TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã chỉ ra, sự lãnh đạo của Đảng không phải là quyền
lực mà đảng tự đặt ra cho mình, cũng không phải do sự áp đặt đối với quần chúng, mà
phải do quần chúng thừa nhận một cách tự nhiên. Có như vậy, Đảng mới đoàn kết
được dân tộc, mới trở thành lãnh tụ của dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam tuân theo những quy
luật khách quan, đó chính là sự vận dụng, phát triển của phong trào công nhân kết hợp
với chủ nghĩa mác – Lênin và phong trào yêu nước của dân tộc. Bởi vậy, từ khi Đảng
xuất hiện theo quy luật vừa phổ biến vừa đặc thù đó đã đưa cách mạng Việt Nam vào
một bước ngoặt, mở ra một chân trời triển vọng mới cho dân tộc ta phát triển.
Có thể nói lịch sử thăng hoa của đất nước ta hôm nay gắn liền với lịch sử thăng
trầm sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ khi thành lập đến nay, nhờ
có lý luận tiên phong dẫn đường, Đảng đã dẫn đường nhân dân ta dành hết thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới (1986) đến nay,
Đảng đã có nhiều đóng góp trong sự nghiệp lý luận, đặc biệt là những luận điểm mới
chủ nghĩa xã hội và con đường chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong suốt quá trình đổi mới, nhìn chung công tác lý luận vẫn
không kịp sự phát triển của thực tiễn, vẫn không ít cấp ủy, tổ chức Đảng và đảng viên
chưa nắm chắc những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng. Thậm chí, ở một số nơi,
tình trạng này vẫn còn vô hiệu hóa các giải pháp có giá trị về nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tư tưởng của cấp ủy, các tổ chức Đảng. Do đó nâng cao tầm tư
tưởng và trí tuệ của Đảng trong giai đoạn mới hiện nay có ý nghĩa quyết định việc
thực hiện mục tiêu phấn đấu 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Đòi hỏi cần phải có một sự lãnh đạo của Đảng và sự hưởng ứng
nhiệt tình đông đảo quần chúng nhân dân thì đất nước mới hoàn thành sứ mệnh lịch
sử. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, thực hiện CNH – HĐH thì vai trò lãnh đạo của
Đảng càng mang tính thời sự và cấp thiết .
Xuất phát từ những lý do trên tôi nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trang 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2. Mục đích, yêu cầu
- Mục đích: Mỗi công dân Việt Nam cần phải xác định đúng đắn, nhìn nhận
được tầm quan trọng của vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt
Nam.
- Yêu cầu:
+ Phân tích và làm sáng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam (cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội chủ nghĩa).
+ Đánh giá một cách khách quan vai trò lãnh đạo của Đảng.
+ Đưa ra một số yêu cầu của Đảng ta trong giai đoạn mới hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: toàn thể quần chúng nhân dân Việt Nam trong giai đoạn
giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội chủ nghĩa.
4. Những đóng góp của đề tài
- Cung cấp cho bạn đọc thấy rõ hơn và toàn diện hơn về vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết và cũng như việc đánh giá đúng vị trí
vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lý luận kết hợp giữa phân tích và tổng hợp.
- Học tập phương pháp của Hồ Chí Minh: gắn lý luận với thực tiễn trong quá
trình cách mạng Việt Nam
Trang 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
1.1 Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam và ý nghĩa của
vấn đề trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
1.1.1 Hồ Chí Minh với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Hồ Chí Minh đã tiếp thu di sản của các bậc thầy là những luận điểm lớn về
cách mạng và phương pháp luận. Bản chất của lý luận Mac – Lenin là chống trì trệ
xương cứng, chống giáo điều rập khuôn, chống duy ý chí, trái quy luật , chống tách
rời cuộc sống, xa cách nhân dân. Đặc biệt thời kỳ từ thập kỷ 60 của thế kỷ XIX trở đi,
khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền – chủ nghĩa đế quốc, kéo theo trào lưu thực
dân, đè nén ba phần tư loài người, thì chủ nghĩa Mac – Lênin đã không ngừng được
làm giàu thêm bởi diển biến lịch sử ngày càng phong phú. Tuy nhiên, cũng như Mac –
Lênin sống và hoạt động chủ yếu ở châu Âu, không thể vượt qua hạn chế của lịch sử.
Trong 60 năm từ lúc sáng lập nhà nước Xô viết đến khi qua đời, Lênin đã có những
chỉ dẫn quan trọng, nở ra một thời đại mới cho các dân tộc thuộc địa, nhưng không thể
xây dựng hoàn chỉnh lý luận về cách mạng của các dân tộc bị áp bức đang bùng lên
giải phóng.
- Nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt nam bao giờ cũng phải đặt mỗi sự
kiện, mỗi vấn đề trong tổng lộ tuyến mà sự khởi đầu là cách mạng muốn thắng lợi
trước hết phải có đảng cách mạng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin và quốc
tế cộng sản. Đó là bài học cách mạng tháng mười Nga và từ học thuyết Mac – Lênin
Xét trên một ý nghĩa nào đó thì cơ sở lý luận và thực tiễn để thành lập một
Đảng cộng sản Việt Nam đã xuất hiện. Nhưng Hồ Chí Minh chư vội làm công việc
cực kỳ quan trọng – xác lập nhân tố hàng đầu để đua cách mạng Việt Nam thắng lợi.
Bởi vì những cơ sở nêu trên chưa phù hợp với thực tiễn mang tính đặc thù ở Việt Nam
khi mà giai cấp công nhân và phong trào công nhân còn nhiều hạn chế, đang ở trình
độ “tự phát”. Còn những thanh niên yêu nước Việt Nam rất hăng hái nhưng lại bế tắc
về đường lối cứu nước. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải chuẩn bị chu đáo về đường lối
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Sự chuẩn bị đó trước hết là việc nghiên cứu thấu đáo lý
luận Mac – Lênin về quy luật ra đời của một Đảng Cộng sản.
Trang 3
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mac – Lênin, Hồ Chí Minh người đã từng tham gia
sáng lập Đảng cộng sản Pháp vào cuối năm 1920 vẫn trăn trở nhiều vấn đề đặt ra trên
mảnh đất thực tiễn Việt Nam. Chẳng hạn: điều kiện thành lập Đảng Cộng sản ở nước
ta đã chín muồi chưa? Chủ nghĩa cộng sản có thâm nhập vào châu Á hay không? Lộ
trình thành lập Đảng như thế nào?... Hồ Chí Minh đã dành trọn khoảng thời gian 10
năm để nghiên cứu thấu đáo mọi vấn đề từ lý luận đến thực tiễn, qua khứ tới hiện tại,
phương Đông và phương Tây, các nước tư bản và thuộc địa, đặc biệt là cách thức hình
thành, tổ chức đội tiên phong của giai cấp tư sản và của cả dân tộc như thế nào. Bằng
trí tuệ và bản lĩnh của mình, Hồ Chí Minh đã có những sáng tạo lớn trong việc vận
dụng quy luật về sự ra đời của Đảng theo chủ nghĩa Mac – Lênin để hướng tới sự
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trên cơ sở đó, ngay từ năm 1921, Người bắt tay ngay vào việc đưa chủ nghĩa
Mac- Lênin đã được “Việt nam hóa” vào Việt Nam. Người tận dụng mọi cơ hội và
điều kiện như viết báo, sách, diễn đàn hội nghị và đại hội này.
Tuy nhiên, sự dễ dàng cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á
không đồng nghĩa với việc truyền bá nhanh chủ nghĩa cộng sản trong một thời gian
ngắn. Bởi vì, chính sách ngu dân của thực dân Pháp là một trở ngại lớn.
Trong tình đó cần thiết phải có sự giáo dục, giác ngộ mọi người, trước hết cho
lớp trẻ. Vấn đề có tính nguyên lý là mù chữ và ngu dốt thì sẽ đứng ngoài chính trị.
Trong thời gian này, một mặt Hồ Chí Minh phải nhanh chóng đưa cách mạng Việt
Nam vào quỹ đạo của cách mạng thế giới. Mặt khác, Người phải chuẩn bị về chính trị,
tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng. Trước sau người nhất quán quan điểm cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhưng quần chúng chỉ có sức mạnh thật
sự khi được thích tỉnh và giác ngộ. Muốn vậy phải có đường lối, có lý luận, có tổ
chức. Bởi vì “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Và
một khi lý luận đã thâm nhập vào quần chúng thì sẽ biến thành một lực lượng vật chất.
Muốn giác ngộ, vận động, tổ chức dân chúng, đoàn kết quốc tế thì phải có đảng cách
mạng.
Từ thực tế phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu XX
với nhiều tổ chức chính trị như Duy Tân hội, Việt nam Quang phục hội,Tâm tâm xã,
Việt Nam quốc dân Đảng... Hồ Chí Minh đã ra sự yếu kém của đường lối và tổ chức
Trang 4
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
cũng như phương pháp tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng. Các tổ chức đó
còn thiếu và yếu, chưa vạch ra được một đường lối và phương pháp cách mạng đúng
đắn theo hệ tư tưởng tiên tiến của thời đại, nên vẫn như đi trong hầm, không có lối ra.
Nhất định phải có Đảng cộng sản thay thế các tổ chức kiểu cũ theo hệ tư tưởng
phong kiến, tư sản, nhưng không phải thành lập ngay. Cách làm vội vàng khi người
dân chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết phải có đảng thì không những đêm lại kết quả
màu hậu quả khôn lường. Mười năm cho việc thành lập đảng có thể nhận thấy Hồ Chí
Minh đặc biệt sáng tạo trên máy phương diện sau:
Một là, đưa lý luận Mac – Lênin sau khi đã được “Việt Nam hóa” vào phong
trào cách mạng Việt Nam, bao gồm cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa Mac – Lênin với ý nghĩa là một học
thuyết mang bản chất cách mạng và khoa học, là thế giới quan là phương pháp luận,
cơ sở tư tưởng của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Chính phong trào
yêu nước theo khuynh hướng cách mạng vô sản với lực lượng cơ bản, đông đảo là
nông dân, tầng lớp tri thức, học sinh tiểu tư sản, có cùng mục tiêu với phong trào công
nhân là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc là một trong ba yếu tố tạo thành
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là, trong khi tuyên truyền lý luận Mac – Lênin vào Việt Nam, sau nhiều
bước “dọn dường” đến độ chín muồi, Hồ Chí Minh mới nói tới đảng. Nghiên cứu báo
thanh niên ta thấy rõ điều này. Từ số 1 ngày 21/6/1925, xuyên suốt lịch sử của mình
đến tháng 5/1927, báo thanh niên ra được 200 số. Hồ Chí Minh trực tiếp phụ trách 88
số đầu với ý nghĩa là tác giả, vừa tổng biên tập. Trong 88 số đó Người đã đề cập đến
nhiều vấn đề như mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ nghĩa đế quốc Pháp, giữa dân tộc
thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc nói chung. Khẳng định con đường cách mạng chống
con đường cải lương. Lực lượng cách mạng là toàn dân, lấy công nông làm gốc. Cần
phải có tinh thần cách mạng và phương pháp cách mạng đúng đắn...
Ba là, về mặt tổ chức, Hồ Chí Minh quan tâm tới loại tổ chức chưa phải là
Đảng Cộng sản, nhưng cũng không thể tổ chức kiểu cũ hay chỉ là tổ chức mang tính
chất đoàn thể đơn thuần. Sáng tạo của Hồ Chí Minh là lập ra Hội Vệt Nam cách mạng
thanh niên có “cộng sản đoàn” làm nòng cốt. Tổ chức này đóng vai trò là tổ chức tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính nhờ tổ chức này mà công tác đào tạo, bồi
Trang 5
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
dưỡng cán bộ được tiến hành kịp thời và với lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt
Nam, chủ nghĩa Mac – lênin càng có điều kiện ăn sâu bắn rễ trong phong trào công
nhân và phong trào yêu nước. Khi phong trào công nhân được ánh sáng cách mạng
tiên tiến của thời đại soi sáng thì ngày càng phát triển, yếu tố “tự phát” ngày càng rơi
rụng dần và yếu tố tự giác ngày càng tăng lên. Điều này có nghĩa là phong trào công
nhân đã có những chuyển biến trong chất lượng đấu tranh. Hội Việt Nam Cách Mạng
Thanh Niên đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, cần được thay thế bằng cộng sản
thực sự. Nhìn nhận lại vị trí, vai trò của tổ chức tiền thân này, trong báo cáo gửi quốc
tế cộng sản, ngày 18/2/1930 và ngày 5/3/1930, Người viết: “Hội An Nam Thanh niên
cách mạng do chúng tôi tổ chức từ năm 1925. Trên cơ sở đó, Người đ ã chủ động triệu
tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất lấy
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930, một cái tên vừa phản ánh được
nguyên lý và bản chất chung nhất là đảng công sản, vừa thể hiện nét đặc thù của dân
tộc Việt Nam. Chính vì vậy, sau 46 năm khi sự nghiệp giải phóng dân tộc hoàn toàn
thắng lợi, đất nước thống nhất, giang sơn quy về một mối, Đảng ta lại trở lại với tên
gọi Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.2 Ý nghĩa của vấn đề xây dựng Đảng.
Tư duy bao trùm về xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam trong sạch, vững
mạnh phải bắt nguồn từ luận điểm sáng tạo về sự ra đời của Đảng: “chủ nghĩa Mac –
Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong tào yêu nước đã dẫn tới việc thành
lập Đảng Cộng Sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. Luận điểm này phải được thấu
suốt trong việc vạch đường lối, lựa chọn, giáo dục rèn luyện đảng viên, nâng cao trình
độ đảng viên, thắt chặtquan hệ mật thiết giữa đảng với quần chúng, làm cho đảng ta
“là đạo đức, là văn minh”, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Cần nhận thức ý nghĩa của vấn
đề Đảng ra đời với công tác xây dựng Đảng hiện nay trên các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã đi từ “mảnh đất màu cờ” của dân tộc là chủ nghĩa
yêu nước ViệtNam đến chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa quốc tế vô sản , và ngay từ đầu đã
làm cho đảng bắt rễ sâu xa trong lòng dân tộc. Người đã giác dân tộc ngộ phát triển
đến giác ngộ giai cấp, kết hợp giác ngộ dân tộc với giác ngộ giai cấp để đi tới kết
luận: chủ nghĩa Mác – Lênin là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng, làm cho
Đảng có thể trở thành hình thức tở chức cao nhất của quần chúng lao động. Với việc
Trang 6
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
có thêm yếu tố mới là phong trào yêu nước , thì vai trò của chủ nghĩa Mac – Lênin là
mặt trời soi sáng con đường cách mạng của chúng ta. Theo người, Đảng muốn vững
phải có chủ nghĩa Mac- Lênin “làm cốt”. Bởi vì đó là học thuyết cơ sở tư tưởng, về tổ
chức, về lý luận chiến lược và sách lược của Đảng cách mạng. Chủ nghĩa Mac – Lênin
là lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng, làm cho Đảng có thể trưởng thành
hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thanh của trí tuệ, danh dự
và lương tâm của thời đại. Với bản chất cách mạng và khoa học, học thuyết Mác –
Lênin chỉ ra thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận đúng đắn cho giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Với việc có thêm yếu tố mới là phong trào yêu
nước, thì vai trò của chủ nghĩa Mac – Lênin càng quan trọng trong việc nâng cao trình
độ tư tưởng và trình độ chính trị đảng viên làm cho đảng viên theo đúng lập trường vô
sản.
Thứ hai, vai trò lãnh đạo của Đảng xây dựng trên xứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân và xây dựng đảng vững mạnh dựa vào chủ nghĩa Mac – Lênin. Đây là luận
điểm kinh điển về Đảng Cộng sản. Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vừa có
tính kinh điển vừa mạng tính đặc thù. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân, mặc dù từ năm 1930 Hồ Chí Minh đã chỉ ra “Đảng phải thu phục cho được
đại bộ phận” giai cấp công nhân. Đảng phải thu phục tập hợp đa số quần chúng nông
dân và các lực lượng khác với tiêu chuẩn chính là lòng chân thành yêu nước.
Nhận thức này có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng Đảng hiện nay. Trong khi
mở rộng biên độ thành phần xã hội, kết nộp những người ưu tú vào Đảng để tránh căn
bệnh cô độc, biệt phái , hệp hòi thì phải chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mac – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí làm cho Đảng toàn tâm, toàn ý theo chủ nghĩa Mac – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ ba, phải chỉ mở rộng thành phần xuất thân vào Đảng, mà một điều quan
trọng là đảng phải tăng cường chính sách đại đoàn kết. Học tinh thần Hồ Chí Minh từ
khi Đảng vừa ra đời và trong suốt quá trình Người cùng đảng lãnh đạo cách mạng,
hiện nay Đảng vẫn tiếp tục giương cao ngọn cờ đại đoàn kế dân tộc bằng cách thực
hiện đại đoàn kết người trong Đảng và người ngoài đảng, các dân tộc, tôn giáo, giai
cấp, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần,
xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai lấy mục tiêu giữ
Trang 7
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
vững độc, thống nhất, vì dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh
làm điểm tương đồng. Gốc rễ của vấn đề xây dựng, chỉnh Đảng hiện nay phải xuất từ
chỗ đó.
1.2 Đảng ta đối với cách mạng giải phóng dân tộc
Trong diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng lao
động Việt Nam, ngày 5 tháng 9 năm 1960 của Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “Cách
mạng là sự nghiệp quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp cá nhân anh hùng nào.
Thành công của Đảng là nơi ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của
nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân chiến đấu dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác –
Lênin”
Như vậy, khi bàn tới sự lãnh đạo của Đảng là bàn tới vai trò tổ chức, huy động
lực lượng cách mạng của quần chúng theo một đường lối, cương lĩnh đúng đắn, vừa
trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Thực
chất, đó là một quá trình đổi mới sáng tạo, phản ánh trí tuệ và bản lĩnh chính trị của
đảng trước những sóng gió của dân tộc và thời đại.
1.2.1 Đảng lãnh đạo cách mạng tháng tám thành công
Vấn đề hàng đầu của Đảng cộng sản thể hiện bản chất cách mạng và khoa học
của đội tuyên phong của giai cấp công nhân là đề ra đường lối cách mạng đúng đắn.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác – Lênin, trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên nêu
trong Hội nghị thành lập Đảng, Đảng đã nêu ra chủ trương “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cụ thể đó là nhiệm vụ
chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập và người có ruộng cày.
Cương lĩnh ấy hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng tha thiết của đại đa số nhân dân ta
là nhân dân, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn xung quanh
giai cấp mình. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta, Đảng của giai cấp công nhân –
không ngừng củng cố và tăng cường.
Ở thời điểm Đảng ta ra đời có một tổ chức chính trị tiêu biểu cho xu hướng
cách mạng dân chủ tư sản là Việt Nam Quốc dân Đảng cũng được thành lập
(12/1927). Tổ chức này thiếu một lý luận cách mạng tiên tiến làm cơ sở cho đường lối
và phương pháp cách mạng đúng đắn, lại không có chỗ dựa vững chắc trong quần
chúng công nông , cho nên Việt Nam Quốc dân đảng thiên về manh động và khủng bố
Trang 8
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
cá nhân. Sau khởi nghĩa Yên Bái (9/2/ 1930), Việt Nam Quốc dân Đảng với tư cách là
chính Đảng hoàn toàn phá sản.
Hồ Chí Minh ngây từ đầu đã hoàn toàn tin tưởng vào đảng cộng sản bởi vì việc
thành lập đảng chứng tỏ giai cấp vô sản đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng.
Vừa ra đời, Đảng đã tổ chức và lãnh đạo một phong trào quần chúng mạnh lớn
mà xưa nay chưa từng có ở nước ta – phong trào cách mạng 1930 – 1931. Đây là
phong trào đấu tranh nhân dân chống thực dân Pháp và tay sai. Riêng ở hai tĩnh Nghệ
An và Hà Tĩnh đã phát triển thành một cuộc biểu tình có vũ trang đánh đỗ chính
quyền địch ở nhiều địa phương, thành lập chính quyền cách mạng kiểu Xô Viết, tiến
hành chia ruộng cho nông dân cày, bài trừ mê tín dị đoan, trấn áp phản cách mạng,
ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân lao động.
Cao trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh thành
công trên nhiều mặt. Nó chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân
dân Việt Nam mà trước hết là khối liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Phong trào rèn luyện cách mạng tháng tám thắng lợi sau này. Đây có thể coi là phát
thảo đầu tiên là bài học vỡ lòng về chính quyền cách mạng, mà nếu không có nó thì sẽ
gặp rất nhiều khó khăn cho những bài học tiếp theo. Đồng chí Trường Chinh nhận xét:
”Thắng lợi lớn nhất của Đảng ta trong phong trào cách mạng năm 1930 – 1931 là
Đảng đã thực hiện được khối liên minh công nông, do đó đã giành được nhiều quyền
lãnh đạo cho giai cấp công nhân”.
Qua phong trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, uy
tín và ảnh hưởng của Đảng ta trong các nước thuộc địa đã tăng lên. Một trong những
biểu hiện cụ thể là trong phiên họp 11/4/ 1931, Hội nghị toàn thể lần thứ 11 của Ban
Chấp hành Quốc tế cộng sản đã quyết định Đảng cộng sản Đông Dương là một bộ
phận độc lập trực thuộc Quốc tế cộng sản. Đó là một vinh dự lớn đối với Đảng vừa ra
đời và hoạt động hơn một năm .
Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, nghiêm túc, thời kì 1930 – 1931 và
đến 1935 Đảng có những lúc có những nhận thức ấu trĩ về chính trị, khuynh hướng “
tải” , biệt phái và giáo điểu rập khuôn máy móc. Luận cương chính trị tháng 10/ 1930;
thư của Trung ương gửi cho các cấp đảng bộ ngày 9/12/1930...bên cạnh việc khẳng
Trang 9
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
định lại nhiều vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược cách mạng ở nước ta mà các văn
kiện trong hội nghị hợp nhất đã nêu lên, còn bộc lộ nhận thức máy móc về mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong xứ thuộc địa; không vạch được mâu thuẩn
giữa dân tộc Việt Nam với bọn xâm lược Pháp và tay sai của chúng, do đó không nêu
được vấn đề dân tộc lên hàng đầu, mà nặng về đấu tranh giai cấp. Việc nhận thức về
vai trò cách mạng của các giai cấp tư sản, tư sản dân tộc, nhận thức về khả năng phân
hóa giai cấp địa chủ...chưa thật đầy đủ, đúng đắn.
Ngay cả cao trào cách mạng 1930 – 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh, bên cạnh xây
dựng khối liên minh công nông vững chắc, Đảng ta chưa nhận thức đầy đủ vấn đề mặt
trận dân tộc thống nhất chống thực dân xâm lược và tay sai. Lúc bấy giờ, Đảng có chủ
trương lập Hội phản đế đồng minh, nhưng việc giáo dục cho đảng viên và tổ chức
thực hiện chủ trương ấy thì chưa có kết quả.
Mặc dầu bị tổn thương nặng nề, Đảng vẫn tồn tại, giữ được liên hệ với quần
chúng. Có ba điều cơ bản để khẳng định vấn đề này. Một là, đội ngủ đảng viên dù
trong tù hay hoạt động ngoài vẫn giữ được phẩm chất cách mạng, lòng trung thành
tuyệt đối với Đảng, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân lên trên lợi ích
cá nhân mình. Về mặt này Hồ Chí Minh đã tổng kết: “biến cái rủi thành cái may, các
đồng chí ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lí luận. Một lần
nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng
những không ngăn trở được bước tiến cách mạng, mà trái lại nó còn trở nên một thứ
lửa vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng càng cứng rắn. Mà kết quả là cách mạng
đã thắng đế quốc thua.”
Hai là, với ý chí kiên cường vô bờ bến của Đảng, sự giúp đỡ to lớn của quốc tế
cộng sản đã tăng cường thêm sức mạnh để Đảng dần dần khôi phục được tổ chức.
“tháng 6/1932 bản chương hành động của Trung ương lâm thời Chấp ủy Đảng cộng
sản Đông Dương ra đời. Bản Chương trình hành động có giá trị như một Cương lĩnh,
soi sáng các vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam trong thời điểm
trước mắt và lâu dài. Đó còn là bản tổng kết quan trọng về lý luận và kinh nghiệm
đấu tranh của Đảng ta từ khi bước lên vũ đài chính trị.
Ba là, từ năm 1932 phong trào cách mạng của quần chúngtrong cả nước với
nhiều hình thức và mức độ khác nhau đã bắt đầu phục hồi với việc gây dựng lại cơ sở
Trang 10
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đảng và các tổ chức quần chúng. Các cuộc đấu tranh của công nhân vẫn giữ vai trò
nòng cốt của trào.
Ý kiến dưới đây của Mácxit, trùm mật thám Pháp ở Đông Dương trong báo cáo
về Đảng Cộng sản Đông Dương từ tháng 10/1933 cho thấy rõ sự phục hồi của Đảng:
“việc tổ chức lại Đảng Đông Dương có đủ những yếu tố cần thiết cho sự mở rộng
nhanh chóng với sự thúc đẩy của những người lãnh đạo có năng lực. Có những người
lãnh đạo có năng lực như thế, và chúng ta không nghi ngờ họ sẽ cố gắng hết sức để
nối lại liên lạc với những tổ chức được xây dựng lại. Đảng Cộng sản Đông Dương lại
có những khả năng mới về tuyên truyền và hành động mà nó chưa hề biết đến từ cuộc
đàn áp năm 1931.”
Tuy nhiên, thiếu sốt của đại hội là “không nhạy cảm với tình hình mới , không
thấy rõ nguy cơ chủ nghĩa phát xít trên thế giới và khả năng mới để đấu tranh chống
phát xít, chống bọn phản động thuộc địa, đòi tự do, cơm áo, hòa bình. Do vậy, Đại
hội không đề ra chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược và biện pháp phù hợp với tình
hình mới”.
Tháng 7/1935, Đại hội lần thứ VII củ Quốc tế cộng sản được triệu tập ở
Matxcova, Báo câos chính trị của Đimitorop nhấn mạnh phải dựa vào khối liên minh
công nông, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chống chiến tranh,
đòi tự do dân chủ, cơm áo, hòa bình.
Dưới ánh sáng của Đại hội VII, Hôi nghị ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương họp tại Thượng Hải dưới sự chủ trì của Lê Hồng Phong đã
được triệu tập (7/1936), Hội nghị bổ sung Đại hội lần thứ nhất, chỉ đạo chuyển hướng
tổ chức và sách lược của Đảng theo tinh thần nghị quyết đại hội lần thứ VII của Quốc
tế Cộng sản.
Nghị quyết Hội nghị 7/1936 và các Hội nghị tiếp theo, một cao trào cách mạng
mới nổi lên ở Đông Dương – cao trào đấu tranh dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng;
đây là một cuộc vận động quần chúng rộng lớn và sôi nổi chưa từng thấy thời thời
Pháp thống trị. Về mục tiêu, các cuộc đấu tranh đòi hòa bình, dân chủ, dân sinh. Về
lực lượng quy tập được nhiều giai cấp và tầng lớp, cả nông thôn và thành thị. Hình
thức đấu tranh rất phong phú: công khai và bí mật, hợp pháp và không hợp pháp, đấu
tranh ngoài thành phố trong nghị trường... Thành quả cụ thể được thể hiện qua phong
Trang 11
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
trào đại hội Đông Dương; đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, báo chí, văn hóa trong đó
nỗi lên phong trào truyền bá chữ quốc ngữ. Đặc biệt là các cuộc đấu tranh của công
nhân và nông dân với những yêu sách thích hợp diễn ra trong phạm vi cả nước.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Thực dân Pháp thi hành chính sách
kinh tế, chính trị, quân sự thời chiến. Mâu thuẩn giữa thực dân Pháp với các dân tộc
Đông Dương ngày càng trở nên gây gắt. Tháng 9/1940, đế quốc Nhật xâm chiếm Việt
Nam và câu kết với thực dân Pháp để xâm chiếm nước ta. Tình hình mới đã dặt công
tác dành chính quyền thành nhiệm vụ trung tâm của Đảng.
Để kịp thời chuyển hướng đấu tranh, Ban chấp hành Trưng ương đã triệu tập
Hội nghị lần thứ VI (11/1939), thứ VII (11/1940), và sau khi Hồ Chí Minh về nước,
Người đã triệu tập và chủ trì hội nghị lần thứ VIII (5/1941).
Trong thời kì này Đảng đã có sáng tạo lớn là đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
lên hàng đầu , tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay
bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và việt gian chia cho dân cày
nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức. Như vậy vấn đề cách mạng đang từng bước ở
những mức độ khác nhau, nhưng trước mắt đều tập trung cho nhiệm vụ giải phong
dân tộc. Những vấn đề đó được giải quyết theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc tự
quyết. Đảng chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt thực hiện quyền dân tộc thống
nhất rộng rãi, ở Việt Nam đó là Mặt Trận Việt Nam độ lập đồng minh, gọi tắt là Việt
Minh. Các giới quần chúng được tổ chức và tập hợp thành các đoàn thể cứu quốc để
đoàn kết chặc chẽ mọi lực lượng yêu nước chống Phát xít và thực dân. Về mặt nhà
nước Đảng đã xác định, sau khi đánh đuổi thực dân Pháp, Nhật sẽ thành lập Việt Nam
dân chủ cộng hòa.
Dưới ánh sáng các nghị quyết Trung ương, việc vận động giải phóng dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng do Hồ chí Minh đứng đầu diển ra sôi nổi, khẩn trương.
Đảng đã xây dựng lực lượng quần chúng hùng mạnh ở cả nông thôn và thành thị, mà
nòng cốt là mặt trận Việt Minh. Đảng xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng và căn
cứ địa cách mạng, trên cơ sở lực lượng chính trị của quần chúng. Đảng cũng tập trung
lãnh đạo đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa, củng cố thống nhất trong Đảng,
tăng cường đội ngũ cán bộ đảng viên
Trang 12
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Sự lãnh đạo của Đảng rất kiên quyết và kịp thời, không do dự lưng chừng để bỏ
mất thời cơ. Đảng lãnh đạo toàn dân nổi dậy ở cả thành thị và nông thôn trong đó
khởi nghĩa ở ba đô thị lớn Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các thành phố quan trọng khác
giữ vai trò quan trọng. Nghệ thuật nắm giữ thời cơ và lãnh đạo của Đảng còn ở chổ
khởi nghĩa dành chính quyền ở nơi đầu não của kẻ thù là Hà Nội và các trung tâm
chính trị khác, trong lúc kẻ thù không kịp thời ra tay đối phó. Vì vậy, chỉ vòng trong
15 ngày, cuộc tổng khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn, nhanh gọn, ít đỗ máu.
Với cách mạng tháng tám thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Từ đây nhân dân lao động làm
chủ xã hội. Đây là thành quả lớn nhất mà cách mạng đã đêm lại cho nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Đảng ta cũng đáng tự hòa là Đảng cộng sản đầu tiên trên thế giới
mới mười lăm tuổi trưởng thành Đảng cầm quyền trên toàn quốc.
Có được độc lập - tự do – dân chủ như bản tuyên ngôn độc lập nhấn mạnh là
thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa
Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó chứng tỏ rằng chủ nghĩa Mác –Lênin
có thể áp dụng thành công ở một nước thuộc địa.
1.2.2 Đảng lãnh đạo giữ vững, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân và
kháng chiến kiến quốc thành công.
Trong khi nhân dân cả nước đang khởi nghĩa dành chính quyền, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhắc lại lời của Lênin: “giành chính quyền khó, giữ chính quyền khó
hơn”.
Cách mạng tháng tám thành công được ít lâu thì thực dân Pháp lại gây chiến
tranh xâm lược. Hồi đó, nước ta đang ở trong hoàn cảnh cực khó khăn sau nạn đói
khủng khiếp do đế quốc Pháp và phát xít Nhật gây ra, nhân dân ta chưa lại sức, 95%
dân ta bị mù chữ. Nhiều loại kẻ thù ngoại xâm liên kết với bọn phản động trong nước
với số lượng hàng chục vạn tên cùng chung mục đích đánh đổ chính quyền cách mạng
. Nền kinh tế lạc hậu nghèo nàn xơ xác. Quân đội thì nhỏ bé ít kinh nghiệm và thiếu
mọi thứ. Chính quyền cách mạng đang ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Tuy vậy,
Đảng chủ trương kiên quyết bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, chuẩn bị lực
lượng kháng chiến, vừa ra sức bồi dưỡng mọi mặt của nhân dân, và vừa lãnh đạo đánh
giặc.
Trang 13
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Theo tinh thần chỉ thị kháng chiến kiến quốc và nhiều chỉ thị quan trọng khác,
Đảng ta lãnh đạo nhân dân cả nước dành thắng lợi nhiều nhiệm vụ quan trọng về
chính trị, quốc phòng, kinh tế - tài chính, văn hóa, giáo dục, ngoại giao... Thành công
của Đảng là ở chỗ biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, triệt để lợi
dụng mâu thuẩn trong nội bộ kẻ thù, nhân nhượng có nguyên tắc. Đảng nắm vững và
giải quyết tốt mối quan hệ giữa mục tiêu cách mạng trước mắt và lâu dài. Trên cơ sở
đó, Đảng đã lãnh đạo đấu tranh giữ vững được chính quyền cách mạng, đẩy mạnh
kháng chiến ở miền Nam, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân
pháp xâm lược trên quy mô cả nước.
Khi chính phủ pháp phản bội những hiệp ước đã kí với ta và gây ra cuộc chiến
tranh xâm lược trên phạm vi cả nước thì Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
quyết tâm: “chúng ta thà hi sinh tất cả , chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ. Trong chín năm kháng chiến, bắt đầu từ lời kêu gọi kháng chiến
của chủ tịch Hồ Chí Minh, từng bước Đảng hoàn thiện đường lối kháng chiến. Ngày
22/12/1946 Ban thường vụ Trưng ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến. Tháng
9/1947, với cương vị tổng bí thư Đảng, đồng chí Trường Chinh xuất bản tác phẩm
kháng chiến nhất định thắng lợi. Vào đầu năm 1951, đại hội lần thứ II của Đảng Cộng
sản Đông Dương họp (từ ngày 11-19/2 tại Tuyên Quang). Đến đây, đường lối kháng
chiến cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược,
giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến làm
cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa
xã hội.
Khi kẻ thù buộc ta phải cầm súng, Đảng và Hồ Chí Minh đã phát động kháng
chiến đúng lúc, định ra được những quan điểm cơ bản trong đường lối kháng chiến.
Quá trình hoạch định đường lối và chỉ đạo kháng chiến, Đảng luôn giữ vững tinh thần
độc lập, tự chủ, sáng tạo, gắn cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam với việc bảo
vệ hòa bình thế giới; gắn nhiệm vụ đưa kháng chiến tới thắng lợi hoàn toàn với con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh khẳng định: “lần đầu trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu
đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân
dânViệt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của lực lượng hòa bình, dân chủ và xã
Trang 14
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
hội chủ nghĩa trên thế giới. Một lần nũa chủ nghĩa Mac – Lênin đã soi sáng cho giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam kháng chiến cứu quốc thành công, giữ gìn thành
quả cách mạng của mình”.
1.2.3 Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội
và tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.
Từ ngày hòa bình được lập trên miền Bắc, Việt Nam đứng trước một tình hình
mới: đất nước tạm thời chia làm hai miền. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng và từng
bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam bị đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai thống trị.
Đế quốc Mỹ là tên đầu sỏ, hùng mạnh,có âm mưu làm bá chủ thế giới. Đối với nước
ta, chúng có âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự để mở rộng
chiến tranh ra cả khu vực. Chúng khủng bố một cách cực kì dã man những người yêu
nước Việt Nam. Chúng trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevo, cự tuyệt hiệp thương
để bàn việc tổng tuyển cử tự do và hòa bình thống nhất đất nước Việt Nam.
Lại một lần nữa, lịch sử và dân tộc đòi hỏi Đảng phải phát huy trí tuệ và bản
lĩnh cách mạng, huy động các bài học kinh nghiệm thành công trước đây để xây dựng
đường lối chiến lược mới. Trên cơ sở kết hợp hài hòa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc
tế, dám chịu trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc, điều quan trọng là giữ vững tinh
thần độc lập tự chủ trong xác định đường lối chiến lược của cách mạng từng miền
cũng như cách mạng cả nước.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “đại hội lần thứ III (9/1960) là Đại hội xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
Nội dung đường lối chiến lược cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là tiến
hành đồng thời và kết hợp chặt chẻ hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng khác nhau ở
hai miền là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền nam. Cuộc cách mạng ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với
sự nghiệp phát triển toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất
nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam có tác dụng quyết định
trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền nam ra khỏi ách thống trị đế quốc Mỹ và
tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất đất nước, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Trang 15
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Trí tuệ và bản lĩnh của Đảng được thể hiện trong giai đoạn này là ở chỗ “Đảng
tìm ra lời giải đúng đắn nhất cho bài toán khó khăn chừng nan giải trong bối cảnh
trong nước và quốc tế vô cùng phức tạp do phải đương đầu trực tiếp với đế quốc Mỹ,
tên đế quốc đầu sỏ thế giới lúc đó đang nắm trong tay ưu thế vũ khí và dựa vào ưu thế
đó để hù dọa thế giới”.
Nhờ có sự sáng tạo trong việc nắm vững và kết hợp đúng đắn về vấn đề độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân miềm Nam đã thắng lợi, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Nói tới sự lãnh đạo của Đảng là nói tới đường lối và phương pháp cách mạng đúng
đắn và sáng tạo, kết tinh trí tuệ và bản lĩnh của một đảng trải qua bốn lăm năn từ lúc
ra đời, đã được tôi luyện và tôi thành qua nhiều cuộc tổng diển tập. Giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã quy tụ sức mạnh của nhân dân và
lực lượng vũ trang cả nước; khơi dậy được sức mạnh chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, sự đoàn kết liên minh chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương, tranh thủ
sự ủng hộ quốc tế.
Xuất phát từ đặc điểm của thời kỳ quá độ, Đảng ta xác định: “nhiệm vụ quan trọng
nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, đưa miên Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là
nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
Theo tinh thần đó, Đảng ta đã lãnh đạo thực hiện khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội
chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế văn hóa, thực hiện kế hoạch năm năm thứ
nhất, chuyển hướng xây dựng kinh tế khi đế quốc Mỹ chiến tranh phá hoại.
1.2.4 Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước và
bảo vệ Tổ quốc
Sau đại thắng 30/4/1975, cả nước độc lập thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Lộ trình đã được Đảng xác định ngay khi Đảng ra đời và
trở thành đường lối chiến lược nhất quán không hề thay đổi.
Nhìn chung bước vào giai đoạn mới chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản, song
cũng gặp rất nhiều khó khăn chồng chất, về mặt nào đó còn đáng lo ngại hơn các thời
Trang 16
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
kỳ trước. Trước hết phải thấy “đặc điểm to hất của tatrong thời quá độ là một nước
nông nghiệp lạc hậu, vốn là thuộc địa kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc
hậu, trãi qua hàng chục năm chiến tranh tàn phá... tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội
không qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa, vẫn tiếp tục chi phối. Tình hình thế giới
diển biến khôn lường. Vào những năm cuối thập niên 80 trở đi, các nước xã hội chủ
nghĩa lâm vào khủng hoảng và đi tới thoái trào. Điều đó tác động tiêu cực tới phong
trào cách mạng bằng nhiều thủ đoạn thâm đoạn thâm độc hòng thủ tiêu toàn bộ chủ
nghĩa xã hội. Tình hình đó đặt cho Đảng ta nhiều vấn đề cần được xem xét suy nghĩ
một cách nghiêm túc. Vấn đề đối Đảng và dân tộc ta sau khi tổ quốc độc lập, thống
nhất không phải là lựa chọn con đường khác, mà vẫn kiên trì kiên định và trung thành
với con đường tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa – con đường đã được lịch sử
lựa chọn từ năm 1920 và thực tiễn cách mạng Việt Nam qua 45 năm từ khi Đảng ra
đời chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng điều mà Đảng trăn trở theo di huấn của
Hồ Chí Minh là: “Nếu độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng bao giờ có ý nghĩa lý gi?”. Chúng ta tranh được tự do, dân cứ chết đói, chết rét,
thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà
dân được ăn no, mặc đủ”. Một trong những nỗi bận tâm của Hồ Chí Minh lúc sinh
thời là: “Hễ còn có một người Việt Nam bị bốc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau
thương, cho đó là vì mình chưa làm trọn nhiệm vụ. Cho nên Đảng vừa lo tính công
việc lớn như đổi nền kinh tế và văn hóa lạc hậu của nước ta thành một nền kinh tế tiên
tiến, đồng thời lại luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối
cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân”.
Điều cần ghi nhận trong 10 năm đầu sau ngày miền hội Nam hoàn toàn giải
phóng, tuy vẫn đi theo mô hình kinh tế cũ với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sớm
phá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa – và do vậy thành tựu kinh tế chưa
nổi bật, nhưng đây là thời kỳ “ló cái khôn”. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo từ những
ngày cách mạng, kháng chiến lại được Đảng phát huy trong sự nghiệp kinh tế, xây
dựng đất nước.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ghi nhận hội nghị lần thứ VI (khóa VI) tháng
8/1979 với chính sách làm cho sản xuất “bung ra” chống tập trung quan liêu, chú
trọng lợi ích nhà nước, tập thể và cá nhân người lao động, lấy năng suất lao động, sự
Trang 17
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
phát triển của sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân làm tiêu chuẩn đánh giá sự
đúng đắn của chính sách – đánh dấu mốc mở đầu cho quá trình đổi mới của Đảng.
Từ 1986 đến nay, Đảng lãnh đạo cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội theo đường
lối đổi mới.
Như trên đã trình bày, đến năm cuối của thập kỷ 70, nền kinh tế xã hội nước ta
đi dần vào một cuộc khủng hoảng và mặc dù Đảng đã có nhiều nổ lực, cố gắng, nhưng
đất nước chưa tiến xa được bao nhiêu. Từ giữa thập kỷ 80 trở đi, nền kinh tế - xã hội
nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Thực tiễn đặt ra một yêu cầu khách quan, bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với
sự nghiệp cách mạng ở nước ta là phải đổi mới mạnh mẽ. Trở lại lịch sử cách mạng từ
khi có Đảng, một bài học lớn được rút ra là: đổi mới, sáng tạo trên tinh thần độc lập,
tự chủ thì cách mạng thắng lợi. Dám nghĩ, dám nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự đánh
giá khách quan, chính xác thực trạng đất nước, nhận ra cái sai để sửa, chính là động
lực cho sự phát triển. Đó là chân lý, là cuộc sống. Bác Hồ đã viết ra từ năm 1947:
“một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng có gan thừa nhận khuyết
điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh
sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sữa chữa khuyết điểm đó. Như thế là
một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.
Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình để dạy dỗ đảng
viên, dạy dỗ quần chúng. Sợ phê bình, tức là “quan liêu hóa”, tức là tự mãn, tự túc, tức
là “mèo khen mèo dài đuôi”.
Đảng đã hoàn toàn đúng khi trong quá trình thực hiện đổi mới đã đứng vững
trên nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Về vấn đề
này – trên cơ sở nhận thức bước đầu bước đầu từ thập kỹ năm mươi – đến Đại hộiVI
(12//1986), Đảng ta khẳng định: “muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản
chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa di sản đáng quý về
tư tưởng và lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với quyết tâm đổi mới tổ chức lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và
khoa học, trên cơ sở đánh giá đúng mức thành tựu, đồng thời nhìn thẳng vào sự thật,
đi sâu phân tích những tồn tại và nghiêm tức tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm
trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, Đảng có ý thức rút ra những bài học kinh nghiệm
Trang 18
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
lớn có ý nghĩa quan trọng trong từng nhiệm kỳ Đại hội mà một trong những bài học
quan trọng nhất là “đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công
của sự nghiệp đổi mới”.
Từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới đến nay, xuất phát từ việc tổng kết thực
tiễn Việt Nam và thế giới, nghiên cứu lý luận, trung thành với việc học thuyết Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, kế thừa tinh hoa dân tộc tiếp thu trí tuệ của thời đại, bám sát vào thực tiễn và dựa
vào dân, Đảng đã từng bước thực hoàn thiện đường lối đổi mới. Tính đúng đắn của
đường lối thể hiện ở chổ từng bước Đảng tìm ra được lộ trình của cách mạng Việt
Nam, phản ánh quy luật khách quan của sự phát triển đất nước.
Đường lối đúng không chỉ thể hiện một đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức
đúng đắn mà điều quan trọng là đường lối đó đã huy động được quần chúng nhân dân
đông đảo với một sự chân thành, tự giác thật sự “dân tin, dân phục, dân yêu” dân đi
tận cùng sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Và cuối cùng phải được nhìn nhận
bằng nhiều thành tựu cụ thể theo nguyên lí thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Đại hội IX của Đảng ghi nhận cho đến năm 2000 chúng ta đã đạt được những
thành tựu quan trọng; kinh tế tăng trưởng; văn hóa – xã hội cơ bản ổn định, quốc
phòng và an ninh tăng cường. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ
thống chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội
nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Tuy nhiên, Đại hội cũng thẳng thắng chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm: Nền
kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Một số vấn đề văn
hóa – xã hội bức xúc và gây gắt chậm được giải quyết. Cơ chế chính sách không đồng
bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Tình hình tham nhũng suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất
nghiêm trọng.
Gần đây, đầu năm 2004, Hội nghị lần thứ IX ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam đã được tiến hành từ ngày 5 – 12/1/2004 tại thủ đô Hà Nội, Hội
nghị lần này có nhiệm vụ quan trọng đặc biệt kiểm điểm nữa nhiệm nữa nhiệm kỳ
thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những việc
làm được và chưa làm được, phân tích rõ nguyên nhân. Hội nghị khẳng định những
Trang 19
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
thành tựu là “kết quả phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện Nghị
quyết Đại hội IX, trong đó có vai trò quan trọng của sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng
từ Trung ương đến địa phương”.
Nhìn nhận như vậy để thấy rằng trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi thành
tựu và hạn chế của sự nghiệp cách mạng đều liên quan tới sự lãnh đạo của Đảng.Theo
tinh thần và tư tưởng của Hồ Chí Minh, lúc nào Đảng ta giữ vững được “đạo đức và
văn minh” thì sẽ thực hiện được “thống nhất, độc lập, hòa bình, ấmno”. Khi nào
chúng ta không làm đúng lời dạy của Người, thì sẽ gặp khó khăn, hạn chế sự phát
triển.
Chương 2. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt
Nam
2.1. Đảng với công cuộc đổi mới ở nước
Năm 1954, sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng dân tộc dân chủ, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hóa tập
trung. Trong buổi đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là cả nước có chiến tranh, mô
hình kế hoạch hóa tập trung đã phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên, sau khi hoàn
thành cách mạng dân chủ trong cả nước, đất nước thống nhất và cùng đi lên chủ nghĩa
xã hội, những hạn chế của mô hình đó dần dần được bộc lộ, Đảng và nhà nước ta đã
đề ra chủ trương, biện pháp để khắc phục như nghị quyết Trung ương sáu cho sản xuất
bung ra, chỉ thị 100 của Trung ương Đảng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp,...
Những giải pháp đó tuy có tác dụng tích cực nhất định, nhưng vẫn không giải quyết
được tình hình. Đất nước đã rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng. Vào
lúc đó, Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đang rơi vào khủng hoảng
kinh tế - chính trị. Trong bối cảnh lịch sử đó, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới, chuyển từ mô hình kế hoạch tập trung
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trang 20
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đường lối đổi mới của Đảng ta đề ra tại Đại hội lần thứ VI đánh dấu một bước
chuyển biến có tính cách mạng trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hộiở nước ta. Đổi mới, theo quan điểm của đảng ta, không phải là
thay đổi mục tiêu xã hội, mà trên cơ sở chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, từ điều kiện của đất nước và từ những bài học kinh nghiệm rút ra từ bài học
thực tiễn để xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Đường lối đổi mới của Đảng được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội được
thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), Đảng ta đã nêu ra mô
hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta với sáu dặc trưng cơ bản:
- “ Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triênr cao dựa trên lực lượng ản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bốc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”.
Đường lối đổi mới của Đảng bắt nguồn từ những mâu thuẫn nảy sinh trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội từ những tìm sáng tạo của quần chúng, từ những bài
học kinh nghiệm vận dụng chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều
kiện cụ thể của nước ta. Đó là cơ sở để Đảng ta định ra đổi mới một cách đúng đắn.
Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc
đổi mới ở nước ta
Công cuộc đổi mới ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn: đất nước đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội; kinh tế tăng
trưởng khá nhanh; văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện; tình hình chính trị - xã hội về cơ bản ổn định, quốc phòng và
an ninh được tăng cường, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, thống
chính trị được củng cố; quan hệ đối ngoại không ngừng mở rộng, hội nhập kinh tế
Trang 21
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
quốc tế tiến hành chủ động và đạt kết quả. Đường lối đó dựa trên những nguyên tắc
sau:
Thứ nhất, đảng lối đổi mới của đảng ta luôn luôn giữ vững mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên nền tảng chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đây là vấn đề có tính chiến lược trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của
Đảng. Đó là con đường vừa đảm bảo giải phóng dân tộc, vừ giải phóng con người
khỏi áp bức bốc lột, bất công.
Thứ hai, đường lối đổi mới của Đảng ta luôn luôn xuất phát từ dân, dựa vào
dân , phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Tại đại hội lần thứ IX, Đảng
ta đã khẳng định: “đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ich của nhân dân”. Chính
đường lối đó đã phát huy được sức mạnh to lớn của toàn dân, lực lượng quyết định
mọi thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng do đảng lãnh đạo.
Thứ ba, đường lối đổi mới của Đảng ta luôn luôn dự trên cơ sở giữ vững độc
lập tự chủ, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác với các nước khác theo
nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Đường lối đó hoàn toàn phù hợp với đất nước trong
thời đại ngày nay, nó cho phép kết hợp được sức mạnh của toàn dân và sức mạnh của
thời đại trong công cuộc đổi mới.
Thứ tư, đường lối đổi mới của Đảng ta luôn luôn đảm bảo đổi mới một cách
toàn diện, sâu sắc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong đó, đổi mới kinh tế là
trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới về chính trị và các mặt khác của đời sống xã
hội. Điều đó đã phản ánh một cách đúng đắn mối quan hệ giữa các mặt đời sống và xã
hội trong quá trình đổi mới; nó đảm bảo công cuộc đổi mới giành được thắng lợi toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Thứ năm, trên cơ sở xác định đúng mục đích mục tiêu, đường lối đổi mới của
đảng luôn luôn có chú ý lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp. Đảng luôn luôn
chúng lại hai khuynh hướng: khuynh hướng bảo thủ, trì truệ, chậm đổi mới và khuynh
hướng nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Đây là sự thể hiện tài tình việc kết hợp giữa bản
lĩnh chính trị và nghệ thuật lãnh đạo cách mạng của đảng ta.
Đó là những nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho Đảng ta xây dựng Đảng mới một
cách đúng đắn, đảm bảo công cuộc đổi mới đi đến thành công.
Trang 22
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.2 Đánh giá đúng thực trạng đất nước, nhiệm vụ và mục tiêu của Đảng
trong hoạch định đường lối đổi mới.
2.2.1 Đánh giá đúng thực trạng đất nước.
Lênin đã tưng nói: “Mục đích của con người là do thế giới quan sinh ra, lấy thế
giới khách quan làm tiền đề”. Vì vậy, những người cộng sản khi hoạch định đường lối
phải hết sức khách quan trong đánh giá tình hình, phải tính đến mọi lực lượng, mọi
giai cấp và tính đến cả kinh nghiệm các phong trào cách mạng. Theo người: “Đối với
một chính đảng vô sản, không có sai lầm nào nguy hiểm hơn là định sách lược của
mình theo ý muốn chủ quan... Định ra sách lược vô sản trên cơ sở đó có nghĩa là làm
cho sách lược bị thất bại”. Nhất quán với tư tưởng đó, Hồ Chí Minh khẳng định: “khi
đặt kế hoạch phải nhìn từ xa. Có nhìn từ xa mới quyết định đúng đắn thời kỳ nào phải
làm công việc là chính. Phải thấy rộng. Có thấy thấy rộng mới sắp đặt các nghành
hoạt động một cách cân đối” vì vậy: chúng ta phải nâng sự tu dưỡng về chủ nghĩa
Mac – lênin để dùng lập trường quan điểm, phương pháp Mác – Lênin mà tổng kết
kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm ở nước ta.
Như vậy, lý luận Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đều khẳng định vị trí,
vai trò, tầm quan trọng của việc đánh giá đúng thực trạng đất nước khi hoạch định
đường lối. Tuy nhiên, đó là công việc khó khăn và vô cùng phức tạp. Lúc tình hình
phát triển bình thường, việc đánh giá đúng thực trạng đất nước đã là khó, khi tình thế
thế giới có những biến đổi nhanh chóng và phức tạp, công việc đó lại càng khó khăn
hơn. Thực tế cho thấy, không phải Đảng nào và trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng có
những nhận định, đánh giá đúng đắn về thực trạng đất nước. Nhận định, đánh giá
đúng sẽ đề ra được những chủ trương, phương hướng hành động đúng, cách mạng sẽ
giành thắng lợi. Ngược lại, nhận định, đánh giá sai sẽ không thể có được chủ trương,
phương hướng hành động đúng, khi đó cách mạng sẽ không sao tránh khỏi những khó
khăn tổn thất, thậm chí thất bại.
Nhìn lại lịch sử các nước xã hội chủ nghĩa trước đây chúng ta thấy rằng, khi
bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hầu như các nước nào cũng phạm phải
sai lầm chủ quan, duy ý chí, muốn đi theo đường thẳng, đi nhanh, không tính toán đầy
đủ đến những điều kiện thực tế và quy luật khách quan. Đó chính là nguyên nhân chủ
Trang 23
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
yếu khiến hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội ngày càng trầm trọng, bắt đầu từ cuối những năm70 của thế kỷ XX.
Điều đáng chú ý là mặc dù khủng hoảng kinh tế - xã hội đã từng xảy ra và kéo
dài trong nhiều năm, diển biến hết sức phức tạp, nhưng bản thân của Đảng Cộng sản ở
các nước xã hội chủ nghĩa thời đó vẫn không có được nhận thức đúng đắn về vấn đề
này. Khủng hoảng vẫn chỉ được coi như bệnh kinh niên, là bạn đường của chủ nghĩa
tư bản; còn chủ nghĩa xã hội với bản chất ưu Việt của nó thì không thể có khủng
hoảng. Chính lối tư duy bảo thủ, giáo điều đó đã kiềm hãm mọi nổ lực sáng tạo, triệt
tiêu nhiều động lực phát triển và vì thế, các Đảng Cộng sản đã không có những chủ
trương, biện pháp để ứng phó kịp thời với tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Phải đến những năm nữa cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, khi mà khủng hoảng kinh
tế - xã hội đã phát triển tiến mức trầm trọng, có nguy cơ đe dọa sự sống còn của các
Đảng Cộng sản và của chủ nghĩa xã hội, Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa mới
thừa nhận có khủng hoảng.
Phát hiện ra khủng hoảng và thừa nhận có khủng hoảng ở các nước xã hội chủ
nghĩa tuy muộn nhưng dẫu sao cũng là một dấu tích cực của Đảng Cộng sản khi đánh
giá về thực trạng của đất nước. Song, điều quan trọng có ý nghĩa chính là thái độ, bản
lĩnh của Đảng Cộng sản khi nhìn nhận, đánh giá về khủng hoảng như thế nào, phương
pháp xử lí, và khắc phục ra sao. Lênin đã từng nói: “thái độ của một chính Đảng trước
những sai lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn
nhất để xem xét đảng ấy có nghiêm túc hay không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ của
mình đối với giai cấp mình đối với quần chúng lao động không. Công khai thừa nhận
sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những sai lầm , phân tích
hoàn cảnh đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sữa chữa sai lầm ấy,
đó là dấu hiệu một Đảng nghiêm túc, đó là Đảng làm tròn những nhiệm vụ mình”.
Quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa Mac – lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đồng thời trước những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, dân tộc và đất nước, Đại hội lần
thứ VI đã khẳng định: “Thái độ của đảng ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Với quan điểm đó, Đại hội cho rằng,
5 năm qua (1981 – 1986) là đoạn đường đầy thử thách đối với cách mạng nước ta.
Thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu do Đại hội V củaddangr đề ra, nhân dân ta đã
Trang 24
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
anh dũng phấn đấu, khắc phục khó khăn, vượt qua trở ngại, đạt được những thành tựu
trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã dành được những thắng lợi to lớn trong
cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ an ninh – chính trị và làm tròn nghĩa vụ quốc
tế. Những thắng lợi và thành tựu đó đã tạo cho sự nghiệp cách mạng nước ta những
nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.
Cùng với việc đánh giá đúng mức những thành tựu và thắng lợi dã đạt được,
Đại hội đã chú trọng kiểm điểm những mặt yếu kém trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt
trên lĩnh vực kinh tế - xã hội. Mặc dù lúc đó có cụm từ “khủng hoảng kinh tế - xã hội”
chưa được dùng trong văn kiện, nhưng đại hội đã phân tích chỉ rõ những biểu hiện của
tình trạng đó: sản xuất tăng trưởng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, năng xuất
lao động giảm và chất lượng sản phẩm kém; phân phối lưu thông luôn trong tình trạng
rối ren, căng thẳng lạm phát tăng, bội chi ngân sách lớn; nền kinh tế mất cân đối
nghiêm trọng; đời sống của nhân dân rất khó khăn; hiện tượng tiêu cực trong xã hội
phát triển...
Thực trạng kinh tế - xã hội nói trên đã từng diển ra trong nhiều năm, Đảng ta
cũng nhiều lần kiểm điểm, đánh giá tìm nguyên nhân. Nhưng khác với các đại hội
trước, Đại hội VI không đi sâu trình bày, phân tích những nguyên nhân khách quan,
cho dù đó là những khó khăn rất lớn như Đại hội khẳng định mà “điều quan trong là
phân tích sâu sắc những nguyên nhân chủ quan, nêu rõ những sai lầm, khuyết điểm
trong hoạt động của Đảng và nhà nước”. Đồng thời khi phân tích những sai lầm
khuyết điểm, Đảng ta đã không đơn giản một chiều, mà phân tích cụ thể, xác định
mức độ, tính chất và chỉ ra đúng nguồn gốc nảy sinh sai lầm, khuyết điểm.
Theo tinh thần đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những sai
lầm, khuyết điểm trong hoạt động lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Đó là: sai lầm
trong đánh giá tình hình, xác định mục tiêu bước đi; trong bố trí cơ cấu kinh tế; trong
cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đổi mới cơ chế quản lí kinh tế; sai lầm trong việc giải
quyết vấn đề phân phối lưu thông; còn buông lỏng chuyên chính vô sản. Những sai
lầm khuyết điểm đó liên quan chặt chẽ, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Đó là những
sai lầm đồng thời cũng là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Về tính chất, mức độ và khuynh hướng tư tưởng của những sai lầm, đại hội cho
rằng, đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai
Trang 25