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hóa bảo vệ môi trường của các
Bộ, ngành và địa phương, cải tiến cơ chế tài chính nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn chi cho sự nghiệp môi trường; bảo đảm chi đủ và chi đúng, mức chi hàng năm
tăng theo tốc độ phát triển kinh tế. Xã hội hóa mạnh mẽ các nguồn đầu tư cho bảo vệ
môi trường. Tăng tỷ lệ đầu tư cho môi trường từ nguồn vốn đầu tư phát triển và vốn
ODA.
Thứ tư, phát huy vai trò chủ động, tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức đoàn thể các cấp, các tổ chức quần chúng, cộng đồng dân cư trong việc tham
gia và giám sát công tác bảo vệ môi trường; đa dạng hóa các loại hình hoạt động bảo
vệ môi trường, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thực
hiện các dịch vụ bảo vệ môi trường.

Thứ năm, đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng luận cứ khoa học và thực tiễn phục
vụ công tác hoạch định chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi
trường; nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ môi trường, công nghệ
sạch, thân thiện môi trường, phát triển các công nghệ xử lý và tái chế, tái sử dụng
chất thải; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong bảo vệ môi trường; xây
dựng và nhân rộng các mô hình về sản xuất sạch hơn, các mô hình bảo vệ môi
trường tiên tiến.
25


×