MỤC LỤC
MỤC LỤC i
PHẦN 1: ĐẶT VẦN ĐỀ 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu cụ thể 2
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1 Lý thuyết về quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng 3
2.2 Chuyển biến quản lý tài nguyên trên phá Tam Giang 4
2.2.1 Việc quản lý trước khi có chi hội nghề cá 4
2.2.2 Quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng 5
2.3. Xây dựng đồng quản lý thủy sản 7
2.3.1 Khái niệm ĐQL 7
2.3.2 Xây dựng tổ chức cộng đồng trong ĐQL 7
2.3.3 Sự hình thành và phát triển của hội nghề cá tỉnh Thừa Thiên Huế. .9
PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 11
3.1 Đối tượng nghiên cứu 11
3.2 Phạm vi nghiên cứu 11
3.3 Nội dung nghiên cứu 11
3.4 Phương pháp nghiên cứu 13
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 15
4.1 Đặc điểm kinh tế xã hội vùng nghiên cứu 15
4.1.1 Đặc điểm cộng đồng thủy sản tại vùng nghiên cứu 15
4.1.2 Đặc điểm của hộ khảo sát 18
4.2 Hiện trạng quản lý và sử dụng tài nguyên đầm phá 21
4.2.1 Đặc điểm tài nguyên và phân vùng quản lý và sử dụng 21
4.2.2 Hoạt động khai thác thủy sản 22
4.2.2 Hoạt động nuôi trồng thủy sản 23
4.4 Quá trình cải tiến quản lý tài nguyên và xây dựng đồng quản lý 27
Bảng 7 : Đánh giá các hoạt động XD ĐQL tại Hương Phong 27
4.4.1 Công tác xây dựng chi hội 28
4.4.2 Phân vùng quy hoạch quản lý thủy sản có sự tham gia của cộng
động 29
4.4.3 Xây dựng quy chế bảo vệ thủy sản dựa vào cộng đồng 30
4.4.4 Trao quyền 32
4.4.5 Đăng ký nghề, thu phí quản lý ngư cụ mắt lưới 33
4.4.6 Công tác tuyên truyền, giải quyết xung đột 34
2.4.7 Sự tham gia của cộng đồng vào quản lý 34
i
4.5 Hoạt động và vai trò của chi hội nghề cá trong việc tiến hành KT và
NTTS dựa vào cộng đồng 35
4.5.1 Quá trình hình thành và phát triển của chi hội 35
4.5.2 Các hoạt động của chi hội 38
4.5. 3 Đánh giá của hội viên về chi hội 41
4.6 Đánh giá kết quả cải tiến quản lý 45
4.6.1 Kết quả nuôi trồng thủy sản qua các năm 45
4.6.2 Kết quả khai thác thủy sản và bảo vệ sản xuất 48
4.7 Kết quả của việc quản lý dựa vào cộng đồng đối với việc cải thiện sinh
kế người dân và môi trường thủy sản 49
4.7.1 Thay đổi về sinh kế và thu nhập của hộ 49
4.7.2 Thay đổi về môi trường , tài nguyên thiên nhiên 54
PHẦN 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 56
5.1 Kết luận 56
5.2 Kiến nghi 57
ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Thông tin hiện trạng sử dụng đất xã Hương Phong 16
Bảng 2: Tình hình dân số và lao động tại Hương Phong 17
Bảng 3: Đặc điểm cơ bản của hộ sản xuất thủy sản thôn VQĐ 19
Bảng 4: Tài nguyên và phân vùng quản lý 21
Bảng 5: Hoạt động KTTS mấy năm gần đây 23
Bảng 6: Hoạt động nuôi trồng thủy sản 24
Bảng 7 : Đánh giá các hoạt động XD ĐQL tại Hương Phong 27
Sơ đồ 1: Tổ chức chi hội 29
Bảng 8: Dự kiến phân vùng tại VQĐ 30
Hộp số 1: Quy định của chi hội: 31
Hộp số 2: Xử lý vi phạm quy chế 31
Bảng 9: Sự hiểu biết của hội viên về các hoạt động của chi hội 35
Bảng 10: Tình hình phát triển chi hội Nghề cá Đông Phong ở Hương Phong36
Hộp số 3:Mục tiêu của chi hội 37
Hộp số 4 :Nguồn thu của hội 41
Bảng 11: Đánh giá tầm quan trọng của các hoạt động của chi hội 42
Bảng 12: Đánh giá kết quả thực hiện của hội viên 44
Bảng 13: Tiến trình nuôi xen ghép 46
Bảng 14: Kết quả Hoạt động Nuôi trồng TS tại thôn VQĐ 46
Hộp số 5: Nguyên nhân không nuôi chuyên tôm nữa 47
Bảng 15 : Sự thay đổi trong hoạt động khai thác tự nhiên của hộ 48
Bảng 16: Nguồn thu và mức thu nhập của hộ 50
Bảng 17 : Sự thay đổi sinh kế của hội viên 51
Bảng 18 : Nguyên nhân sinh kế người dân thay đổi 52
Bảng 19: Thu nhập của hộ khai thác và hộ nuôi trồng 52
Hộp số 6: Giá bán các loại tôm cá 53
Hộp số 7: Ý kiến về nuôi xen ghép 53
Hộp số 8: Chi phí ngư cụ 53
Bảng 20: Sự thay đổi môi trường đầm phá 54
Hộp số 9: Ý kiến người dân về vấn đề môi trường 55
iii
DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ HỘP
Bảng 1: Thông tin hiện trạng sử dụng đất xã Hương Phong 16
Bảng 2: Tình hình dân số và lao động tại Hương Phong 17
Bảng 3: Đặc điểm cơ bản của hộ sản xuất thủy sản thôn VQĐ 19
Bảng 4: Tài nguyên và phân vùng quản lý 21
Bảng 5: Hoạt động KTTS mấy năm gần đây 23
Bảng 6: Hoạt động nuôi trồng thủy sản 24
Bảng 7 : Đánh giá các hoạt động XD ĐQL tại Hương Phong 27
Sơ đồ 1: Tổ chức chi hội 29
Bảng 8: Dự kiến phân vùng tại VQĐ 30
Hộp số 1: Quy định của chi hội: 31
Hộp số 2: Xử lý vi phạm quy chế 31
Bảng 9: Sự hiểu biết của hội viên về các hoạt động của chi hội 35
Bảng 10: Tình hình phát triển chi hội Nghề cá Đông Phong ở Hương Phong36
Hộp số 3:Mục tiêu của chi hội 37
Hộp số 4 :Nguồn thu của hội 41
Bảng 11: Đánh giá tầm quan trọng của các hoạt động của chi hội 42
Bảng 12: Đánh giá kết quả thực hiện của hội viên 44
Bảng 13: Tiến trình nuôi xen ghép 46
Bảng 14: Kết quả Hoạt động Nuôi trồng TS tại thôn VQĐ 46
Hộp số 5: Nguyên nhân không nuôi chuyên tôm nữa 47
Bảng 15 : Sự thay đổi trong hoạt động khai thác tự nhiên của hộ 48
Bảng 16: Nguồn thu và mức thu nhập của hộ 50
Bảng 17 : Sự thay đổi sinh kế của hội viên 51
Bảng 18 : Nguyên nhân sinh kế người dân thay đổi 52
Bảng 19: Thu nhập của hộ khai thác và hộ nuôi trồng 52
Hộp số 6: Giá bán các loại tôm cá 53
Hộp số 7: Ý kiến về nuôi xen ghép 53
Hộp số 8: Chi phí ngư cụ 53
Bảng 20: Sự thay đổi môi trường đầm phá 54
Hộp số 9: Ý kiến người dân về vấn đề môi trường 55
iv
PHẦN 1: ĐẶT VẦN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài.
Đầm phá Tam Giang- Cầu Hai là vùng đầm phá lớn nhất khu vực Đông
Nam Á với tổng diện tích gần 22,000 ha chạy qua 5 huyện với 31 xã và thị
trấn của tỉnh Thừa Thiên Huế. Phá Tam Giang nổi tiếng về nguồn lợi thủy sản
phong phú nó được xem là một bảo tàng về sinh học với sự đa dạng về nguồn
gen của cả động vật và thực vật. Đây là nguồn sống của hơn 30,000 dân cư
ven phá và là một vùng kinh tế đang phát triển mạnh của tỉnh Thừa Thiên
Huế. Tài nguyên đầm phá là vô vùng phong phú nhưng vì đây là tài sản dung
chung nên ý thức bảo vệ nguồn lợi này của người dân còn rất nhiều hạn chế
khai thác qua mức làm tài nguyên cạn kiệt ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế
cộng đồng của người dân sống ven phá.
Cùng với sự gia tăng dân số, số người tham gia và số lượng ngư cụ sử
dụng nhằm khai thác tài nguyên thủy sản ngày một gia tăng. Để sinh tồn,
những hộ tham gia khai thác cạnh tranh với nhau một cách tối đa nhằm gia
tăng khả năng tiếp cận và thu hoạch tài nguyên. Việc tiếp cận tài nguyên thủy
sản một cách tự do là nguyên nhân chính dẫn đến suy thoái tài nguyên
(Acheson, 2006; Njaya). Sự suy thoái này đã và đang diễn ra trên toàn đầm
phá Tam Giang với tốc độ ngày càng nhanh. Do đó, ảnh hưởng nghiêm trọng
và gây ra những tác động tiêu cực đến sinh kế người dân nơi đây. Nhiều hộ
khai thác và nuôi trồng lâm vào cảnh nghèo đói, nợ nần chồng chất (IMOLA,
2006b)
Ngoài ra, với sự quản lý và quy hoạch của nhà nước không chặt chẽ, rõ
ràng đã dẫn tới việc phát triển nuôi trồng thủy sản ồ ạt, thiếu quy hoạch đã
gây nên dịch bệnh, ô nhiễm môi trường nuôi nghiêm trọng và làm cho việc
nuôi trồng thủy sản luôn dẫn tới thua lỗ, đời sống người dân ngày càng bấp
bênh, nợ nần người dân ngày càng chồng chất.
Trước thực trạng đó thì chính quyền nhà nước đã đưa ra quyết định
quản lý khai thác và nuôi trồng thủy sản mới là quản lý khai thác và nuôi
trồng thủy sản dựa vào cộng đồng .Quy định này nhằm giảm nhẹ chi phí quản
lý cho nhà nước, phát huy tinh thần tự bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của cộng
đồng người dân sống ven phá.
1
Để thực hiện quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng thì tổ chức chi hội
nghề cá cơ sở được ra đời. Đó là tổ chức đại diện cho cộng đồng để cùng với
nhà nước quản lý khai thác và nuôi trồng thủy sản trên địa bàn.Với cách quản
lý này thì người dân, những người hưởng lợi trực tiếp từ tài nguyên trực tiếp
quản lý tài nguyên đần phá thông qua tổ chứa của họ là chi hội nghề cá. Chi
hội nghề cá là cơ quan đại diện người dân trong các hoạt động quản lý cộng
đồng, phối hợp và chủ trì thực hiện các hoạt động về quản lý đầm phá như ra
quy chế điều lệ về quản lý khai thác và sử dụng tài nguyên, tiến hành phối
hợp với các cơ quan tổ chức quy hoạch lại các vùng nuôi trồng và khai thác,
các vùng chức năng của đàm phá, tập huấn, phát triển các mô hình nuôi hợp
lý trên địa bàn… Chính vì vậy chi hội là một mắt xích quan trọng trong quản
lý, bảo vệ, phát triển và sư dụng đầm phá một cách bền vững. Vì vậy chi hội
nghề cá đóng vai trò là đối tác chính trong công tác quản lý khai thác và nuôi
trồng thủy sản dựa vào cộng đồng tại xã. Việc nghiên cứu vai trò của chi hội
trong quản lý giúp cho việc tiếp tục xây dựng mô hình quản lý dựa vào dân
ngày càng hoàn thiện.
Chính vì thế chúng tôi chọn đề tài:” Tìm Hiểu Vai Trò Của Chi Hội
Nghề Cá Trong Quản lý Khai Thác Và Nuôi Trồng Thủy Sản Dựa Vào
Cộng Đồng” Trường hợp nghiên cứu tại xã Hương Phong, huyện Hương Trà,
tỉnh Thừa Thiên Huế một xã bãi ngang nằm ven phá Tam Giang, nơi có chi
hội nghề cá Đông Phong được hình thành và phát triển trong những năm gần
đây.
1.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu thực trạng và thay đổi trong hoạt động khai thác thủy sản
và nuôi trồng thủy sản tại Vân Quật Đông, xã Hương Phong - TTH
- Tìm hiểu và đánh giá cải tiến quản lý khai thác thủy sản và nuôi
trồng thủy sản theo hướng dựa vào cộng đồng củng như vai trò của
chi hội nghề cá trong thực hiện các cải tiến đó
- Đánh giá kết quả thực hiện cải tiến quản lý tài nguyên đối với sản
xuất thủy sản và cải thiện sinh kế người dân
2
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Lý thuyết về quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng
* Khái niệm:
Đồng quản lý là một khái niệm rộng bao gồm nhiều phương thức quản
lý có người sử dụng hay chủ tài nguyên tham gia vào quá trình quản lý. [7]
Quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng đó là cách quả lý mà mọi
thành viên cộng đồng đều được tham gia vào quá trình phân tích đánh giá
thực trạng, xác địh nguyên nhân và hình thành giải pháp để phát huy mọi
nguồn lực của địa phương cho bảo vệ, phát triển và sử dụng tối đa các nguồn
tài nguyên thiên nhiên vì sự phồn thịnh của mỗi gia đình và cộng đồng. [3]
Các nguyên tắc trong xây dựng quản lý tài nguyên dựa vào cộng
đồng
* Tăng quyền lực:
Sự tang quyền lực là sự phát triển của sức mạnh (quyền lực) thực
hiện việc kiểm soát quản lý nguồn tài nguyên và thể chế để nâng cao thu nhập
đảm bảo sử dụng bền vưng nguồn tài nguyên mà các cộng đồng phụ thuộc.
Việc này thường được thực hiện với những cơ quan chính thức của chính phủ
Bằng việc tăng cường sự kiểm soát và tiếp cận của cộng đồng
đối với các nguồn tài nguyên sẽ tạo ra cơ hội tích lũy lợi ích kinh tế địa
phương. Các tổ chức dựa vào cộng đồng quản lý tốt nguồn tài nguyên cũng có
thể được công nhận như những người cộng tác hợp pháp trong việc quản lý
tài nguyên. Sự tăng quyền lực cũng có nghĩa là xây dựng nguồn nhân lực và
khả năng của cộng đồng để quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên của họ theo
cách bền vững.
* Sự công bằng
Nguyên tắc công bằng gắn liền với nguyên tắc tăng quyền lực.
Sự công bằng có nghĩa là sự bình dẳng giữa mọi người và mọi tầng lớp đối
với những cơ hội. Tính công bằng chỉ có thể đạt được khi những người là đối
tượng thiệt thòi trong cộng đồng cũng có quyền tiếp cận bình đẳng đối với
những cơ hội tồn tại để phát triển bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên
3
* Phát triển bền vững
Quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng thúc đẩy kỹ thuật và thực hành
không chỉ để phù hợp với nhu cầu về kinh tế, xã hội, văn hóa, của cộng đồng
mà còn là hợp lý cề mặt sinh thái. Do đó những kỹ thuật phải thừa nhận sức
chịu đựng và tiếp thu của nguồn tài nguyên và hệ sinh thái
Sự phát triển bền vững có nghĩa là phải cân nhắc nghiên cứu trạng thái
và bản chất của môi trường
2.2 Chuyển biến quản lý tài nguyên trên phá Tam Giang
2.2.1 Việc quản lý trước khi có chi hội nghề cá
Trước khi có chi hội nghề cá, hoạt động quản lý đầm phá có sự thay đổi
qua từng thời kỳ lịch sử khác nhau
Theo Nguyễn Quang Vinh Bình, 1999, trong thời lỳ phong kiến triều
đình giao cho các vạn chài quản lý những thủy vực, dựa trên các đơn vị nghề
nghiệp và xác nhận quyền sử dụng tào nguyên có thu thuế. Vạn chài quản lý
trên các lĩnh vực: quản lý ngư dân (hành vi, ứng xử) quản lý sản xuất, quản lý
cộng đồng và quản lý nguồn lợi thủy sản.
Theo Nguyễn Quang Vinh Bình, 2005, chính quyền thuộc địa Pháp
cũng như chế độ Mỹ- Ngụy ở miền Nam trước năm 1975 hầu như bảo lưu
phương cách quản lý mặt nước Thừa Thiên Huế từ thời phong kiến dựa vào
các vạn chài[4]
Thời kỳ tập thể hóa (1975-1989) Phong trào tập thể hóa toàn quốc được
thực thi trên đầm phá.Ngư dân được tổ chức thành đội hoặc tập đoàn ngư
nghiệp (tương đương với hợp tác xã nông nghiệp). Các khu vực đầm phá
được giao cho các hợp tác xã quản lý
Thời kỳ từ năm 1989 cho tới nay tài nguyên đầm phá do nhà nước quản
lý thông qua các đơn vị hành chính như thôn đội…và các HTX ngư nghiệp
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, hình thức quản lí Vạn bị tan rã,
sau một thời gian dài thì được sự chỉ đạo UBND xã thành lập ra 2 HTX ngư
nghiệp ở 2 thôn trên địa bàn xã . Hình thức quản lí: được sự chỉ đạo của
UBND xã bầu ra gồm có chủ nhiệm, phó chủ nhiệm và thư kí…quản lí các hộ
gia đình làm ngư nghiệp. Luật quản lí: luật của đội do UBND xã đưa ra và
truyền về cho trưởng đội vá trưởng đội có nhiệm vụ thông báo, bắt buộc các
4
thành viên trong đội phải chấp hành nghiêm túc. Mỗi hộ gia đình phải đóng
thuế, một năm đóng 150 nghìn đồng và được chia làm hai kì để đóng. Ông đội
trưởng là người thu thuế và đóng góp lên cho xã. Những ai không nộp thuế thì
bị thu nốt đò, thu lưới và không cho làm nghề. Khu vực đánh bắt đươc phân
chia cho từng hộ gia đình (chủ yếu là các hộ nghề Nò sáo) không một ai có
quyền lấn chiếm. Đưa ra các hình thức như sau: khi vi phạm lần 1 thì bị cảnh
cáo, lần 2 đem vào UBND xã để giải quyết.
2.2.2 Quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng
Hoạt động quản lý tài nguyên dự vào cộng đồng ở đầm phá tam giang
cầu hai bao gồm các hoạt động sau:
* Phân vùng quy hoạch quản lý nguồn lợi đầm phá (quyết định của
UBND tỉnh số 3677/QD_UB ngày 25/10/2004)
* Phân vùng quy hoạch tổng thể hệ đầm phá quy vùng quy hoạch tổng
thể chia vùng đầm phá cho khai thác thủy sản thành 3 khu vực: vùng nhạy
cảm dặc biệt, vùng nhạy cảm, và vùng bình thường. Vùng nhạy cảm là vùng
có bãi giống bãi đẻ của các loài thủy sản, vùng cỏ biển, vùng chim nước, và
vùng có cây ngập mặn. Việc phân vùng quy hoạch này cụ thể hóa thới hạn
cấp phép khai thác thủy sản ở các vùng, đồng thời ngăn chặn việc giao quyền
sử dụng đất “lấn phá” đối với các khu đất ven phá có thể làm cạn nà cản trở
dòng chảy ở đầm phá…
* Phân vùng quy hoạch ở các địa phương (Huyện và Xã)
Phân vùng quy hoạch sử dụng đầm phá cũng đã được thực hiện ở tất
cả các địa phương (5 Huyện và 33 Xã, Thị trấn). Quy hoạch cấp huyện chủ
yếu là ban hành các chỉ tiêu và hướng dẫn phân vùng cho các xã dựa vào diện
tích mặt nước đầm phá theo lãnh thổ, hiện trạng sử dụng mặt nước và chính
sách của tỉnh. Các xã dựa vào chí tiêu và hướng dẫn của huyện đã tiến hành
thực hiện phân vùng mặt nước đầm phá của xã cho các mục tiêu sử dụng và
quản lý.
* Phân vùng quy hoạch chi tiết trong các tiểu vùng đầm phá.
Quy hoạch chi tiết trong các tiểu vùng mặt nước đầm phá do UBND xã
chỉ đạo và hỗ trợ pháp lý. Thôn và các nhóm hộ sử dụng nguồn lợi (nhóm
5
nuôi trồng, nhóm nò sáo…) trực tiếp thực hiện quy hoạch dựa vào hiện trạng
và đồng thuận giữa các thành viên nhóm.
* Quản lý chủng loại, số lượng và mắt lưới ngư cụ.
Quy định về chủng loại và số lượng ngư cụ không chỉ được thực hiện
trong quy hoạch tổng thể mà còn được UBND tỉnh và huyện ban hành qua các
thời điểm khác nhau. Quy định về chủng loại và số lượng ngư cụ cố định đang
hướng tới mục tiêu giảm quy mô và cường độ khai thác thủy sản, giải quyết vấn
đề khai thác quá mức. Tại các thời điểm ban hành, UBND tỉnh ban hành các chỉ
tiêu điều chỉnh (giảm) chủng loại và số lượng ngư cụ cố định cho các huyện.
Huyện dựa vào chỉ tiêu này để ban hành chỉ tiêu điều chỉnh số lượng và quy mô
ngư cụ tại các xã. Xã tổ chức thực hiện điều chỉnh số lượng và quy mô ngư cụ
thông qua việc sắp xếp lại khai thác do các nhóm đề xuất theo hướng chia sẻ
trong cộng đồng.
Tuy nhiên quy hoạch tổng thể cũng quy định các hoạt động thủy sản
quy mô nhỏ (bao gồm câu cá, chài, lưới bạc với chiều dài của lưới dưới 50m,
chơm cá, bắt sò, cua, ốc bằng tay) và thủy sản giải trí (du lịch) không bị hạn
chế trong quy định về quyền đánh bắt. Có thể nói, việc kiểm soát (giảm)
chủng loại và quy mô khai thác thủy sản bằng ngư cụ cố định chưa được quan
tâm đúng mức. Vì vậy, khai thác di động vẫn là hoạt động tiếp cận mở.
* Kiểm soát khai thác hủy diệt.
Hoạt động này có cơ quan chuyên trách là Chi cục Bảo vệ nguồn lợi
thủy sản. Chi cục đề xuất UBND Tỉnh ban hành Quy chế bảo vệ nguồn lợi
thủy sản gồm: các hoạt động bị cấm, quy định mắt lưới, các quy định liên
quan khác và quy định về các hoạt động tuần tra bảo vệ, bắt và xử lý các hộ vi
phạm. Quy chế này đồng thời xem xét các vùng không được đánh bắt, hoặc bị
cấm trong một thời gian. Chi Cục Bảo vệ nguồn lợi tổ chức mạng lưới thanh
tra chuyên ngành, tuần tra và xử lý vi phạm. UBND huyện và xã tổ chức hoạt
động tuần tra bảo vệ nguồn lợi định kỳ trong vùng lãnh thổ. Các cộng đồng và
tổ chức ngư dân có vai trò giám sát và tổ chức tuần tra bảo vệ nguồn lợi
thường xuyên tại các tiểu vùng.
* Xung đột và giải quyết xung đột.
6
Xung đột là vấn đề phổ biến và có thể xảy giữa ngư dân với nhau; giữa
ngư dân và các nghề khác như NTTS và nông nghiệp. Xung đột ngư dân
thường phát sinh do (i) tranh chấp diện tích hoặc vùng đánh bắt, và (ii) nhiều
người dùng nhiều loại ngư cụ khác nhau (như nò sáo và lưới bén), nhưng chủ
yếu vẫn là giữa ngư dân dùng ngư cụ hợp pháp và ngư dân dùng ngư cụ bất
hợp pháp và mang tính huỷ diệt. Xung đột càng dễ xảy ra hơn giữa người trong
xã và người ngoài xã.
Giải quyết xung đột được đề cập trong các quy định khác nhau. Hầu hết
chức năng trực tiếp giải quyết xung đột do thôn, nhóm tự quản và chi hội
nghề cá đảm nhận thông qua hòa giải và vận động. UBND xã là cơ quan nhà
nước trực tiếp xử lý tranh chấp. Xã ban hành các quy định pháp lý do cộng
đồng xây dựng để giải quyết tranh chấp tại địa phương. Các tranh chấp không
xử lý được theo phương thức hòa giải được chuyển đến các cấp có thẩm
quyền giải quyết theo các luật dân sự hiện hành.[8]
2.3. Xây dựng đồng quản lý thủy sản
2.3.1 Khái niệm ĐQL
Đồng quản lý là một khái niệm rộng bao gồm nhiều phương thức quản
lý có người sử dụng hay chủ tài nguyên tham gia vào quá trình quản lý. [7]
Theo Sen và Nielsen (1996) định nghĩa đồng quản lý là một sự sắp xếp
có sự chia sẻ về mặt sức mạnh cũng như quyền lực nhằm quản lý nguồn lợi
thuỷ sản giữa các nhóm người sử dụng nguồn lợi và chính quyền
2.3.2 Xây dựng tổ chức cộng đồng trong ĐQL
* Cơ sở pháp lý
Hoạt động quản lý tài nguyên của chi hội nghề cá là một nội dung của
quản lý nghề cá dựa vào dân. Thể chế quản lý nghề cá dựa vào dân được ghi
nhận đầu tiên tại quyết định số 3677/QĐ-UB ngày 25/10/2004 của UBND
tỉnh Thừa Thiên Huế, về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể quản lý khai thác
thủy sản vùng đầm phá Thừa Thiên Huế đến năm 2010. Điểm 8 trong điều 1
quy định rõ: “Phát triển hệ thống Nghề cá dựa vào cộng đồng để giảm nhẹ
chi phí quản lý Nhà Nước, đồng thời phát huy tính dân chủ cơ sở ở các tổ
chức ngư dân trong việc tự quản ngư trường, nguồn lợi thuỷ sản, môi trường
thuỷ sinh và các lĩnh vực liên quan như: giao thông thuỷ, phòng chống lụt
bảo, cứu hộ cứu nạn… Tổ chức ngư dân các cấp nằm trong hệ thống Nghề cá
7
Việt Nam là đối tác chính để chính quyền phối hợp quản lý khai thác thuỷ sản
nói riêng và quản lý Nghề cá nói chung trên đầm phá Thừa Thiên Huế ” [5]
Sau đó, thể chế dựa vào dân để quản lý nghề cá được kiện toàn hơn tại
“ Quy chế quản lý khai thác thuỷ sản đầm phá Thừa Thiên Huế ”, ban hành
kèm theo quyết định số 4260/2005/QD-UB ngày 19/12/2005 của UBND tỉnh
Thừa Thiên Huế [6]. Trong “Quy chế”, tổ chức ngư dân cấp cơ sở được chỉ
định là tổ chức xã hội - nghề nghiệp; cụ thể: “là chi hội Nghề cá thuộc hệ
thống Hội Nghề cá Việt Nam” (điều 4). Quy chế quy định cơ chế phân quyền
cho ngư dân: “Chi hội Nghề cá cấp cơ sở có thể được Nhà Nước uỷ quyền
quản lý nguồn lợi thuỷ sản trên một thuỷ vực nhất định. Trên cơ sở đó, Chi
hội Nghề cá tự chủ điều phối các hoạt động khai thác thuỷ sản của các thành
viên một cách sang tạo, phù hợp, đảm bảo lợi ích hài hoà cho từng thành viên
trong lợi ích chung của Tổ chức và toàn xã hội” (điều 5). Việc tái sắp xếp ngư
trường cũng được chỉ rõ: “Chi hội Nghề cá có thể sắp xếp lại ngư trường một
cách chủ động, sáng tạo trên cơ sở bảo lưu các khu vực đánh cá truyền
thống của cá nhân, hộ gia đình thành viên, phù hợp với quy hoạch chung của
Nhà Nước và hiệu quả của cộng đồng” (điều 6). Về giải quyết mâu thuẫn nội
bộ, Nhà Nước giao rõ trách nhiệm ban đầu: “Chi hội Nghề cá cấp cơ sở có
trách nhiệm hoà giải các tranh chấp về ngư trường, nguồn lợi giữa các cá
nhân, hộ gia đình trong tổ chức mình. Chỉ khi nào không thể hoà giải được
mới đưa đến chính quyền giải quyết” (điều 8). Các quy định nội bộ của cộng
đồng như hương ước cũng được xem là nhiệm vụ của tổ chức ngư dân: “Nhà
Nước khuyến khích Chi hội Nghề cá cấp cơ sở xây dựng “quy chế tự quản”
trên cơ sở pháp luật Nhà Nước, để cụ thể, chi tiết hoá các quy định của cộng
đồng, nhằm bảo vệ ngư trường, nguồn lợi thuỷ sản và một số vấn đề có liên
quan: môi trường vùng nước, giao thông thuỷ nội địa, quản lý thuế khai thác
thuỷ sản… ” ( điều 11).
Kế hoạch quản lý của Tỉnh Thừa Thiên Huế là giao vùng mặt nước cho
các Chi hội Nghề cá cấp cơ sở khai thác, nuôi trồng trong thuỷ vực để cộng
đồng chủ động cùng nhau quản lý. “UBND Tỉnh uỷ quyền cho uỷ ban nhân
dân các huyện có vùng đầm phá được cấp quyền khai thác thuỷ sản cho các tổ
chức ngư dân cấp thôn, xã, trong vùng mặt nước cụ thể thuộc địa bàn quản lý
8
trên cơ sở số lượng ngư cụ, mùa vụ và đối tượng đánh bắt”.( Điều 14 ). Quyền
khai thác thuỷ sản trên vùng đầm phá cũng được chỉ rõ là bao gồm: “Các
quyền hạn và trách nhiệm ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm pháp luật thuỷ
sản, trách nhiệm bảo vệ ngư trường, phát triển nguồn lợi thuỷ sản, trách
nhiệm bảo đảm luồng tuyến giao thông, trách nhiệm phòng chống suy thoái
môi trường vùng nước và nghĩa vụ thuế cho Nhà Nước” (Điều14). Như vậy,
hầu như Chi hội Nghề cá cấp cơ sở đã được giao đầy đủ quyền hạn, cũng như
quyền lợi sử dụng nguồn lợi để thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình
trong sử dụng và quản lý ngư trường, nguồn lợi thuỷ sản đầm phá Thừa Thiên
Huế. “Quản lý khai thác thuỷ sản đầm phá là nghĩa vụ và trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nước về thuỷ sản, của UBND các cấp và các cộng
đồng sử dụng nguồn lợi thuỷ sản đầm phá. Tổ chức ngư dân được giao sử
dụng vùng mặt nước để khai thác thuỷ sản có trách nhiệm xây dựng kế hoạch,
thực hiện các biện pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, chủ động
sản xuất tái tạo nguồn lợi thuỷ sản.”( Điều 42 ). Một lần nữa, chính quyền
tỉnh Thừa Thiên Huế đã xem các cộng đồng sử dụng nguồn lợi mà đại diện là
các tổ chức ngư dân như đối tác của Nhà Nước trong quản lý Nghề cá đầm
phá Thừa Thiên Huế.
Và tiếp theo là hướng dẫn số 159/HD-STS ngày 6/4/2006 hướng dẫn
thực hiện quy chế quản lý khai thác thuỷ sản đầm phá Thừa Thiên Huế quy
định “quyền khai thác thủy sản bao gồm số lượng, chủng loại ngư cụ, đối
tượng nuôi, từng loại hình nghề nghiệp. Chi hội Nghề cá được cấp quyền
khai thác thuỷ sản có trách nhiệm phối hợp với cơ quan chức năng để quản lý
và tự quản lý ngư trường, nguồn lợi thuỷ sản, môi trường thuỷ sinh, luồng
lạch giao thông nội vùng, đường thoát lũ và luồng di cư sinh sản của các loài
thuỷ sản đầm phá… phát huy dân chủ cơ sở hơn nữa trong quản lý thuỷ sản ở
địa phương”. [2]
2.3.3 Sự hình thành và phát triển của hội nghề cá tỉnh Thừa Thiên
Huế
Hội Nghề cá Thừa Thiên Huế (HUEFIS) được thành lập năm 2003 là tổ
chức xã hội - nghề nghiệp tự nguyện của những cá nhân, tổ chức hoạt động
9
trong các lĩnh vực nghề cá. HUEFIS là thành viên của Hội Nghề cá Việt Nam
(VINAFIS) có phạm vi hoạt động trên toàn quốc.
Mục đích của Hội là tập hợp những cá nhân và tổ chức hoạt động trong
các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, tiêu thụ và hậu cần dịch vụ nghề
cá nhằm hợp tác, hỗ trợ nhau về kinh tế - kỹ thuật sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ; để nâng cao giá trị sản phẩm hàng hoá; phòng tránh thiên tai, ngăn ngừa
dịch bệnh; bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ môi trường; đại
diện và bảo vệ lợi ích hợp pháp của hội viên; góp phần phát triển nghề cá bền
vững, từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của người làm nghề cá và cộng đồng nghề cá. [6]
Đến cuối năm 2009 HUEFIS đã phát triển được mạng lưới chi hội rộng
lớn với 54 chi hội nghề cá cơ sở hoạt động tại cộng đồng thu hút khoảng
4.500 hội viên là ngư dân và hộ sản xuất thủy sản. Mạng lưới các chi hội nghề
cá vùng đầm phá TGCH được củng cố và phát triển đã giúp nâng cao hiệu
quả quản lý tài nguyên, phát triển sản xuất và cải thiện sinh kế cho cộng đồng.
Hội đã có vai trò quan trọng trong việc tăng cường sự phối hợp và hợp tác
giữa cộng đồng với các chương trình, dự án hoạt động trên địa bàn và các
phòng ban chức năng ở địa phương. Kết quả nổi bật là việc thực hiện thành
công mô hình đồng quản lý tài nguyên và vận động cấp quyền khai thác thuỷ
sản cho chi hội nghề cá cơ sở.
Tổ chức ngư dân các cấp nằm trong hệ thống Hội nghề cá Việt Nam là
đối tác chính để chính quyền phối hợp quản lý khai thác thuỷ sản nói riêng và
quản lý nghề cá nói chung trên đầm phá TTH
.
Tổ chức hệ thống Nghề cá cơ
sở ở Thừa Thiên Huế có điểm khác với các hội Nghề cá các tỉnh bạn là được
công nhận chính thức là loại hình tổ chức ngư dân được Nhà Nước sử dụng để
phát triển hệ thống quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng thông qua văn phạm
quy phạm pháp luật. Trong quy chế quản lý đầm phá, chi hội Nghề cá cở sở
có thể được cấp quyền đánh cá trong một thủy vực nhất định, có thể coi đây là
“ thẻ đỏ - quyền sử dụng đất ” cho nghề cá. Đây là động lực lớn để phát triển
hội Nghề cá vì ngư dân luôn mong muốn có quyền sử dụng lâu dài trong ngư
trường, được Nhà Nước chính thức công nhận bằng văn bản. [1]
10
PHẦN 3: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vai trò quản lý tài nguyên của chi hội Nghề cá cơ sở.
Nghiên cứu đối tượng quản lý như tài nguyên đầm phá, đời sống kinh tế xã
hội của cộng đồng, các hội viên chi hội.
3.2 Phạm vi nghiên cứu.
Nội dung: Trọng tâm nghiên cứu là tìm hiểu hoạt động quản lý chi hội
Nghề cá cơ sở và tác động của hoạt động quản lý đến tài nguyên đầm phá và
sinh kế của hộ hội viên.
Không gian: Nghiên cứu chi hội Nghề cá cơ sở Đông Phong-Hương
Phong - Thừa Thiên Huế.
Thời gian: Tìm hiểu thông tin từ năm 2008- 2010.
3.3 Nội dung nghiên cứu
- Đặc điểm kinh tế xã hội và tài nguyên đầm phá Xã Hương Phong
Đề tài nghiên cứu về các đặc điểm kinh tế xã hội và tài nguyên đầm
phá Xã Hương Phong như các thông tin cơ bản, số lao động, trình độ lao
động, tổng số diện tích trên toàn xã và tổng số hộ có tiến hành nuôi. Ngoài
quá trình nghiên cứu đã tìm hiểu về việc sử dụng tài nguyên đầm phá ở cộng
đồng như tổng diện tích đầm phá của xã, số diện tích khai thác tự nhiên, diện
tích nuôi trồng và các vùng chức năng không chỉ thế đề tài đã tìm hiểu về
tổng số hộ nuôi trồng, số hộ khai thác và các đóng góp của hoạt động thủy sản
cho sự phát triển của xã.
- Đặc điểm nông hộ nghiên cứu
+ Số lao động, độ tuổi, trình độ văn hoá của chủ hộ
+ Số năm tham gia NTTS, KTTS, diện tích và thu nhập của hộ
- Thực trạng KT và NTTS tại xã Hương Phong
+ Đối với hộ khai thác thủy sản: tìm hiểu về tình hình khai thác , các
hoạt động khai thác, sản lượng khai thác của cộng đồng…
+ Đối với hộ nuôi trồng thủy sản: tìm hiểu về số hộ nuôi trồng, diện
tích nuôi. Kết quả nuôi máy năm gần đây, số hộ nuôi xen ghép, số hộ nuôi
chuyên tôm, năng suất nuôi trồng.
11
- Sự thay đổi trong hoạt động khai thác nuôi trồng thủy sản trong những
năm trở lại đây là tìm hiểu về sự thay đổi về khai thác thủy sản, thay đổi của
hoạt động nuôi trồng và các tác động tích cực và tiêu cực đến môi trường,
sinh kế…
- Hoạt động quản lý KT và NTTS tại xã: bao gồm:
+Việc quản lý KT và NTTS tại xã trước đây: tìm hiểu cơ quan quản lý,
các hoạt động quản lý, các kết quả thu được và không thu được.
+ Việc quản lý KT và NTTS tại xã bây giờ: về cơ quan quản lý, các
hoạt động quản lý và các kết quả đạt được.
- Hoạt động và vai trò của chi hội nghề cá trong việc tiến hành cải tiến
KT và NTTS dựa vào cộng đồng; tìm hiểu quá trình thành lập của chi hội, lý
do hình thành, cơ sở pháp lý, quyết định thành lập
+ Các hoạt động quản lý của chi hội: tìm hiểu về những hoạt động chi
hội đã tiến hành thực hiện như ra quy chế điều lệ, tuần tra bảo vệ, hoạt động
hỗ trợ sản xuất, bảo vệ môi trường, tài nguyên đầm phá…
+ Vai trò của chi hội trong cải tiến khai thác và nuôi trồng thủy sản:
việc quản lý , giảm tình trạng đáng bắt hủy diệt, đánh bắt vùng cấm. Về nuôi
trồng thì tìm hiểu về việc giaups các hộ nuôi phát triển…
-Việc thực hiện quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng ở địa phương là
việc tìm hiểu về cơ quan quản lý khi thực hiện đồng quản lý, nguyên tắc quản
lý, và các thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đồng quản lý
- Vai trò của chi hội nghề cá trong quản lý KT và NTTS dựa vào cộng
đồng tại xã
+ Vai trò của chi hội trong việc quản lý khai thác và nuôi trồng thủy
sản
+ Vai trò trong việc phát triển các mô hình hiệu quả
+ Vai trò trong việc bảo vệ tài nguyên
- Đánh giá của hội viên về chi hội: là sự nhận xét, đánh giá của hội viên
về tầm quan trọng của chi hội, việc thực hiện các hoạt động của chi hội như:
+ Tuần tra
+ Ra quy chế, điều lệ
+Quy hoạch vùng khai thác, nuôi trồng, bảo vệ…
12
+Hỗ trợ sản xuất cho các hội viên
+ Giúp đỡ hộ khó khăn
+ Cho vay vốn sản xuất
+ Việc thưởng, phạt của chi hội
- Kết quả của sự cải tiến về hoạt độg quản lý chủ yếu về sự suy giảm
về khai thác hủy diệt, sự hoàn thiên trong công tác quản lý, tầm ảnh hưởng
của chi hội, việc thực hiện quy chế qua các năm…
- Kết quả của việc quản lý dựa vào cộng đồng đối với sản xuất thuỷ sản
để biết rõ về sự thay dổi của các hoạt động kể từ khi có chi hội ra đời
+ Đối với hoạt động khai thác:
Sự thay đổi về: số hộ nuôi, đối tượng nuôi, hình thức nuôi, sản lượng
nuôi, đối lượng nuôi…
+ Đối với hoạt động nuôi trồng
Sự thay đổi về số hộ khai thác, năng suất khai thác, số lượng khai thác,
loại ngư cụ…
- Kết quả của việc quản lý dựa vào cộng đồng đối với việc cải thiện
sinh kế người dân: mục đích tìm hieur xu hướng thay đổi thu nhập của của
các hội viên từ khi vào cho hội:
+ Các nguồn thu của ngư dân
+ Nguồn thu của người dân qua các năm 2008, 2009, 2010
3.4 Phương pháp nghiên cứu
* Chọn điểm: Nghiên cứu được thực hiện tại thôn Vân Quật Đông xã
Hương Phong Huyện Hương Trà Tỉnh Thừa Thiên Huế là điọa bàn có chi hội
nghề các Đông Phong Dược hình thành và phát triển trong mấy năm gần đây.
* Chọn mẫu: Số mẫu đã được chọn là 60 hộ thuộc 2 nhóm hộ: hộ khai
thác (30 hộ) nhóm hộ nuôi trồng thuỷ sản (30 hộ )
* Phương pháp chọn mẫu: Phương pháp đã thực hiện là thu thập danh
sách tại chi hội trưởng chi hội nghề cá sau đó chon ngẫu nhiên cho đến khi dủ
số hộ cần chọn
13
* Phương pháp thu thập thông tin dữ liệu
1/ Thu thập thông tin thứ cấp
Các thông tin thứ cấp được thu thập bao gồm :
-Tình hình kinh tế xã hội của xã qua các năm 2008, 2009, 2010
-Tình hình phát triển thủy sản của HTX ngư nghiệp Đông Tiến thuộc
thôn VQĐ
- Hiện trạng sử dụng đất của xã Hương Phong năm 2010
- Điều lệ cho hội Đông Phong xã Hương Phong
-Tổng kết hoạt động của chi hội qua 3 năm 2008-2010
- Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2009 của chi hội nghề các Đông
Phong
- Báo cáo phương án kiện toàn chi hội nghề các Đông Phong năm 2008
2/ Thu thập thông tin sơ cấp
- Phỏng vấn hộ: đã thu thập bằng cách dùng phiếu khảo sát với câu hỏi
bán cấu trúc, quan sát, dòng thời gian
-Phỏng vấn sâu: tiến hành phỏng vấn sâu các cán bộ và người am hiểu
+ Cấp thôn xã: đã phỏng vấn, thu thập thông tin cán bộ khuyến ngư xã,
cán bộ đảm nhận phát triển kinh tế xã, trưởng thôn Vân Quật Đông, chủ tịch
chi hội nghề cá Đông Phong, thành viên ban chấp hành chi hội và 5 người
có am hiểu tại địa phương nhằm mục đích hiểu rõ tình hình của địa phương
và chi hội và kiểm tra lại thông tin
+ Cấp tỉnh, huyện: cán bộ khuyến nông huyện Hương Trà, cán bộ phát
triển thủy sản huyện Hương Trà nhằm tìm hiểu việc quy hoạch phát triển
thủy sản, định hướng phát triển, việc phát triển các chi hội nghề cá và các
hoạt động tiến hành trao quyền cho chi hội Đông Phong
3/ Phương pháp xử lý số liệu
Xử lý thống kê qua phần mềm của excel
14
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Đặc điểm kinh tế xã hội vùng nghiên cứu
4.1.1 Đặc điểm cộng đồng thủy sản tại vùng nghiên cứu.
Xã Hương Phong là một xã bãi ngang nằm phía Tây Bắc huyện Hương
Trà tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế 12 Km. Phía Bắc giáp xã Hải
Dương, phía đông giáp thị trấn Thuận An, phía Tây giáp xã Quảng Thành
huyện Quảng Điền, phía Nam giáp xã Hương Vinh, huyện Hương Trà. Xã
nằm vị trí đặc biệt, hai mặt giáp sông, một mặt giáp phá Tam Giang thuận lợi
trong phát triển NN và khai thác NTTS.
Đặc biệt tại Hương Phong với vị trí nằm gần thành phố Huế rất thuận
tiện để thông thương trao đổi mua bán hàng hoá, và tiến cận với khoa học kĩ
thuật mới.
- Đất đai và đặc điểm địa hình
Đất đai là cơ sở đầu tiên, là đầu vào quan trọng nhất để tiến hành các
hoạt động NN, cũng như NTTS. Quỹ đất, tính chất đất và độ phì của đất có
ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, năng suất và sự phân bố cây trồng, vật nuôi.
Tại xã Hương Phong do mang đặc điểm địa hình ven biển nên chia diện tích
đất thành nhiều vùng có đặc điểm và độ màu mỡ khác nhau, đặc biệt vùng
ven phá với diện tích chiếm 1/3 đất NN, vùng này nhiễm mặn và bị thiếu
nước ngọt vào mùa hè, mùa mưa bị ngập úng. Đây là vùng sản xuất NN gặp
nhiều khó khăn, thường chỉ cấy được một vụ, năng suất thấp hoặc bỏ hoang.
Tình hình sử dụng đất đai của xã được thể hiện qua bảng 1
Hương Phong là xã có diện tích đất tự nhiên khá lớn 1569 ha. Với quỹ
đất tự nhiên lớn sẽ tạo điều kiện rất lớn để phát triển kinh tế địa phương.
Cơ cấu đất của xã Hương Phong khá đồng đều, với diện tích dành cho
sản xuất NN là lớn nhất chiếm 43% Với hệ thống thuỷ lợi tốt, đất đai màu mỡ
nên năng suất NN ở đây là cao và ổn định, hoạt động sản xuất NN là một thế
mạnh của xã. Diện tích mặt nước khai thác thuỷ sản của xã là 165,56 ha,
chiếm 24,53%; đây là diện tích khai thác không lớn so với các xã khác ven
phá Tam Giang nhưng nó cũng là nguồn lợi quan trọng, và là nguồn sinh kế
của một bộ phận người dân. Diện tích lâm nghiệp của xã nhỏ, nhưng có giá trị
15
kinh tế và giá trị sinh học rất cao, nó bao gồm các cây ngập mặn lâu năm, đây
là một tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái trong tương lai.
Bảng 1: Thông tin hiện trạng sử dụng đất xã Hương Phong
Chỉ tiêu ĐVT Diện tích Tỷ lệ
Diện tích tự nhiên Ha 1569 43%
Đất nông nghiệp Ha 674,80
Trồng lúa Ha 505,95
Nuôi trồng thủy sản Ha 165,56
Lâm nghiệp Ha 3,29
Đất phi nông nghiệp Ha 834,14 53,16%
Đất chuyên dùng Ha 113,38
Đất ở Ha 84,84
Đất chưa sử dụng Ha 61,06 3,84%
Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội xã Hương Phong ,2010
Với diện tích nuôi trồng không lớn lắm, nhưng tập trung tạo điều kiện
cho phát triển NTTS thành một ngành kinh tế chính của xã. Các diện tích ao
nuôi thuỷ sản của xã chủ yếu là ao nuôi hạ triều,nên năng suất không cao,
khó xử lý…. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng tại Hương Phong, diện tích
đất NN rộng màu mỡ nên sản xuất NN phát triển mạnh hơn so với nuôi trồng
và khai thác thuỷ sản.
- Vấn đề dân số và lao động
Dân số và lao động được sức sản xuất của địa phương đó. Trong quá
trình phát triển kinh tế thì dân số và lao động có của một địa phương thể hiện
ảnh hưởng rất lớn, một mặt nó sẽ tạo ra tiềm lực để phát triển mặt khác nó sẽ
cản trở lại sự phát triển kinh tế khi công ăn việc làm, đời sống nhân dân không
được đảm bảo. Bảng 2 mô tả tình hình dân số và lao động cuả xã năm 2010
16
Bảng 2: Tình hình dân số và lao động tại Hương Phong
Chỉ tiêu Đơn vị tính Toàn xã Thôn VQĐ
Tổng số hộ Hộ 2.328 531
Số nhân khẩu Người 11.371 2870
Số lao động Người 4901 1635
Lđ NN Người 2.514 1022
Lđ khai thác NTTS Người 549 395
Ngành nghề phụ khác Người 1.837 65
Tốc độ gia tăng dân số % 1,10 1,2
Bình quân lao động/hộ Người 2,64 3,08
Bình quân nhân khẩu/hộ Người 5,25 6,2
Thu nhập đầu người Triệu đồng 16,5 15
Hộ nghèo % 5 11,5
(Nguồn: UBND xã Hương Phong, 2011)
Bảng trên cho thấy: Hương Phong 2,328 hộ với 11,371 nhân khẩu, với
số nhân khẩu khá đông với bình quân 5,25 nhân khẩu trên hộ. Lực lượng lao
động ở xã Hương Phong cũng khá dồi dào với 4.901 lao động (chiếm 43.10
% tổng số khẩu), trung bình 2,64 lao động trên một hộ. Với lực lượng lao
động dồi dào ở địa phương sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế mạnh
mẽ, nhưng kéo theo đó là những hệ quả cần được chú ý. Tại xã Hương Phong
với số nhân khẩu đông và tốc độ gia tăng dân số là khá cao so với các vùng
khác với 1,1%. Như vậy, gia tăng dân số trong khi diện tích đất không mở
rộng sẽ là một khó khăn cho chính quyền địa phương trong việc giải quyết
việc làm và đảm bảo cuộc sống ổn định cho người dân ở đây.
Ở Hương Phong, lực lượng lao động chủ yếu tập trung vào hai ngành
chính là sản xuất NN và thuỷ sản, số còn lại đi làm ăn xa (chủ yếu là vào
thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng). Với diện tích đất NN rộng hơn, và điều
kiện thuận lợi nên số lao động NN ở Hương Phong (2.514 lao động), lao động
tham gia vào khai thác thuỷ sản cũng nhiều hơn với 549 lao động. Đáng chú ý
là tại Hương Phong có lực lượng lao động làm việc ở các ngành nghề phụ là
17
khá đông, nhờ vị trí gần với thành phố Huế nên một số bộ phận lao động ở
đây có thể làm thêm các ngành nghề.
Vân Quật Đông là một thôn nông ngư nghiệp, với tổng số hộ là 531 hộ
với hơn 128 hộ chuyên về nuôi trồng và khai thác thủy sản. Với tổng diện tích
mặt nước của địa phương là hơn 300 ha thì việc phát triển ngư nghiệp là một
xu hướng của thôn. Ngoài ngư nghiệp ra tại thôn còn gần 400 hộ Nông nghiệp
tuy nông nghiệp ở đây không pháp triển tốt một số diện tích chỉ trồng được 1
vụ / năm nhưng với diện tích rộng lớn thì nông nghiệp vẫn là nguồn thu chính
tại thôn. Ngoài làm nông và ngề ngư thì ở Vân Quật Đông còn có một số nghề
nghiệp khác như thợ nề, buôn bán, hay lên thành phố Huế làm việc. Một số
lượng khá đông lao động trẻ tại thôn thì vào nam kiếm việc làm. Những địa
điểm chính nguồn lao động này hướng đến là thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Bình Phước… thường thì đến tết nguyên đán thì nguồn lao động này
về và lại đi khi qua đợt này. Đây là một nguồn thu nhập đáng kể cho người
dân ở đây.
Qua bảng trên ta thấy toàn thôn có đến 531 hộ và 2870 khẩu với nguồn
lao động dồi dào trung bình 3.08 lao động / hộ. Với nguồn lao động này sẽ là
động lực điểm mạnh cho thôn Vân Quật Đông phát triển kinh tế, tuy nhiên
với trung bình số khẩu trên hộ của thôn khá cao 6.2 khẩu/ hộ sẽ tạo tra gánh
nặng cho sự phát triển. Lao động dồi dào nhưng trong nông nghiệp mỗi hộ chỉ
cần từ 2 -3 lao động nên nguồn lao động còn lạo thường đi làm việc khác
hoặc đi làm ăn xa.
4.1.2 Đặc điểm của hộ khảo sát
Cũng như các cộng đồng ven phá khác, hoạt động sản xuất thuỷ sản là
hoạt động sinh kế chính của hộ tại cộng đồng ngư nghiệp này. Hoạt động sản
xuất thủy sản bao gồm nuôi trồng thủy sản và khai thác đánh bắt tự nhiên.
Các hộ ở đây vừa có hộ chuyên nuôi trồng thuỷ sản, có hộ chuyên khai
thác đánh bắt tự nhiên, cũng có hộ cả nuôi trồng và khai thác tự nhiên. Theo
kết quả khảo sát hộ chuyên nuôi trồng là 2 hộ, hộ chuyên khai thác là 17 hộ
chuyên khai thác, 41 hộ vừa nuôi trồng vừa khai thác.
Đặc điểm chung của các hộ được khảo sát trong nghiên cứu này được
được thể hiện qua các chỉ tiêu về: tuổi chủ hộ, số năm đến trường của chủ hộ,
số lao động, số nhân khẩu, số năm NTTS, diện tích NTTS, thu nhập của
hộ/năm (bảng 4).
18
Bảng 3: Đặc điểm cơ bản của hộ sản xuất thủy sản thôn VQĐ.
Chỉ tiêu
ĐVT
Hộ
NTTS
Hộ
KTTS
Trình độ văn hóa Lớp 5,4 5,06
Nhân khẩu/ hộ Khẩu 6,26 6,13
Lao động/ hộ Lao động 3,2 3,03
Lao động ngư nghiệp/ hộ Lao động 2,8 2,4
Số năm NTTS Năm 13,6 -
Diện tích ao nuôi TB/hộ Ha 1,36 -
Thu nhập/ hộ Triệu đồng 53.,8 46,9
Nguồn: Phỏng vấn hộ, 2011.
Xét về số nhân khẩu và số lao động, số khẩu bình quân giữa các nhóm
hộ nghiên cứu là không có sự khác biệt nào đáng kể. Số khẩu bình quân của
các nhóm hộ khá lớn tương ứng khoảng từ 6,13 đến 6,26 khẩu/hộ. Đó cũng là
đặc trưng chung cho các hộ ở ven phá và ven biển, là tiềm năng về lao động
cho sự phát triển sau này của vùng đầm phá. Thông thường các hộ đây rất
đông con, nhất là các chủ hộ có độ tuổi trên 50 thường có từ 5-7 người con.
Bình quân số lao động của các hộ điểm nghiên cứu vào khoảng 2,4 đến 2,8
người trong khi số khẩu bình quân trên một hộ lại khá đông, chứng tỏ nguồn
lao động ở đây còn hạn chế và sẽ gặp khó khăn khi đến vụ thả, gieo trồng hay
thu hoạch. Đa số lao động ăn theo tại hai điểm nghiên cứu đang trong độ tuổi
đi học, nên ngoài khoản chi hằng ngày còn phải có khoản khá lớn đầu tư cho
việc học hành, điều này đã làm cho nguồn vốn để tái đầu tư vào sản xuất rất
khó khăn. Vì vậy việc phát triển mô hình NTTS đầu tư thấp nhanh thu hồi
vốn và chắc ăn là rất cần thiết.
Trình độ văn hoá ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức và áp dụng các biện
pháp kĩ thuật vào sản xuất của nông hộ. Số năm đến trường thể hiện trình độ
văn hoá của chủ hộ. Kết quả khảo sát hộ cho thấy số năm đến trường của chủ
hộ tại Vân Quật Đông vào khoảng 5.06 đến 5.4 năm. Trong NTTS ngoài
kiến thức kĩ thuật thì một vấn đề cần phải quan tâm đó là năm kinh nghiệm
nuôi trồng. Tại đây, số năm NTTS của các hộ đều khá lâu khoảng 13.6 năm.
Lý do là do NTTS tại Hương Phong xuất hiện sớm (vào năm 1986) Số năm
19
kinh nghiệm của các hộ được khảo sát là tương đối cao so với các nơi khác,
đặc biệt là tại Vân Quật Đông - được coi là nơi bắt đầu nuôi thuỷ sản trên phá
Tam Giang. Số năm kinh nghiệm NTTS sẽ giúp người dân biết được quy luật
của thời tiết và hiểu rõ các đối tượng nuôi từ đó sẽ đưa ra các quyết định,
phương án sản xuất phù hợp với ao nuôi, và nên áp dụng các kĩ thuật nào là
thích hợp.
Hầu hết các diện tích ao nuôi của điểm nghiên cứu đều nằm ở vùng hạ
triều, nên việc xử lí ao nuôi thường rất khó khăn và tốn kém, một số hộ đã xử
lý ao nuôi không đúng yêu cầu trước khi thả nuôi dẫn đến mầm bệnh không
được loại bỏ triệt để làm cho tình hình dịch bệnh lây lan mạnh, tại Vân Quật
Đông có 2 dạng diệt tạp (xử lý ao) chính là xử lý khô và xử lý nước. Xử lý
khô là làm cho khô hồ rồi xử lý hình thức này tốn kém và kỹ lưỡng thường
dùng khi đầu tư mạnh nuôi tôm sú Xử lý ướt là hình thức xử lý không cần
làm khô nước, người ta bón vôi trực tiếp xuông ao nuôi, đây là hình thức xử
lý không triệt để nhưng tiết kiệm nhiều chi phí nên đang được áp dụng nhiều.
Như vậy, diện tích ao trung bình của mỗi hộ là khá lớn nhưng lại có sự khác
biệt quá lớn giữa hộ nuôi nhiều nhất và hộ nuôi ít nhất. Cụ thể: Hộ có diện
tích lớn nhất là gần 7 ha, trong khi đó hộ thấp nhất chỉ có 1 hồ với diện tích
0,68 ha. Thông thường tại đây những hộ NTTS trước năm 1994 thường có
diện tích nuôi trồng rất lớn, còn các hộ nuôi sau năm 1999 thì diện tích nuôi
trồng rất nhỏ. Như vậy, qua đây chúng ta có thể thấy việc đầu tư NTTS của
người dân về mặt qui mô là mang tính tự phát và thiếu quy hoạch chung. Với
sự biến động diện tích ao nuôi khá lớn sẽ ảnh hưởng đến quyết định NTTS
đối với các ao nuôi và sự áp dụng nuôi trồng của các hộ, đồng thời nguồn thu
nhập của nông hộ cũng sẽ có nhiều chênh lệch.
Như vậy chúng ta thấy rằng các yếu tố về trình độ văn hoá, số nhân
khẩu, số lao động, số năm NTTS và đặc biệt diện tích đất nuôi trồng đã có
ảnh hưởng rất lớn đến việc NTTS của hộ và trực tiếp ảnh hưởng đến nguồn
thu vì thu nhập chủ yếu của các hộ được khảo sát là dựa vào NTTS.
20
4.2 Hiện trạng quản lý và sử dụng tài nguyên đầm phá
4.2.1 Đặc điểm tài nguyên và phân vùng quản lý và sử dụng
Ở điểm nghiên cửu nhận thấy rằng hoạt động NTTS và KTTS có từ rất
lâu đời. Theo kết quả nghiên cứu 60 hộ thì hình thức KTTS có tù năm 1970
và NTTS có từ năm 1986.Việc phát triển lâu năm như vậy nên sẽ tạo diều
kiện nuôi trồng tốt kinh nghiệm NTTS phong phú bên dưới là bảng tình hình
đánh bắt và nuôi trồng tại xã và thôn VQĐ
Bảng 4: Tài nguyên và phân vùng quản lý
Chỉ tiêu Đơn vị
tính
Toàn xã Thôn VQĐ
Diện tích khai thác Ha 165.56 97,5
Diện tích nuôi trồng Ha 183,14 93 (50,7%)
Số hộ khai thác Hộ 70 40 (57,1%)
Số hộ nuôi trồng Hộ 154 88 (57,1%)
Sản lượng khai thác Tấn 356 245 (68,8%)
Sản lượng nuôi trồng
Sản lượng tôm Tấn 70,7 35 (49,5%)
Sản lượng cua Tấn 27,3 12,5 (45,7%)
Sản lượng cá Tấn 31,8 10 (31,4%)
(Nguồn: Báo cáo kinh tế xã hội xã Hương Phong, phỏng vấn chi hội
trưởng, 2011)
Theo bảng trên ta nhận thấy VQĐ là thôn có tình hình đánh bắt và nuôi
trồng thủy sản chiếm phần lớn tỷ trọng của xã Hương Phong cả về diện tích,
số hộ tham gia và sản lượng.
Về diện tích nuôi trồng trong khi tổng diện tích của toàn xã là 183.14
ha thì riêng thông VQĐ đa chiếm đến 93 ha và chiếm tỷ trọng là 50.7% diện
tích nuôi trồng toàn xã.Với diện tích nuôi trồng lớn như vậy nên sản lượng
thu hoạch cũng chiếm tỷ trọng cao trong xã. Riêng sản lượng tôm thu hoạch
hằng năm cũng chiếm đến 49.5 % với 35 tấn tôm mỗi năm. Sản lượng này
bao gồm cả tôm sú và tôm rào.
21