Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Đề cương môn tài chính học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.34 KB, 8 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN TÀI CHÍNH HỌC
A. LÝ THUYẾT:
I.
CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH
Trong đời sống xã hội, tài chính vốn có 2 chức năng là : Chức năng phân phối của cải xã hội dưới
hình thức giá trị ( gọi tắt là chức năng phân phối ) và chức năng giám đốc bằng tiền đối với các
quá trình phân phối ( gọi tắt là chức năng giám đốc ).
• CHỨC NĂNG PHÂN PHỐI CỦA TÀI CHÍNH.
1. Khái niệm :
Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó, các nguồn tài lực đại diện cho
những bộ phận của cải xã hội được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau để sử dụng cho những mục
đích khác nhau, đảm bảo những nhu cầu, lợi ích khác nhau của đời sống xã hội.
2. Đối tượng phân phối:
Đối tượng phân phối là của cải xã hội dưới hình thức giá trị, là tổng thể các nguồn tài chính có
trong xã hội.
Xét về mặt nội dung, nguồn tài chính – mặt giá trị của cải xã hội là đối tượng phân phối bao
gồm các bộ phận :
(1). Bộ phận của cải XH mới được sáng tạo ra trong kỳ. Đó là tổng sản phẩm trong nước (GDP).
(2). Bộ phận của cải còn lại từ thời kỳ trước. Đó là phần tích lũy quá khứ của XH và dân cư.
(3). Bộ phận của cải được chuyển từ nước ngoài vào và bộ phận của cải từ trong nước chuyển
ra nước ngoài.
( 4). Bộ phận tài sản,tài nguyên quốc gia có thể chho thuê, nhượng bán có thời gian.
3. Chủ thể phân phối :
Chủ thể phân phối là nhà nước, là các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các hộ gia đình, các cá
nhân.
Chủ thể phân phối có thể xuất hiện trên một trong các tư cách là :
(1). Chủ thể có quyền sở hữu các nguồn tài chính.
(2). Chủ thể có quyền sử dụng các nguồn tài chính. Đó là những người đi vay và họ có quyền
phân phối và sử dụng số vốn vay đó theo các mục đích đã định.
(3). Chủ thể có quyền lực chính trị. Chủ thể muốn nói ở đây chính là nhà nước.
(4). Chủ thể tổ chức quan hệ của các nhóm thành viên xã hội. Đó là các tổ chức chính trị,các tổ


chức chính trị - XH, các hội, nghiệp đoàn…
4. Kết quả của phân phối:
Kết quả của phân phối là sự hình thành ( tạo lập) hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể trong
XH nhằm mục đích như đã định.
Phân phối của tài chính mang những đặc điểm sau đây :
(1) Phân phối của cải tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, nó không
kèm theo với sự thay đổi hình thái giá trị.
Nói khác đi, phân phối của tài chính là sự phân phối dưới hình thức giá trị nhưng không chứa đựng
vận động ngược chiều của hình thái giá trị như trong mua bán hàng hóa. Thông qua chức năng phân
phối của tài chính,các quỹ tiền tệ nhất định được hình thành và được sử dụng. Các quỹ được hình
thành, được sử dụng, được khuyeesch chương hay được chia nhỏ vì những mục đích nhất định theo
tác dụng rộng hơn hay hẹp hơn nhưng đó vẫn là quá trình phân phối dưới hình thức giá trị. Mọi sự
thu, chi bằng tiền kèm theo với sự thay đổi của hình thái giá trị, chứa đựng sự vận động ngược
chiều của hình thái giá trị đều không thuộc về phân phối của tài chình.


(2) Phân phối của cải tài chính là sự phân phối luôn luôn gắn liền với sự hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ nhất định.
Giá cả cũng là phạm trù liên quan đề phân phối dưới hình thức giá trị. Sự phân phối dưới hình thức
giá trị thông qua giá cả được tiến hành thông qua sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị trong trao đổi
hàng hóa. Khi trao đổi không ngang giá do giả cả cao hay thấp hơn giá trị hàng hóa, giá trị được
chuyển từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác nhưng gắn liên với hoạt động trao đổi, với sự vận
động ngược chiều của hai hình thái giá trị. Sự phân phối của tài chính diễn ra ở điểm đầu và điểm
cuối của quá trình trao đổi khi số tiền do trao đổi ngang giá và không ngang giá được đưa ra khỏi
quỹ - sử dụng quỹ ( ở người chi trả ) và đưa vào quỹ - tạo lập quỹ ( ở người thu nhận ).
Tiền lương cũng là một phạm trù phân phối. Tiền lương muốn được thực hiện, tức là trả lương –
thanh toán lương cho người lao động, phải thông qua tài chính – qua sự phân phối các nguồn tài
chính để hính thành quỹ tiền lương trong các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội hay các cơ quan nhà
nước. Tiền lương khi được trả cho người lao động cũng là bộ phận hình thành nên ngân sách gia
đình – tài chính hộ gia đình phục vụ co mục đích tiêu dùng. Vì thế, tiền lương và tài chính là 2

phạm trù gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng không hoàn toàn trùng nhau và có sự khác nhau.
(3) Phân phối của tài chính là quá trình phân phối diễn ra một cách thường xuyên, liên tục
bao gồm cả phân phối lần đầu và phân phối lại trong đó phân phối lại có phạm vi rộng hơn và
mang tính chất chủ yếu.
Phân phối lần đầu là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất cho những chủ thể tham
gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất hoặc thực hiện các dịch vụ trong các đơn vị sản
xuất.Phân phói lần đầu được thực hiện trước hết và chủ yếu trong khâu cơ sở của hệ thống tài chính
( Tài chính doanh nghiêp. Tài chính hộ gia đình ). Qua phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội
chỉ mới chia thành những phần thu nhập cơ bản. Việc phân phối chưa thể đáp ứng nhu cầu nhiều
mặt của xã hội. Do đó, phân phối lại đã trở thành một yêu cầu khách quan của XH.
Phân phối lại là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản, những quỹ tiền tệ được hình thành
trong phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội hoặc theo những mục đích cụ thể hơn của các quỹ
tiền tệ.
Nếu như phân phối lần đầu được thực hiện trước hết và chủ yếu ở khâu cơ sở của hệ thống tài
chính, thì phân phối lại được thực hiện trong tất cả các khâu của hệ thống tài chính.
II.
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm NSNN:
NSNN là bản dự toán thu – chi tài chính của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định,
thường là một năm. NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập,
phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước khi nhà nước tham gia phân phối các
nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước trên cơ sở luật định.
2. Đặc điểm của NSNN:
- Việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn liền với quyền lực của nhà nước và việc thực hiện
các chức năng cảu nhà nước được nhà nước tiến hành trên cơ sở luật lệ nhất định.
- NSNN luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng.
Hoạt động thu – chi của NSNN là thể hiện các mặt kinh tế - XH của nhà nước. Là việc xử lý
liên quan đến lợi ích trong XH khi nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia,
lợi ích của nhà nước thể hiện trong phân phối thu nhập của các DN, dân cư, phân phối
GDP,GNP và cả trong phân bổ các nguồn lực tài chính cho các mục tiêu kinh tế- XH, an ninh,

quốc phòng của quốc gia.
- Hoạt động thu chi của NSNN được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ
yếu.


3. Vai trò của NSNN
NSNN có vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế - XH, an ninh quốc phòng và đối ngoại
của đất nước. Có thể xem xét vai trò của NSNN trên một số lĩnh vực điều tiết sau đây :
- NSNN là công cụ chủ yếu phân bổ trực tiếp hoặc gián tiếp các nguồn tài chính quốc gia,định
hướng phát triển sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn
định và bền vững.
Vốn NSNN là nguồn tài chính có tính chất chủ đạo trong quá trình vận động vốn của toàn xã hội.
Các khoản chi kinh tế và chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, phát triển
những ngành, lĩnh vực có tỷ suất cao, thu hồi vốn nhanh, ưu tiên các ngành mũi nhọn có khả năng
cạnh tranh trên thị trường… Các khoản chi này của NSNN không thu hồi trực tiếp, nhưng hiệu quả
của nó lại được tính bằng tăng trưởng của GDP, sự phân bổ chung hợp lý của nền kinh tế hoặc bằng
các chỉ tiêu khác như tạo ra khả năng tăng tố độ lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ… Thông qua thu
ngân sách mà chủ yếu là thuế cũng góp phần định hướng phát triển sản xuất. Một chính sách thuế
có lợi sẽ thu hút được DN bỏ vốn đầu tư vào nơi cần thiết, ngược lại một chính sách thuế khắt khe
sẽ giảm bớt luồng di chuyển vốn vào nơi cần hạn chế sản xuất kinh doanh.
Chính sách thu và chi của NSNN gắn liền vói chính sách phát triển kinh tế - XH và phục vụ trực
tiếp cho chính sách này của nhà nước.
- NSNN là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát.
Trong nền kinh tế thị trường, quy luật cung cầu chi phối thị trường rất mạnh mẽ. Mọi sự biến động
của giá cả đều có nguyên nhân từ sự mất cân đối cung cầu. Bằng công cụ thuế và chính sách chi
tiêu NSNN , chính phủ có thể tác động vào tổng cung hoặc tổng cầu để góp phần ổn định giá cả
trên thị trường. Như vậy thu, đặc biệt là thuế, chi tiêu dự trữ nhà nước có tác động rất lớn đến quan
hệ cung cầu và bình ổn giá cả trên thị trường.
Kiềm chế lạm phát luôn được coi là mục tiêu trọng yếu trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế - XH của
quốc gia. Giữa lạm phát và hoạt động thu – chi của NSNN luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.

Do đó, các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát đều liên quan đến hoạt động của NSNN.
Giá cả tăng lên do cung cầu mất cân bằng, chính phủ có thể sử dụng biện pháp thuế như tăng thuế
tiêu dùng, giảm thuế đối với đầu tư và thắt chặt chi tiêu của NSNN, nhất là các khoản chi cho tiêu
dùng để nâng đỡ cung và giảm bớt cầu. Thực tế cho thấy,bội chi ngân sách không có nguồn bù đắp
hợp lý là nguyên nhân dẫn đến lạm phát, do đó, hạn chế bội chi NSNN luôn là biện pháp tài chính
quan trọng nhất để kiềm chế lạm phát. Việc cơ cấu các ngân sách, tăng tỷ trọng các khoản chi đầu
tư, đổi mới hệ thống thuế,đảm bảo mức động viên hợp lý và khuyến khích các thành phần kinh tế
phát triển.. những giả pháp đảm bỏa cho sự thành công của công cuộc đấu tranh chống lạm phát.
- NSNN là công cụ điều chỉnh thu nhập, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
Việc sử dụng NSNN như một công cụ điều chỉnh vĩ mô trong lĩnh vực thu nhập đối với các thành
viên của XH nhằm thực hiện công bằng XH về thu nhập, đảm bảo ổn định cuộc sống của các tầng
lớp dân cư, đảm bảo vai trò kích thích thu nhập đối với phát triến sản xuất và tinh thần người lao
động, với sự phát triển củ sản xuất và khống chế mức tiêu dùng phù hợp với trình độ, năng lực sản
xuất của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang trong quá trình hình thành và phát triển.
Chính sách ngân sách, cụ thể là chính sách thuế và chính sách chi ngân sách, góp phần làm giảm
bớt sự chênh lệch quá lớn về thu nhập và tiền lương giữa người làm việc trong khu vực sản xuất
kinh doanh, khu vực hành chính,sự nghiệp an ninh quốc phòng giứ những người sống ở thành thị,
nông thôn, miền núi, hải đảo nhằm ổn định đời sống các tầng lớp dân cư trong phạm vi cả nước.
Việc sử dụng công cụ thuế, hai quan điểm cơ bản nhất cấn phải quán triệt là quan điểm sản xuất và
điều hòa thu nhập. Thông qua thuế thu nhập cá nhân, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô
trong lĩnh vự tiền lương và thu nhập để đảm bảo mức tiêu dùng hợp lý giữa các tầng lớp dân cư.


Ngoài ra, Chính phủ rất quan tâm chính sách chi ngân sách, NSNN như một trung tâm phân phối
lại, nhằm chuyển bớt phần thu nhập từ tầng lớp giàu có sang tầng lớp người nghèo.
Việc tổ chức hoạt động của NSNN một cách đúng đắn, phù hợp với các điều kiện khách quan sẽ tạo
ra những tác động tích cực, ngược lại sẽ có những tác động tiêu cực đối với quá trình phát triển kinh
tế - XH.
4. Thu NSNN
a. Khái niệm thu NSNN :

Thu NSNN là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính duốc
gia hình thành nên quỹ NSNN nhằm đáp ứng các nhu cầu nhiệm vụ của nhà nước.
b. Đặc điểm của thu NSNN:
- Thu NSNN là những nguồn tài chính, những khoản thu nhập của nhà nước được hình thành
trong quá trình tham gia vào phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Thu NSNN phản
ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa
nhà nước với các chủ thể trong nền kinh tế . Sự phân chia đó là một tất yếu khách quan, xuât
phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước, từ yêu cầu thực hiện các chức năng
kinh tế XH của nhà nước. Đối tượng phân chia là nguồn tài chính quốc gia là kết quả do lao
động sản xuất trong nước tạo ra được thực hiện dưới hình thức tiền tệ.
- Về mặt nội dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị, nảy sinh
trong quá trình nà nước dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành
nên quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước.
- Thu NSNN gắn chặt với thực trạng kinh tế của đất nước và sự vận động của các phạm trù : giá
trị, giá cả, lãi suất và thu nhập… sự vận động của các phạm trù này vừa tác động đến sự tăng
giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của các công cụ thu NSNN.
c. Nội dung thu NSNN
Thu NSNN bao gồm :
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước :
• Thu nhập từ vốn góp của nhà nước vào các cơ sở kinh tế
• Tiền thu hoòi vốn của nhà nước tại các cơ sở kinh tế
• Thu hồi tiền cho vay của nhà nước ( cả gốc và lãi)
- Thu từ các hoạt động sự nghiệp
- Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu của nhà nước..
- Thu từ vay nợ và viện trợ không hoàn lại của chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân nước
ngoài, từ đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
- Thu khác : như thu từ phạt,tịch thu, tịch biên tài sản…
5. Chi NSNN
a. Khái niệm chi NSNN :

Chi NSNN là việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của
nhà nước theo những nguyên tắc nhất định.
b. Đặc điểm của chi NSNN:
- Chi NSNN gắn liền với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà
nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ.


Chi NSNN phải đảm bảo các hoạt động của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực. Nhưng nguồn ngân
sách có được trong từng năm,từng thời kỳ có hạn làm hạn chế phạm vi hoạt động của nhà nước,
buộc nhà nước phải lựa chọn phạm vi chi NSNN. Nhà nước không thể bao cấp tràn lan qua NSNN,
mà tập trung nguồn tài chính vào phạm vi đã hoạch định để giải quyết các vấn đề lớn của đất nước.
- Chi NSNN gắn với quyền lực của nhà nước.
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất quyết định quy mô, nội dung chi NSNN và phân bổ nguồn
vốn ngân sách cho các mục tiêu quan trọng nhất, bởi vì QH là cơ quan quyết định các nhiệm vụ
kinh tê, chính trị, xã hội của quốc gia. Chính phủ là cơ quan hành pháp, có nhiệm vụ quản lý, điều
hành các khoản chi NSNN.
- Chi NSNN là những khoản chi hòan trả trực tiếp.
Các khoản cấp phát từ NSNN cho các ngành,các cấp, cho các hoạt động văn hóa, xã hội, giúp đỡ
người nghèo… không phải trả giá hoặc hoàn lại cho nhà nước.
- Chi NSNN là một bộ phận cấu thành luồng vận động tiền tệ và nó gắn liền với sự vận
động của các phạm trù giá trị khác như giá cả, tiền lương, tín dụng, thuế, tỷ giá hối đoái…
- Chi NSNN có quy mô lớn, phức tạp, có tác động mạnh mẽ đến môi trường tài chính vĩ mô,
đến tổng cung, tổng cầu về vốn tiền tệ. Nếu thu, chi NSNN cân đối được, về cơ bản tổng cung
tổng cầu về hàng hóa, dịch vụ XH sẽ ổn định.
III.

TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

1. TÀI SẢN CỐ ĐỊNH – VỐN CỐ ĐỊNH CỦA DOANH NGHIỆP
a. Tài sản cố định

- Khái niệm : Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp
vào hoạt động sản xuất kinh doanh cuẩ doanh nghiệp và thỏa mãn đồng thời cả hai tiêu chuẩn :
(1) Thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên
(2) Có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên.
- Đặc điểm :
+ TSCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất – kinh doanh, nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất và
đặc tính sử dụng ban đầu.(TSCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất ko tránh khỏi hỏng hóc, hao mòn
-> dn cần có kế hoạch bảo dưỡng thường xuyên, trích khấu hao hợp lý-> tăng giá trị sử dụng của tài
sản -> tài sản có thể sử dụng tốt nhất phục vụ cho sản xuất kinh doanh)
+ Giá trị TSCĐ chuyển dịch từng phần giá trị sản phẩm sản xuất ra.
+ Sau nhiều chu ky sản xuất – kinh doanh TSCĐ mới hoàn thành 1 vòng luân chuyển
Từ những đặc điểm đó mà doanh nghiệp cần có biện pháp quản lý để có thể bảo toàn vốn kinh doanh,
đồng thời không ngừng nâng cao hiệu quả vốn kinh doanh của doanh nghiệp khi đầu tư vào TSCĐ.
-có hệ thống theo dõi tình hình sử dụng TSCĐ :dn cần thiết lập hệ thống theo dõi mục lục TSCĐ để tra
tìm hạng mục và chủng loại tài sản, lập sổ theo dõi tổng hợp và chi tiết đối với từng loại tài sản, tiến
hành kiểm tra kho định kỳ đối với từng loại tài sản cố định.Từ đó dn có thể sử dụng TSCĐ hợp lý phù
hợp với thời gian sử dụng của tài sản,sắp xếp tài sản sử dụng đạt hiệu quả cao,
-do trong quá trình sử dụng TSCĐ bị hao mòn và phần hao mòn được chuyển vào giá trị của sản phẩm
nên các dn cần tính khấu hao phù hợp với mức độ hao mòn của TSCĐ và đảm bảo thu hồi được đầy đủ
vốn đầu tư ban đầu.
b. Khái niệm VCĐ
Vốn cố định biểu hiện bằng tiền TSCĐ của doanh nghiệp
-Đặc điểm VCĐ :
+VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh


+Sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh vốn đầu tư ban đầu giảm xuống
+Sau nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh VCĐ mới hoàn thành 1 vòng luân chuyển( khi TSCĐ hết thời
hạn sử dụng).VCĐ chỉ hoàn thành 1 vòng chu chuyển khi đã tái tạo được TSCĐ về mặt giá trị ,thu hồi
đủ KHTSCĐ.

VCĐ chỉ hoàn thành 1 vòng luân chuyển khi mà đã tái sản xuất TSCĐ về mặt giá trị tức là dn đã thu
hồi đủ tiền KHTSCĐ.Nếu chu kỳ kinh doanh dài mà quản lý lại lỏng lẻo thì dẫn đến thất thoát tài sản,
tài sản không phát huy được hết giá trị sử dụng , giảm năng suất lao động, ảnh hưởng trực tiếp đến
doanh thu của doanh nghiệp.
II. TÀI SẢN LƯU ĐỘNG VÀ VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
a. Khái niệm TSLĐ
+ TSLĐ : những đối tượng lao động trong doanh nghiệp như: nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu…
được gọi là tài sản lưu động của doanh nghiệp
+ TSLĐ là đối tượng lao động thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp mà đặc điểm của chúng là luân
chuyển toàn bộ giá trị ngay 1 lần vào chi phí sản xuất kinh doanh.
• TSLĐ của doanh nghiệp bao gồm:
+TSLĐ sản xuất: vật dự trữ đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành được bình thường liên tục như
nguyên nhiên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu sản phẩm dở dang, bán thành phẩm…
+TSLĐ lưu thông là những tài sản lưu động trong quá trình lưu thông như: thành phẩm chờ tiêu thụ,
vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán…
b.Đặc điểm TSLĐ
+ chỉ tham gia vào 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh đến chu kỳ sau lại phải dùng TSLĐ khác.
+ tham gia vào quá trinh sản xuất kinh doanh, TSLĐ không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu
+ Giá trị TSLĐ chuyển dịch toàn bộ 1 lần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra
• VLĐ
- Khái niệm VLĐ
VLĐ là biểu hiện bằng tiền toàn bộ TSLĐ của doanh nghiệp.
(VLĐ là số tiền ứng trước về TSLĐ hiện cps và đầu tư ngắn hạn của doanh nghiệp để đảm bảo cho sản
xuất kinh doanh được diễn ra bình thường, liên tục)
- Đặc điểm
+VLĐ tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh và luôn thay đổi hình thái biểu hiện
+VLĐ chuyển toàn bộ 1 lần vào giá trị sản phẩm đc sản xuất ra
+VLĐ hoàn thành 1 vòng luân chuyển( vòng tuần hoàn) sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh.
IV. TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
1. khái niệm

TCQT là hệ thống những quan hệ tài chính nảy sinh giữa các chủ thể của một nước với các chủ thể
của nước khác và với các tổ chức quốc tế, gắn liền với các dòng lưu chuyển hàng hóa và vốn trên
thế giới theo những nguyên tắc nhất định.
2. Vai trò :
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia hòa nhập vào nền kinh tế thế giới.
Với xu hướng khu vực hóa và quốc tế hóa đời sống kinh tế, hoạt động kinh tế quốc tế và TCQT
ngày càng mở rộng và phát triển đã tạo điều kiện cho các quốc gia tham gia vào nền kinh tế thế
giới với những lợi thế so sánh của mình về vốn, thị trường, công nghệ, nguồn nhân lực…


Bằng lợi thế so sánh đó, cá quốc gia có thể mở rộng các hoạt động đàu tư quốc tế trực tiếp hoặc
gián tiếp, tham gia vào các thị trường tiền tệ, thị trường vốn và thị trường hối đoái, mở rộng tín
dụng quốc tế,mở rộng thương mại, giao lưu buôn bán hàng hóa, dịch vụ với các nước khác.
- Mở ra cơ hội cho quốc gia phát triển kinh tế - XH.
Thực tế, thời đại ngày này, bất kỳ quốc gia nào dù giàu mạnh thế nào chăng nữa cũng không thể tự
mình giải quyết được mọi vấn đề, mà cần phải hòa nhập vào nền kinh tế quốc tế.
Với sự phát triển của TCQT như : tín dụng quốc tế, đầu tư quốc tế trực tiếp, viện trợ quốc tế, sự
mở rộng của thị trường TCQT, hoạt động thanh toán quốc tế,.. đã giúp các nước giải quyết được
những vấn đề riêng của mình như các vấn đề vốn, công nghệ, thị trường, lao động…
Không thể phủ nhận những vai trò cực kỳ quan trọng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, dòng
vốn hỗ trợ tài chính thức ODA, viện trợ của các tổ chức tài chính quốc tế đã góp phần làm nên
điều thần kỳ ở các nước Châu Á.
Như vậy, có thể nói rằng sẽ thật là thiếu sót nếu như khi nói tới sự phát triển và tăng trưởng kinh
tế của mỗi quốc gia mà không nhắc tới vai trò và sự đóng góp quan trọng của vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài,vốn hỗ trợ chính thức, viện trợ của các tổ chức tài chính quốc tế.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng của các nguồn lực tài chính
TCQT ngày càng mở rộng và phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho các dòng chảy vốn di
chuyển từ nơi dư vốn sang nơi thiếu vốn. Lợi ích của toàn cầu hóa đầu tư có thể thấy qua sự nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn toàn cầu và mở rộng khả năng phân tán các khoản đầu tư. Hiệu quả sử
dụng vốn tăng lên bằng cách tạo ra cơ hội đầu tư có lợi nhuận cao ở một số nước do thiếu vốn khả

dụng, trong khi một số nước thừ vốn nhưng cơ hội đầu tư lại có lợi nhuận thấp. Một lợi ích khác từ
lưu chuyển vốn quốc tế mạnh mẽ là sự mở rộng khả năng trang trải chi tiêu trong từng thời kỳ bằng
vốn cho vay và đi vay nước ngoài, nhờ vậy các quốc gia có thể vay mượn nước ngoài trong những
năm khó khăn và hoàn trả trong những năm thịnh vượng.
Tóm lại, TCQT có những vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - XH của mỗi
quốc gia.
V.
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1. Khái niệm :
TTTC là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán quyền sử dụng các nguồn tài
chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định.
2. Vai trò của TTTC
- vai trò trong việc thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài nước góp phần quan
trọng tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế - XH, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
- Vai trò thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính.
- Vai trò trong thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của nhà nước.
B. BÀI TẬP
Bài 1 :
Giải :
Nguyên giá TSCĐ = giá mua chưa thuế + chi phí vận chuyển bốc dỡ + chi phí lắp đặt
= 132 + 16 + 22
= 170 (trđ)
Mức khấu hao năm = Nguyên giá / thời gian sử dụng
= 170 / 5
= 34 ( triệu / năm )


Mức khấu hao tháng = Mức khấu hao năm / 12
= 34 / 12
= 2,93 ( triệu / tháng )

Bài 2 :
Cty X mua 2 xe ô-tô:
- giá mua mỗi xe chưa thuế : 891 trđ
- chi phí lắp đặt chạy thử mỗi xe : 9 trđ
- thời gian sử dụng 5 năm.
Giải :
Mức khấu hao hàng năm của 2 chiếc theo phương pháp bình quân
Nguyên giá = giá mua x số lượng + chi phí x số lượng
= 891 x 2 +9 x 2
= 1782 + 18
= 1800 ( trđ)
 Mức khấu hao năm = Nguyên giá / thời gian sử dụng
= 1800 / 10
= 180 ( trđ / năm )
 Mức khấu hao tháng = mức khấu hao năm / 12
= 180 / 12
= 15 ( trđ / tháng )



×