Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.77 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây đang chứng kiến
bước phát triển nhanh chóng của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng
không ngừng tăng vốn, tăng dư nợ tín dụng, mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt
động... trong nỗ lực cải thiện tình hình hoạt động của bản thân để chuẩn bị cho
cuộc cạnh tranh mạnh mẽ khi Việt Nam hoàn toàn gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới WTO. Là trung gian tài chính trong nền kinh tế, đối tượng của hoạt động
ngân hàng chính là vốn, và qui mô vốn của ngân hàng sẽ quyết định lợi nhuận mà
nó kiếm được. Việc tìm kiếm, huy động vốn luôn giữ vai trò hết sức quan trọng
vì nó liên quan tới việc duy trì & mở rộng thị phần, từ đó là sức cạnh tranh và tiềm
năng phát triển của ngân hàng.
Để có thể hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng trong các NHTM và vai trò to
lớn của nó trong nền kinh tế thị trường nhằm khai thác có hiệu quả hoạt động tín
dụng ngân hàng góp phần phát triển nền kinh tế việt nam, em xin chọn đề tài "hoạt
động tín dụng của hệ thống nhtm việt nam trong giai đoạn hiện nay". bài viết
bao gồm những nội dung sau:
- Chương I: Tổng quan về Ngân hàng thuơng mại, vốn và nghiệp vụ huy động
vốn của Ngân hàng thương mại.
- Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn trong nhtm ở việt nam hiện
nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động huy động ngân hàng.
Em hy vọng bài viết có thể làm rõ một số lý luận về NHTM, hoạt động huy
động vốn ngân hàng, và thực trạng của hoạt động huy động vốn trong các NHTM ở
Việt nam. bài viết chắc còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của
thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Tài chính doanh nghiệp 18A
1
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI, VỐN VÀ NGHIỆP
VỤ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
I. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm Ngân hàng thương mại (NHTM)


Ngân hàng Thương mại (NHTM) là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan
trọng nhất trong nền kinh tế, nó là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ - tín dụng. Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của Hội đồng Nhà
nước xác định:" Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán".
2. Những nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống như một doanh
nghiệp thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Ngân
hàng Thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay lại. So với các
doanh nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng hoá của Ngân hàng Thương mại là
một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền vốn. Giá cả của loại hàng hoá này biểu hiện ra
bên ngoài là các mức lãi suất huy động hoặc lãi suất cho vay, nó chịu tác động bởi
quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường và trên cơ sở khoản lợi nhuận đạt được khi
đưa vốn vay vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy lợi nhuận chủ yếu của hoạt động ngân
hàng sẽ là khoản chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động với thu nhập từ lãi cho vay.
Để có hàng hoá kinh doanh, ngân hàng phải đưa ra một giá mua hợp lý cũng như đa
dạng các hình thức huy động.
2.1. Nghiệp vụ nhận tiền gửi:
Đây là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhận được
các khoản tiền gửi của khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi
có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi của cá
Tài chính doanh nghiệp 18A
2
nhân, của tổ chức và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi cho khách
hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng đến rút tiền ở ngân hàng.
2.2. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng:
Nguồn vốn huy động sau khi đã thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ (nghiệp vụ liên

quan đến việc điều hành ngân quỹ của ngân hàng nhằm duy trì năng lực thanh toán
bình thường), sẽ được sử dụng để cho vay. Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ đặc trưng
nhất của Ngân hàng Thương mại. Nó tạo ra hình thức tín dụng ngân hàng và ngân
hàng sẽ tiến hành phân phối có trọng điểm nguồn vốn đã hình thành trong nghiệp vụ
huy động, điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, bổ sung vốn cho sản xuất kinh
doanh. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp vụ quan trọng nhất, sử dụng phần lớn nguồn
vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu.
Dựa vào tính chất và hình thức cho vay nghiệp vụ tín dụng được phân thành:
2.2.1. Căn cứ vào mục đích:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng
bất động sản nhà ở, đất đai.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp.
- Thuê mua và các loại khác.
2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay.
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu được sử
dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các
doanh nghiệp.
- Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thì loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 năm.
- Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm (Việt
nam).
Loại tín dụng này thường để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở,
các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Tài chính doanh nghiệp 18A
3
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
- Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào sự uy tín của bản thân khách

hàng.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải có tài
sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
2.2.4. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung
cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và được thực hiện bằng
các kỹ thuật như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ,...
- Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng,
ví dụ như tài trợ thuê mua.
2.2.5. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả.
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo
định kỳ.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
2.2.6. Ngoài các loại cho vay trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh
cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với loại nghiệp vụ này, ngân hàng không
phải cung cấp tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ
theo hợp đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì thế,
nghiệp vụ này còn được gọi là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao gồm:
tín dụng chấp nhận, tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng.
2.3. Nghiệp vụ đầu tư :
Ngân hàng tham gia vào đầu tư, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và từ chêch lệch thị
giá chứng khoán mua bán trên thị trường.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện hùn vốn, liên doanh qua đó trực tiếp góp vốn
vào các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới.
Tài chính doanh nghiệp 18A
4
2.4. Nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại.
Các ngân hàng có thể tham gia mua bán ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ nhằm đáp
ứng nhu cầu của đầu tư cho vay cũng như kiếm lời. Việc kinh doanh ngoại tệ còn

góp phần thúc đẩy trong công tác thanh toán quốc tế, tài trợ cho xuất nhập khẩu,...
2.5. Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng:
- Dịch vụ chuyển tiền: Ngân hàng theo sự uỷ nhiệm của khách hàng sẽ chuyển tiền
để đáp ứng nhu cầu chi dùng của họ. Có hai phương thức chuyển tiền là chuyển tiền
bằng điện và chuyển tiền bằng thư.
- Thu chi hộ tiền hàng: Theo những lệnh uỷ nhiệm thu hoặc uỷ nhiệm chi, ngân
hàng sẽ tiến hành trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng chuyển trả tiền
hàng hoá, dịch vụ đã nhận hoặc thực hiện thu hộ tiền hàng khi nhận được chứng từ
khách hàng nhờ thu hộ...
- Nghiệp vụ uỷ thác: Là nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác của
khách hàng trong việc quản lý tài sản, chuyển giao tài sản thừa kế, bảo quản chứng
khoán, vàng bạc, giấy tờ có giá... để hưởng hoa hồng.
- Mua bán hộ: Theo sự uỷ nhiệm của khách hàng ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
phát hành hộ trái phiếu hoặc chứng khoán cho các công ty, hoặc phát hành trái khoán
Chính phủ. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có được một khoản thu nhập dưới
hình thức hoa hồng phát hành. Ngân hàng có thể tham gia mua bán chứng khoán trên
thị trường theo lệnh của khách hàng với tư cách là một trung gian môi giới trên thị
trường tiền tệ và thị trường chứng khoán.
II. VỐN VÀ NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN TRONG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1. Vốn của Ngân hàng thương mại.
1.1. Khái niệm về vốn.
Vốn của các ngân hàng thương mại phần lớn là các khoản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi
trong sản xuất kinh doanh được gửi vào ngân hàng với những mục đích khác nhau.
Ngân hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển
đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vốn và các
hoạt động về huy động vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển hoạt động
Tài chính doanh nghiệp 18A
5
kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Vốn đóng vai trò chi phối và quyết định

đối với việc thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại.
1.2. Cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu là vốn tự có của ngân hàng, nó là vốn điều lệ khi ngân hàng mới
đi vào hoạt động và được bổ sung thường xuyên. Vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng
vốn pháp định do ngân hàng nhà nước trung ương quy định. Vốn điều lệ quy định
cho một ngân hàng sẽ tuỳ thuộc vào quy mô và hoạt động của nó. Tuỳ theo loại hình
ngân hàng mà vốn điều lệ được hình thành có thể khác nhau. Vốn điều lệ của ngân
hàng có nguồn gốc hình thành do ngân sách nhà nước cấp phát ban đầu nếu là ngân
hàng thương mại quốc doanh, còn nếu là ngân hàng thương mại cổ phần thì sẽ do các
cổ đông đóng góp.
Các quỹ dự trữ của ngân hàng: Được coi là nguồn vốn tự có và được bổ sung hằng
năm từ lợi nhuận ròng của ngân hàng. Theo khoản 1 điều 87 luật các tổ chức tín dụng
thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 quy định về việc trích lập các quỹ từ lợi
nhuận, các ngân hàng thương mại phải tiến hành trích lập các quỹ:
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Được trích lập hằng năm theo tỷ lệ 5% trên tổng
lợi nhuận sau thuế hằng năm tới mức tối đa do Ngân hàng Nhà nước quy định.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro : Để dự phòng và bù đắp thiệt hại có nguy cơ ăn
mòn vốn do những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, các ngân hàng được
trích từ lợi nhuận ròng hằng năm theo tỷ lệ 10% cho tới khi bằng 100% vốn điều lệ.
Hai quỹ này bắt buộc phải trích lập tại các tổ chức tín dụng, không được dùng các
quỹ này để trả lợi tức cổ phần hoặc chuyển ra nước ngoài.
Mặt khác, với tư cách là một đơn vị kinh doanh, ngân hàng còn tiến hành trích lập
các quỹ từ lợi nhuận thu được:
- Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng.
- Quỹ phúc lợi, khen thưởng.
Các quỹ này tỷ lệ trích lập theo quyết định của Đại hội cổ đông hoặc theo chỉ đạo
của Nhà nước.
Tài chính doanh nghiệp 18A
6

Vốn riêng của ngân hàng được dùng để mua sắm tài sản cố định, các phương tiện
cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, nhưng không quá 50% vốn tự có, để
tài trợ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng và được sử dụng để hùn vốn liên
doanh, mua cổ phần...
Vốn tự có và các quỹ so với tổng số vốn hoạt động của ngân hàng chỉ chiếm một
phần nhỏ.
1.2.2. Vốn huy động.
Các khoản tiền gửi loại này không thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng ngân hàng
được quyền sử dụng đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi này. Đây là khoản
vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn. Các hoạt động sử dụng vốn tồn tại
và phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này.
1.2.2.1. Vốn tiền gửi của khách hàng.
Đây là khoản vốn hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao
nhất trong nguồn vốn. Tuy nhiên, một bộ phận đáng kể trong vốn tiền gửi này luôn
luôn biến động, do vậy khi sử dụng ngân hàng luôn phải dự trữ để đảm bảo khả năng
thanh toán, chi trả. Dựa vào yếu tố thời gian và tính chất của những khoản tiền gửi,
tiền gửi của khách hàng có hai loại: Tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu của người gửi
tiền mà không tôn trọng một kỳ hạn ký thác nào. Đây là khoản tiền gửi thường
xuyên biến động ngân hàng không thể định ra kế hoạch sử dụng trước được mà chỉ
dựa vào kinh nghiệm quản lý, ngân hàng có thể tận dụng ở một mức độ cho phép.
Mục đích của người gửi tiền là sử dụng những dịch vụ trung gian thanh toán của
ngân hàng thương mại như giữ hộ, thu chi hộ,... Ngân hàng không phải trả lãi hoặc
có trả lãi nhưng với một mức lãi suất rất thấp chỉ mang tính chất tượng trưng. Kinh
nghiệm trong quản lý ngân hàng cho thấy mặc dù tài khoản tiền gửi không kỳ hạn
của từng khách hàng có biến động do khách hàng thường xuyên có những khoản thu
và những khoản chi, nhưng trên tài khoản tổng hợp luôn có số “dư có” bình quân
tương đối ổn định. Vì vậy ngân hàng có thể động viên những khoản vốn tạm thời
nhàn rỗi trên các tài khoản không kỳ hạn làm nguồn vốn kinh doanh.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ

được rút ra khi đến thời hạn quy định. Đây là bộ phận tiền huy động mang tính chất
Tài chính doanh nghiệp 18A
7
ổn định và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiền huy động từ khách hàng. Ngân hàng sử
dụng chủ yếu để cho vay có kỳ hạn. Chính điểm thuận lợi này mà ngân hàng phải trả
lãi cao vì mục đích của người gửi tiền là lợi nhuận.
1.2.2.2. Vốn vay.
Ngoài việc huy động tiền gửi theo các hình thức truyền thống, ngân hàng thương
mại có thể bổ sung vốn hoạt động của mình bằng cách đi vay từ các tổ chức và các
tầng lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu hoặc kỳ phiếu ngân hàng, nhưng phải
được Ngân hàng Nhà nước chấp nhận, Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành rộng rãi.
Những người mua kỳ phiếu ngân hàng sẽ trực tiếp cho ngân hàng vay với lãi suất cố
định thông báo trước. Các tờ giấy nhận nợ này sẽ được ngân hàng thanh toán khi tới
hạn ghi trên mặt kỳ phiếu. Ngoài ra ngân hàng thương mại còn có thể vay ở Ngân
hàng Nhà nước dưới hình thức tái chiết khấu hoặc tái cầm cố các thương phiếu chứng
từ có giá. Vay của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác thông qua thị
trường tiền tệ liên ngân hàng. Ngân hàng thương mại cũng có thể vay ở ngân hàng
nước ngoài hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Vậy các ngân hàng thương mại đi
vay khi nào?
- Ngân hàng vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Vì hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi và với trách
nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử dụng. Do
vậy có những trường hợp số tiền dự trữ và số tiền mà ngân hàng nhận được trước đó
trong ngày ít hơn số tiền mà khách hàng rút ra thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong
việc thanh toán tiền cho khách hàng, nghĩa là ngân hàng thiếu tiền trả cho khách
hàng.Vậy ngân hàng phải đi vay.
- Ngân hàng vay hộ cho khách hàng: Vì hoạt động cơ bản của ngân hàng là tài trợ
cho nền kinh tế nên khi có khách hàng có nhu cầu vay vốn ngân hàng và đảm bảo các
yêu cầu mà ngân hàng đề ra thì ngân hàng sẽ cho vay. Chẳng hạn: với những khoản
vay với số lượng lớn, thời gian dài mà ngân hàng lại không muốn dùng toàn bộ số

tiền mình có để đầu tư cho dự án này ( rủi ro cao) vì như thế sẽ mất đi toàn bộ những
cơ hội đầu tư khác. Vì vậy ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng phát hành trái phiếu
nhằm thu gom tiền trong nền kinh tế để phục vụ cho dự án. Người ta chỉ phát hành
trái phiếu vừa đủ số tiền mà dự án cần dùng và trong một thời hạn bằng thời gian tồn
tại của dự án.
Tài chính doanh nghiệp 18A
8
- Ngân hàng vay để cho vay: Hầu như toàn bộ số tiền trong lưu thông đã trở thành
tiền gửi tại các ngân hàng, nghĩa là các ngân hàng chia nhau nắm giữ lượng tiền trong
lưu thông. Để tăng lượng tiền gửi của mình, các ngân hàng thường tăng lãi suất để
thu hút các khoản tiền gửi ở các ngân hàng khác chảy về. Nhưng thực tế khi một
ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi, để tránh sự chảy vốn các ngân hàng khác cũng sẽ
đồng loạt tăng lãi suất lên làm chi phí ngân hàng tăng lên mà lượng tiền gửi lại thay
đổi không đáng kể. Do vậy khi thiếu vốn để tài trợ cho các dự án mà ngân hàng cho
là có hiệu quả thì ngân hàng sẽ thực hiện chính sách đi vay. Do tính chất hoạt động
không đồng đều giữa các ngân hàng về huy động vốn và sử dụng vốn nên những
ngân hàng thiếu vốn có thể vay vốn ở những ngân hàng thừa vốn chưa sử dụng hết.
Mặt khác khi ngân hàng dự đoán được sự gia tăng về nhu cầu tín dụng trong tương
lai mà nguồn vốn thì có xu hướng tăng không đáp ứng đủ nhu cầu vốn sử dụng trong
thời kỳ tới thì ngân hàng cũng sẽ đi vay.
- Ngân hàng vay để giảm chi phí nguồn tiền cho giai đoạn sau: Vào cuối kỳ hạch
toán, nếu các chủ ngân hàng dự tính được thu nhập của kỳ đó lớn nghĩa là kỳ đó họ
phải chịu thuế nhiều. Nếu họ cũng dự tính được kỳ sau họ sẽ có những khoản chi phí
lớn thì họ có thể phát hành kỳ phiếu ngắn hạn trả lãi trước nhằm tăng chi phí cho kỳ
này và giảm chi phí cho kỳ sau.
1.2.2.3. Vốn tiếp nhận.
Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại được tổ chức theo mô hình của tổng
công ty và các công ty con gồm ngân hàng mẹ và hệ thống các chi nhánh ngân hàng
trực thuộc. Có một phương thức huy động vốn được sử dụng rất hiệu quả hiện nay là
chu chuyển nguồn vốn điều hoà. Do tình hình kinh tế xã hội của các vùng hoạt động

của ngân hàng chi nhánh là khác nhau. Những chi nhánh ngân hàng mà hoạt động sử
dụng vốn vượt quá khả năng huy động vốn thì đầu kỳ lập kế hoạch lên ngân hàng mẹ
và xin được nhận một lượng vốn điều hoà cần thiết cho hoạt động sử dụng vốn của
mình. Những ngân hàng mà khả năng huy động vốn vượt quá khả năng sử dụng vốn
thì đầu kỳ cũng lập kế hoạch sẽ điều chuyển một lượng vốn về ngân hàng mẹ để
được hưởng một lãi suất điều hoà. Như vậy ngân hàng mẹ chịu trách nhiệm điều
chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu của các chi nhánh ngân hàng trong nền kinh tế.
Chi phí nhận nguồn vốn điều hoà thấp hơn chi phí nguồn vốn huy động nhưng tại sao
các ngân hàng đều nhận nguồn vốn điều hoà sau khi đã lập kế hoạch về lượng vốn
Tài chính doanh nghiệp 18A
9
huy động được trong kỳ sau, bởi vì tính độc lập của nó với ngân hàng mẹ. Đây là một
phương thức huy động vốn rất hiệu quả được áp dụng nhiều trên thế giới hiện nay.

1.2.2.4. Vốn uỷ thác đầu tư.
Một số ngân hàng con thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý. Khi đó trong cơ cấu
vốn của ngân hàng con còn có thêm khoản mục vốn uỷ thác đầu tư. Khoản vốn này
hình thành chủ yếu hình thành là do các tổ chức tài chính nước ngoài, trong nước uỷ
thác cho ngân hàng một khoản tiền để ngân hàng thực hiện cho vay các dự án của
mình. Có thể là các khoản vay của Chính Phủ được uỷ thác.
Trên đây là cơ cấu vốn chính của các ngân hàng thương mại. Vốn huy động là
nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động sử dụng vốn. Tuy nhiên, các ngân hàng
thương mại phải tuân thủ theo luật định về mức vốn huy động tối đa không vượt quá
hai mươi lần vốn thuộc sở hữu của ngân hàng và phải chấp hành tốt các quy định về
tỷ lệ dự trữ...
2. Vai trò của vốn đối với Ngân hàng thương mại.
Như mọi đơn vị kinh doanh khác, muốn hoạt động kinh doanh được tiến hành cần
phải có tư liệu sản xuất. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ nên
phải có tiền mới có thể hoạt động kinh doanh được. Hoạt động tìm kiếm tư liệu sản

xuất của ngân hàng thương mại là hoạt động huy động vốn. Như vậy, huy động vốn
đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Thứ nhất: vốn là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh. Đối với bất
kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, vì vốn phản
ánh năng lực kinh doanh. Điều này thể hiện ở vốn tự có, vốn huy động, vốn đi vay
của ngân hàng. Nếu vốn tự có giữ vai trò quan trọng trong việc thành lập thì sau khi
đi vào hoạt động, vốn huy động quyết định tới quy mô đầu tư, cho vay nên sẽ ảnh
hưởng tới thu nhập của ngân hàng.
Vậy, nếu ngân hàng không có vốn thì không thể tiến hành hoạt động kinh doanh.
Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh
doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Trên thực tế, ngân hàng nào có khối
lượng vốn lớn hơn thì ngân hàng đó có thế mạnh cạnh tranh trong kinh doanh.
Tài chính doanh nghiệp 18A
10
Thứ hai: Vốn ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô các hoạt động của ngân hàng
thương mại.
Vốn của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng,
hoạt động bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ hay trong hoạt động thanh toán của các
ngân hàng thương mại. Thông thường so với các ngân hàng nhỏ, các ngân hàng lớn
có những khoản mục về đầu tư cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay
của các ngân hàng này cũng lớn hơn. Trong khi các ngân hàng lớn hoạt động trên
phạm vi toàn thế giới thì các ngân hàng nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt động chủ yếu
trong một khu vực nhỏ, trong nước. Nếu khả năng về vốn của ngân hàng đó dồi dào
thì ngân hàng có thể mở rộng được các hoạt động của mình và đáp ứng được nhu
cầu về vốn của khách hàng về cho vay, bảo lãnh, đầu tư...
Ví dụ như :
- Đầu tư cổ phần hoặc liên doanh không quá 50% vốn tự có.
- Cho vay đối tượng ưu đãi không quá 5% vốn tự có.
- Cho vay tối đa một khách hàng không quá 15% vốn tự có.
- Kinh doanh ngoại hối không quá 30 lần vốn tự có.

Bên cạnh vốn lớn hay nhỏ thì chúng ta không thể coi nhẹ vai trò của tính ổn định
của vốn. Một ngân hàng có lượng vốn ổn định thì sẽ dễ dàng trong việc hoạch định
việc cung ứng đầu tư cho vay. Ngân hàng đó có thể dự kiến tương đối chính xác
lượng vốn cung ứng, cho nên sẽ dự kiến được lợi nhuận trong tương lai khá chính
xác.
Thứ ba: Vốn giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh.
Ngân hàng không thể hoạt động kinh doanh tốt nếu các hoạt động nghiệp vụ hoàn
toàn phụ thuộc vào vốn đi vay: vay để cho vay, vay để đầu tư, vay để thanh toán...
Bởi vì khi đi vay vốn để thực hiện các hoạt động của mình, ngân hàng sẽ phụ thuộc
hoàn toàn vào đối tượng cho vay về thời hạn vay, số lượng vay và chi phí vay cao.
Do đó có thể ngân hàng sẽ bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Ngược lại, ngân hàng có
lượng vốn huy động dồi dào sẽ hoàn toàn chủ động trong hoạt động kinh doanh của
mình, không phụ thuộc vào ai, không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nguồn vốn huy
động lớn cũng làm tăng khả năng hoạt động của ngân hàng như chủ động đa dạng
Tài chính doanh nghiệp 18A
11
hoá các hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro và tăng thu nhập, đạt mục tiêu
cuối cùng của ngân hàng là an toàn và sinh lợi.
Thứ tư : Vốn giúp ngân hàng quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của
mình trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động
đòi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín của mình trên thị thường là điều quan trọng.
Uy tín đó trước hết được thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng.
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng càng lớn. Mặt khác,
uy tín của ngân hàng còn thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của ngân hàng (ngân
hàng chỉ có thể cho vay những dự án lớn, thời hạn dài nếu như ngân hàng có nguồn
vốn lớn). Điều này phụ thuộc vào hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Với tiềm
năng vốn và khả năng huy động vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với
quy mô ngày càng tăng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả; vừa giữ chữ tín vừa nâng
cao thanh thế của ngân hàng trên thị trường.

Bên cạnh đó, một trong những tác dụng lớn nhất của vốn tự có là tạo sự uy tín
trong công chúng. Một ngân hàng có trụ sở là tài sản riêng càng đồ sộ chừng nào thì
càng dễ gây tín nhiệm của dân chúng chừng ấy. Vốn tự có của ngân hàng càng lớn
thì sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình hình kinh tế - xã hội và tình
hình hoạt động của ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn.
Thứ năm: Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Quy mô, trình độ cán bộ, công nhân viên, phương tiện kỹ thuật hiện đại của ngân
hàng là tiền đề thu hút vốn. Khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân
hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các thành phần kinh tế cả về quy
mô tín dụng, lẫn việc chủ động về thời hạn cho vay và thậm chí trong khi quyết định
lãi suất phù hợp với khách hàng. Điều này sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến
với mình, nghĩa là doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên trong tương lai và
ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn của ngân hàng lớn
sẽ giúp cho ngân hàng có đủ năng lực tài chính kinh doanh đa năng trên thị trường
không chỉ cho vay mà còn đầu tư trên thị trường tiền tệ, liên doanh, liên kết, thực
hiện dịch vụ thuê mua... Và chính sự đa dạng hoá hoạt động sẽ góp phần phân tán rủi
ro trong hoạt động kinh doanh và tạo lợi nhuận cho ngân hàng, đặc biệt là tăng sức
mạnh cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Tài chính doanh nghiệp 18A
12

×