CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I/ Khái niệm công cụ quản lý kinh tế
1. Khái niệm
2. Vai trò
3. Nguyên tắc cơ bản trong việc sử dụng các công cụ kinh tế
II/ Một số công cụ kinh tế được sử dụng trong quản lý môi trường
1. Chính sách thuế
2. Phí môi trường
3. Hệ thống đặt cọc – hoàn trả
4. Giấy phép môi trường có thể chuyển nhượng
5. Ký quỹ môi trường
6. Trợ cấp môi trường
7. Nhãn sinh thái
KẾT LUẬN
1
CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
LỜI MỞ ĐẦU
Bảo vệ môi trường ngày nay đã trở thành một trong những chính sách quan
trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác nhau,
Nhà nước ta đang can thiệp mạnh mẽ vào các hoạt động của cá nhân, tổ chức trong
xã hội để bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn việc gây ô nhiễm, suy thoái
và sự cố môi trường. Trong những biện pháp mà nhà nước sử dụng trong lĩnh vực
này, pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Sự xuất hiện và vai trò ngày càng
tăng của các quy định pháp luật về môi trường kể từ khi đất nước chuyển sang nền
kinh tế thị trường là biểu hiện rõ nét về sự cấp bách của vấn đề môi trường và dẫn
đến một hệ quả tất yếu là phải đào tạo, giáo dục công dân những kiến thức về pháp
luật môi trường. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì các loại quan hệ kinh tế là rất đa dạng.
Điều đó đòi hỏi không thể chỉ áp dụng một loại công cụ trong công tác quản lý và
bảo vệ môi trường mà nó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các loại công
cụ mà đặc biệt là các công cụ kinh tế. Các công cụ kinh tế gồm nhiều loại, kinh
nghiệm của các nước đã chỉ ra rằng không thể chỉ áp dụng một loại biện pháp, một
loại công cụ giản đơn với một vài biện pháp, một vài công cụ đơn lẻ nào đó là có
thể điều chính được sự đa dạng về chủ thể cũng như phương thức sản xuất quản lý
và bảo vệ môi trường. Các công cụ kinh tế để quản lí môi trường như: phí,thuế môi
trường, giấy phép ô nhiễm, quyền sở hữu, thuế đầu vào, thuế sản phẩm, thuế xuất
nhập khẩu, thuế phân biệt, hệ thống đặt cọc – hoàn trả, phí sử dụng tài nguyên, phí
tiếp cận, lệ phí quản lí và hành chính…
I/ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ QUẢN LÝ KINH TẾ
2
CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
1. KHÁI NIỆM
Công cụ quản lý về môi trường là các phương thức hay biện pháp hành động
thực hiện công tác quản lý môi trường của Nhà nước, các tổ chức khoa học và sản
xuất. Công cụ quản lý môi trường rất đa dạng, mỗi một công cụ có một chức năng
và phạm vi tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Khi nhắc đến các công cụ quản lý về môi trường không thể không nhắc đến
công cụ kinh tế. Công cụ kinh tế ( còn gọi là công cụ thị trường hay các cách tiếp
cận thị trường) đang ngày càng được nhiều nước sử dụng. Đây chính là sử dụng sức
mạng của thị trường để bảo vệ môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái. Tuy nhiên,
khi áp dụng công cụ này được cân nhắc một cách chặt chẽ để các công cụ này phù
hợp với hệ thống tài chính, tập quán, truyền thống và năng lực của hệ thống hành
chính, hệ thống thể chế cùa từng nước.
2. VAI TRÒ
Công cụ kinh tế là những chính sách, biện pháp nhằm tác động tới chi phí và lợi
ích của những hành động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường, tăng
cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra hủy hoại môi trường đồng thời tác động
đến hành vi của cá nhân theo hướng có lợi cho môi trường. Từ những ứng dụng
trong thực tiễn cho thấy, vai trò của công cụ kinh tế trong việc sử dụng quản lý
nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường, hơn hẳn với các loại công cụ khác như
công cụ điều hành và kiểm soát :
→ Tăng hiệu quả chi phí: từ thực tiễn của việc áp dụng các công cụ kinh tế cho
quản lý môi trường, người ta đã rút ra kết luận rằng nếu cùng một mục tiêu môi
trường cần đạt được như nhau khi sử dụng công cụ kinh tế (EIs) so với công cụ
điều hành và kiểm soát (CAC) thì công cụ kinh tế có chi phí thấp hơn. Sử dụng
công cụ kinh tế là liên quan đến giá cả, vì vậy việc sử dụng giá cả và cung cấp tính
3
CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
linh hoạt trong việc ứng phó với những tín hiệu giá cả, cho phép các cá nhân và
doanh nghiệp tìm kiếm đến chi phí có tính hiệu quả hơn trong khả năng lựa chọn
của họ.
→ Khuyến khích nhiều hơn cho việc đổi mới: công cụ kinh tế không ra lệnh cho
chiến lược kiểm soát mà những người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm. Tuy
nhiên, nó có tác động đến hoạt động kinh tế một cách tích cực để phát triển và lựa
chọn chi phí kiểm soát hiệu quả mà không theo quy ước nào.
→ Khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin tốt hơn: như đã nêu ở trên, công cụ
kinh tế cơ bản dựa vào thị trường, bản thân chúng sẽ phát hiện ra chiến lược hiệu
quả chi phí, cho phép gặp gỡ các mục tiêu môi trường cần đạt thông qua việc chi
phí hiệu quả nhất. Công cụ kinh tế hướng tới sức mạnh thị trường để xác định việc
lựa chọn công nghệ có chi phí thấp nhất, với tính chất vượt trội này cho thấy khi
chúng ta sử dụng công cụ CAC khó có thể thực hiện được.
→ Tăng hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường: do chi phí
thấp khi sử dụng chúng, mặt khác chúng tác động đến quyền lợi kinh tế của các cá
nhân hay doanh nghiệp, do vậy người ta phải tính đến việc sử dụng nguồn tài
nguyên như thế nào là tiết kiệm và hiệu quả nhất mà không ảnh hưởng tới doanh
thu và lợi nhuận.
→ Hành động nhanh chóng và mềm dẻo hơn: công cụ kinh tế cho phép thực
hiện một cách nhanh chóng, linh hoạt và mềm dẻo so với việc sử dụng công cụ
CAC, bởi lẽ nó có thể được điều chỉnh kịp thời thông qua cơ chế giá cả thị trường,
sử dụng tín hiệu thị trường thường cho phép nhận được những thông tin phản hồi
nhanh hơn và nắm bắt được tính hiệu quả của việc thực hiện quản lý sử dụng EIs.
Ngoài những vai trò và tính hơn hẳn của công cụ kinh tế nêu trên, công cụ
kinh tế còn có những vai trò khác trong việc thúc đẩy định hướng hành động ngày
4
CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
càng thân thiện hơn với môi trường trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội diễn ra
thường xuyên; đồng thời, làm cho sự thay đổi hành vi của người sản xuất và người
tiêu dùng trong nền kinh tế, đây là yếu tố rất quan trọng liên quan đến công cụ giáo
dục và nâng cao nhận thức quản lý nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm
hướng tới một sự phát triển có tính bền vững.
Công cụ kinh tế chỉ có thể áp dụng có hiệu quả trong nền kinh tế thị
trường. Hiện nạy, công cụ kinh tế đã và đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới
đặc biệt là tại các nước công nghiệp phát triển OECD. Ở các nước đang phát triển,
chính sách môi trường thường sử dụng hai loại công cụ chủ yếu là mệnh lệnh và
kiểm soát ( hay pháp lý) và kinh tế. Các công cụ khác như công cụ kỹ thuật quản
lý, công cụ giáo dục, truyền thông cũng được sử dụng nhằm bổ sung, hỗ trợ và góp
phần hoàn chỉnh hai công cụ pháp lý và kinh tế.
3. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ
KINH TẾ
Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường được áp dụng dựa trên hai nguyên
tắc cơ bản đã được quốc tế thừa nhận là nguyên tắc " Người gây ô nhiễm phải trả
tiền" (PPP) và " Người hưởng thụ phải trả tiền".
a- Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền bắt nguồn từ các sáng kiến do Tổ
chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đề xuất hợp tác vào các năm 1972 và
1974. Nguyên tắc này xuất phát từ những luận điểm của Pigow về nền kinh tế phúc
lợi. Trong đó, nội dung quan trọng nhất là một nền kinh tế lý tưởng là giá cả các
loại hàng hóa và dịch vụ có thể phản ánh đầy đủ các chi phí xã hội, kể cả các chi
phí môi trường ( bao gồm các chi phí chống ô nhiễm, khai thác tài nguyên cũng
như những dạng ảnh hưởng khác tới môi trường). Giá cả phải "nói lên sự thật" về
những chi phí sản xuất và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Nếu không, sẽ dẫn đến
5
CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
việc sử dụng bừa bãi các nguồn tài nguyên, làm cho ô nhiễm trở nên trầm trọng hơn
so với mức tối ưu đối với xã hội.
“Người gây ô nhiễm phải trả tiền “ có nghĩa là buộc người gây ô nhiễm(doanh
nghiệp , cá nhân hay chính quyền ) phải trả hoàn toàn các chi phí về sự phá hoại
môi trường do hoạt động của họ gây ra . Điều này sẽ khuyến khích người ta giảm
sự phá hoại đó, ít ra cũng ở mức mà chi phí biên của việc giảm ô nhiễm bằng chi
phí biên của sự tổn hại do ô nhiễm đó gây ra. Phương pháp sử dụng các công cụ
kinh tế nhấn mạnh ích lợi của các công cụ kinh tế được dùng để thay đổi thái độ
của con người thông qua cơ chế về giá cả.
Muốn vậy thì tổng chi phí sản xuất ra một hàng hóa hay dịch vụ bao gồm chi
phí của tất cả tài nguyên được sử dụng phải được tính đủ vào giá của nó. Việc sử
dụng không khí, nước, hay đất cho việc loại bỏ hay cất giữ chất thải cũng là sử
dụng các tài nguyên giống như các đầu vào của sản xuất. Tình trạng định giá không
tính đủ chi phí sử dụng các tài nguyên môi trường và không xác định rõ quyền sở
hữu đối với tài nguyên môi trường dẫn đến việc khai thác và sử dụng quá mức và
có thể làm phá hủy hoàn toàn nguồn tài nguyên đó. Nguyên tắc “Người gây ô
nhiễm phải trả tiền” tìm cách sửa đổi “thất bại thị trường” bằng cách buộc người
gây ô nhiễm phải tính toán đầy đủ chi phí sản xuất ( chi phí sử dụng tài nguyên và
làm ô nhiễm )thông qua các công cụ như thuế ô nhiễm, lệ phí ô nhiễm, giấy phép ô
nhiễm...
b- Nguyên tắc " người hưởng thụ phải trả tiền" chủ trương tạo lập một cơ chế nhằm
đạt được các mục tiêu về môi trường. Đối nghịch với việc người trực tiếp gây ô
nhiễm phải trả tiền, người hưởng thụ một môi trường đã được cải thiện cũng phải
trả một khoản phí. Có thể hiểu nguyên tắc tắc này là tất cả những ai hưởng lợi do
có được môi trường trong lành không bị ô nhiễm, thì đều phải nộp phí. Nguyên tắc
này đưa ra giải pháp bảo vệ môi trường với một cách nhìn nhận riêng. Nguyên tắc
6
CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
chủ trương việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được hỗ trợ từ
phía những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho các chất
gây ô nhiễm.
II/ MỘT SỐ CÔNG CỤ KINH TẾ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG QUẢN LÝ
MÔI TRƯỜNG
1. THUẾ TÀI NGUYÊN
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp đơn
thuần chỉ sử dụng thành phần môi trường thì chủ yếu các doanh nghiệp vừa sử
dụng thành phần môi trường vừa khai thác sử dụng tài nguyên. Như vậy thông qua
các cơ cấu kinh tế, chinh sách thuế được chia làm hai loại: Thuế tài nguyên và thuế
môi trường.
*) Thuế tài nguyên:
"Là loại thuế gián thu, thu từ các hoạt động khai thác tài nguyên, do người sử
dụng tài nguyên đóng góp". Từ trước đến nay tình trạng khai thác bừa bãi, sử dụng
lãng phí tài nguyên thiên nhiên ở nước ta cũng như ở các nước khác rất phổ biến
dẫn đến các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy thoái môi trường. Trước
thực tế đó, việc phát triển và cải tiến các loại thuế sử dụng khai thác tài nguyên
thiên nhiên sẽ có vai trò cốt yếu. Mục đích của thuế tài nguyên là :
- Hạn chế các nhu cầu không cấp thiết trong sử dụng tài nguyên.
- Hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng
- Tạo nguồn thu cho Ngân sách và điều hoà quyền lợi của các tầng lớp dân cư về
việc sử dụng tài nguyên.
7
CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
Thuế tài nguyên phải được sử dụng từng bước đế tránh làm mất cân bằng kinh
tế, phải hợp lý điều chỉnh có lợi cho kinh tế xã hội. Nếu muốn giảm suy thoái tài
nguyên và ô nhiễm môi trường, Chính phủ cần tăng thuế. Ngước lại nếu muốn tăng
việc làm, giảm thất nghiệp cần giảm thuế.
Cơ cấu tính thuế tài nguyên phải được thay đổi phù hợp với khả năng công
nghệ của doanh nghiệp, phương thức quản lý của Nhà nước và điều kiện địa chất
kỹ thuật của khu vực khai thác tài nguyên để bảo đảm có sự phân biệt đối với các
doanh nghiệp hoặc hoạt động gây ra các tổn thất tài nguyên và suy thoái môi
trường ở các mức độ khác nhau; nguyên tắc chung là: hoạt động càng gây nhiều tổn
thất tài nguyên và suy thoái môi trường thì càng phải chịu thuế cao hơn. Việc xác
định đúng đắn phương pháp tính thuế tài nguyên là rất quan trọng , sẽ góp phần
thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư công nghệ , kỹ thuật và năng lực quản lý nhằm
làm giảm tổn thất tài nguyên , đặc biệt là các tài nguyên không tái tạo.
Thuế tài nguyên gồm: thuế sử dụng đất, thuế sử dụng nước, thuế rừng, thuế
tiêu thụ năng lượng, thuế khai thác tài nguyên khoáng sản….
*) Thuế môi trường:
Tại khoản 1, điều 112, luật bảo vệ môi trường 2005 quy định: " Tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân sản xuất kinh doanh một số loại sản phẩm gây tác động xấu, lâu
dài tới môi trường và sức khỏe con người thì phải nộp thuế môi trường". Theo quy
định này thì thuế môi trường là khoản đóng góp của thể nhân và pháp nhân khi sử
dụng thành phần môi trường. Như vậy, trong trường hợp này, thuế sử dụng vào các
thành phần môi trường sẽ có xu hướng phát triển thêm thu nhập cho ngân sách nhà
nước. Thuế môi trường dùng để khuyến khích, bảo vệ và nâng cao hiệu suất sử
dụng các yếu tố môi trường, hạn chế các tác nhân gây ra ô nhiễm vượt quá tiêu
chuẩn quy định. Nguyên tắc đánh thuế: thuế phải lớn hơn chi phí để giải quyết phế
thải và khắc phục ô nhiễm. Biện pháp đánh thuế sẽ gây sức ép, buộc nhà sản xuất
8