Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Hoat động kiểm toán nội bộ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.6 KB, 29 trang )

KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng theo
chủ nghĩa xã hội có sự quản lý của Nhà Nước, các doanh nghiệp ngày càng phát triển cả về
qui mô và chất lượng. Nhu cầu tự kiểm soát doanh nghiệp ngày càng lớn và kiểm toán nội
bộ càng trở nên cần thiết. Kiểm toán nội bộ cung cấp các căn cứ để lãnh đạo doanh nghiệp
điều hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chiếm lĩnh được thị trường. Kiểm toán nội bộ
là công cụ kiểm tra, đánh giá hoạt động doanh nghiệp ở từng bộ phận, ở tất cả các giai đoạn
trước,trong và sau quá trình kinh doanh. Kiểm toán nội bộ là công việc thường xuyên theo
nhu cầu và chỉ đạo của lãnh đạo doanh nghiệp. Nếu không có kiểm soát nội bộ, doanh
nghiệp sẽ không đánh giá được năng lực, hiệu quả quả của mình, không thể tự tiết kiệm
nhuồn lực chi phí.Đối với các báo cáo tài chính nếu không được kiểm tra kịp thời thì khi lập
báo cáo sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp. Khi hoạt động kinh tế mạnh và có uy tín thì các
báo cáo của doanh nghiệp sẽ được tin tưởng hơn, giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc
bạn hàng, nhà đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất xâm nhập thị trường. Do tất cả các nguyên
nhân như vậy nên việc nghiên cứu và áp dụng kiểm toán nội bộ là rất cần thiết.


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin chân thành cảm ơn khoa Kế toán – Kiểm toán trường Đại học Công
Nghiệp Tp.Hồ Chí Minh cùng thầy giáo đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ chúng em trong
suốt quá trình học tập. Chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Tăng Thị Thanh
Thủy, người đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ chung
em trong quá trình thực hiện đề tài. Chúng em xin trân trọng cảm ơn giáo viên đã dành thời
gian quý báu của mình tìm kiếm và cung cấp tư liệu, tư vấn, giúp đỡ chúng em hoàn thành
tiểu luận này. Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn tiểu luận của chúng em còn có rất
nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo và các bạn.
Xin chân thành cám ơn!




KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

MỤC LỤC


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ
CHỨC NĂNG CỦA KIỂM TOÁN NỘI BỘ
I.


Khái niệm:
Học viện Kiểm toán viên nội bộ Hoa Kỳ (IIA) là một trong những tổ chức đi tiên
phong và có uy tín nhất trên thế giới trong việc định hướng và đặt ra khuôn khổ hoạt
động cho KTNB. IIA đưa ra các chuẩn mực quốc tế về kiểm toán nội bộ (CMKTNB)
và liên tục cập nhật các chuẩn mực này như là một thông lệ tốt nhất về Kiểm Toán Nội
Bộ . Tất cả các kiểm toán viên nội bộ là thành viên của IIA bắt buộc phải tuân thủ các
chuẩn mực và quy định về KTNB của IIA. Về vai trò của KTNB trong điều kiện thay
đổi phức tạp của các nền kinh tế thị trường, đặc biệt là kinh tế Mỹ năm 2002, IIA nhấn
mạnh: “Kiểm Toán Nội Bộ, HĐQT, ban giám đốc và kiểm toán độc lập là nền tảng của
một cơ chế quản trị DN hiệu quả hơn đang bắt buộc phải có ở các DN”. Các
CMKTNB của IIA cũng đã và đang được sửa đổi để phản ánh vai trò của KTNB trong
cuộc cải tổ quản trị DN, đặc biệt là thời kỳ sau Luật Sarbanes-Oxley và cuộc khủng
hoảng tài

chính đang diễnra.

Có thể minh họa sự thay đổi trọng tâm trong vai trò của KTNB theo định nghĩa của
IIA qua các năm như sau:
 Định nghĩa năm 1947: “KTNB là hoạt động đánh giá độc lập trong một tổ chức về
công tác kế toán, tài chính và các công tác khác của tổ chức đó. Hoạt động KTNB
được xem như là các dịch vụ mang tính bảo vệ và xây dựng hỗ trợ cho ban giám đốc”
 Định nghĩa năm 1981: “KTNB là một chức năng đánh giá độc lập được thiết lập trong
một tổ chức để đánh giá và kiểm tra các hoạt động kinh doanh của tổ chức đó. Hoạt
động KTNB được xem là một dịch vụ hỗ trợ cho chính tổ chức đó”
 Định nghĩa năm 1999: “KTNB là hoạt động đưa ra sự đảm bảo và tư vấn mang tính
độc lập và khách quan được thiết kế nhằm mang lại giá trị và tăng cường hoạt động
của một tổ chức. KTNB trợ giúp một tổ chức đạt được các mục tiêu của mình thông
qua phương pháp tiếp cận có hệ thống và có nguyên tắc để đánh giá và tăng cường tính
hiệu quả của công tác quản trị rủi ro, của hệ thống kiểm soát nội bộ và của các chu.
Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù KTNB vẫn được đề cập như là một bộ phận của cơ

chế quản lý tài chính cần được thiết lập trong một DN hoặc một tổng công ty (thường
được đề cập như là một bộ phận của cơ chế quản lý tài chính cần được thiết lập trong
một DN hoặc một tổng công ty (thường được đề cập trong điều lệ công ty), vẫn chưa


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

có các quy định hoặc thông lệ về việc xây dựng và triển khai chức năng này. Rất nhiều
DN ở Việt Nam hiện nay vẫn xem KTNB như một hoạt động hỗ trợ cho ban giám đốc
theo như định nghĩa sơ khai của IIA; coi KTNB là một chức năng kiểm tra, kiểm soát
nội bộ về công tác tài chính kế toán hoặc chỉ là một bộ phận “mở rộng” của phòng/ban
tài chính kế toán. Chỉ một số ít đơn vị có sử dụng KTNB trong kiểm tra việc tuân thủ
các quy định kiểm soát liên quan đến một số hoạt động (ví dụ như bán hàng, quảng
cáo, marketing...). Tuy nhiên, trong các trường hợp này, KTNB vẫn thường trực thuộc
một bộ phận quản lý nhất định, không có được tính độc lập khách quan và cũng chưa
được xem là một mắt xích của quản trị DN. Để có thể thấy được “lỗ hổng” hoặc
“khoảng cách” giữa những kỳ vọng về KTNB trong quản trị DN với thực trạng của
KTNB trong các DN Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể đi sâu về vai trò của KTNB
II.

trong việc (i) đưa ra đảm bảo và (ii) đưa ra các tư vấn cho DN.
Vai trò:
1. KTNB với vai trò đưa ra đảm bảo
Các tổ chức và DN thường kỳ vọng KTNB sẽ cung cấp được các dịch vụ mang tính
đảm bảo cho hệ thống nội bộ của mình. Trong nền kinh tế thị trường có mức độ cạnh
tranh gay gắt như hiện nay, các DN đều hướng tới nhiều mục tiêu cùng một lúc, bao
trùng cả mảng quản trị, kinh tế, đạo đức kinh doanh, xã hội và môi trường... KTNB
cần phải có đủ các kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để đưa ra được các đảm bảo cho
DN về việc DN đã và đang vận hành một cách hiệu quả nhằm đạt được đồng thời các
mục tiêu đã đề ra. Các đảm bảo do KTNB mang lại chủ yếu tập trung vào quản trị DN

thông qua quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ các vấn đề về đạo đức kinh doanh, trách
nhiệm xã hội (bao gồm cả vấn đề môi trường, vấn đề tuân thủ). Trong khi ban giám
đốc và lãnh đạo DN chịu trách nhiệm thiết lập và duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ thì
hoạt động KTNB đưa ra đảm bảo cho ban giám đốc và ủy ban kiểm toán (hoặc
HĐQT) rằng, hệ thống kiểm soát nội bộ được vận hành một cách hiệu quả như được
kỳ vọng. Để tránh xung đột về lợi ích và đảm bảo tính độc lập, KTNB thường chịu
trách nhiệm trực tiếp trước HĐQT hoặc đại diện của HĐQT, như ủy ban kiểm toán.
Thực trạng ở nhiều DN Việt Nam hiện nay, do quy mô cũng như tính phụ thuộc của
KTNB, DN cùng với các nhà đầu tư chưa thể có được sự đảm bảo cần thiết về tính
hiệu quả của toàn bộ hệ thống kiểm soát rủi ro và việc tuân thủ các quy định trong và
ngoài đơn vị. Nếu đơn vị có bộ phận KTNB thì cũng chỉ có thể giúp một bộ phận quản
lý cụ thể nào đó có được một sự tin tưởng nhất định về việc vận hành của một số bước


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

kiểm soát, chủ yếu là phê duyệt và tuân thủ về tài chính kế toán, ghi chép và hạch toán
hoặc về việc sử dụng và quản lý một số tài sản nhất định. DN vẫn cần phải tiến một
bước dài mới có được sự đảm bảo với quy mô và cấp độ lớn hơn từ KTNB trong các
lĩnh vực có liên quan.
2. KTNB với vai trò tư vấn
Vai trò của KTNB trong việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ cùng với các bước
kiểm soát rủi ro, các bước tuân thủ... bao trùm một phạm vi rất rộng vì tất cả các cấp
của DN đều có tham gia vào các quy trình đề ra. Công việc của KTNB bao gồm việc
đánh giá phương châm cũng như văn hóa quản lý rủi ro của một DN, đến việc xem xét
và báo cáo tính hiệu quả của việc thực hiện các chính sách quản lý. Dựa trên các công
việc đó, KTNB được kỳ vọng sẽ đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện các bộ phận có
cơ hội phát triển hoặc có những khiếm khuyết cần khắc phục. Thêm vào đó, KTNB có
thể cung cấp các dịch vụ tư vấn trợ giúp một cách riêng biệt cho tất cả các cấp trong
một đơn vị, từ HĐQT đến các nhân viên và các cấp quản lý trong việc thực hiện trách

nhiệm của mình một cách hiệu quả. Một số ví dụ cụ thể về vai trò tư vấn của KTNB
như sau:
-

Chức năng tư vấn cho HĐQT và ủy ban kiểm toán cũng như tư vấn cho ban giám đốc:
KTNB cần có kỹ năng và kiến thức cũng như kinh nghiệm cần thiết để có thể tư vấn
cho các cấp này của DN trong việc giám sát chung về báo cáo tài chính, kiểm soát nội
bộ, quản lý rủi ro, đạo đức DN... KTNB cũng có thể tư vấn sâu hơn về việc quản lý tài
sản, các yêu cầu tuân thủ... Để tránh xung đột về lợi ích và đảm bảo tính độc lập thì
KTNB sẽ không được trao chức năng tư vấn. KTNB cũng sẽ không thay mặt ban giám

-

đốc đưa ra các quyết định kinh doanh.
Chức năng đào tạo: KTNB với kiến thức chuyên môn và kỹ năng của mình có thể
tham gia công tác đào tạo cho các bộ phận và phòng, ban trong DN về các mảng liên
quan đến công nghệ thông tin trong quản lý, thủ tục kiểm soát nội bộ và quản lý rủi ro,
báo cáo tài chính, các quy định tuân thủ... Thông quan các hỗ trợ đào tạo này, KTNB
sẽ góp phần tăng cường năng lực của nhân sự trong một DN và giúp các vị trí thực
hiện chức năng của mình một cách hiệu quả hơn.
Việc tư vấn của KTNB trong nhiều DN Việt Nam hiện nay (nếu có) thường chỉ
dừng lại ở các khuyến nghị xuất phát từ kết quả của công tác kiểm tra, kiểm soát cụ
thể. Rất hãn hữu chức năng tư vấn riêng biệt của KTNB (gồm cả đào tạo) được sử


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

dụng một cách chính thức, KTNB chưa thể “bán” được các dịch vụ tư vấn của
mình trong nội bộ một DN. Tính độc lập giữa vai trò tư vấn và kiểm toán cũng chưa
được đặt thành vấn đề với chức năng KTNB.

III.

Chức năng của kiểm toán nội bộ :
Kiểm toán nội bộ là một loại hình kiểm soát có tổ chức mang tính nội kiểm, mà
chức năng chủ yếu là:
 Thẩm tra các thủ tục kiểm soát để xác định tính thích hợp và tính ưu việt của nó, để

khẳng định rằng hệ thống kiểm soát nội bộ vận hành đều đặn và có hiệu quả, đáp ứng
mọi mục tiêu đã định trước.
 Kiểm tra tính trung thực và độ tin cậy của thông tin không chỉ của bản thân các thông

tin tài chính mà cả các hoạt động khác.
 Kiểm tra việc tuân thủ các chính sách, các quy định, các kế hoạch và các thủ tục hiện

hành, nhằm thiết lập xem có đảm bảo sự tuân thủ với các chính sách thủ tục, luật pháp
và các quy định mà có thể tác động quan trọng tới mọi hoạt động tổ chức.
 Kiểm tra các phương tiện bảo đảm an toàn cho tài sản.
 Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động của các nguồn lực.
 Kiểm tra việc tuân thủ các mục tiêu đề ra đối với các chương trình hay các hoạt động

nghiệp vụ...
Nội dung nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ.

IV.

Nội dung nhiệm vụ và phạm vi của kiểm toán nội bộ rất biến động và phụ thuộc
vào nhu cầu của bản thân đơn vị, các kiểm toán viên nội bộ có thể thực hiện các cuộc
kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động và kiểm toán tài chính. Tuy vậy, KTNB
thường xuyên thực hiện các nhiệm vụ sau:
-


Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan, giám sát sự
hoạt động của các hệ thống này cũng như tham gia hoàn thiện chúng.

-

Kiểm tra lại các thông tin tác nghiệp và thông tin tài chính bao gồm việc soát xét lại
các phương tiện đã sử dụng để xác định, tính toán, phân loại và báo cáo các thông tin
này, thẩm định cụ thể các khoản mục cá biệt.

-

Kiểm tra tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động trong đơn vị.
Như vậy, nội dung nhiệm vụ của KTNB không chỉ giới hạn hướng vào kế toán, chủ
yếu kiểm tra các hoạt động tài chính để đảm bảo năng lực cho kế toán (hay một số


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

doanh nghiệp theo thói quen như kiểm tra kế toán) mà KTNB còn kiểm tra, đánh giá
các hoạt động điều hành, hệ thống kiểm soát nội bộ, các hoạt động phi tài chính khác...
Việc thực hiện các nhiệm vụ nói trên, KTNB đáp ứng nhu cầu của Ban giám đốc và
các bộ phận được kiểm toán, đáp ứng các yêu cầu của nhà quản lý nhằm tránh được rủi
ro trong các lĩnh vực: Bảo vệ tài sản; Độ tin cậy và tính xác đáng của các thông tin;
Tuân thủ các quy định hiện hành; Hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực.
V.

Phạm vi và mục tiêu của kiểm toán nội bộ
Phạm vi và các mục tiêu của kiểm toán nội bộ rất đa dạng và tuỳ của ban giám
đốc.Nói chung bộ phận kiểm toán nội bộ đảm nhận một hoặc nhiều hoạt động sau

đây :
• Kiểm tra hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Việc thiết lập hệ thống kế
toán và kiểm soát nội bộ hiệu quả thuộc chức năng của Ban giám đốc và cần có sự
quan tâm thường xuyên. Thông thường Ban giám đốc uỷ thác cho bộ phận kiểm toán
nội bộ đặc nhiệm kiểm tra các hệ thống này.
• Kiểm tra các thông tin tài chính và quản lý.Việc kiểm tra này có thể bao gồm việc
phân tích các phương tiện được sử dụng để xác định,đo lường, phân loại và lưu giữ các
thông tin đó và những công tác đặc thù trên một số nhân tố, chủ yếu là kiểm tra chi tiết
nghiệp vụ,số dư và thủ tục.
• Đánh giá các gía phí, khả năng sinh lãi và hiệu quả của các nghiệp vụ trong đó bao
gồm cả những công tác kiểm soát phi tài chính. ã Kiểm tra tính tuân thủ các văn bản
pháp lý và các quy chế, các yêu cầu bên ngoài cũng như các chỉ thị và chính sách của

Ban giám đốc và các yêu cầu khác bên trong đơn vị.
VI. Quyền hạn của kiểm toán nội bộ
• Được quyền yêu cầu cung cấp tài liệu và thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp ; ã Độc lập về chuyên môn nghiệp vụ.Trường hợp cần thiết có quyền yêu cầu
sự hỗ trợ về chuyên môn và nhân sự của bộ phận chức năng.
• Kiến nghị mang tính chất xây dựng đối với các cấp lãnh đạo, các bộ phận trong doanh
nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh và công tác
quản lý, điều hành doanh nghiệp.
• Có quyền bảo lưu ý kiến có liên quan đến kết quả kiểm toán.


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

CHƯƠNG 2 : KIỂM TOÁN VIÊN NỘI BỘ
I.

Khái niệm

Kiểm toán viên nội bộ là các chuyên gia kế toán có kỹ năng nghiệp vụ kiểm toán.
Kiểm toán viên nội bộ là kiểm toán viên trong nội bộ doanh nghiệp. Theo IFAC – Liên
đoàn quốc tế các nhà kiểm toán thì kiểm toán viên phải là người có kỹ năng và khả
năng nghề nghiệp, phải chính trực, khách quan, độc lập và phải tôn trọng bí mật. Đó là
yêu cầu không thể thiếu đối với một kiểm toán viên.
Tiêu chuẩn kiểm toán viên nội bộ
Theo quy điịnh của Nhà nước Việt Nam tại QĐ 832 TC_CĐ kiểm tra ngày

II.

28/10/1997 của Bộ Tài Chính. Người được bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ làm
-

kiểm toán viên nội bộ các doanh nghiệp Nhà nước phải có đủ các tiêu chuẩn sau đây:
Một là : Có phẩm chất trung thực, khách quan, chưa có tiền án và chưa bị kỷ luật từ

-

mức cảnh cáo trở lên do sai phạm trong quản lý kinh tế, tài chính, kế toán.
Hai là : Đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế tài chính, kế toán hoặc quản trị

-

kinh doanh.
Ba là :Đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên
trong đó có ít nhất 3 năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vụ kế toán

-

viên

Bốn là : Đã huấn luyện về nghiệp vụ kiểm toán, kiểm toán nội bộ theo nội dung
chương trình thống nhất của Bộ Tài Chính và được cấp chứng chỉ.


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

Trong doanh nghiệp, Ban giám đốc có quyền đánh giá và lựa chọn kiểm toán viên
nội bộ, các tiêu chuẩn để lựa chọn kiểm toán viên nội bộ được căn cứ trên phẩm chất
năng lực chuyên môn lẫn phẩm chất đạo đức của các kiểm toán viên. Phẩm chất năng
lực chuyên môn của kiểm toán viên phụ thuộc vào loại công việc thực hiện của bộ
phận kiểm toán nội bộ: kiểm toán tài chính hay kiểm toán hoạt động.
Nếu chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính, doanh nghiệp đòi hỏi người phụ trách
bộ phận kiểm toán nội bộ phải có:
+ Bằng đại học chuyên ngành kế toán và tài chính.
+ Có chứng chỉ kiểm toán viên
+ Có 4 đến 5 năm kinh nghiệm chuyên môn với tư cách là trợ lý trong một bộ phận kiểm
toán hay với tư cách kiểm toán viên độc lập.
+ Ngoại ngữ
Nếu chủ yếu là kiểm toán haojt động các kiểm toán viên phải hiểu biết về kỹ thuật
liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.
Bộ phận kiểm toán nội bộ ở các công ty lớn cần có hai nhóm chuyên gia cho kiểm







III.
1.


toán hoạt động và kiểm toán báo cáo tài chính.
Các phẩm chất cần phải có của người làm kiểm toán viên:
Biết ngoại giao
Kín đáo
Vô tư
Độc lập
Có khả năng giải quyết các tình huống một cách tế nhị
Linh động và có phản ứng nhanh
Kiểm toán viên phải luôn xem xét hành động của mình
Vai trò
Nhà tư vấn kiểm soát và kiểm toán cho giám đốc điều hành và các giám đốc chức năng
trong công ty.
Giám sát tiến trình vận hành hệ thống kiểm soát nội bộ và nhận dạng mọi cơ hội cải
tiến hệ thống này. Đánh giá nguồn lực công ty để sử dụng phù hợp tránh lãng phí, thất
thoát. Làm việc với kiểm toán độc lập của công ty về những vấn đề liên quan. Đề xuất

chính sách bảo vệ tài sản và quản lý rủi ro.
2. Kiểm toán tuân thủ pháp luật, nội quy và chính sách điều hành. Góp phần đảm bảo
hoạt động công ty tuân thủ quy định pháp luật, phù hợp với đạo đức kinh doanh. Đảm
bảo các chức năng của công ty được thực hiện nghiêm chỉnh, vận hành hợp lý.
3. Thực hiện một phần chức năng kiểm soát tài chính. Kiểm tra chất lượng thông tin, báo
IV.

cáo kế toán. Rà soát tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính.
Quyền hạn của kiểm toán viên nội bộ
Để thực hiện được trách nhiệm, nhiệm vụ của mình kiểm toán viên nội bộ phải có
những quyền hạn nhất định. Những quyền hạn đó là:



KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

• Độc lập chuyên môn nghiệp vụ. Không bị chi phối hoặc can thiệp khi thực hiện hoạt
động kiểm toán và trình bày ý kiến trong báo cáo kiểm toán.
• Có quyền yêu cầu các bộ phận cá nhân được kiểm toán và bộ phận có liên quan cung
cấp thông tin dữ liệu phục vụ cho công tác kiểm toán.
• Được ký xác nhận trên báo cáo kiểm toán nội bộ do cá nhân tiến hành hoặc chịu trách
nhiệm thực hiện thao nhiệm vụ kiểm toán được giao.
• Nêu các ý kiến đề xuất, các giải pháp kiến nghị, các ý kiến tư vấn cho việc cải tiến,
hoàn thiện công tác quản lý, điều hành hoạt động, sản xuất kinh doanh, ngăn ngừa các
sai sót, gian lận, các việc làm sai trái trong doanh nghiệp
• Được bảo lưu các ý kiến đã trình bày trong các báo cáo kiểm toán nội bộ, được quyền
đề nghị cơ quan của Nhà nước xem xét các quyết định của (Tổng) giám đốc về bãi
nhiệm kiểm toán viên.


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ
VIỆT NAM
I.

Trên thế giới
Với sự phát triển không ngừng của các loại hình kiểm soát phục vụ cho nhu cầu
quản lý ngày càng phức tạp, KTNB cũng phát triển dần về số lượng và chất lượng.
Trước hết nó thể hiện sự lớn mạnh của các tồ chức nghề nghiệp. Viện KTNB được
thành lập đẩu tiên vào năm 1941 ở NewYork với ban đầu chỉ có 25 thành viên.
Sự phát triển của hội nghề nghiệp đã có tác dụng rất tích cực đối với các kiểm toán
viên nội bộ là thành viên, cũng như những kiểm toán viên nội bộ không phải là thành
viên. Khi các kiểm toán viên nội bộ là thành viên của hội khi tiến hành công việc kiểm

toán thì sẽ gặp sự bảo trợ nhờ vai trò tác động ngày càng lớn của hiệp hội đối với xã
hội. Đồng thời, thông qua nguồn tài chính lớn, hiệp hội đã cung cấp nhiểu điều kiện

II.

cho quá trình nghiên cứu, triển khai các đề án mới của các hội viên,...
Tại Việt Nam
Mặc dù hoạt động kiểm toán đối với nước ta là hoàn toàn mới mẻ, tuy nhiên vấn
đề kiểm tra kế toán-tài chính đã được Đảng và nhà nước rất quan tâm. Điều này được
thể hiện trong các pháp lệnh kế toán thống kê, điều lệ kế toán trưởng, luật Ngân sách
và Nghị định 59/CP của Chính phủ.
Trước khi KTNB ra đời thì ở Việt Nam đã xuất hiện 2 loại hình: kiểm toán nhà
nước và kiểm toán độc lập. Sau một năm tài chính các doanh nghiệp đều phải được
kiểm toán bởi một trong 2 hoặc cà 2 loại hình này.
Trên thực tế, các đơn vị hoạt động trong nền kinh tế chịu sự kiểm tra của nhiều lực
lượng khác nhau. Theo cơ quan thồng kê Nhà nước có ít nhất 7 lực lượng thường
xuyên kiểm tra các đơn vị kinh tế. Theo các doanh nghiệp cho biết không ít hơn 10 lực
lượng kiểm tra họ một cách thường xuyên.
Góc độ pháp luật đả tạo ra lực lượng kiểm tra này, cũng như các quyền mà họ được
thực hiện trong quá trình kiểm tra. Trong thực tế, các lực lượng kiểm tra thường dồn
vào kiểm tra đồng thời ở một số đơn vị nào đó. Tạo ra tình trạng đơn vị thì bị kiểm tra
chồng chéo, đơn vị thì bỏ qua không được kiểm tra. Trên toàn cục nền kinh tế, các
thông tin kinh tế công khai vẫn chưa có một lực lượng kiểm tra nào đầy đủ nên chưa


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

đáng tin cậy. Các quyết định kinh tế vi mô cũng như vĩ mô vẫn chứa đầy rủi ro. Tình
hình kinh tế vẫn khó kiểm soát được. Những đơn vị làm ăn hiệu quả có thể bị suy giảm
hiệu quả kinh tế vì sự kiểm tra triền miên của nhiều đoàn khác nhau.

Để khắc phục tình hình trên kiểm toán độc lập được ra đời theo Nghị định 07/CP
của Chính phủ vào ngày 29/01/1994 và sự ra đời của kiểm toán nhà nước theo Nghị
định 70/CP của Chính phủ ngày 11/07/1994. Sự ra dời của kiểm toán độc lập trong nền
kinh tế là tất yếu, tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay khi họat động của các lực lượng
được hình thành trước đây song song với các kiểm toán mới đả tạo ra một mật độ kiểm
tra dày đặc hơn, nó đã gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động của các đơn vị hơn.
Trong hoạt động thực tế của các đơn vị chưa có một văn bản pháp quy nào về mặt
Nhà nước quy định việc kiểm tra, thẩm định các thông tin nội bộ của đơn vị đó để giúp
nhá quản trị có một nguồn thông tin đáng tin cậy để làm cơ sở cho việc đưa ra những
quyết định quản trị kinh doanh. Quan hệ lãnh đạo giữa các bộ phận, đặc biệt bộ phận
kế toán là quan hệ thông tin được tập hợp và báo cáo thẳng. Các nhà quản lý khi sử
dụng thông tin để đề ra quyết định quản lý hoặc là tin tưởng báo cáo của các cán bộ
thuộc quyền hoặc là tự thẩm định thông tin đó xem nó đáng tin cậy đến đâu. Điều này
hạn chế rất lớn đến tính đúng đắn và hiệu quả của các quyết định quản lý.
Thực trạng việc kiểm tra kế toán và kiểm tra kiểm soát các hoạt động quản lý của
các đơn vị trong nền kinh tế nước ta hiện nay được thực hiện bởi nhiều lực lượng khác
nhau. Tuy nhiên theo phương diện kế toán – tài chính, việc có nhiều lực lượng đồng
thời tham gia kiểm tra, kiểm soát trong khi bản thân của những người kiểm tra lại
không có trình độ về chuyên môn nghề nghiệp, không bị chi phối hoặc ràng buộc trách
nhiệm kinh tế, pháp lý về độ tin cậy thông tin kiểm tra thì các hoạt động kiểm tra trở
nên giả hiệu, mang màu sắc dân chủ nhưng không có hiệu quả. Chỉ tạo thêm những rắc
rối cho việc kiểm tra, kiểm sóat các thông tin mà thôi.
Để chỉnh kịp thời tình trạng trên, ngày 28/10/1997, Bộ Tài chính đã đưa ra quyết
định số 832/ Tài chính/ QĐ/CĐKT về cơ chế ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ để
thực hiện kiểm tra, xác nhận và đánh giá một cách độc lập các thông tin trong nội bộ
các doanh nghiệp. Nhằm giúp việc thẩm định, kiểm tra kiểm soát các thông tin một
cách hiệu quả hơn. Nó như một động lực mới kích thích sự cạnh tranh công bằng và
quyết liệt trong cơ chế kinh tế mới. Căn cứ vào Thông tư hướng dẫn số
52/1998/TT/BTC ra ngày 16/04/1998, các doanh nghiệp nhà nước đặc biệt là Tổng
công ty tiến hành chuẩn bị cơ sở cho việc thành lập bộ phận KTNB ở doanh nghiệp

mình.


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

Trong những năm đầu thành lập, cơ cấu tổ chức lẫn hình thức hoạt động của bộ
phận KTNB ở các Tổng công ty bám sát các chỉ dẫn của Thông tư 52/1998/TT/BTC.
Hình thức kiểm toán mới này khi bước vào hoạt động vừa mang đặc điểm chung với
các nước trên thế giới, vừa có những đặc điểm riêng. KTNB là hoạt động không thu
phí đối với các đơn vị, bộ phận trực thuộc được kiểm toán.
Cũng giống như loại hình KTNB ở các nước khác trên thế giới, mục đích KTNB ở
Việt Nam cũng là: thông qua kiểm toán để hoàn thiện hoạt động ờ doanh nghiệp, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động, hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả cuối cùng của
sản xuất kinh doanh, khắc phục những yếu điểm, giúp chủ doanh nghiệp phát hiện,
ngăn chặn và xử lý các gian lận, sai sót trong hoạt động của doanh nghiệp. Qua một
thời gian ngắn đi vào hoạt động, KTNB đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Nó
không những chỉ ra cho các đơn vị thấy được đúng sai trong công tác quản lý tài chính
của mình như việc sử dụng chứng từ hóa đơn chưa hợp lệ, nhất là chứng từ phát sinh ở
đội sản xuất, có nhiều chứng từ viết tay không đảm bảo tính pháp lý, mà còn tham gia
ý kiến về các mặt hoạt động của từng đơn vị.
Tuy nhiên, bước sang năm 1999, trong khi một số doanh nghiệp tiếp tục cho ra đời,
củng cố hoạt động và phát huy vai trò KTNB, thì ở một số doanh nghiệp đã thành lập
trước đó lại cho giải tán bộ phận này, một số Tổng công ty thì chỉ còn duy trì phòng
KTNB của tổng công ty và cho giải tán bộ phận KTNB ờ các đơn vị thành viên. Thực
tế là, các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vừa và nhỏ hay làm ăn thua lỗ thì không
có bộ phận KTNB.
Thêm vào đó do giới hạn về mặt phương tiện kỹ thuật ở nước ta, do chưa có điều
kiện cơ sở vật chất để áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào công việc. Hoặc
nếu các doanh nghiệp nhà nước nào có đủ các điều kiện để áp dụng các phương tiện,
thiết bị khoa học kỹ thuật vào công việc thì lại bị giới hạn vào trình độ sử dụng, không

phát huy tối đa được những tín năng của công cụ hiện đại gây lãng phí.
Ngoài ra cán bộ kiểm toán ở nước ta chưa có nhiều nên nhu cầu về kiểm toán viên
là rất lớn và vẫn đang khan hiếm. Việc lập bộ phận KTNB lại phải hội đủ các tiêu
chuẩn về đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn,... Vì vậy, việc hình thành bộ
phận KTNB ờ các doanh nghiệp nhỏ là rất khó và không mấy hiệu quả. Điều này dẫn
đến hiện tượng điều động, luân chuyển cán bộ không hợp lý. Đặc biệt trong các văn
bản pháp quy còn tồn tại nhiều vướng mắc là một thực tế gây cản trở lớn cho sự phát
triển của KTNB. Quy định trách nhiệm pháp lý trong các văn bản pháp qui còn chưa


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

rõ ràng, nhất quán. Chưa có sự phân cấp về quyền hạn giữa kế toán trưởng và KTNB.
Quy mô doanh nghiệp còn thiếu và KTNB thiếu sự linh động cần thiết.
Việc lập bộ phận KTNB ở các doanh nghiệp hiện nay rất khó tuyền được người đủ
tiêu chuẩn để trở thành kiểm toán viên nội bộ. Chi phí cho bộ máy này cũng là một
vấn đề cần cân nhắc cẩn thận sao cho hiệu quả.
Chính vì vậy điều bức xúc hiện nay là phải thay đổi cơ chế kiểm toán nội bộ. Cần
phải có một hình thức kiểm tra độc lập được thực hiện bởi người có trình độ chuyên
môn cao, có đạo đức cá nhân tốt và phải có trách nhiệm với thông tin mà mình kiểm
tra. Về các nhá quản lý cần thay đổi thái độ và quan điểm hoạt động kiểm toán nội bộ.
Các nhà quản lý phải tôn trọng nguyên tắc chỉ sử dụng những thông tin tin cậy để đưa
ra các quyết định quản lý. Loại bỏ cơ chế cung cấp thông tin thẳng từ các bộ phận đến
các nhà quản lý như hiện nay. Làm cho kiểm toán nội bộ trở thành nhu cầu thực sự và
trong tương lai sẽ thay thế các lực lượng kiểm toán hiện tại


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

CHƯƠNG 4 : ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG VÀ

PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ
VIỆT NAM
I.

Mục tiêu và quan điểm phát triển hệ thống kiểm toán VN đến năm 2020
Mặc dù đã có những bước phát triển quan trọng, song hoạt động của hệ thống kiểm
toán VN vẫn còn có nhiều hạn chế, vì vậy Nhà nước cần xác định mục tiêu, định
hướng phát triển hệ thống kiểm toán và phải thực hiện đồng bộ các giải pháp cho sự
phát triển và phát huy vai trò của kiểm toán đối với nền kinh tế. Mục tiêu phát triển hệ
thống kiểm toán VN đến năm 2020 cần xác định như sau: “Phát triển đồng bộ hệ thống
kiểm toán VN trở thành công cụ mạnh để thiết lập, củng cố và duy trì các quan hệ tài
chính – tiền tệ lành mạnh trong nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế,
hình thành mạng lưới kiểm tra, kiểm soát tài chính – tiền tệ từ nội bộ các cơ quan, đơn
vị, các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế”.
Để đạt được mục tiêu đã đề ra, cần định hướng cho sự phát triển hệ thống kiểm
toán theo những quan điểm chủ yếu sau:
+

Thứ nhất, quán triệt đường lối của Đảng và tuân thủ pháp luật của Nhà nước về phát
triển hệ thống kiểm toán ở VN. Tuân thủ pháp luật luôn là điều kiện cần để hệ thống
kiểm toán phát triển theo đúng định hướng, trở thành công cụ không thể thiếu trong
hoạt động kiểm tra, giám sát tài chính hướng tới mục tiêu xây dựng nền tài chính quốc
gia minh bạch và vững bền.

+

Thứ hai, phát triển đồng bộ hệ thống kiểm toán, trong đó KTNN là công cụ mạnh
trong kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Mỗi phân hệ kiểm toán có tính độc lập tương
đối nhưng trong thực tiễn, hoạt động của các phân hệ lại đan xen và tác động lẫn nhau;

đồng thời đều có tác động nhất định đến các đơn vị được kiểm toán và toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.

+

Thứ ba, phát triển hệ thống kiểm toán phù hợp với lộ trình xây dựng nhà nước pháp
quyền và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong mỗi giai đoạn sẽ
đặt ra cho hệ thống kiểm toán những yêu cầu cụ thể về tổ chức bộ máy, mục đích hoạt
động, phương thức tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kiểm toán.


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN
+

Thứ tư, tăng cường quản lý nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức nghề nghiệp
trong lĩnh vực hoạt động kiểm toán. Quản lý nhà nước giữ vai trò hết sức quan trọng,
đặc biệt trong việc xây dựng định hướng phát triển, thiết lập hệ thống pháp luật, môi
trường pháp lý và các điều kiện cần thiết khác để xây dựng và phát triển hệ thống kiểm
toán. Tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về kiểm toán nhằm đảm bảo cho các
phân hệ kiểm toán phát triển bền vững, hiệu quả, tác động trở lại và góp phần nâng cao
chất lượng quản lý kinh tế – tài chính của Nhà nước.

+

Thứ năm, phù hợp với yêu cầu quản lý kinh tế của VN và thông lệ quốc tế. Trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế, kiểm toán là hoạt động vừa mang tính toàn cầu, vừa
mang những đặc trưng riêng có do mức độ phát triển và trình độ quản lý nền kinh tế
của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm quốc tế, hệ thống chuẩn mực kiểm toán INTOSAI,
IFAC và Hiệp hội KTV nội bộ ban hành là cơ sở, nền tảng để xây dựng và ban hành hệ
thống chuẩn mực kiểm toán của quốc gia, đảm bảo mức độ hội nhập theo những

nguyên tắc, thông lệ chung. Đồng thời, thể chế chính trị, môi trường pháp lý, cơ chế
kinh tế của mỗi nước cũng có đặc thù riêng đòi hỏi hệ thống kiểm toán phải tuân thủ
và đáp ứng.

II.

Quy chế kiểm toán nội bộ
“Qui chế kiểm toán là một bản tài liệu chính thức trong đó quy định về mục đích,
quyền lợi, trách nhiệm của kiểm toán nội bộ. Qui chế kiểm toán nội bộ thiết lập vị trí
hoạt động của kiểm toán nội bộ trong tổ chức, bao gồm cả chức năng báo cáo, quyền
tiếp cận tài liệu, con người và các tài sản của doanh nghiệp, đồng thời đưa ra các phạm
vi kiểm toán” (HM Treasury, 2011, p.12).
Thiết lập chức năng kiểm toán nội bộ trước hết là việc hình thành Qui chế kiểm
toán nội bộ. Tùy thuộc vào mỗi một tổ chức, Qui chế kiểm toán nội bộ sẽ là khác nhau
nhưng phải bao gồm mục đích, quyền hạn, trách nhiệm của hoạt động kiểm toán nội
bộ. Qui chế kiểm toán nội bộ cũng đòi hỏi phải bao gồm được các thông tin về nhiệm
vụ công việc giữa chủ nhiệm kiểm toán với các kiểm toán viên nội bộ, phải xác định
được những đòi hỏi về tính đảm bảo và chức năng tư vấn của kiểm toán nội bộ cũng
như trình độ, kỹ năng kiểm toán. Ngoài ra Qui chế kiểm toán cũng phải quy định về
đạo đức kiểm toán và các Chuẩn mực kiểm toán nội bộ cần phải tuân theo.
1. Tính độc lập, khách quan của kiểm toán nội bộ: Tính độc lập và khách quan của kiểm
toán nội bộ phải được quy định trong điều lệ kiểm toán. Tính độc lập của kiểm toán


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

nội bộ là sự độc lập trong hoạt động kiểm toán, không bị đe dọa đến việc thực hiện
trách nhiệm kiểm toán. Trong khi tính khách quan là thái độ không thiên vị, cho phép
kiểm toán viên nội bộ đưa ra các ý kiến của mình không bị ảnh hưởng, chi phối của ai.
2. Đạo đức kiểm toán: Đạo đức kiểm toán là yếu tố nền tảng khi thiết lập chức năng kiểm

toán nội bộ. Đó là những quy tắc liên quan đến hoạt động kiểm toán nội bộ mà thể
hiện thái độ cư xử của kiểm toán viên. Kiểm toán viên nội bộ phải hiểu và thực hiện
những quy tắc này như là một định hướng đúng đắn cho việc thực hiện công việc của
họ.

III.

-

Các Nguyên tắc đạo đức phải tuân theo:
Tính trung thực: Kiểm toán viên được đòi hỏi phải đưa ra những ý kiến đáng tin cậy và

-

trung thực.
Tính khách quan: Kiểm toán viên phải đưa ra những đánh giá độc lập và không bị ảnh

-

hưởng bởi lợi ích của họ và của những người khác khi đưa ra kết luận của mình.
Tính bảo mật: Kiểm toán viên không được thông báo bất cứ thông tin nào mà không

-

được phép hoặc không được quyền cung cấp.
Trình độ: Kiểm toán viên phải áp dụng những kiến thức, kỹ năng, và kinh nghiệm cần
có để thực hiện công việc của họ.
Thiết lập cơ cấu kiểm toán nội bộ và trình tự báo cáo kiểm toán
Trình tự báo cáo được thể hiện thông qua cấu trúc của kiểm toán nội bộ. Tùy thuộc
vào từng loại cơ cấu tổ chức bộ máy của từng doanh nghiệp mà cấu trúc kiểm toán nội

bộ được thiết lập theo dạng tập trung hoặc phân tán. Theo hướng dẫn thực hành kiểm
toán nội bộ, chức năng kiểm toán nội bộcó thể xây dựng theo cơ cấu tổ chức như sau:

Biểu đồ 1: Cơ cấu kiểm toán nội bộ tập trung


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

Biểu đồ 2: Cấu trúc kiểm toán nội bộ phân tán


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

Biểu đồ 3: Cấu trúc kiểm toán nội bộ phân tán (đầy đủ)


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

+ Ủy ban kiểm toán: Tồn tại như một đơn vị độc lập trong doanh nghiệp. Báo cáo trực
tiếp lên Hội đồng quản trị. Vai trò của Ủy ban kiểm toán nên được xem xét trong tổng
thể quy trình quản trị nội bộ của doanh nghiệp. Trách nhiệm của họ là cung cấp cho
Hội đồng quản trị một sự đảm bảo độc lập (mức độ tin cậy, khách quan) và đưa ra
những lời khuyên (tư vấn) về: quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ, kiểm soát và đánh giá
tính hiệu lực, độc lập, khách quan của chức năng kiểm toán nội bộ, kiểm toán độc lập
và các chức năng khác bao gồm cả những ý kiến liên quan đến quản trị của Hội đồng
quản trị nhằm tạo ra những giá trị cho doanh nghiệp cũng như các cổ đông có liên
quan.
+ Chủ nhiệm kiểm toán: là người đứng đầu cơ quan kiểm toán nội bộ, chịu trách nhiệm
đưa ra ý kiến về tính hiệu lực và đầy đủ trong quản trị doanh nghiệp, quản lý, kiểm
soát rủi ro. Chủ nhiệm kiểm toán phải phát triển và duy trì một chiến lược như một



KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

định hướng cho hoạt động kiểm toán nội bộ; xây dựng Kế hoạch kiểm toán nội bộ
cũng như tạo được sự kết nối (báo cáo) với Ủy ban kiểm toán.
+ Kiểm toán viên nội bộ: Là các thực thể tạo nên linh hồn của chức năng kiểm toán nội
bộ. Hoạt động dưới sự kiểm soát của chủ nhiệm kiểm toán nội bộ. Kiểm toán viên nội
bộ phải mang đến cho doanh nghiệp một sự đảm bảo độc lập, khách quan, đồng thời tư
vấn cho hoạt động của doanh nghiệp nhằm nâng cao giá trị , cải thiện hoạt động của
IV.

doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp đạt được các mục tiêu của họ.
Xây dựng Kế hoạch kiểm toán nội bộ dựa trên định hướng rủi ro
“Kiểm toán nội bộ dựa trên định hướng rủi ro kết nối kiểm toán nội bộ với việc
quản lý rủi ro của đơn vị. Nó cho phép kiểm toán nội bộ cung cấp sự đảm bảo về tính
độc lập cho ban giám đốc rằng quy trình quản lý rủi ro của đơn vị được quản lý một
cách hiệu quả nhằm giảm các rủi ro về mức có thể chấp nhận được”.
“Kế hoạch kiểm toán dựa trên định hướng rủi ro là kế hoạch kiểm toán nội bộ dựa
trên bước tiếp cận về quản lý rủi ro”.
Liên quan đến quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán nội bộ dựa trên định hướng rủi ro
bắt đầu với những mục tiêu của đơn vị, sau đó tập trung vào những rủi ro có thể ảnh
hưởng tới việc đạt được các mục tiêu đó. Vai trò của kiểm toán viên nội bộ trong quy
trình quản lý rủi ro là dựa vào quy trình quản lý rủi ro do bộ phận quản lý thiết lập
phải đưa ra những đảm bảo rằng quy trình quản lý rủi ro (xác định rủi ro, đánh giá rủi
ro, đối phó và kiểm soát rủi ro) của đơn vị được kiểm soát. Việc dựa trên định hướng
rủi ro của đơn vị giúp kiểm toán viên nội bộ phân bổ và sử dụng các nguồn lực (con
người, trang thiết bịvà các nguồn lực khác) một cách hiệu quả. Chủ nhiệm kiểm toán
phải thiết lập kế hoạch kiểm toán nội bộ dựa trên định hướng rủi ro để xác định các
công việc ưu tiên trong thực hiện công việc kiểm toán, phù hợp với mục tiêu của tổ

chức.
1. Vai trò của Kiểm toán nội bộ trong quy trình quản lý rủi ro của đơn vị:
Quản lý rủi ro được định nghĩa: là một quy trình được thiết kế bởi các nhà quản lý,
nhằm xác định các vấn đề tiềm tàng có thể gây ảnh hưởng đến đơn vị và quản lý, kiểm
soát các vấn đề rủi ro tiềm tàng đó về mức có thể chấp nhận được để đưa ra những
đảm bảo hợp lý nhằm đạt được các mục tiêu của đơn vị’. (COSO, 2004, p.2)
2. Quy trình quản lý rủi ro của đơn vị


KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN

Đối với các đơn vị, quy trình quản lý rủi ro là khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản, quy
trình gồm các bước như xác định rủi ro, đánh giá rủi ro, đối phó và kiểm soát rủi ro.
-

Lợi ích của quy trình quản lý rủi ro gồm:
Cung cấp cho đơn vị một hệ thống các quy tắc để đảm bảo các hoạt động trong tương

-

lai được sắp đặt một cách phù hợp.
Tăng cường cho việc ra quyết định của nhà quản lý, hoạch định cho các vấn đề không

-

chắc chắn trong tương lai.
Góp phần tăng cường tính hiệu quả của việc sử dụng và phân bổ các nguồn lực trong

-


doanh nghiệp.
Giảm thiểu những vấn đề không chắc chắn, không hiệu quả trong doanh nghiệp.
Bảo vệ và tăng cường tài sản và tên tuổi, uy tín của doanh nghiệp.
Mở rộng và hỗ trợ kiến thức cho tất cả mọi người trong doanh nghiệp.
Khuyến khích hiệu quả hoạt động.
Trong đơn vị, mọi người đều phải có trách nhiệm đối với quy trình quản lý rủi ro.
Quy trình quản lý rủi ro hiệu quả hơn khi vai trò và trách nhiệm trong quy trình quản
lý rủi ro được tách biệt rõ ràng. Trong quy trình này, Ban giám đốc, các nhà quản lý có
trách nhiệm trong việc thiết lập một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt, xác định và đánh

giá các rủi ro mà đơn vị phải đối mặt và đảm bảo rằng các rủi ro đó được kiểm soát.
3. Vai trò của kiểm toán nội bộ trong quy trình quản lý rủi ro
Theo chuẩn mực kiểm toán nội bộ số 2120 “hoạt động kiểm toán nội bộ phải đánh
giá được tính hiệu quả và góp phần cải thiện quy trình quản lý rủi ro của đơn vị”.
Vai trò của kiểm toán nội bộ được Viện nghiên cứu kiểm toán nội bộ đề cập tới
-

(IIA, 2009), gồm:
Mang đến sự đảm bảo cho quy trình quản lý rủi ro của đơn vị


×