Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Giải quyết tranh chấp bằng các phương thức lựa chọn ở Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.67 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Loài người từ khi ra đời đã trải qua biết bao biến động, thăng trầm.
Cùng với sự phát triển của xã hội, lịch sử thì những giá trị được coi là chuẩn
mực về nhân cách cũng dần dần được định hình, phát triển, biến đổi phù hợp
với đời sống. Xã hội càng phát triển lên cao thì những yêu cầu về nhân cách
càng được coi trọng.
Đặt trong bối cảnh nước ta, khi mà ta đã mở cửa nền kinh tế thị trường,
khi mà ta đã gia nhập rất nhiều tổ chức thế giới như WTO, ASEAN... thì
những vấn đề nhân cách cần được đặt ra một cách cấp thiết. Bước vào thời kỳ
mới thì những giá trị chuẩn mực về nhân cách của ta trước đây cũng dần thay
đổi. Trong môi trường toàn cầu hoá, chúng ta có thể nói nhiều hơn đến sự tự
do với tính cách là dấu hiệu của sự phát triển nhân cách một cách đầy đủ.
Nhưng môi trường ấy cùng với sự ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố từ bên
ngoài vào cũng rất dễ dẫn đến sự phát triển méo mó về nhân cách gây khó
khăn cho việc xây dựng và phát triển nhân cách. Bởi lẽ, những chuẩn mực cũ
đã lỗi thời nhưng trong nhiều trường hợp vẫn được ngộ nhận là giá trị.
Những chuẩn mực mới đang được hình thành chưa đủ sức xác lập tính phổ
biến trong hiệu lực định hướng nhân cách. Bên cạnh đó, yêu cầu hội nhập
kinh tế, giao lưu văn hoá dẫn đến sự du nhập những giá trị, những chuẩn mực
ngoại lai. Trong những chuẩn mực này, có cái là cần thiết đối với sự nghiệp
hiện đại hoá đất nước, có cái lại thể hiện như là phản giá trị cần đề kháng. Sự
đan xen giữa giá trị và phản giá trị trong những chuẩn mực về nhân cách hiện
nay làm cho nhân cách khó khăn trong sự xác định phương hướng, lựa chọn
và thực hiện hành vi. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố liên quan đến
sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như vai trò của chúng là rất cần
thiết. Bởi có sự hiểu biết đó thì mỗi cá nhân có thể dễ dàng hơn trong sự định
hướng nhân cách cho mình.


Đặc biệt, vấn đề này còn rất cần với sinh viên Việt Nam hiện nay. Họ
đang được sống trong một môi trường rất mới, trong một thời đại đầy năng


động. Họ đang trong qúa trình hoàn thiện về nhân cách. Rất cần ở thế hệ trẻ
này sự định hướng một cách đúng đắn những chuẩn mực về nhân cách để từ
đó có sự rèn luyện cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Vì vậy, hiểu biết về
vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách càng
cần thiết.


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. Khái niệm nhân cách.
Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội
nhất định, là chủ thể các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và
giao tiếp thì chúng ta nói đến nhân cách của họ. Chúng ta chỉ có thể nói đến
con người như là một nhân cách, bắt đầu từ một thời kỳ nào đó trong quá
trình phát triển của nó. Không ai nói đến nhân cách của một đứa trẻ 2 tuổi cả.
Nói cách khác, không phải mọi cá thể người, với cá tính của mình đều là nhân
cách cả. Vậy câu hỏi được đặt ra: Nhân cách là gì.
Quan niệm sinh vật hoá nhân cách:Coi bản chất nhân cách nằm trong
các đặc điểm hình thể (Krest Chmev), góc mặt (C.Lombrozo), thể trạng
(Sheldon), bản năng vô thức (S.Freud),...
Quan điểm xã hội học hoá nhân cách: Lấy quan hệ xã hội (gia đình, họ
hàng, làng xóm...) để thay thế một cách đơn giản, máy móc các thuộc tính của
cá nhân đó.
Trong số những quan niệm trên, có quan niệm chỉ chú ý đến cái chung,
bỏ qua cái riêng trong nhân cách, đồng nhất nhân cách với con người. Ngược
lại, một số quan niệm chỉ chú ý tính đơn nhất có một không hai của nhân
cách.
Quan niệm khoa học về nhân cách:
Các nhà tâm lý học khoa học cho rằng khái niệm nhân cách là một
phạm trù xã hội, có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách

là nội dung của những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội được chuyển vảo
trong mỗi con người. Có thể nêu lên một số định nghĩa nhân cách như sau:
“Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một vị trí nhất định trong
xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định” (A.G.Covaliov).


“Nhân cách là con người với tư cách là kẻ mang toàn bộ thuộc tính và
phẩm chất tâm lý, qui định hình thức hoạt động và hành vi có ý nghĩa xã hội”
(E.V.Sôrôkhôva).
Theo A.N.Leonchev, nhân cách không phải được sinh ra mà được hình
thành.
Theo nhà tâm lý học Xô Viết X.L.Rubinstein đã viết: “Con người là cá
tính do nó có những thuộc tính đặc biệt, không lặp lại, con người là nhân cách
do nó xác định được quan hệ của mình với những người xung quanh một cách
có ý thức. [1,178].
Nhìn chung thì nhân cách thường được xác định như là một hệ thống
các quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân
mình. Quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh được biểu hiện
trong niềm tin của họ, trong thế giới quan, trong thái độ của họ đối với những
người khác nhưng điều chủ yếu nhất là trong hoạt động giao tiếp của họ.
Quan hệ của con người đối với bản thân mình được biểu hiện trong những
biểu tượng của họ và của bản thân mình, trong sự tự đánh giá của họ, trong
những lý tưởng của họ, trong cái mà họ muốn nhìn nhận như vậy.
Triết học Mác – Lênin quan niệm: “Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc
độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của
mỗi cá nhân” [10,68]. Đồng thời, C.Mác khi coi nhân cách là bản chất con
người đã định nghĩa: “Bản chất của con người không phải là cái gì trừu tượng,
tồn tại với từng cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của mình, nó là tổng
hoà của tất cả các quan hệ xã hội...”. Trong quá trình sống của mình, con
người đã làm biến đổi các phẩm chất tự nhiên của mình, nhưng những biến

đổi đó không tạo ra nhân cách. Nhân cách được hình thành và phát triển như
những quan hệ xã hội mà trong đó cá nhân đang lớn lên và đang được biến
đổi, bắt đầu quá trình hoạt động sống của mình. Chính trong quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của con người, các đặc điểm của họ với tư cách
là cá tính được biến đổi và trở thành những đặc điểm mang tính người đích


thực, tính xã hội - đạo đức. Nói cách khác, không phải sự biến đổi các đặc
điểm cá thể của con người bị thay đổi là nguyên nhân của sự hình thành con
người như là một nhân cách mà ngược lại sự hình thành con người như một
nhân cách là nguyên nhân của sự biến đổi và phát triển các đặc điểm của con
người.
Từ đó ta có thể định nghĩa:
“Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một cá nhân biểu
hiện ở bản sắc giá trị xã hội của người ấy”.
II. Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách.
Theo quan điểm tâm lý học macxit, không phải con người sinh ra đã có
sẵn nhân cách và cũng không phải nó được bộc lộ dần dần từ các bản năng
nguyên thuỷ. Nhân cách là một cấu tạo tâm lý mới được hình thành và phát
triền trong quá trình sống, hoạt động và giao tiếp của mỗi người. Như
V.I.Lênin đã khẳng định: “Cùng với dòng sữa mẹ, con người hấp thụ tâm lý,
đạo đức của xã hội mà nó là thành viên”. Nhà tâm lý học nổi tiếng
A.N.Leonchiep cũng chỉ ra rằng: Nhân cách cụ thể là nhân cách con người
sinh thành và phát triển theo con đường từ bên ngoài chuyển vào nội tâm, từ
các quan hệ với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật, nền văn hoá xã hội do các
thế hệ trước tạo ra, các quan hệ xã hội mà nó gắn bó. Trong quá trình hình
thành, nhân cách bị chi phối bởi nhiều yếu tố: sinh thể, môi trường, giáo dục
và tự giáo dục, hoạt động và giao tiếp.
1. Yếu tố sinh thể có vai trò tạo tiền đề vật chất cho sự hình thành và

phát triển nhân cách.
Không thể có nhân cách trừu tượng ở bên ngoài một con người bằng
xương bằng thịt mà là nhân cách của một con người cụ thể sống trong một xã
hội cụ thể. Ngay từ lúc đứa trẻ sinh ra đã có những đặc điểm hình thái sinh lý
của con người bao gồm các đặc điểm bẩm sinh và di truyền.


Theo sinh vật học hiện đại, di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ thể
sống đảm bảo sự tái tạo ở thế hệ mới những nét giống nhau về mặt sinh vật
đối với thế hệ trước và đảm bảo năng lực đáp ứng những đòi hỏi của hoàn
cảnh theo một cơ chế đã định sẵn.
Trong khi đó, những đặc điểm giải phẫu sinh lý của cá thể ngoài những
yếu tố do di truyền tạo nên, còn có những yếu tố riêng tự tạo do sự vận động
và phát triển của cá thể. Những yếu tố như thế đối với con người có ngay từ
trong môi trường bào thai của mẹ. Chính vì vậy, một cá thể vừa mang đặc
điểm giải phẫu sinh lý của cha mẹ vừa có những cái gì đó của riêng nó.
Bẩm sinh – di truyền là những đặc điểm giải phẫu sinh lý của hệ thần
kinh và các cơ quan cảm giác, vận động. Đối với mỗi cá thể khi ra đời đã
nhận được một số đặc điểm về cấu tạo và chức năng cơ thể từ các thế hệ trước
theo con đường di truyền, trong đó có những đặc điểm về cấu tạo và chức
năng của các giác quan và não. Những đặc điểm của hoạt động thần kinh cấp
cao được biểu hiện ngay từ những ngày đầu của cá thể. Tuy nhiên, không thể
kết luận về vai trò quyết định của di truyền trong sự hình thành và phát triển
tâm lý nhân cách.
Những quan sát khoa học về quá trình phát triển của trẻ sinh đôi cùng
trứng cũng chỉ ra rằng, sự tương đồng rất cao của trí nhớ hình ảnh, âm thanh ở
chúng đã mất dần cùng với sự phát triển của lứa tuổi do tác động của hoàn
cảnh và tính tích cực riêng của mỗi cá thể.
Bất cứ một chức năng tâm lý nào mang bản chất con người của nhân
cách chỉ có thể được phát triển trong hoạt động của bản thân cá nhân đó và

trong điều kiện của xã hội loài người. Tai âm nhạc của MôZa, mắt hội hoạ
của Raphaen sẽ không tự phát triển những khả năng tiềm tàng của nó một khi
thiếu môi trường, nhu cầu và sự rèn luyện. Cùng một kiểu hệ thần kinh nhiều
loại năng lực, nhiều loại tính cách khác nhau có thể được hình thành và ngược
lại.


Để nhận thức đúng vai trò của bẩm sinh – di truyền trong sự phát triển
tâm lý nhân cách, ta cần phải thừa nhận một thực tế là mọi cơ thể bình thường
đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần của mình. Hơn thế, hoạt động
tâm – sinh lý của con người lại có khả năng bù trừ (sự thiếu hụt của giác quan
này có thể làm tăng tính nhạy cảm của giác quan khác, một chức năng tâm lý
bị huỷ hoại có thể được khôi phục bằng cách luyện tập để thiết lập một hệ
thống các chức năng mới trên vỏ não để thích ứng với chức năng đó. Ngoài
ra, sự tác động của yếu tố di truyền đối với từng hoạt động cụ thể là khác
nhau. Chẳng hạn, khả năng tiềm tàng của bộ máy phân tích âm thanh cần phải
được phát triển và bồi dưỡng từ thời thơ ấu. Nó là đặc điểm di truyền, khác
với những đặc điểm phát triển khác của cơ thể. Bên cạnh đó, sự phát triển
không bình thường của cơ thể con người cũng ảnh hưởng đến sự phát triển
tâm lý nhân cách. Ví dụ: người có dị tật hay người thấp bé thường nảy sinh
tâm lý tự ti, không thích thể hiện mình ở giữa đám đông. Hoặc những người
điếc bao giờ cũng nói to vì họ tưởng người khác cũng khó nghe như họ.
Rõ ràng, yếu tố sinh thể đóng vai trò đáng kể trong sự hình thành và
phát triển tâm lý nhân cách. Chính nó tham gia vào sự tạo thành cơ sở vật chất
các hiện tượng tâm lý - những đặc điểm giải phẫu và sinh lý của cơ thể, trong
đó có hệ thần kinh. Từ đó có thể khẳng định vai trò tạo tiền đề vật chất của
yếu tố sinh thể đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.
2. Yếu tố môi trường.
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài các điều kiện tự nhiên
và xã hội xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con

người. Có thể phân thành 2 loại: Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
2.1. Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát
triển nhân cách.
Mỗi dân tộc sống trên một lãnh thổ nhất định với những độc đáo riêng
về hoàn cảnh địa lý. Những điều kiện ấy qui định đặc điểm của các dạng, các
ngành sản xuất, đặc tính nghề nghiệp và một số nét riêng trong phạm vi sáng


tạo nghệ thuật. Qua đó, qui định giá trị vật chất và tinh thần ở một mức độ
nhất định. Cho nên có thể nói, tâm lý dân tộc mang dấu ấn của hoàn cảnh tự n
hiên thông qua khâu trung gian là phương thức sống.
Xét cho cùng, nhiều phong tục tập quán đều có nguồn gốc từ điều kiện
và hoàn cảnh sống tự nhiên. Một số nét tâm lý nào đó của bản địa, của nghề
nghiệp cũng có thể được hiểu theo logic ấy. Nhân cách như là một thành viên
xã hội, chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật
chất và tinh thần, qua phong tục tập quán của dân tộc, của địa phương, của
nghề nghiệp - những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy mà qua
phương thức sống của chính bản thân đó. Ví dụ, những người sống ở nơi gần
biển thì thường làm nghề đi biển, dạn dày với nắng gió. Vì vậy họ thường
phát triển theo lối sống mạnh mẽ, từng trải nhưng vô cùng thuần hậu.
Một số nhà tâm lý học hiện đại cho rằng, hoàn cảnh tự nhiên không giữ
vai trò quan trọng và quyết định trong sự phát triển tâm lý nhân cách.
Khác với quan điểm trên, một số tác giả của tâm lý học phương Tây lại
đề cao vai trò của điều kiện hoàn cảnh sống tự nhiên. Họ đã giải thích nguyên
nhân một số thói xấu hay đức tính cao quý của dân tộc này hay dân tộc khác
bằng hoàn cảnh địa lý: cá tính của người phương Bắc thì mạnh mẽ nhưng lạnh
nhạt, của người phương Nam thì yếu ớt nhưng xởi lởi, dễ gần. Thậm chí,
nguyên nhân của hành động chiến tranh xâm lược của một số nước Tây Âu
cũng được giải thích bằng hoàn cảnh địa lý mang tính kích thích. Đó là một
quan điểm sai lầm và thiếu tính khoa học.

2.2. Môi trường xã hội có vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm
lý nhân cách.
Không có sự tiếp xúc, trao đổi với người xung quanh hoặc sống trong
một xã hội quá đơn điệu thì cơ thể sẽ lớn lên và phát triển trong trạng thái của
động vật hoặc sẽ nghèo nàn về tâm lý, kém sự linh động. Chẳng hạn, bác sĩ
Sing, người Ấn Độ, có kể về trường hợp cô Kamala được chó sói nuôi từ nhỏ.
Khi được đưa ra khỏi rừng, cô đã 12 tuổi. Bình thường, cô ngủ trong xó nhà,


đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như chó rừng. Cô đi lại bằng 2 chân,
nhưng khi bị đuổi thì chạy bằng 4 chi khá nhanh. Người ta dạy nói Kamala
trong 4 năm nhưng cô chỉ nói được 2 từ. Cô không thể thành người thực sự và
18 tuổi thì qua đời. Sự thực đó đã khẳng định tính đúng đắn trong nhận xét
của C.Mác:
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các mối
quan hệ xã hội. Như vậy, có thể thấy, đứa trẻ ra đời mới chỉ như một con
người “dự bị”. Nó không thể trở thành con người nếu bị cô lập, tách khỏi đời
sống xã hội, nó cần phải học để trở thành người. Trong “bản thảo kinh tế triết
học” năm 1844, C.Mác viết: “cá nhân là thực thể xã hội”, cho nên mọi biểu
hiện sinh hoạt của nó – ngay cả nếu nó không được biểu hiện dưới hình thức
trực tiếp của biểu hiện sinh hoạt tập thể, được thực hiện cùng với những
người khác là biểu hiện và sự khẳng định của sinh hoạt xã hội”. Chính sự gia
nhập xã hội mà đứa trẻ và hành vi của nó mang nội dung xã hội. Đứa trẻ
muốn trở thành nhân cách phải có sự tiếp xúc với người lớn để nắm vững tri
thức, kinh nghiệm lịch sử và xã hội để được chuẩn bị bước vào cuộc sống lao
động, văn hoá của thời đại.
Quan hệ sản xuất qui định nội dung chủ yếu của nhiều nét tâm lý cơ
bản của nhân cách.
Tâm lý nhân cách lại phụ thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật vị trí
giai cấp của cá nhân sẽ kích thích tính tích cực của nó ở mức độ này hay mức

độ khác trong vai trò xã hội. Nhu cầu, hứng thú, lý tưởng phụ thuộc không ít
vào vai trò ấy.
Đặc tính của quan hệ sản xuất, quan hệ chính trị pháp luật biểu hiện
qua tư tưởng, đạo đức và ở mức độ khác nhau qua phong tục, tập quán.
Cá nhân là một tồn tại có ý thức, nó có thể lựa chọn và do đó nó lựa
chọn những yếu tố tác động của hoàn cảnh xã hội vốn bao giờ cũng phức tạp,
phản ứng trở lại một cách khác nhau trước những tác động đó. Chẳng thế mà


Mác viết: “hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực con người tạo ra
hoàn cảnh”.
Trong môi trường xã hội ta còn thấy những hiện tượng tâm lý xã hội
quần chúng khác ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý nhân cách. Dư luận và
tâm trạng chung, đó là sự phán xét đánh giá của sự đông người về sự kiện đời
sống xã hội của hoạt động tập thể của hành vi cá nhân. Dư luận được hình
thành thầm lặng hoặc có ý thức. Có thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực
trong đời sống được bắt nguồn từ sự kiện thực hay bịa đặt. Nó nảy sinh, phát
triển trên tâm trạng xã hội và có ảnh hưởng trở lại tâm trạng đó.
Tâm trạng chung: Bao trùm bầu không khí lạc quan hay bi quan - sức
phấn đấu chung của nhóm hay cá nhân đều chịu ảnh hưởng của tâm trạng
chung đó. Ví dụ: lời nói, cử chỉ, việc làm, cách nhìn, nếp nghĩ của một thành
viên đều có muôn màu muôn vẻ của tâm trạng chung đó, tình cảm cuả nhân
cách được kết tinh dần dần từ đó. Ta có thể thấy tâm trạng chung của một gia
đình, một nhóm bạn, một thế hệ, một dân tộc, một thời đại...
Thi đua: Là phương thức tác động qua lại giữa cá nhân, nhóm và tập
thể làm tăng kết quả hoạt động của nhau. Nhiều phẩm chất nhân cách, tập thể
được phát triển qua thi đua.Ví dụ: sự thi đua trong lớp học nhằm đạt kết quả
cao trong học tập sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ở mỗi thành viên
trong lớp sự nỗ lực học tập.
Bắt chước: Thể hiện ra trong mọi lĩnh vực của đời sống. Bắt chước

diễn ra một cách có ý thức hay không có ý thức, bắt chước trong cách giao
tiếp, ngôn ngữ, trong ăn mặc. Đặc biệt trẻ con trong độ tuổi ấu thơ rất hay bắt
chước người lớn. Vì vậy, cách xử sự của người lớn có tác động rất lớn đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ sau này.
Nhân tố xã hội cơ bản có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển
nhân cách con người là tồn tại xã hội, hoàn cảnh sống mang tính lịch sử - cụ
thể mà cá nhân đó sống. C.Mác đã nói: “Nếu như con người bẩm sinh đã là
sinh vật có tính xã hội thì do đó con người chỉ có thể phát triển bản tính của


mình trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng bản tính của anh ta, không
phải căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực lượng của
toàn xã hội”. Do vậy, ở mỗi thời đại khác nhau, như thời Cổ đại, Trung cổ,
Cận đại, Hiện đại... có những kiểu loại nhân cách khác nhau. Thời cổ đại, khi
nền kinh tế chưa phát triển, của cải còn ít, con người phải sống phụ thuộc vào
tập thể, nhân cách mỗi người hoà vào nhân cách tập thể. Thời Trung cổ, với
sự ra đời của Kitô giáo, nhân cách chủ yếu hướng về đời sống tinh thần, về
những giá trị đạo đức thuần tuý, con người sống nhưng luôn chuẩn bị cho đời
sống của mình sau khi chết. Thời Cận đại với sự khẳng định giá trị con
người, nhân cách mang tính độc lập sáng tạo... [7,2].
3. Yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách.
Môi trường xã hội tác động đến mỗi cá nhân một cách tự phát và tự
giác nhưng chủ yếu bằng con đường tự giác là giáo dục.
Theo quan điểm của tâm lý học và giáo dục học hiện đại thì giáo dục
giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nhân cách.
Giáo dục là một hoạt động chuyên môn của xã hội nhằm hình thành và
phát triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những
giai đoạn lịch sử nhất định. [1,211].
Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ tác động của gia đình, nhà trường,

xã hội bao gồm cả dạy học và cách tác động giáo dục khác đến con người.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục có thể xem như là “quá trình tác động có ý
thức, có mục đích và có kết quả về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi trong tập
thể trẻ em và học sinh trong gia đình và cơ quan giáo dục mà nhà trường”
[1,211].
Vai trò chủ đạo của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách của thế hệ trẻ được thể hiện ở những điểm sau:
- Giáo dục vạch phương hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách của học sinh và dẫn dắt sự hình thành và phát triển nhân cách theo chiều


hướng đó. Điều này được thể hiện qua việc thực hiện mục tiêu giáo dục, đào
tạo của nhà trường và các tổ chức giáo dục mà nhà trường.
- Thông qua giáo dục, thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh
nghiệm xã hội - lịch sử đã được kết tinh trong những sản phẩm văn hoá vật
chất và tinh thần của nhân loại. Thế hệ trẻ lĩnh hội những kinh nghiệm đó để
biến thành kinh nghiệm của bản thân và tạo nên nhân cách của mình. Chẳng
thế mà tục ngữ, thành ngữ, ca dao được nhân dân ca ngợi là “túi khôn của
nhân loại”.
- Giáo dục có thể mang lại những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền
hay môi trường tự nhiên không thể đem lại. Chẳng hạn, nếu không bị khuyết
tật gì, thì theo sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể, đến một giai đoạn nhất
định, đứa trẻ sẽ biết nói. Nhưng muốn biết đọc sách báo thì nhất thiết nó phải
học. Hoặc như đến một độ tuổi nào đó, đứa trẻ làm được mọi động tác vốn có
của con người nhưng muốn có được những kỹ xảo nghề nghiệp thì dứt khoát
phải học nghề.
- Giáo dục có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật mang lại cho con
người. Ví dụ: Bằng phương pháp giáo dục đặc biệt, những người bị khuyết tật
có thể phục hồi được những chức năng đã mất, hoặc có thể phát triển tài năng
hoặc trí tuệ một cách bình thường. Trong nước ta và trên thế giới có nhiều

người như thế: Nhạc sĩ chơi ghita nổi tiếng Văn Vượng bị mù từ bé, nhờ giáo
dục mà thành tài năng âm nhạc, Viện sĩ toán học Liên Xô Pôntriaghin cũng bị
khiếm thị từ nhỏ nhưng vẫn thành danh nhờ giáo dục.
-Giáo dục có thể phát huy tối đa những mặt mạnh của các yếu tố chi
phối sự hình thành nhân cách như các yếu tố thể chất, môi trường.
- Giáo dục có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu, do tác động tự
phát của môi trường xã hội gây nên và làm cho nó phát triển theo chiều hướng
mong muốn của xã hội. Chẳng hạn, công tác giáo dục trẻ em hư hoặc cải tạo
lao động đối với những người phạm pháp. Không phải ngẫu nhiên mà những
trại cai nghiện được lập ra.


- Giáo dục có thể đi trước hiện thực, trong khi tác động tự phát của xã
hội chỉ ảnh hưởng đến cá nhân ở mức độ hiện có của nó. Chẳng hạn, hiện nay
chúng ta đang ở những bước ban đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, nhưng mục tiêu mà nhà trường đề ra và phấn đấu là xây dựng, giáo dục
học sinh thành những con người XHCN. Đây là tính chất tiên tiến của giáo
dục.
- Những công trình nghiên cứu về tâm lý học và giáo dục học hiện đại
đã chứng minh rằng: Sự phát triển tâm lý của trẻ em chỉ có thể diễn ra một
cách tốt đẹp trong những điều kiện của sự dạy học và giáo dục. Điều này
được minh chứng bằng cả lịch sử phát triển của loài người: Trên thế giới chưa
từng có một nhà bác học, một danh nhân, một thiên tài nào lại chưa hề qua
giáo dục của nhà trường cả.
Tuy nhiên, giáo dục chỉ vạch ra phương hướng cho sự hình thành và
phát triển nhân cách, thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển theo hướng
đó. Còn cá nhân đó có phát triển theo hướng đó hay không, phát triển đến
mức độ nào thì giáo dục không quyết định trực tiếp mà chính là hoạt động và
giao tiếp của mỗi cá nhân. Do đó, cần phải tiến hành giáo dục trong mối quan
hệ hữu cơ với việc tổ chức hoạt động, tổ chức quan hệ giao tiếp, hoạt động

cùng nhau trong các mối quan hệ, quan hệ nhóm và tập thể. Đặc biệt, con
người là thực thể tích cực có thể tự hình thành và biến đổi nhân cách của mình
một cách có ý thức, có khả năng tự cải tạo chính bản thân mình, có nhu cầu tự
khẳng định, tự ý thức, tự điều chỉnh cho nên con người có hoạt động tự giáo
dục. Hoạt động này là quá trình con người tự biết kiềm chế mình, biết hướng
nhu cầu, hứng thú, giá trị của mình cho phù hợp với những chuẩn mực đạo
đức, giá trị của xã hội. Vì vậy, giáo dục không được tách rời với tự giáo dục,
tự rèn luyện, tự hoàn thiện nhân cách ở mỗi cá nhân.
Như vậy, giáo dục một mặt cung cấp cho con người những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, mặt khác, hình thành trong nhân cách họ những phẩm chất tâm
lý cần thiết theo yêu cầu của sự phát triển xã hội. Sản phẩm văn hoá của loài


người có thể biến thành tài sản tinh thần của nhân cách nhờ hoạt động dạy học
và giáo dục. Trong xã hội hiện nay, gia đình, nhà trường và xã hội có thể đạt
tới sự thống nhất cao hơn trong việc giáo dục thế hệ trẻ.
4. Hoạt động là con đường quyết định trực tiếp đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách.
Con đường tác động có mục đích, tự giác của xã hội bằng giáo dục đến
thế hệ trẻ sẽ trở nên không có hiệu quả nếu như bản thân cá nhân học sinh
không tiếp nhận, không hưởng ứng những tác động đó, không trực tiếp tham
gia vào các hoạt động đó nhằm phát triển tâm lý, hình thành nhân cách. Bởi
vậy, hoạt động mới là nhân tố tác động quyết định trực tiếp đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Điều này hoàn toàn phù hợp với
quy luật về sự tự thân vận động, về động lực bên trong của sự phát triển nói
chung. Chừng nào cá nhân nhận thức được ý nghĩa của hoạt động cá nhân
trong sự phát triển, hoàn thiện bản thân mình thì hoạt động của cá nhân sẽ trở
thành hoạt động tự giáo dục.
Hoạt động để lại dấu ấn của mình lên chính bản thân con người. Tâm lý
không chỉ được thể hiện mà còn được hình thành trong hoạt động. Chính nhân

cách của con người cũng được hình thành trong hoạt động: Con người trở lên
can đảm, quả quyết, cứng rắn... Hãy quan sát những người xung quanh, bạn sẽ
thấy hoạt động nghề nghiệp làm thay đổi vẻ ngoài và thế giới tinh thần họ như
thế nào. Đồng thời qua cung cách cư xử, lời ăn tiếng nói,... của họ ta cũng
biết họ làm nghề gì.
Vậy, hoạt động ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách
như thế nào?
Chúng ta đã biết, hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Hoạt
động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, cộng đồng,
được thực hiện bằng những thao tác nhất định với những công cụ nhất định.
Vì vậy mỗi loại hoạt động có những yêu cầu nhất định và đòi hỏi ở con người
những phẩm chất tâm lý nhất định.Quá trình tham gia hoạt động làm cho con


người hình thành những phẩm chất đó. Vì thế, nhân cách của họ được hình
thành phát triển.
Thông qua hai quá trình đối tượng hoá và chủ thể hoá trong hoạt động
mà nhân cách được bộc lộ và hình thành. Con người lĩnh hội kinh nghiệm xã
hội lịch sử bằng hoạt động của bản thân mình để hình thành nhân cách. Mặt
khác, cũng thông qua hoạt động, con người đóng góp lực lượng bản chất của
mình vào việc cải tạo thế giới quan.
Hiểu được mối quan hệ giữa hoạt động và nhân cách nên hoạt động
phải được coi là phương tiện giáo dục cơ bản. Nhưng không phải là ở tất cả
các giai đoạn hay thời kỳ phát triển và cũng không phải các dạng hoạt động
đều có tác động như nhau đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Theo
A.N.Leonchiep thì có những dạng hoạt động đóng vai trò chủ yếu trong sự
phát triển nhân cách, còn các dạng hoạt động khác đóng vai trò thứ yếu. Do
đó cần phải hiểu rõ sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người phụ
thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kỳ nhất định. Muốn hình thành nhân
cách, con người phải tham gia vào các dạng hoạt động khác nhau, trong đó

đặc biệt chú ý tới vai trò của hoạt động chủ đạo. Vì thế phải lựa chọn tổ chức
và hướng dẫn các hoạt động đảm bảo tính giáo dục và tính hiệu quả đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách.
Hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát
triển nhân cách như vậy nên trong công tác giáo dục cần chú ý thay đổi làm
phong phú nội dung, hình thức, cách thức tổ chức hoạt động để lôi cuốn cá
nhân tham gia tích cực, tự giác vào các hoạt động đó.
Hoạt động của con người khác với động vật ở chỗ nó có mục đích, có ý
thức. Hoạt động của con người được hình thành và phát triển cùng với sự hình
thành và phát triển ý thức, là nguồn gốc và nội dung của ý thức. Hoạt động
của con người được thực hiện không chỉ trong mối quan hệ của con người với
sự vật mà cả trong mối quan hệ với người khác. Vì thế hoạt động của con
người luôn luôn mang tính chất xã hội, tính cộng đồng. Điều đó có nghĩa là


hoạt động luôn luôn gắn liền với giao tiếp. Bởi vậy, giao tiếp cũng là con
đường cơ bản để hình thành và phát triển nhân cách.
5. Giao tiếp: Là một con đường quan trọng trong việc hình thành và
phát triển nhân cách.
Liên quan đến vấn đề này, nhà tâm lý học Xôviết B.F.Lômôp đã viết:
“Khi chúng ta nghiên cứu lối sống của một cá nhân cụ thể, chúng ta không
thể chỉ giới hạn ở sự phân tích xem nó làm cái gì và như thế nào, mà chúng ta
còn phải nghiên cứu xem nó giao tiếp với ai và như thế nào”.
Khác với hoạt động, đối tượng của giao tiếp là những chỉnh thể tâm lý
sống động, những nhân cách hoàn chỉnh. Ở đây diễn ra mối quan hệ giữa chủ
thể với chủ thể. Do đó, trong giao tiếp, chủ thể tác động qua lại với những chủ
thể tâm lý phức tạp, sống động hơn nhiều, chúng có tính chủ động, có liên
quan nhiều hơn đến quan hệ giữa người với người (tâm thế, định hướng giá
trị, niềm tin...). Do những đặc trưng cơ bản có khác nhau như vậy nên sự hình
thành nhân cách, đối tượng hoạt động liên quan nhiều hơn đến sự hình thành

mặt năng lực của nhân cách, còn giao tiếp liên quan đến sự hình thành mặt
đạo đức và ý thức bản ngã nhân cách.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Không
thể có xã hội nếu không có giao tiếp, vì xã hội là một cộng đồng người chứ
không phải là một dấu cộng đơn giản của nhiều người. Không có nhu cầu giao
lưu, không có sự hoạt động tập thể với những mục đích nhất định thì sẽ không
có ngôn ngữ, không có lao động. Mỗi cá nhân không thể phát triển bình
thường theo kiểu người và không thể trở thành nhân cách nếu không được
giao tiếp với những cá nhân khác. Giao tiếp là một trong những nhu cầu xã
hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất hay có thể nói là nhu cầu bẩm sinh của con
người. Nếu nhu cầu này không được thoả mãn sẽ gây hậu quả nặng nề (bệnh
hospitalism có nghĩa là “bệnh do nằm viện” cũng phát sinh từ nguyên nhân
này). Giao tiếp là một nhân tố hay con đường để hình thành và phát triển nhân
cách. Nói về tầm quan trọng của vấn đề này, C.Mác viết: “Sự phát triển của


một cá nhân được quy định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà
nó giao lưu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp với họ”. Chẳng vậy mà có câu
ngạn ngữ rằng: “Hãy cho tôi biết bạn của anh là ai tôi sẽ nói cho anh biết anh
là người thế nào”.
Nhờ giao tiếp, con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội
nền văn hoá xã hội, chuẩn mực xã hội và “tổng hoà các quan hệ xã hội”
thành bản chất con người. Cụ thể hơn, con người học được cách đánh giá
hành vi, thái độ, lĩnh hội được các tiêu chuẩn đạo đức một cách trực tiếp từ
cuộc sống, kiểm tra và vận dụng những tiêu chuẩn đó vào thực tiễn, dần dần
hình thành nguyên tắc đạo đức trong cuộc sống của mình. Như vậy, những
phẩm chất nhân cách quan trọng như: tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ, tính
nguyên tắc, tính trung thực, lòng nhân ái... được biểu hiện và được hình thành
trong chính quá trình giao tiếp. Thông qua giao tiếp con người mới có thể
đóng góp sức lực và tài năng của mình cho xã hội.

Trong quá trình giao tiếp, con người không chỉ nhận thức người khác,
nhận thức các quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân mình.
Khi tiếp xúc, con người thấy được cái có ở người khác, tự so sánh, đối chiếu
với những việc mình làm, với các chuẩn mực xã hội nên đã thu nhận được các
thông tin cần thiết để hình thành sự đánh giá bản thân như một nhân cách, để
hình thành một thái độ giá trị - cảm xúc nhất định đối với bản thân...Rõ ràng,
qua giao tiếp, con người đã hình thành khả năng tự ý thức. Với sự tự ý thức,
sự thúc đẩy hành động trong câu nói của người mẹ, cậu bé Pablo Picasso đã
trở thành một danh hoạ, một nhân cách lớn của đất nước Tây Ban Nha.
Picasso đã từng nói đến sức mạnh của sự tự giao tiếp trong một lời tâm sự rất
dung dị: “Mẹ tôi đã nói với tôi: nếu con đi lính, con sẽ là một vị tướng, nếu
con đi tu, con sẽ là giáo hoàng. Thay vì vậy, tôi đã trở thành hoạ sĩ và là danh
hoạ Picasso”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng giao tiếp là hình thức đặc trưng trong
mối quan hệ người –người, là nhân tố cơ bản của việc hình thành và phát triển


tâm lý, ý thức, nhân cách. Giao tiếp vào hoạt động của con người chỉ có thể
diễn ra trong cộng đồng, trong nhóm và tập thể.
6. Nhìn nhận chung về vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách và mối liên hệ giữa chúng.
Năm yếu tố: sinh thể, môi trường, giáo dục và tự giáo dục, hoạt động
và giao tiếp đều có tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách, nhưng
có vai trò không giống nhau. Theo quan điểm của tâm lý học macxit thì yếu tố
sinh thể giữ vai trò làm tiền đề; yếu tố môi trường, đặc biệt là môi trường xã
hội có vai trò quyết định; yếu tố hoạt động và giao tiếp của cá nhân có vai trò
quyết định trực tiếp; yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách.
Có thể nói: sự hình thành và phát triển nhân cách là một quá trình lâu
dài và phức tạp. Trong quá trình đó, giữa các yếu tố đã nêu thường xuyên tác

động lẫn nhau và có sự thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của mỗi
người. Nhân cách không phải là một cái gì đó đã hoàn tất mà là quá trình luôn
đòi hỏi sự trau dồi thường xuyên.
III. Liên hệ thực tiễn
Mỗi thời đại, mỗi đất nước đều có những chuẩn mực nhân cách của
riêng mình và sự tác động của các yếu tố liên quan đến sự hìnht hành và phát
triển của nhân cách cũng không giống nhau nhưng thời đại nào, đất nước nào
cũng có những vĩ nhân, những nhân cách lớn. Nhân loại xưa tự hào vì có nhà
bác học Đácuyn với câu nói nổi tiếng: “Bác học không có nghĩa là ngừng
học”. Nhân dân Việt Nam tự hào vì có lãnh tụ Hồ Chí Minh - một nhân cách
lớn. Thế hệ trẻ nước ta hôm nay ngưỡng mộ Trương Đình Tuyển - một con
người một vóc dáng nhưng lại có công vô cùng lớn trong việc đưa đất nước
chuyển mình hội nhập với nền kinh tế thế giới, gia nhập WTO... Những con
người ấy là những nhân cách điển hình, được mọi người biết đến. Cuộc sống
đời thường còn biết bao nhân cách tốt đẹp đang ẩn dấu mà chúng ta chưa biết
đến. Việc nhận thức được vai trò của các yếu tố đối với sự hinh thành và phát


triển nhân cách là vô cùng cần thiết đặc biệt là thế hệ trẻ, những con người
mong muốn vươn tới sự hoàn thiện của nhân cách.
Từ việc hiểu biết về nhân cách, về vai trò của các yếu tố đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách, kết hợp với những kiến thức về thực tế đời
sống, xã hội, ta có thể liên hệ với bản thân và xác định phương hướng phát
triển cho phù hợp.
Chúng ta hôm nay phải sống trong một môi trường xã hội vô cùng
năng động, trong một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có rất nhiều
điều kiện thuận lợi để thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Hoàn cảnh xã hội hiện nay rất cần những nhân cách có đủ đức và tài để đạt
được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Bác Hồ cũng đã từng dạy: “Có tài mà không có đức là đồ vô dụng. Có đức mà

không có tài thì làm việc gì cũng khó.” Vì thế một nhân cách hoàn thiện phải
có đủ “tài” và “đức”. Để đạt được điều ấy cần có sự tác động vào các yếu tố
hình thành và phát triển nhân cách một cách thích hợp.
Khi đã có sự hiểu biết về vai trò của các yếu tố sinh thể với nhân cách,
ta có thể có những biện pháp để phát triển những mặt mạnh, kiềm chế những
yếu tố không tốt thuộc về mặt bẩm sinh di truyền trong khả năng có thể.
Đồng thời ta cũng cần tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, tìm
hiểu các kiến thức về xã hội để xác định được những yêu cầu chuẩn mực của
thời đại mới, từ đó có sự rèn luyện bản thân theo hướng đáp ứng một cách tốt
nhất những yêu cầu đó.
Tích cực giao tiếp với bạn bè, thầy cô và mọi người tạo mối quan hệ
rộng lớn, thu thập nhiều kiến thức lịch sử - xã hội giúp nhân cách được phát
triển toàn diện.
Cần có sự năng động, hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Làm một sinh
viên, kiến thức về chuyên môn là cần thiết nhưng kiến thức, kinh nghiệm đời
sống cũng quan trọng không kém. Vì thế để có được nhiều kinh nghiệm sống,
bạn cần hoạt động nhiều hơn.


Tạo môi trường hoạt động tốt với những phương pháp học sáng tạo
cũng là một giải pháp tốt thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển nhân
cách.
Cuối cùng phải luôn luôn tự nhìn nhận lại bản thân đánh giá đúng sai
những việc đã làm, vạch ra mục đích cần vươn tới, luôn luôn phải nghiêm
khắc với chính mình, nhìn nhận, đánh giá cuộc sống để giảm bớt những hành
vi sai lệch. Quá trình tự giáo dục phải được xác định là thường xuyên liên tục
thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi.


KẾT LUẬN

Nhân cách là một vấn đề vô cùng phức tạp và rất khó lý giải. Nhưng nó
lại hiện diện quanh ta hàng ngày hàng giờ. Chính bản thân ta cũng là một
nhân cách. Việc làm thế nào để có một nhân cách tốt phù hợp với những yêu
cầu chuẩn mực của xã hội là một vấn đề lớn. Nó đòi hòi ở mỗi cá nhân sự rèn
luyện, phấn đấu liên tục, không mệt mỏi. Một đất nước chỉ có thể phát triển
bền vững khi đất nước đó được xây dựng trên số đông là nhân cách tốt, tức
đa phần là những con người có đủ tài và đức. Là thế hệ trẻ của một thời đại
mới, là những chủ nhân của một đất nước đang vặn mình hội nhập thì bạn
nghĩ sao về bổn phận và trách nhiệm của mình??? Bạn khoan hãy nghĩ đến
những việc làm to tát. Theo tôi chúng ta cứ bắt đầu thực hiện trách nhiệm lớn
lao ấy bằng việc tu dưỡng đạo đức, tài năng, tu dưỡng từng ngày nhân cách
của mình. Đơn giản thôi, khi đã ý thức được vai trò của các yếu tố đối với sự
phát triển và hình thành nhân cách, chúng ta ngay bây giờ hãy tự đặt cho mình
kế hoạch, những công việc cụ thể để thực hiện. Bạn và tôi, chúng ta có thể
phải không!!!


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tập thể tác giả. TS. Đặng Thanh Nga (chủ biên). Giáo trình Tâm lý
học đại cương. NXB CAND, 2008.
2. Tập thể tác giả. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên). Giáo trình Tâm lý
học đại cương. NXB Đại học sư phạm, 2008.
3. Tập thể tác giả. Nguyễn Xuân Thức (chủ biên). Giáo trình Tâm lý
học đại cương. NXB Đại học sư phạm, 2008.
4. Phạm Minh Hạc. Tuyển tập Tâm lý học. NXB Giáo dục, 2002.
5. TS. Nguyễn Thị Huệ (chủ biên). ThS. Lê Minh Nguyệt. Hỏi và đáp
môn Tâm lý đại cương. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
6. PGS. TS. Vũ Minh Tâm. Giáo dục nhân cách sáng tạo và phát triển
bền vững trong thời đại toàn cầu hoá. Tạp chí KHXH, Tháng 9/2007.
7. ThS. triết học. Cao Thu Hằng. Bài viết Về sự hình thành nhân cách.

Tạp chí Triết học tháng 8/2003.
8. Bài viết của ThS Trương Hải Yến.
9. Bài viết Yếu tố hình thành nhân cách đạo đức.
10. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, 2007.
11. Tập thể tác giả. Giáo trình Tâm lý học, NXB CAND, 2003.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ............................................................................... 3

I.Khái niệm nhân cách.............................................................................. 3
II. Vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và phát triển nhân cách .. 5
1. Yếu tố sinh thể có vai trò tạo tiền đề vật chất cho sự hình thành và
phát triển nhân cách............................................................................................ 5
2. Yếu tố môi trường ................................................................................ 7
2.1. Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển
nhân cách ........................................................................................................... 7
2.2. Môi trường xã hội có vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm lý
nhân cách ........................................................................................................... 8
3. Yếu tố giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và
phát triển nhân cách.......................................................................................... 11
4. Hoạt động là con đường quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách.......................................................................................... 14
5. Giao tiếp............................................................................................. 16
6. Nhìn nhận chung về vai trò của các yếu tố đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách và mối liên hệ giữa chúng ............................................... 18
III. Liên hệ bản thân ............................................................................... 18
KẾT LUẬN.............................................................................................. 21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 22




×