Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tổng quan về chất thải nguy hại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.6 KB, 56 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
TIỂU LUẬN MÔN:
ĐỀ TÀI:





TP.HCM, tháng 5, năm 2011
1

Để hoàn thành tốt bài tiểu luận này, chúng em xin chân thành cảm ơn:
- Thầy hiệu trưởng trường Đại học công nghiệp TPHCM đã tạo
cơ sơ vật chất và điều kiện học tập tốt cho chúng em
- Thầy đã tận tình giảng dạy em bộ môn
“Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại” và hướng dẫn chúng em
làm bài tiểu luận này
- Các thầy cô trong thư viện trường đã giúp đỡ tạo điều kiện tốt cho
chúng em trong suốt quá trình tìm tài liệu
- Viện KHCN- QL Môi Trường đã cung cấp tài liệu học tập chuyên
ngành cho chúng em .
Chúng em xin chân thành cảm ơn.
2
Môi trường là một trong những yếu tố
vô cùng quan trọng và cần thiết với mỗi con người và mỗi quốc gia. Nó là nền tảng
của sự tồn tại và phát triển bền vững của xã hội, bất cứ hoạt động gì của con người
cũng diến ra trong môi trường và vì thế nó có những tác động nhất định tới môi
trường. Hiện nay với sự bùng nổ dân số trên toàn cầu và tốc độ công nghiệp hóa cao
đã gây ra những tổn thất to lớn cho môi trường. Những tốn thất này đang là mối đe


dọa cho toàn nhân loại. Chính vì vậy một trong những vấn đề mang tính toàn cầu
hiện nay là những biện pháp bảo vệ hiệu quả nhất cho môi trường của trái đất. Việt
Nam cũng không tránh khỏi những vấn đề nan giải về môi trường. Trong đó, vấn đề
quản lí chất thải nguy hại là một vấn đề bức thiết, đòi hỏi chúng ta phải có những
biện pháp giải quyết. Do vậy, chúng ta cần tìm hiểu về chất thải nguy hại để từ đó
tìm cách hạn chế các ảnh hưởng của chúng đến môi trường và con người. Đó cũng
là lí do nhóm chúng em chon đề tài “Tổng quan về chất thải nguy hại”.Qua đề tài
này, nhóm muốn tìm hiểu về chất thải nguy hại và các ảnh hưởng của chúng đến
môi trường sống và con người. Từ đó, có thể tìm ra những biện pháp thu gom và xử
lí các chất thải nguy hại nhằm hạn chế các ảnh hưởng của chúng.
Tuy nhiên do thời gian, kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều
hạn chế nên nội dung bài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ thầy và các bạn để cho bài tiểu luận hoàn
chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - QUẢN LÍ MÔI TRƯỜNG

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................
TP. HCM, ngày … tháng 5, năm 2011
MỤC LỤC
4
................................................................................................................2
4
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN..........................4
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI NGUY HẠI..................................................6
1.1 Một số khái niệm về chất thải nguy hại:...........................................................................6
1.1.1 Một số khái niệm............................................................................................................6
1.1.2. Định nghĩa chất thải nguy hại........................................................................................8
1.2. Nguồn gốc phát sinh chất thải nguy hại:........................................................................10
1.3. Ảnh hưởng của chất thải nguy hại:................................................................................16
1.3.1. Cơ chế tác động của chất thải nguy hại:......................................................................16
1.3.2. Ảnh hưởng của chất thải nguy hại:..............................................................................17
1.3.3.Ảnh hưởng đến môi trường:.........................................................................................18
1.3.4. Ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng:..........................................................................21
CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI......................................23
2.1. Tổng quan về hệ thống quản lí chất thải nguy hại:........................................................23
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quản lý chất thải nguy hại:...............................23
2.1.2 Các thành phần của hệ thống quản lý chất thải nguy hại:...........................................28
2.1.3. Quy trình quản lý kiểm soát chất thải nguy hại:..........................................................32
2.2. Một số cở sở pháp lý liên quan đến quản lý chất thải nguy hại:....................................35
2.3. Hệ thống quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam:..........................................................39
2.3.1. Xây dựng lò đốt chất thải nguy hại..............................................................................40
2.3.2. Xây dựng hệ thống thu gom chất thải rắn nguy hại....................................................42
2.4. Các định hướng đặt ra nhằm tăng cường cho công quản lý chất thải nguy hại nói chung
ở Việt Nam trong những năm tới:..........................................................................................44
CHƯƠNG 3: THỐNG KÊ HIỆN TRANG CỦA CÁC CHẤT HỮU CƠ BỀN (POPS) VÀ
ĐỀ RA CHIẾN LƯỢC GIẢM THIỂU KHẢ NĂNG PHÁT TÁN POPS RA MÔI

TRƯỜNG...............................................................................................................................48
3.1.Tổng quan về POPS.........................................................................................................48
Tài liệu tham khảo..................................................................................................................54
5
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI NGUY HẠI
1.1 Một số khái niệm về chất thải nguy hại:
1.1.1 Một số khái niệm
Khái niệm về thuật ngữ “chất thải nguy hại” (Hazardous Waste) lần đầu tiên
xuất hiện vào thập niên 70 của thế kỷ trước tại các nước châu Âu-Mỹ, sau đó mở
rộng ra nhiều quốc gia khác. Sau một thời gian nghiên cứu phát triển, tùy thuộc vào
sự phát triển khoa học kỹ thuật và xã hội cũng như quan điểm của mỗi nước mà
hiện nay trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác nhau về chất thải nguy hại
trong luật và các văn bản dưới luật về môi trường.
Theo Luật khôi phục và bảo vệ tài nguyên của Mỹ (RCRA) 1976:
Trong đạo luật về thu hồi và bảo tồn tài nguyên của Mỹ RCRA (Resource
Conservation and Recovery Act – 1976): chất thải (ở dạng rắn, lỏng, bán rắn và các
bình khí) có thể được coi là chất thải nguy hại khi:
6
+ Nằm trong danh mục chất thải do cục Bảo vệ môi trường Hoa kỳ (EPA) đưa ra
(gồm 4 danh sách)
+ Có một trong bốn đặc tính (khi phân tích) do EPA đưa ra gồm cháy-nổ, ăn mòn,
phản ứng và độc tính. Các phân tích để thử nghiệm này cũng do EPA quy định.
+ Được chủ nguồn thải (hay nhà sản xuất) tự công bố là chất thải nguy hại.
Theo UNEP (1985)
Ngoài chất thải phóng xạ và chất thải y tế, chất thải nguy hại là chất thải (dạng
rắn, lỏng, bán rắn và các bình chứa khí) do hoạt tính hóa học, độc tính, nổ, ăn mòn
hay các đặc tính khác gây nguy hại hay có thể gây nguy hại đến sức khỏe con người
hoặc môi trường, bởi chính bản thân chúng hay khi cho tiếp xúc với chất thải khác.
Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ (US –EPA)
Chất thải được cho là nguy hại theo quy định của pháp luật nếu có một hoặc

một số tính chất sau:
- Thể hiện đặc tính dễ bắt lửa, ăn mòn, phản ứng và/hoặc độc hại.
- Là chất thải xuất phát từ nguồn không đặc trưng (chất thải nói chung từ qui trình
công nghệ).
- Là chất thải xuất phát từ nguồn đặc trưng (từ các nghành công nghiệp độc hại).
- Là các hóa chất thương phẩm độc hại hoặc sản phẩm trung gian
- Là hỗn hợp có chứa một chất thải nguy hại đã được liệt kê.
- Là một chất được qui định trong RCRA.
- Phụ phẩm của quá trình xử lý CTNH cũng được coi là chất thải nguy hại trừ khi
chúng được loại bỏ hết tính nguy hại.
Định nghĩa của Philipin
Chất thải độc hại là các vật liệu vốn có tính độc hại, tính ăn mòn, chất gây kích
thích, tính dễ cháy, và tính gây nổ.
Định nghĩa của Canada
Chất thải nguy hại là những chất mà do bản chất và tính chất của chúng có khả
năng gây nguy hại đến sức khỏe con người và/hoặc môi trường, và những chất này
yêu cầu các kỹ thuật xử lý đặc biệt để loại bỏ hoặc giảm đặc tính nguy hại của nó.
7
Bên cạnh đó, chất thải nguy hại còn gồm các chất gây độc tính đối với con
người ở liều lượng nhỏ. Đối với các chất chưa có các chứng minh của nghiên cứu
dich tễ trên con người, các thí nghiệm trên động vật cũng có thể được dùng để ước
đoán tác dụng độc tính của chúng lên con người.
Tại Việt Nam
Xuất phát từ nguy cơ bùng nổ việc phát sinh chất thải nguy hại từ quá trình
công nghiệp hóa của đất nước, ngày 16/7/1999, Thủ tướng chính phủ đã kí quyết
định ban hành Quy chế quản lí chất thải nguy hại số 155/1999/QĐ-TTg, tại Điều 2
Mục 2, chất thại nguy hại được định nghĩa như sau:
“Chất thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một trong các
đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây
nhiễm và các đặc tính nguy hại khác), hoặc tương tác chất với chất khác gây nguy

hại đến môi trường và sức khỏe con người.”
Các chất thải nguy hại được được liệt kê trong danh mục phụ lục 1 của quy chế
155. Danh mục do cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp trung ương
(Cục Bảo vệ môi trường Việt Nam –NEA) quy định.
Theo Luật bảo vệ môi trường Việt Nam 2005
Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ lây
nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác.
1.1.2. Định nghĩa chất thải nguy hại
Chất thải nguy hại (hazardous waste/materials) là những chất có tính độc hại nhất
thời thời đáng kể hoặc tiềm ẩn đối với con người và các sinh vật khác do: không
phân huỷ sinh học hay tồn tại lâu bền trong tự nhiên; gia tăng số lượng đáng kể
không thể kiểm soát; liều lượng tích lũy đến một liều lượng nhất định nào đó sẽ gây
tử vong hay gây ra tác động tiêu cực.
Các chất có một trong các đặc tính nguy hại sau được xác định là chất nguy hại:
• Chất có khả năng gây cháy (Ignitability): chất có nhiệt độ bắt cháy < 600C,
chất có thể cháy do ma sát, tự thay đổi về hoá học. Những chất gây cháy
8
thường gặp là xăng, dầu, nhiên liệu, ngoài ra còn có cadmium, các hợp chất
hữu cơ như benzen, etylbenzen, toluen, hợp chất hữu cơ có chứa Clo…
• Chất có tính ăn mòn (Corossivity): là những chất trong nước tạo môi trường
pH <3 hay pH >12.5; chất có thể ăn mòn thép. Dạng thường gặp là những
chất có tính axít hoặc bazơ…
• Chất có hoạt tính hoá học cao (Reactivity): các chất dễ dàng chuyển hoá hóa
học; phản ứng mãnh liệt khi tiếp xúc với nước; tạo hỗn hợp nổ hay có tiềm
năng gây nổ với nước; sinh các khí độc khi trộn với nước; các hợp chất
xyanua hay sunfit sinh khí độc khi tiếp xúc với môi trường axít, dễ nổ hay
tạo phản ứng nổ khi có áp suất và gia nhiệt, dễ nổ hay tiêu huỷ hay phản ứng
ở điều kiện chuẩn; các chất nổ bị cấm.
• Chất có tính độc hại (Toxicity): những chất thải mà bản thân nó có tính độc
đặc thù được xác định qua các bước kiểm tra. Chất thải được phân tích

thành phần trong các pha hơi, rắn và lỏng. Khi có thành phần hoá học nào
lớn hơn tiêu chuẩn cho phép thì chất thải đó được xếp vàp loại chất thải độc
hại. Chất độc hại gồm: các kim loại nặng như thuỷ ngân, cadmium, asenic,
chì và các muối của chúng; dung môi hữu cơ như toluen, benzen, axeton,
cloroform…; các chất có hoạt tính sinh học (thuốc sát trùng, trừ sâu, hoá
chất nông dược…); các chất hữu cơ rất bền trong điều kiện tự nhiên nếu tích
luỹ trong mô mỡ đến một nồng độ nhất định thì sẽ gây bệnh (PCBs: Poly
Chlorinated Biphenyls).
• Chất có khả năng gây ung thư (Carcinogenicity) và đột biến gen: dioxin
(PCDD), asen, cadmium, benzen, các hợp chất hữu cơ chứa Clo…
• Chất thải là chất (ở dạng khí, lỏng hay rắn) được loại ra trong sinh hoạt,
trong quá trình sản xuất hoặc trong các hoạt động khác.Vậy, chất thải là
phần dư ra không còn được sử dụng trong quá trình sản xuất sản phẩm hay
không còn cung cấp một giá trị sản phẩm thương mại hay dịch vụ tại chỗ và
đúng thời điểm xác định.Nghĩa là chất thải là những chất bị hỏng, hay
không đạt chất lượng, xuất hiện không đúng lúc, không đúng nơi.Chất thải
9
chỉ là khái niệm tương đối, khi một chất thải được đưa đến đúng nơi sử
dụng, có mặt đúng lúc, đúng yêu cầu chất lượng thì chất thải đó trở thành
hàng hoá và được sử dụng.Tương tự như vậy, chất thải nguy hại cũng là một
khái niệm tương đối so với hàng hoá nguy hại, chúng có thể chuyển hoá giá
trị cho nhau.
1.2. Nguồn gốc phát sinh chất thải nguy hại:
Do tính đa dạng của các loại hình công nghiệp, các hoạt động thương mại tiêu
dùng, các hoạt động trong cuộc sống hay các hoạt động công nghiệp mà chất thải
nguy hại có thể phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau. Việc phát thải có thể do bản
chất của công nghệ, hay do trình độ dân trí dẫn đến việc thải chất thải có thể là vô
tình hay cố ý. Tùy theo cách nhìn nhận mà có thể phân thành các nguồn thải khác
nhau, nhìn chung có thể chia các nguồn phát sinh chất thải nguy hại thành 4 nguồn
chính như sau:

• Từ các hoạt động công nghiệp (ví dụ khi sản xuất thuốc kháng sinh sử
dụng môi metyl clorua, xi mạ sử dụng xyanit, sản xuất thuốc trừ sâu sử dụng dung
môi là toluen hay xylen…).
• Từ hoạt động nông nghiệp (ví dụ sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật
độc hại).
• Thương mại (quá trình nhập-xuất các hàng độc hại không đạt yêu cầu
cho sản xuất hay hàng quá hạn sử dụng…).
• Từ việc tiêu dùng trong dân dụng (ví dụ việc sử dụng pin, hoạt động
nghiên cứu khoa học ở các phòng thí nghiệm, sử dụng dầu nhớt bôi trơn, ắc quy
các loại…).
Ở Việt Nam, chất thải nguy hại được thải ra từ nhiều nguồn khác nhau: công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, bùn cống rãnh, y tế, các hóa chất tồn lưu
sau chiến tranh, trong chất thải rắn sinh hoạt....Một số ngành công nghiệp điển hình
ở Việt Nam có phát sinh chất thải nguy hại có thể kể đến như: công nghiệp hóa chất
và thuốc bảo vệ thực vật, công nghiệp chế biến dầu mỏ, công nghiệp luyện kim,
10
ngành xi mạ, ngành sản xuất xây dựng, ngành điện tử và ắc quy, ngành sản xuất
giày dép, ngành dệt nhuộm, ngành thuộc da, ngành sản xuất giấy, ngành sản xuất
điện,.....Có thể định tính sơ bộ về nguồn phát sinh và dạng chất thải công nghiệp
nguy hại ở Việt Nam như sau:
TT Các ngành công nghiệp tiêu biểu Dạng chất thải nguy hại đặc trưng
01 Công nghiệp hóa chất
Vô cơ cơ bản Các kim loại nặng (Hg, As), các hợp
chất clo
Tổng hợp hữu cơ Các dung môi
Phân bón Kim loại nặng
Thuốc bảo vệ thực vật Các dạng thuốc bảo vệ thực vật
Sơn Các hợp chất sơn
Cao su Axit, mủ cao su
Pin - Ắcquy Axit, kim loại nặng (Pb, Hg)

Bột giặt – chất tẩy rửa tổng hợp Chất hoạt động bề mặt
02 Công nghiệp thực phẩm
Rượu, bia, nước giải khát Phenol, bã lên men
Mì ăn liền Dầu thực vật
Thuốc lá Nicotine
Chế biến hạt điều Phenol và các dẫn xuất của chúng
Tinh bột khoai mì Xyanua
Chế biến thịt, cá, thủy, hải sản Chlorine dư
03 Công nghiệp giấy, bột giấy và
bông băng
Dịch đen chứa lignin và kiềm, các hợp
chất hữu cơ đã bị clorine hóa, các chất
quang trắng
04 Công nghiệp sơi- dệt - nhuộm Phẩm nhuộm và các sản phẩm trợ
nhuộm, kim loại nặng, axit, kiềm
05 Công nghiệp thuộc da Nước thải chứa crom
06 Công nghiệp điện tử Nước thải xi mạ chứa kim loại nặng
07 Công nghiệp in Phim nhựa tráng hỏng, xyanua,
hydroquynua, thuốc ảnh và các dạng
thuốc màu khác
08 Công nghiệp luyện kim
09 Công nghiệp dầu khí và các cảng
xăng dầu
Cặn dầu khoáng
11
10 Công nghiệp chế biến gỗ Hơi dung môi hữu cơ, keo dán gỗ,
formaldehyde
Ngoài ra chất thải nguy hại còn kể đến một lượng lớn bùn cặn (hoặc chất nổi)
sinh ra trong quá trình xử lý nước thải. Trong một số trường hợp (điển hình như bùn
từ xử lý nước thải xi mạ, váng dầu từ nước thải chế biến hạt điều), lượng bùn cặn

này còn chứa nhiều yếu tố độc hại (kim loại nặng, phenol và các dẫn xuất của
chúng) và được xem như là một dạng ô nhiễm thứ cấp.

HTX công nghiệp thực phẩm Sóc Sơn xả thải không qua xử lý ra môi
trường với lưu lượng khoảng 48m3/ngày-đêm.
12
Chất thải nguy hại là mối hiểm họa ngày càng lớn. Nguồn phát sinh chất thải
nguy hại lớn nhất là các cơ sở công nghiệp (130.000 tấn/năm) và các bệnh viện
(21.000 tấn/năm).
Bảng1: Lượng chất thải phát sinh theo ngành công nghiệp và chủng loại
chất thải nguy hại tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2002
Ngành công nghiệp Lượng chất thải
(tấn/năm)
Chủng loại chất
thải
Lượng chất thải
(tấn /năm)
Sản xuất và bảo trì
phương tiện giao
thông
19000 Bao bì và đóng gói 23000
Giày dép 11000 Dầu thải 21000
Hóa chất và thuốc
bảo vệ thực vật
9500 Các chất thải chứa
dầu khác
15000
Da 8600 Các chất hữu cơ 7300
Dệt 8200 Bùn từ công
nghiệp giấy

3100
Dầu khí 6000 Bùn kim loại 3000
Sản phẩm kim loại 5800 Bùn da 2300
Giấy 4000 Bùn dệt 2200
Điện/điện tử 3000 Xỉ chì 1100
Công nghiệp thép 2800 Các chất vô cơ 800
Mạ/xử lí kim loại 850 Axit/bazo 400
Vật liệu xây dựng
và các sản phẩm
khoáng khác
700 Dung môi 55
Nhà máy điện 50
“Nguồn: Dự án quy hoạch tổng thể về chất thải nguy hại TP.HCM 2000”
Ngoài ra, nông nghiệp cũng là nguồn phát sinh chất thải nguy hại, mỗi năm
phát sinh khoảng 8.600 tấn các loại thuốc trừ sâu, bao bì và thùng chứa thuốc trừ
sâu và khoảng 37.000 tấn hóa chất tồn lưu bao gồm các loại hóa chất nông nghiệp bị
thu giữ và thuốc trừ sâu quá hạn sử dụng. Lượng chất thải nguy hại phát sinh ở các
vùng khác nhau khác biệt rõ rệt, đặc biệt là đối với chất thải nguy hại phát sinh từ
13
hoạt động công nghiệp. Lượng chất thải công nghiệp nguy hại phát sinh từ vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam chiếm tới 75% tổng lượng chất thải công nghiệp nguy
hại của cả nước. 27% tổng lượng chất thải y tế nguy hại phát sinh từ Thành phố Hồ
Chí Minh, Hà Nội và Thanh Hóa trong khi đó, chất thải nguy hại từ nông nghiệp
chủ yếu phát sinh ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo các số liệu điều tra gần đây hàng năm lượng chất nguy hại thải phát sinh
tính theo ngành và chủng loại tại khu vực TP. Hồ Chí Minh như sau:
• Ngành sản xuất và bảo trì phương tiện giao thông: khoảng 20000 tấn/năm: chủ yếu
các vật dụng như bao bì, giẻ lau.
• Ngành công nghiệp giày da: dầu nhớt, phế thải xấp xỉ 20 000 tấn/năm.
• Ngành sản xuất các loại hoá chất bảo vệ thực vật: gần 10 000 tấn/năm.

• Ngành công nghiệp thuộc da: các chất thải có nguồn gốc hữu cơ động vật, các hoá
chất sử dụng trong sản xuất.
• Ngành công nghiệp dầu khí: 6000 tấn/năm chủ yếu là các loại thùng kim loại.
• Ngành công nghiệp giấy 1000 tấn/ năm
• Ngành công nghiệp điện tử: tồn tại trong các thiết bị
• Ngành công nghiệp sản xuất thép: trong các xưởng kim loại chủ yếu là các loại
thép vô cơ.
• Ngành công nghiệp xi mạ.
• Ngành công nghiệp chế biến vật liệu xây dựng.
- Dầu thải (khoảng 25.000 tấn/năm): là lượng dầu nhớt đã qua sử dụng,
được thải ra từ các cơ sở sửa chữa, sản xuất và bảo trì các phương tiện vận chuyển,
từ ngành công nghiệp sản xuất và chế biến dầu khí, từ ngành sản xuất các sản phẩm
kim loại, ngành công nghiệp chuyển tải điện…Lượng dầu thải này một phần được
tái sinh tại chỗ, một phần được các đơn vị thu gom (chủ yếu là tư nhân) để tái sinh,
một phần được thu gom là nhiên liệu đốt, và vẫn còn một phần khác được đổ trực
tiếp xuống cống rãnh thoát nước.
- Chất thải chứa (nhiễm) dầu (khoảng 50.000 tấn/năm): bao gồm các loại giẻ lau
dính dầu nhớt, các thùng và bao bì dính dầu nhớt, các chất thải từ các ngành sản
14
xuất khác như sản xuất dày dép, da, ngành công nghiệp dầu khí, ngành sản xuất các
sản phẩm kim loại,…Có thể nói đây là lượng chất thải nguy hại có khối lượng lớn
nhất (vì lí do với tính nguyên tắc là nếu một bao bì có dính chất thải nguy hại thì có
thể xem cả khối lượng bao bì đó cũng là chất thải nguy hại). Các loại hình chất thải
này nhìn chung cũng được thu gom và tái sử dụng sau khi đã xử lý rất sơ sài (chủ
yếu là rửa và sử dụng lại) và một số ít được đem đốt, số khác thì thải thẳng ra môi
trường.
- Các chất hữu cơ tạp (khoảng 10.000 tấn/năm): bao gồm các sản phẩm
thải là các chất hữu cơ nguy hại như các loại thuốc bảo vệ thực vật (chiếm số lượng
lớn nhất) và nhiều thành phần hữu cơ phức tạp khác. Nguồn gốc phát sinh chủ yếu
từ ngành sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật, các ngành dày da, dầu khí, kim loại…

Hiện trạng lưu trữ và thải bỏ loại hình chất thải này giống như chất thải nhiễm dầu.
- Bùn kim loại (khoảng 5.000 tấn/năm): chủ yếu phát sinh từ các ngành
công nghiệp xi mạ và sản xuất các sản phẩm kim loại, từ các công nghệ sản xuất và
từ các công trình xử lý nước thải. Nhìn chung các loại bùn nguy hại này hầu như
không được thải bỏ một cách an toàn mà thường chuyên chở ra khỏi nhà máy và đổ
thẳng xuống các bãi chôn lấp của thành phố.
- Bùn từ các hệ thống xử lý nước thải: mặc dù chúng ta mới có khoảng
300- 400 công trình xử lý nước thải từ các xí nghiệp công nghiệp trên địa bàn thành
phố và cũng chưa nắm vững được tình hình hoạt động cụ thể của các trạm xử lý
này, nhưng về mặt nguyên tắc thì đây là nguồn tạo ra chất thải nguy hại khá đáng kể
đòi hỏi phải có giải pháp thải bỏ an toàn nhất cho môi trường.
- Cuối cùng là nhóm các hợp chất được xem là các hóa chất vô cơ tạp có chủng loại
khá đa dạng nhưng khối lượng không lớn lắm (khoảng 2- 3000 tấn /năm) được phát
sinh ra từ các ngành như sản xuất hóa chất cơ bản, thuốc bảo vệ thực vật, xi mạ kim
loại, sản xuất các sản phẩm kim loại, sản xuất và tái chế ắc quy chì…Quy trình quản
lý các chất thải này tại các doanh nghiệp hiện nay cũng chưa rõ ràng.
- Ngoài ra, tuy không được xem là chất thải nhưng các vùng đất bị ô
nhiễm, (nhất là ô nhiễm do dầu nhớt thải, ô nhiễm do chất hữu cơ…) cũng là các
15
đối tượng quan trọng của công tác quản lý chất thải nguy hại, nhất là công tác phục
hồi ô nhiễm môi trường.
“Chất thải nguy hại phát sinh từ sản xuất công nghiệp”

“Chất thải nguy hại phát sinh từ nông nghiệp và y tế”
1.3. Ảnh hưởng của chất thải nguy hại:
1.3.1. Cơ chế tác động của chất thải nguy hại:
Chất thải nguy hại nói chung khi tiếp xúc với cơ thể sống sẽ gây tác động đến
cơ quan nhạy cảm của con người hoặc sinh vật ở nồng độ đủ cao và thời gian đủ
lâu. Sự tổn thương của sinh vật phụ thuộc vào tính chất lý hóa của chất thải và tình
trạng sức khỏe cũng như sự phát triển của cơ thể sinh vật

Ảnh hưởng của chất thải nguy hại đối với cơ thể sống thường thông qua một số
quá trình động học như: hấp thụ, phân bố, trao đổi chất, tích lũy và bài tiết. Những
tác nhân độc hại thường không thể iện tính độc hại trên bề mặt của cơ thể sống
16
Thay vào đó chúng sẽ tiếp diễn thông qua một chuỗi các tuyến tiếp xúc và con
đường trao đổi chất.
Bằng những con đường này chất thải nguy hại và các sản phẩm chuyên hóa của
chúng sẽ đi đến các phân tử tiếp nhận hay các cơ quan mục tiêu và tích tụ với nồng
độ đủ cao. Khi một sinh vật tiếp xúc với chất thải nguy hại nó sẽ hấp thụ vào cơ thể
sinh vật đó bằng ba con đường: miệng, da và hô hấp.
Ví dụ: uống nước bị nhiễm dầu, hít thở không khí có khí CO, mặc đồ có dính thuốc
trừ sâu. Khi vào bên trong cơ thể chất thải nguy hại sẽ được hấp thụ vào máu và
phân bố khắp cơ thể.
1.3.2. Ảnh hưởng của chất thải nguy hại:
Về mặt lịch sử, con người đã từng hít thở phải các loại khí độc do núi lửa phun
hay bị chết do khí CO
2
từ dung nham núi lửa. Người nô lệ ở Huy Lạp bị mắc bệnh
phổi do tiếp xúc với bụi amiăng trong khi dệt quần áo. Một vài công trình nghiên
cứu khảo cổ học và sử học đã kết luận rằng, những thùng đựng chì bằng rượu vang
đã gây nhiễm độc chì trong tầng lớp lãnh đạo của đế chế La Mã cổ đại, khiến cho
họ có những hành động bất thường do tổn thương thần kinh như ưa thích các môn
thi đáu thể thao kỳ dị, không kiểm soát được chi phí tài chính, có những hành động
gây chiến thái quá đối với các nước láng giềng. Các nhà giả kim thuật thời Trung cổ
thường xuyên bị bệnh do các chất độc hại từ các hóa chất trong các thí nghiệm do
họ thực hiện. Ở thế kỷ 17, nước thải từ việc khai thác các quặng mỏ đã gây ra vấn
đề ô nhiễm trầm trọng tại các nước châu Âu. Vào năm 1968, công ty Chisso đã thải
Metyl thủy ngân ra nguồn nước thải của nhà máy. Metyl thủy ngân được tích lũy ở
cá, tôm, cua, sò, hến, sau đó chim, động vật và con người ở quanh vịnh Minamata
lại ăn phải chúng, dẫn đến mắc phải chứng bênh Minamata. Triệu chứng về sự

nhiễm độc metyl thủy ngân là sự tiết nhiều nước bọt, bị choáng và chứng co giật.
Những phụ nữ mang thai bị nhiễm thủy ngân có thể không bị nhiễm độc nhưng
những đứa con của họ thì mắc phải chứng liệt não và kém phát triển trí não rất trầm
trọng. Những phụ nữ khác bị mất khả năng sinh sản, sẩy thai hoặc đẻ non. Đến
17
tháng 3 năm 1990, tổng số bệnh nhân ở xung quanhVinh Minamata mắc phải chứng
bệnh Minamata được thống kê theo “Luật đền bù thiệt hại về sức khỏe liên quan
đến vấn đề ô nhiễm của Nhật Bản” là 2248 người. Trong số đó 1004 người đã bị
chết.
1.3.3.Ảnh hưởng đến môi trường:
Những vấn đề tác động môi trường cơ bản liên quan đến việc chôn lấp các chất
thải nguy hại không đúng qui cách, có liên quan đến tác động tiềm tàng đối với
nước mặt và nước ngầm.
Ở Việt Nam những nguồn này thường được dùng làm nguồn nước uống, sinh hoạt
gia đình, phục vụ nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Bất cứ sự ô nhiễm nào đối
với các nguồn này đều có thể gây tiềm tàng về sức khoẻ đối với nhân dân địa
phương hay gây ra các tác động môi trường nghiêm trọng. Có không nhiều những
tài liệu về những tai nạn do ô nhiễm gây ra do việc thực hiện tiêu huỷ chất thải nguy
hại không hợp cách, và có ít kết quả quan trắc để đánh giá tác động thực tế.
Những chuyến khảo sát điều tra về chất thải nguy hại, xem xét những tài liệu đã
công bố và thảo luận vơí những cơ quan Nhà nước khác nhau đã cho thấy rằng ở
Việt Nam đang có nhiều mối quan tâm về ô nhiễm nước mặt và nước ngầm do công
nghiệp. Không thể phân lập chất thải nguy hại đã làm trầm trọng hơn vấn đề quản lý
chất thải rắn và nước thải vốn đã khá trầm trọng, đồng thời cũng làm cho việc quản
lý chất thải rắn khó khăn hơn do thiếu những hệ thống quản lý chất thải rắn đô thị,
mà riêng việc này cũng đã làm cho vấn đề ô nhiễm nước mặt và nước ngầm gia tăng
rồi.
Lĩnh vực quan tâm chính về chôn lấp chất thải nguy hại liên quan đến những
vấn đề sau:
- Ô nhiễm nước ngầm hoặc là do việc lâu dài không được kiểm soát, chôn lấp tại

chỗ, chôn lấp ở nơi chôn rác không có kĩ thuật cụ thể, hoặc dùng để lấp các bãi đất
trũng.
18
- Khả năng ô nhiễm nước mặt do việc thải các chất lỏng độc hại không được xử lý
đầy đủ, hoặc là do hậu quả của việc làm vệ sinh công nghiệp kém, hay do việc thải
vào khí quyển những hoá chất độc hại từ quá trình cháy, đốt các vật liệu nguy hại.
- Bản chất ăn mòn tiềm tàng của các hoá chất độc hại có thể phá huỷ hệ thống cống
cũng như làm ngộ độc môi trường tự nhiên.
• Thải vào lòng đất:
Trong cả ba khu vực nghiên cứu, miền Bắc, miền Nam và miền Trung Việt
Nam, các chất thải rắn nguy hại bị trộn lẫn với các chất thải rắn trơ của nhà máy và
nói chung được thu gom qua hợp đồng với công ty môi trường đô thị tương ứng. Ở
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cũng như ở các đô thị khác trong cả nước ta,
phần lớn các chất thải nguy hại dạng rắn đều bị trộn lẫn với các chất thải rắn khác
và được thu gom bởi công ty môi trường đô thị. Ở vùng kinh tế miền Nam rất nhiều
chất thải nguy hại tương tự cũng được thu gom bởi công ty dịch vụ công cộng và
một số người thu gom khác, và được đưa đến bãi rác. Các chất thải bị trộn lẫn với
các chất thải rắn công nghiệp không nguy hại, rất ít khi được phân tách tại nguồn.
Các chất thải công nghiệp, bao gồm cả chất thải nguy hại thu gom bởi các công
ty dịch vụ đô thị tương ứng được đem chôn ở những bãi chôn rác kém chất lượng
cùng với các chất thải đô thị. Các bãi chôn rác hoặc các bãi thải nói chung đều
không chôn rác được nữa, và kỹ thuật vận hành rất tồi, và hơn nữa, các bãi thải cơ
bản liên quan đến việc lấp các vùng đất trũng. Có thể thấy là không có các thiết bị
xử lý nước rác, thậm chí ở các bãi chôn rác mới được thi công. Nước rác nói chung
được thải trực tiếp vào các khu chứa xung quanh, mà những vùng này thường được
dùng cho các mục đích nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản hoặc được cộng đồng
địa phương dùng như các nguồn nước uống.
• Chôn lấp tại chổ, lưu giữ lâu dài:
Ở một số công ty được tham quan trong quá trình khảo sát, các chất thải bị
chôn lấp hoặc dồn đống tại chổ hoặc ở khu đất bên cạnh bởi vì không có một giải

pháp nào phù hợp với các chất thải này, hoặc là được tích luỹ trước khi được
chuyển đi. Trong một số trường hợp, chất thải này được lưu giữ theo kiểu như vậy
19
có thể tạo ra rủi ro đến môi trường và sức khoẻ cho khu vực xung quanh. Việc lưu
giữ chất thải và vệ sinh công nghiệp kém, và lượng rò rỉ lớn của các nguyên liệu
độc, bao gồm cả cặn nhựa mang tính axit và dầu thải, ở một số địa điểm. Sự lưu giữ
lâu dài một số chất thải không thể tái sử dụng lại trong dây chuyền, ví dụ như những
mẻ sơn tồi khá phổ biến, nhưng nói chung những nơi chứa chất thải không được
che, đậy kĩ và thấy rõ sự ăn mòn vật liệu bao bì đã xảy ra. Khả năng rò rỉ vào lớp
đất tầng dưới và gây nhiễm bẩn nước ngầm có thể được xem như một nguy cơ lâu
dài.
Rò rỉ các kim loại nặng từ việc lưu giữ lâu dài các xỉ kim loại đã tạo ra một số
tác động đối với các lưu vực xung quanh. Xỉ kim loại cũng được sử dụng như là
nguyên liệu để làm đường do đó có thể dẫn đến việc rò rỉ các kim loại nặng vào
vùng nước mặt hoặc nước ngầm, có thể gây nên những tác động đáng chú ý đối với
các nguồn nước uống
• .Những vấn đề nhiễm bẩn nước mặt:
Địa hình của Việt Nam được đặc trưng bởi đồi núi che phủ hầu hết phía Bắc,
Tây, và miền Trung của Việt Nam. Diện tích còn lại là đồng bằng từ đất bồi và lưu
vực với một mạng lưới khá dày đặc các sông ngòi. Nước mặt bao gồm sông, hồ
chứa, kênh, hồ ao được sử dụng rất nhiều ở Việt Nam như là một nguồn nước ăn
uống, nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và công nghiệp. Chúng cũng được sử dụng
như là nguồn nhận nước thải công nghiệp và sinh hoạt, đặc biệt là ở khu vực đô thị,
nơi chưa có đủ hệ thống xử lý nước thải đô thị.
Nước thải từ khu vực công nghiệp ở cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh
được thải hầu như không hề được xử lý vào rất nhiều kênh rạch sông ngòi là những
hệ thống thoát nước chung của thành phố. Tất cả những nguồn nước này do đó đã bị
nhiễm do nước thải công nghiệp, cũng như chất lỏng thải từ sinh hoạt. Ở Hà Nội
hiện chưa có hệ thống xử lý chất thải lỏng công nghiệp và sinh hoạt, trong khi đó
thành phố có những cơ sở công nghiệp lớn, nên chất thải công nghiệp chính là

nguồn ô nhiễm đáng kể. Cục môi trường đã ước tính rằng nước thải công nghiệp ở
thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 20 – 30% tổng lưu lượng dòng chảy trong các
20
sông và đóng góp chủ yếu là từ công nghiệp tinh chế, hoá chất và chế biến thực
phẩm.
• .Những vấn đề nhiễm bẩn nước ngầm:
Nói chung chất lượng nước ngầm ở Việt Nam vẫn tốt trừ một số nơi bị nhiễm
sắt và mangan cao, và nhiễm nước biển ảnh hưởng ở một số vùng ven biển. Hiện
nay, chỉ có khoảng 15% nước ngầm khai thác được cấp vào hệ thống cấp nước máy
do nước mặt có sẵn và rẻ. Tuy nhiên, nhu cầu đang tăng lên ở những nơi thiếu
nguồn nước mặt như Đồng Nai và đồng bằng sông Mêkông, và đã có những dấu
hiệu nhiễm bẩn cục bộ do chôn chất thải hay nước mặt bị ô nhiễm.
Ở Việt Nam trừ các nhà máy nước ở thành phố Hồ Chí Minh và Đà Lạt, đa số
các hệ thống thoát nước đô thị không đủ và cấp nước chất lượng kém. Khoảng 30%
nhu cầu nước đô thị được cấp bởi nước ngầm, lớn nhất là thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội, và Hải Phòng. Nhiễm bẩn nước ngầm ở khu đô thị, đặc biệt là Hà Nội ngày
càng nghiêm trọng, nơi mà toàn bộ dân cư phải dựa vào nước ngầm đối với nước ăn
uống và sinh hoạt.
Năm 1996, một xe tải của công ty vệ sinh Biên Hòa chở CTNH từ nhà máy
thuốc bảo vệ thực vật KOSVIDA đến Tân Phong, đến chỗ đổ rác đã dổ rác vào
đường. Kết quả đã gây cho 50 người sống trong khu vực bị ngộ độc
• Ô nhiễm không khí:
Có những trường hợp ô nhiễm không khí rất nghiêm trọng do quản lý chất thải
nguy hại kém. Dung môi, nói chung, được thải bằng cách cho bay hơi. Một cơ sở
sản xuất tấm lợp ximăng amiăng ở Đồng Nai đã thải một tấn bùn ngay trong cơ sở
trong vòng một ngày mà không có một biện pháp kiểm soát nào. Hàng ngàn tấn bùn
đã được đổ trong nhà máy theo kiểu như vậy sẽ tạo ra nguy cơ đối với sức khoẻ của
công nhân trong nhà máy. Những ví dụ như vậy sẽ có thể gặp nhiều nơi ở nước ta.
1.3.4. Ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng:
Như đã nêu ở trên, rất khó để đánh giá những tác động thực tế liên quan đến ô

nhiễm nước mặt và nước ngầm do sự thiếu hụt các số liệu quan trắc. Tuy nhiên,
21
tổng quan tỉ lệ tử vong và bệnh trạng ở Việt Nam cho thấy mức độ cao bệnh tật có
liên quan đến việc cung cấp nước và vệ sinh, chủ yếu là vấn đề vệ sinh.
Việc thải các chất thải công nghiệp không được xử lý, thất thoát dầu và các hoá
chất khác do sự cố vào các con sông và hệ thống cung cấp nước ngầm đã làm bẩn
các nguồn nước uống cũng như làm chết cá và sinh vật đáy vốn được nhân dân địa
phương đánh bắt sử dụng. Một số vấn đề sức khoẻ liên quan đến những tác động đó
được hiểu như là kết quảcủa một số sự cố gây ô nhiễm, việc di chuyển dư lượng
thuốc trừ sâu không được kiểm soát. Rủi ro tăng bệnh tật do ngộ độc kim loại và
ung thư do nhiễm các chất gây ung thư vẩn đang toàn tại. Tình trạng tăng bệnh ung
thư, bệnh tim, nhiễm trùng hệ hô hấp và tiêu hoá, viêm da cũng có thể tăng.

(Ảnh hưởng dioxin gây rám da)

(Ảnh hưởng của chất độc da cam ở Việt Nam)

22
CHƯƠNG 2: HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI
NGUY HẠI
2.1. Tổng quan về hệ thống quản lí chất thải nguy hại:
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của quản lý chất thải nguy hại:
Trên thế giới việc quản lý chất thải nguy hại đã hình thành và có những thay
đỏi mạnh mẽ trong thập niên 60 và đã trở thành một vấn đề môi trường được quan
tâm hàng đầu trong thập niên 80 của thế kỷ XX. Điều này có thể thấy đây là hệ quả
của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và sự phát triển kinh tế xã hội của các quốc
gia trên toàn cầu.
Sự phát triển của các loại hình công nghiệp, sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng,
hưởng thụ vật chất…đã dẫn đến một lượng lớn chất thải được thải ra môi trường
trong đó có chất thải nguy hại và độc hại. Ngoài ra bên cạnh đó các cuộc chiến tranh

nhằm giải quyết các mâu thuẫn khu vực hay các cuộc nội chiến cũng góp phần đưa
một lượng lớn chất độc hại vào môi trường. Từ các nguyên nhân làm phát sinh sự
gia tăng của các loại hình chất thải nguy hại có thể kể đến như: sự phát triển của
khoa học kỹ thuật (khoa học phân tích, y học, độc chất học…), nhận thức của chủ
23
thải và cộng đồng, hành vi cố tình, sự yếu kém của bộ máy quản lý…đã dẫn đến các
hậu quả bi thảm do chất thải nguy hại gây ra. Ví dụ:
-Do thủy ngân: Ở dạng muối vô cơ, thủy ngân gây ra các rối loạn thần kinh cho
công nhân làm nón (mũ) trong ngành công nghiệp làm mũ của Hà Lan và trở nên
nổi tiếng với cụm từ “made as a hatter”. Ở dạng muối hữu cơ, metyl mercury được
thải ra từ nhà máy hóa chất bên cạnh vịnh Minamata-Nhật, thông qua con đường
thực phẩm (tích lũy trong tôm, cua, sò, ốc) đã gây ra các triệu chứng rối loạn thần
kinh và được biết đến như là bệnh: “Minamata”. Ngoài ra có rất niều trường hợp sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật có chứa thủy ngân ở Irac và các nước khác.
-Do PCB (polychlorinated biphenyl) và PBB (polybrominated biphenyl): đây là
những chất được dùng làm chất làm mát trong các biến thế điện, chất hóa dẻo, và
giấy than. Sau khi sử dụng các chất này được thải bừa bãi vào môi trường và đã gây
ra một số sự cố nghiêm trọng. Hai sự kiện nhiễm độc được ghi nhận đã xảy ra ở
Châu Á tại Nhật và Đài Loan liên quan đến việc sử dụng dầu ăn có chứa hàm lượng
PCB cao. Tạị Mỹ-bang Michigan, việc nhiễm độc PCB được ghi nhận liên quan đến
việc sử dụng sữa và các sản phẩm từ sữa cũng như trứng và các sản phẩm từ trứng
trong khu vực ô nhiễm PCB. Tuy việc sản xuất các chất này bị ngừng lại, nhưng
hiện nay vẫn còn tồn tại một khối lượng tương đối lớn chất thải chứa PCB
s
đặc biệt
là các nước đang phát triển và nghèo đói do các thiết bị biến thế quá cũ hết hạn sử
dụng.
-Bên cạnh đó còn các trường hợp nhiễm độc khác như nhiễm độc Cd qua con đường
thực phẩm tại Nhật gây ra bệnh được biết như là bênh Itai-Itai. Nhiếm độc ĐT (gây
ung thư) do vệc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, nhiễm độc tricloroctylen (TCE) và

tetracloroctylen (PCE) do sử dụng nước giếng bị nhiễm các chất trên tại thành phố
Woburn bang Massachuseltts (Mỹ)…Hay các tường hợp về rò rỉ hóa chất độc hại
(hóa chất MIC tại nhà máy thuốc trừ sâu Carbide tại Bhopal Ấn Độ), cháy nổ các
nhà máy hóa chất (vụ cháy công ty hóa chất Sandoz-Đức)…đã gây ra các vụ nhiễm
độc cho người dân trong khu vực và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
24
-Từ những thực tế như vậy, trên thế giới các quốc gia đặc biệt là các nước tiên tiến
như ở châu Âu, Mỹ, nhật, Úc,…ngày càng hoàn thiện bộ Luật bảo vệ môi trường
của mình, và trong đó các quy chế quản lý các chất thải nguy hại là các thành phần
không thể thiếu trong bộ luật. Mặc dù còn nhiều khác biệt trong nội dung các điều
khoản của các bộ luật giữa những quốc gia khác nhau (ví dụ như định nghĩa chất
thải nguy hại, tầm quan trọng và sự cần thiết phải quản lý từng loại, trách nhiệm của
từng chue thể tham gia vào việc quản lý chất thải,…), nhưng nhìn chung các bộ luật
đã chỉ rõ mối quan tâm của nhà nước đối với công tác quản lý chất thải nguy hại.
Vượt ra ngoài biên giới quốc gia, những coog ước quốc tế có liên quan đến việc
quản lý chất thải nguy hại đã lần lượt ra đời, nói lên được sự cảnh báo cùng các mối
quan tâm sâu sắc của toàn nhân loại đối với các chất thải nguy hiểm đang tồn tại và
đe dọa cuộc sống xung quanh chúng ta, và cần phải có sự phối hợp hành động của
nhiều quốc gia trong việc quản lý các chất thải nguy hiểm này.
-Tại Việt Nam, theo các con số ước tính về lượng chất thải rắn nguy hại cho thấy
cả nước một năm thải vào môi trường khoảng gần 150000 tấn, riêng thành phố Hồ
Chí Minh –một trung tâm công nghiệp lớn của cả nước, số lượng chất thải ra chiếm
trên 40% trên tổng số. Do là một trung tâm công nghiệp quan trọng của cả nước,
lượng chất thải nguy hại của thành phố ngày một gia tăng và theo như số liệu thống
kê của dự án “Quy hoạch tổng thể về chất thải nguy hại”, số lượng chất thải nguy
hại (bao gồm cả chất thải nguy hại trong rác sinh hoạt) theo ước tính cho riêng
thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2012 lượng chất thải nguy hại thải ra một năm lên
đến 321000 tấn/năm. Điểm qua số liệu cho thấy nước ta đã, đang và sẽ phải đối đầu
với một nguy cơ rất lớn về chất thải nguy hại. Sự gia tăng vượt bậc này nhìn chung
là hệ quả tất yếu khi phát triển công nghiệp, kèm theo đó là các vấn đề về nhận thức

của nhà sản xuất, người dân cộng với một khung về pháp lý-luật và các tiêu chuẩn
liên quan đến chất thải nguy hại chưa hoàn chỉnh dẫn đến còn thiếu nhiều vấn đề
cần quan tâm và giải quyết.
Bên cạnh đó, hiện nay nước ta cũng đang phải đói mặt với các vấn đè liên quan
dến nhiễm độc chất độc hại do di tích của chiến tranh, và các tình hình buôn lậu các
25

×