Tải bản đầy đủ (.pdf) (549 trang)

Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội hiện nay vận dụng cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.76 MB, 549 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
-------000-------

ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP NHÀ NƯỚC
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN
XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HIỆN NAY
– VẬN DỤNG CHO VIỆT NAM
(Mã số: KX.02.06/06-10)

BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Chủ nhiệm đề tài:
GS.TS Hồng Chí Bảo
Cơ quan chủ trì đề tài: Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh

8779
HÀ NỘI – 2010


LỰC LƯỢNG CHÍNH THAM GIA ĐỀ TÀI
1.
2.
3.
4.
5.
6.

GS.TS Hồng Chí Bảo (chủ nhiệm), Hội đồng Lý luận Trung ương.
PGS.TS Trần Hậu (thư ký), UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
TS Đoàn Minh Huấn (đồng thư ký), Học viện CT –HC khu vực I.
GS.TS Lê Hữu Nghĩa, Học viện CT –HC quốc gia Hồ Chí Minh.


GS.TS Phạm Xuân Nam, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
GS.TS Nguyễn Đình Tấn, Viện Xã hội học, Học viện CT – HC quốc gia Hồ Chí
Minh.
7. GS.TS Mai Ngọc Cường, trường Đại học Kinh tế quốc dân.
8. GS Trần Nhâm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
9. PGS.TS Nguyễn Duy Dũng, Viện Đông Nam Á, Viện KHXH Việt Nam.
10. PGS.TS Đỗ Tiến Sâm, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện KHXH Việt Nam.
11. PGS.TS Ngô Quang Minh, Viện Kinh tế, Học viện CT –HC quốc gia Hồ Chí Minh.
12. PGS.TS Lê Ngọc Hùng, Viện Xã hội học, Học viện CT – HC quốc gia Hồ Chí
Minh,
13. PGS.TS Lưu Đạt Thuyết, Vụ Hợp tác quốc tế, Học viện CT – HC quốc gia Hồ Chí
Minh.
14. PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, Viện Lịch sử Đảng, Học viện CT – HC quốc gia Hồ
Chí Minh.
15. PGS.TS Phạm Ngọc Anh, Viện Hồ Chí Minh, Học viện CT – HC quốc gia Hồ Chí
Minh.
16. PGS.TS Nguyễn Bá Dương, Học viện CT – HC khu vực I.
17. PGS.TS Vũ Văn Quân, Trưởng Đại học KHXH&NV, Đại học quốc gia Hà Nội.
18. TS Nguyễn Vĩnh Thanh, Học viện CT – HC khu vực I.
19. TS Trần Thị Minh Ngọc, Học viện CT – HC khu vực I.
20. TS Hà Hữu Nga, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
21. TS Phan Văn Tân, Viện Nghiên cứu dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo Trung ương.
22. TS Đỗ Minh Hợp, Viện Triết học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
23. TS Mai Ngọc Anh, trường Đại học Kinh tế quốc dân.
24. TS Đặng Huy Trinh, Viện Chính trị học, Học viện CT – HC quốc gia Hồ Chí Minh.
25. Th/s Lê Thị Thanh Hà, Học viện CT – HC quốc gia Hồ Chí Minh.
26. TS Lê Thị Thủy, Học viện CT – HC khu vực I.
27. TS Trần Bích Hằng, Viện Xã hội học, Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh.
28. Th/s Trần Văn Tuấn, Đại học quốc gia Hà Nội,
29. Th/s Nguyễn Thị Thu Hoài, Ban Tuyên giáo Trung ương.

30. Th/s Nguyễn Thị Ngọc Mai, Học viện CT – HC khu vực I.
31. Th/s Nguyễn Mai Phương, trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

PHẦN THỨ NHẤT: PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ PHÁT
TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI

15

I. Khái niệm “xã hội” theo hàm nghĩa rộng và hẹp.

15

II. Tiếp cận đa chiều về “phát triển”, “phát triển xã hội” và “quản lý phát
triển xã hội”.

27

III. Tiếp cận phát triển bền vững về phương diện xã hội.
IV. Công bằng xã hội trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.

52


PHẦN THỨ HAI: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN XÃ

60

HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI.

I. Lý luận về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong học

68

thuyết Mác – Lênin.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã

68

hội.
III. Một số lý thuyết “cổ điển” và “hiện đại” phổ dụng trên thế giới về

110

phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
PHẦN THỨ BA: MƠ HÌNH PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT

129

TRIỂN XÃ HỘI Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ ĐỊNH CHẾ QUỐC TẾ

I. Mơ hình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở một số nước

157


châu Á.
II. Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong mơ hình nhà nước

157

phúc lợi ở một số nước châu Âu.
III. Quan điểm và kinh nghiệm của Ngân hàng Thế giới trong tài trợ cho

193

phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
PHẦN THỨ TƯ: HIỆN TRẠNG NHẬN THỨC LÝ LUẬN VỀ PHÁT

218


TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
QUA 25 NĂM ĐỔI MỚI (1986 – 2010)

I. Nhận thức lý luận của Đảng và Nhà nước ta về phát triển xã hội và

251

quản lý phát triển xã hội qua 25 năm đổi mới (1986 -2010)
II. Tác động của đổi mới tư duy lý luận đối với sự phát triển xã hội và

251

quản lý phát triển xã hội trên một số phân hệ – lĩnh vực trọng yếu.

III. Nguyên nhân của những hạn chế và những vấn đề đặt ra về hoàn thiện

282

lý luận phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam.
PHẦN THỨ NĂM: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LÝ

330

LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA GIAI ĐOẠN 2011 – 2020, TẦM NHÌN 2030.

I. Những yếu tố chủ yếu tác động đế sự phát triển xã hội và quản lý phát

338

triển xã hội ở Việt Nam từ 2011 đến 2020.
II. Quan điểm định hướng và hệ giải pháp chủ yếu.

338

KẾT LUẬN

371

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU

399
408



CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
ASXH: An sinh xã hội,
BHXHBB: Bảo hiểm xã hội bắt buộc,
BHDL: Bảo hiểm dưỡng lão,
BHTN: Bảo hiểm tự nguyện.
BHXHNN: Bảo hiểm xã hội người nghèo,
BHXH: Bảo hiểm xã hội,
BHXHCĐ: Bảo hiểm xã hội cộng đồng.
BHYT: Bảo hiểm y tế,
CNXH: Chủ nghĩa xã hội,
CLPTKTXH: Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội,
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
DTTS: Dân tộc thiểu số,
DVXHCB: Dịch vụ xã hội cơ bản,
GDP: Tổng sản phẩm quốc dân,
KCB: Khám chữa bệnh,
KSMS: Khảo sát mức sống,
QLPTXH: Quản lý phát triển xã hội,
MTQG: Mục tiêu quốc gia,
NDT: Nhân dân tệ,
NSNN: Ngân sách Nhà nước,
NS&VSMT: Nước sạch và vệ sinh môi trường,
UNDP: Tổ chức phát triển Liên hợp quốc.
XĐGN: Xóa đói giảm nghèo,
TBCN: Tư bản chủ nghĩa,
TCTK: Tổng cục Thống kê,
THCS: Trung học cơ sở,
THPT: Trung học phổ thông,
WB: Ngân hàng Thế giới.



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tính cấp thiết phải nghiên cứu những vấn đề lý luận về phát triển xã hội
và quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng vào Việt Nam hiện nay xuất phát
từ:
Một, Đại hội X của Đảng đặt quyết tâm sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển. Trong sự kém phát triển này có cả sự kém phát triển về
lý luận, đặc biệt là lý luận quản lý. Phải có sự đột phá lý luận để giải quyết
các nhiệm vụ thực tiễn một cách có lý luận. Phân tích rõ thực chất của kém
phát triển, yêu cầu của phát triển bền vững ở Việt Nam càng trở nên có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn, nhờ đó tạo ra chuyển động trong nhận thức của
lãnh đạo, quản lý cũng như trong xã hội để hướng tới phát triển bền vững.
Nghiên cứu vấn đề này là một cơ hội tham gia đóng góp vào sự hồn thiện lý
luận đổi mới xã hội, phát triển xã hội và con người Việt Nam theo con đường
xã hội chủ nghĩa.
Hai, nước ta đang diễn ra những chuyển đổi sâu sắc như những quá
trình phát triển trong đổi mới, lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm, xây
dựng Đảng là khâu then chốt, văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội. Có
chuyển thành một nước cơng nghiệp hay khơng, có đi tới hiện đại hố và
trở thành hiện đại được hay khơng qua chiến lược "cơng nghiệp hố rút
ngắn" địi hỏi phải hành động trên cơ sở giác ngộ lý luận phát triển xã hội
và tự giác, sáng tạo trong quản lý các quá trình phát triển ấy để đủ năng
lực, đủ quyết tâm, có bản lĩnh đổi mới mạnh mẽ tổ chức, cơ chế, chính sách
và bố trí nguồn lực.
Ba, với Đại hội X, sau 20 năm Đổi mới, chúng ta chẳng những đã tìm
đúng mà cịn từng bước hồn chỉnh hệ mục tiêu của Đổi mới và Phát triển.
"Dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh" - đó là đặc
trưng tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam trùng hợp với tư tưởng Hồ Chí

Minh, đặc biệt là Di chúc của Người.
Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản của phát triển xã hội và quản lý
phát triển xã hội là đặt nền móng cho một nghiên cứu sâu và rộng hơn, đó là

1


chủ thuyết, lý thuyết, phương pháp phát triển xã hội.
Để phát triển dân tộc, hiện đại hoá xã hội, cần thiết đưa ra một chủ
thuyết phát triển phù hợp với Việt Nam. Điều này phải thấm vào tư tưởng
Cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng có trọng trách
khởi xướng và lãnh đạo thực hiện.
Nghiên cứu này góp phần trực tiếp vào cơng việc to lớn đó.
Bốn, nước ta đã bắt đầu tiến trình hội nhập ngày càng sâu vào đời sống
thế giới (gia nhập WTO). Để hội nhập, phải có năng lực sống và hành động
trong hồn cảnh mới, phải có năng lực chủ động, sáng tạo, tự khẳng định,
không đánh mất và tự đánh mất bản sắc văn hoá, truyền thống dân tộc, góp
phần vào việc thực hiện các nghĩa vụ, các cam kết quốc tế. Phát triển và
thành công trong hội nhập đòi hỏi phải làm chủ được lý luận phát triển xã hội
và quản lý phát triển xã hội. "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" theo tư tưởng Hồ Chí
Minh đang là phương châm ứng xử có nguyên tắc và có lý luận của Việt Nam
lúc này.
Năm, trong thực tiễn quản lý, nhất là quản lý phát triển xã hội thường
thấy một hiện tượng có tính quy luật: vấn đề đã được giải quyết lại kéo theo
các vấn đề mới phát sinh, mà các vấn đề phát sinh thường phức tạp hơn,
thường lớn hơn vấn đề đã được giải quyết. Tính chất tỷ lệ nghịch này cho
thấy phát triển và quản lý phát triển xã hội thường đi liền nhau, giữa cái tích
cực và cái tiêu cực, khó khăn và thuận lợi, thống nhất và mâu thuẫn. Do đó,
cần phải chủ động nhận thức và chủ động hành động, sao cho hợp với quy
luật, hợp thực tiễn, thực tế. Cái hiện thực trực tiếp nhất của quản lý là làm sao

tạo ra kết quả, tăng lên hiệu quả, tăng cường được đồng thuận, kích thích
được đối tác, nhờ đó mở ra khả năng sáng tạo cái mới. Việt Nam đang đứng
trước đòi hỏi như thế. Nghiên cứu này là một đóng góp cần thiết, hữu ích, đặt
nền móng cho sự phát triển khoa học quản lý xã hội vốn còn đang rất mới mẻ
ở Việt Nam.
2. Mục tiêu của đề tài.
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội hiện nay và khả năng vận dụng lý luận đó vào quá trình phát triển
xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay cũng như trong những

2


thập kỷ tiếp theo của thế kỷ XXI.
3. Nhiệm vụ của đề tài.
- Trình bày một tổng quát triết học xã hội về xã hội, phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội nhằm làm rõ tính mới trong sự cắt nghĩa các khái
niệm khoa học nói trên, làm cơ sở xây dựng lý thuyết và phương pháp nghiên
cứu đề tài .
- Hệ thống hố, phân tích, bình luận và đánh giá các lý thuyết chủ yếu
về phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội. Vận dụng quy luật tiếp
biến văn hoá vào việc xây dựng hệ thống các luận đề phát triển xã hội hiện
đại và quản lý một xã hội đang chuyển tiếp từ truyền thống sang hiện đại như
xã hội Việt Nam trong 1, 2 thập kỷ đầu thế kỷ XXI.
- Làm sáng tỏ bản chất, mục tiêu, đặc điểm và hệ động lực của phát
triển xã hội ở Việt Nam dưới ảnh hưởng và tác động của các nhân tố, các quá
trình, các xu hướng của thế giới đương đại ngày nay. Xác định những nội
dung chủ yếu của khách thể quản lý mà chủ thể quản lý ở nước ta cần nhận
thức đúng và xử lý khéo theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh (Làm rõ mặt xã hội,
phương diện xã hội của quản lý).

- Trên cơ sở hệ quy chiếu đó tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng về
phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội ở Việt Nam, đặc biệt trong
hơn 20 năm đổi mới vừa qua. Rút ra những nhận xét, những kết luận, phát
hiện những vấn đề đặt ra như những tình huống quản lý.
- Đề xuất và luận chứng hệ quan điểm và giải pháp cơ bản về phát triển
xã hội và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi mới tiếp theo của Việt
Nam trong 1,2 thập kỷ đầu thế kỷ XXI.
- Điều kiện hoá việc thực hiện mục tiêu phát triển và quản lý phát triển
xã hội ở Việt Nam, khuyến nghị với Đảng, Nhà nước những vấn đề bức xúc
cấp thiết và cơ bản lâu dài cần tập trung giải quyết theo quan điểm thực tiễn,
đổi mới, phát triển, từ góc nhìn nguồn vốn xã hội, đặc biệt là vốn người trong
phát triển.
4. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
4.1. Nghiên cứu trong nước.

3


Trong 2 thập kỷ qua đã có khơng ít tác giả và các cơng trình của giới
khoa học đặt vấn đề nghiên cứu về phát triển xã hội và quản lý sự phát triển
xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới. Đây là lĩnh vực được nhiều nhà
nghiên cứu ở nước ta quan tâm trên hai hướng tiếp cận: Rộng và Hẹp. Xã hội
theo nghĩa rộng là toàn bộ chỉnh thể xã hội gắn với chế độ kinh tế, chế độ
chính trị, với nhà nước, quốc gia - dân tộc. Phát triển xã hội, theo đó là phát
triển tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm 4 lĩnh vực chủ yếu: kinh
tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Cũng như vậy, quản lý phát triển xã hội theo
nghĩa rộng là hoạt động quản lý toàn diện của nhà nước về các mặt hoạt động
đó, là quản lý xã hội của đối nội và đối ngoại, trong đó nổi bật nhất là quản lý
kinh tế và quản lý các q trình chính trị.
Theo hướng nghiên cứu này, trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, các tác

giả Việt Nam đã tập trung nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để làm
sáng tỏ những vấn đề sau đây:
+ Nghiên cứu những đặc điểm của bước quá độ lên CNXH, bỏ qua chế
độ TBCN ở Việt Nam, làm rõ phát triển xã hội ở Việt Nam thuộc loại hình
phát triển rút ngắn và ứng với nó là kiểu quá độ gián tiếp (xem các cơng trình
của GS,TS Hồng Chí Bảo, GS,TS Dương Phú Hiệp, GS,TS Nguyễn Duy
Quý thuộc các chương trình nghiên cứu KH-CN 1991-1995, 1996-2000,
2001-2005….).
+ Nghiên cứu các bước chuyển về kinh tế và mơ hình quản lý kinh tế ở
Việt Nam trong đổi mới, từ kinh tế kế hoạch sang KTHH nhiều thành phần,
phát triển kinh tế thị trường, chuyển đổi cơ chế và chính sách. Nghiên cứu
những đột phá trong kinh tế thời kỳ đổi mới từ khốn trong nơng nghiệp đến
sự đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, kinh tế hợp tác, CNH-HĐH, phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế đối ngoại,
luận chứng về xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN, các chính sách tạo
động lực và thu hút nguồn lực trong phát triển kinh tế (xem các cơng trình
“tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới” của Ban chỉ đạo tổng kết TW,
“Đổi mới và phát triển” (Nguyễn Phú Trọng chủ biên), "Quá trình hình thành
và phát triển tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay” (Tơ Huy Rứa, Hồng
Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng) (đồng chủ biên).

4


Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả: Lương Xn Quỳ, Vũ Đình
Bách, Đỗ Đức Đạm, Lê Cao Đồn, Võ Đại Lược, Lê Đăng Doanh… về kinh
tế và KTTT , CNH và HĐH…
+ Nghiên cứu về đổi mới chính sách kinh tế và chính sách xã hội, mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị, kinh tế và xã hội trong phát triển. Chủ thể
hoạch định chính sách là nhà nước, cùng tham gia đánh giá chính sách là

người dân. Các tầng lớp dân cư là những đối tượng thụ hưởng lợi ích từ chính
sách đồng thời là chủ thể tham gia giám sát xã hội đối với nhà nước và công
chức. Những tác động qua lại từ mối quan hệ này đã được nghiên cứu, khảo
sát để làm rõ vai trị của chính sách trong phát triển, cũng như vai trò của
nhân tố con người, của nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội
(Xem các cơng trình nghiên cứu về chính sách quản lý kinh tế của Viện
KHXH Việt Nam, của Ban kinh tế TW, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW.
Đặc biệt là chương trình nghiên cứu về chính sách xã hội và triết lý phát triển
xã hội do GS Phạm Xuân Nam chủ trì với sự tham gia của nhiều nhà khoa
học: Vũ Khiêu, Bùi Đình Thanh, Thành Duy, Đặng Cảnh Khanh, Nguyễn
Trọng Chuẩn, Lê Hữu Tầng, Dương Phú Hiệp và nhiều tác giả khác…).
+ Nghiên cứu về biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp, dân tộc, các nhóm xã
hội và phân tầng xã hội, các chính sách đầu tư phát triển và điều tiết sự phân
hóa trong nền KTTT. Đây là mảng đề tài khá phong phú, đặc sắc đã chú trọng
nghiên cứu vào biến đổi xã hội dưới tác động của biến đổi kinh tế, nhất là
phân hóa giàu nghèo, các chương trình dự án quốc gia xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam, các vấn đề về lao động, việc làm, tiền lương và cơ cấu thu nhập,
mức sống dân cư. Đối tượng được nghiên cứu, khảo sát đã chú ý tới nông
thôn và nông dân, vùng miền núi đa dân tộc, các quan hệ dân tộc và chính
sách dân tộc.
+ Nghiên cứu về dân chủ và dân chủ hóa ở Việt Nam, đổi mới HTCT,
xây dựng Đảng và xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính và
hồn thiện thể chế luật pháp. Đây cũng là mảng đề tài nổi bật trong nghiên
cứu lý luận chính trị và đời sống chính trị ở nước ta - một lĩnh vực quan trọng
của xã hội và phát triển xã hội theo nghĩa rộng. Theo hướng nghiên cứu này,
các tác giả đã đi sâu vào lý luận dân chủ và HTCT, tổng kết thực tiễn để đánh

5



giá đúng thực trạng dân chủ, nhất là dân chủ ở nông thôn, quy chế dân chủ ở
cơ sở và HTCT ở cơ sở. Các nghiên cứu về Đảng đã đi sâu phân tích những
đổi mới tổ chức, nội dung hoạt động và phương thức lãnh đạo của Đảng trong
điều kiện KTTT, mở cửa và hội nhập, phân biệt lãnh đạo của Đảng với quản
lý của nhà nước. Các nghiên cứu về nhà nước đã chú trọng làm rõ cơ cấu tổ
chức bộ máy, phương thức hoạt động, mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp
- hành pháp và tư pháp, yêu cầu về đội ngũ công chức, về đạo đức công chức
và kỷ luật công vụ. Nhiều công trình đã đề cập tới bản chất của quyền lực
nhân dân, sự ủy quyền của dân đối với nhà nước, dân chủ và quyền làm chủ
của nhân dân, quản lý nhà nước bằng pháp luật, đấu tranh chống tham nhũng
để bảo vệ dân chủ…. Trong 20 năm đổi mới, đã có chương trình cấp nhà nước
nghiên cứu về HTCT ở giai đoạn 1991-1995 và đổi mới HTCT ở giai đoạn
2006-2010. Chúng ta cũng đã triển khai một chương trình cấp nhà nước về
xây dựng đảng cầm quyền, một chương trình về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa với rất nhiều đề tài đã triển khai và nhiều cơng trình
đã cơng bố (bài báo, điều tra khảo sát, sách chun khảo, kỷ yếu khoa
học…)1.
Rất nhiều cơng trình và tác giả đã tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu này
(xem danh mục tài liệu).
+Ngồi ra, cịn có các cơng trình nghiên cứu về văn hóa, văn hóa Đảng
và văn hóa chính trị, về vai trị văn hóa trong phát triển kinh tế và xã hội, văn
hóa Hồ Chí Minh, về đạo đức và đạo đức xã hội - một bộ phận cốt lõi của văn
hóa .
(Xem các cơng trình của Hồng Trinh, Phạm Xn Nam, Hồng Chí
Bảo, Vũ Khiêu, Đặng Xuân Kỳ, Đỗ Huy, Huỳnh Khái Vinh, Hoàng Vinh và
nhiều tác giả khác).
Đáng lưu ý là chúng ta đã liên tục triển khai 3 chương trình khoa học cấp
nhà nước về phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam 1991-1995,
1996-2000 và 2001-2005 do GS,VS Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm chương
trình. Từ những nghiên cứu xã hội và phát triển xã hội theo nghĩa rộng như

1

Chương trình KX.03 về Đảng cầm quyền do GS Đặng Xuân Kỳ làm chủ nhiệm; Chương trình
KX.04 về Nhà nước pháp quyền do GS Nguyễn Duy Quý làm chủ nhiệm.

6


vậy, các nghiên cứu tương ứng về quản lý phát triển xã hội đã tập trung làm
rõ bản chất, vai trò của quản lý xã hội, đi sâu nghiên cứu về thể chế quản lý,
nguyên tắc và phương pháp quản lý, các công cụ quản lý, các nguồn lực quản
lý, chính sách và cơ chế quản lý.
Điều có thể nhận thấy là: nghiên cứu phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội theo nghĩa rộng ở nước ta gần như thống nhất và có mối liên hệ
mật thiết với các nghiên cứu về đổi mới và phát triển, về xây dựng CNXH ở
Việt Nam.
Đáng lưu ý là, trong khung cảnh của đổi mới, tại Việt Nam đã diễn ra 3
cuộc hội thảo quốc tế lớn về Việt Nam học (1997-2005). Nhiều học giả trong
nước và các chuyên gia, học giả từ khắp các châu lục đã tham dự hội thảo về
Việt Nam học. Trong nội dung phong phú của các hội nghị quốc tế về Việt
Nam học đã có rất nhiều người nghiên cứu về phát triển xã hội Việt Nam và
quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam.
Các tổ chức hợp tác nghiên cứu của nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam
đã đề xuất nhiều ý tưởng nghiên cứu sâu sắc đặc biệt là đã có nhiều dự án,
chương trình hợp tác quốc tế nghiên cứu tổng kết đổi mới ở Việt Nam qua 2
thập kỷ, rút ra những bài học thành công, chỉ rõ những hạn chế và bất cập, dự
báo xu hướng phát triển…
Đó là tình hình và kết quả nghiên cứu xã hội theo nghĩa rộng.
Những nghiên cứu này tạo ra một phông văn hóa rộng rãi, là nguồn tài
liệu tham khảo bổ ích cho nghiên cứu phát triển và quản lý phát triển xã hội.

Các tác giả triển khai đề tài này, dù không tiếp cận xã hội theo nghĩa rộng
nhưng cũng thấy cần thiết phải nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc để kế thừa.
Tiếp cận xã hội theo nghĩa hẹp, chỉ khu biệt vào lĩnh vực xã hội, các vấn
đề xã hội trong phát triển, đó là cách tiếp cận hợp lý và khả quan mà các tác
giả đề tài này theo đuổi một cách nhất quán. Nói một cách khác, tiếp cận xã
hội theo nghĩa hẹp là tiếp cận chiều cạnh xã hội, phương diện xã hội của xã
hội tổng thể. Nghiên cứu xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
theo nghĩa hẹp được đặt trong mối liên hệ không tách rời với xã hội tổng thể.
Những nghiên cứu xã hội ở trong nước, theo nghĩa hẹp, đã chú ý làm

7


sáng tỏ các vấn đề xã hội bức xúc, các vấn đề xã hội có ý nghĩa cơ bản, lâu
dài, lý luận và thực tiễn về chính sách xã hội và an sinh xã hội.
Đây là những nghiên cứu chủ yếu được triển khai theo hướng phân tích
triết học xã hội, xã hội học và tâm lý học trong quản lý xã hội, nội dung các
lĩnh vực xã hội, phương hướng và phương pháp giải quyết các vấn đề xã hội,
quản lý nhà nước và xã hội, lãnh đạo và cầm quyền của Đảng đối với nhà
nước và xã hội trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Ngoài chương trình
quốc gia nghiên cứu về chính sách xã hội (Xem: Phạm Xuân Nam, Bùi Đình
Thanh, Tương Lai…), gần đây, trong nghiên cứu cân đối, hài hòa các lĩnh vực
phát triển, các tác giả đã rất chú ý nghiên cứu mối quan hệ giữa chính trị với
kinh tế, đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế - xã hội, những tác động qua lại
giữa chúng; vai trị của chính sách xã hội và đầu tư xã hội để tạo ra phát triển
theo chiều sâu, tạo tiềm lực cho tương lại.
Đổi mới nhận thức về xã hội, về chính sách xã hội để thúc đẩy phát triển,
về các chính sách và cơ chế cụ thể, về đa dạng hóa các hình thức, phương
thức quản lý xã hội, xã hội hóa quản lý… đã được quan tâm cả trong nghiên
cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, kể cả dự báo xu hướng vận động, biến đổi,

phát triển..
Trong những nghiên cứu xã hội theo nghĩa hẹp (chỉ khu biệt vào giải
quyết các vấn đề xã hội) đáng chú ý hơn cả là các đề tài và cơng trình nghiên
cứu của Bộ lao động- Thương binh và Xã hội về xóa đói giảm nghèo, bảo trợ
xã hội, thị trường lao động và nhu cầu việc làm trong KTTT, về cải cách tiền
lương, về chính sách ưu đãi xã hội với các đối tượng có cơng...Ngồi ra cịn
có rất nhiều cơng trình điều tra xã hội học về lao động và việc làm, về mức
sống và thu nhập, về nhà ở, về sức khỏe cộng đồng, tuổi thọ, về ô nhiễm môi
trường lao động và mơi trường sống.
Các cơng trình về giáo dục, về chất lượng nguồn nhân lực, về cơ cấu lao
động và cơ cấu dân cư, về tệ nạn và tiêu cực xã hội, về các đối tượng yếu thế,
sự chênh lệch trong phát triển, tình trạng học vấn, sức khỏe, việc làm, mức
sống dân cư ở những vùng đặc biệt khó khăn… đã cho thấy một bức tranh xã
hội tổng quát về đối tượng nghiên cứu.
Trong những năm gần đây, ở nước ta đã bắt đầu đi sâu nghiên cứu về

8


tương quan giữa cái kinh tế và cái xã hội trong phát triển1, về giải quyết các
vấn đề xã hội theo ngun lý cơng bằng xã hội, về các chính sách xã hội và an
sinh xã hội2, về phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo 3, thực trạng đạo đức
xã hội như một vấn đề xã hội của quản lý 4. Đặc biệt là, từ các kết quả nghiên
cứu về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, các nhà khoa học Việt
Nam đã đề xuất những khuyến nghị và giải pháp để giải quyết các vấn đề xã
hội bức xúc cũng như các vấn đề cơ bản, có tầm quan trọng lâu dài đối với
phát triển bền vững ở Việt Nam.
Thành tựu nghiên cứu trên lĩnh vực này đã cung cấp cơ sở khoa học cho
việc đề ra những luận cứ của chính sách xã hội. Tiêu biểu là “Báo cáo về phát
triển xã hội” của Việt Nam tại Hội nghị Thượng đỉnh các quốc gia bàn về

phát triển xã hội ở Đan Mạch, Cơphenhagen 6-12/3/1995 được đánh giá cao.
Chính phủ Việt Nam đưa ra một hệ vấn đề về các lĩnh vực phát triển
xã hội 5. Đó là:
1. Giải quyết việc làm.
2. Xóa đói giảm nghèo.
3. Hồ nhập xã hội (các đối tượng dễ bị tổn thương cần được quan tâm
để có điều kiện hịa nhập và thụ hưởng lợi ích từ xã hội: phụ nữ, trẻ em, người
già, cô đơn, thanh niên, DTTS, người tàn tật, đồng bào vùng đặc biệt khó
khăn…).
4. Gia đình.
5. Giáo dục.
6. Dân số -kế hoạch hóa gia đình.
7. Chăm sóc sức khỏe nhân dân.
8. Bảo trợ xã hội.
9. Môi trường.
10. Hạn chế, ngăn ngừa tội phạm 6.
Báo cáo của Việt Nam cịn phân tích, đánh giá thành tựu, các bài học
kinh nghiệm và các vấn đề đang đặt ra cần giải quyết.
Đây là một tài liệu quan trọng, có giá trị tổng kết thực tiễn cao, là cơ sở

9


để đề tài tham khảo, kế thừa và phát triển trong nghiên cứu tiếp theo.
4.2. Nghiên cứu ở nước ngoài
Mảng nghiên cứu về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội của các
chuyên gia, học giả nước ngoài là rất quan trọng, xét về phương diện tư liệu,
tìm hiểu hướng tiếp cận, phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu, đặc biệt là xác
định các chỉ số phát triển, các tiêu chí đánh giá, các giải pháp quản lý và các
dự báo về xu hướng phát triển và khả năng giải quyết.

Trong quá trình triển khai đề tài này, Ban chủ nhiệm đã chỉ đạo một
nhóm chuyên gia sưu tầm, phân loại, hệ thống hóa các tư liệu, phân tích và
đánh giá các kết quả nghiên cứu để chọn lọc những gì hợp lý có thể vận dụng
cho Việt Nam.
Dưới đây chỉ nêu một cách khái lược những nhận xét và đánh giá về tình
hình nghiên cứu ở nước ngồi.
Có thể hình dung đại thể như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu các lĩnh vực phát triển xã hội trong quan hệ với
phát triển nói chung với sự tác động của kinh tế thị trường, tồn cầu hóa và
hội nhập.
- Đây là hướng nghiên cứu phổ biến rất được quan tâm, đặc biệt đối với
các nước có nền kinh tế chuyển đổi. Giới xã hội học Nga trong bối cảnh diễn
ra những biến động thể chế vào cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước đã đi sâu
nghiên cứu tình trạng tách biệt xã hội và bần cùng hóa đối với một bộ phận
dân cư trước “liệu pháp sốc” chuyển sang KTTT. Đó là nạn thất nghiệp,
nghèo khổ, mức sống dưới ngưỡng tối thiếu, sự phân cực xã hội về mức sống
đã tiềm ẩn những xung đột xã hội. Đó là tình trạng sống tồi tệ của người về
hưu, tình trạng nợ lương chồng chất của chính phủ đối với đa số công nhân
viên chức, kể cả quân đội và giới trí thức. Căng thẳng xã hội càng tăng thêm
trong điều kiện kinh tế suy thoái, lạm phát đi liền với nạn đầu cơ, tài sản quốc
gia bị xâu xé bởi tư nhân hóa.
- Các nhà khoa học Trung Quốc trong cải cách lại đặc biệt chú ý tới các
vấn đề xã hội ở nông thôn dưới tác động của KTTT: mất tư liệu sản xuất (đất
đai), thiếu việc làm, nghèo đói, bệnh tật, thất học, di dân từ nơng thơn ra đô

10


thị. Trung Quốc với 900 triệu người là nông dân, nhiều vùng còn lạc hậu,
chậm phát triển, mức độ chênh lệch trong phát triển còn rất lớn. Giải quyết

các vấn đề xã hội ở nông thôn là cả một chương trình lớn trong cải cách, điều
tiết xã hội, cần có nhiều nguồn lực, cần có hệ thống chính sách, nhất là phát
triển kinh tế (xí nghiệp hương trấn, tạo nghề mới, tạo chỗ làm việc, thu hút
lao động).
- Ngoài lao động, việc làm, mức sống còn là vấn đề an tồn lao động và
an sinh xã hội, phịng chống các rủi ro và tìm kiếm các biện pháp khẩn cấp
giải quyết rủi ro, tai họa, nhất là các tổn hại do thảm họa thiên tai gây ra.
Thứ hai, nghiên cứu về trợ giúp, hỗ trợ phát triển và cứu trợ xã hội với
các đối tượng xã hội yếu thế, thua thiệt trong phát triển.
Đây là những nội dung trực tiếp của các nghiên cứu xã hội và quản lý
phát triển xã hội. Các đối tượng được nghiên cứu thường là người về hưu, cựu
chiến binh, tuổi già, phụ nữ, trẻ em, người DTTS, vùng thường xuyên bị thiên
tai hay có xung đột dân tộc, sắc tộc, mất ổn định và an tồn cuộc sống bị đe
dọa.
Thứ ba, nghiên cứu chính sách về lương, chính sách giáo dục, y tế, phát
triển cộng đồng, dân số, tuổi thọ, gia đình và thế hệ. Phát triển xã hội nếu
diễn ra ổn định, lành mạnh, công bằng là tạo động lực cho phát triển kinh tế
và tạo ổn định xã hội. Do đó, các nghiên cứu về xã hội rất chú trọng đến các
chính sách tạo động lực phát triển.
Bài học của Xingapo dưới chính thể của Lý Quang Diệu trong hơn 4
thập kỷ là một ví dụ điển hình.
Các chính sách xã hội, các giải pháp an sinh xã hội ở các nước Bắc Âu
mà điển hình là Thụy Điển và ở các nước châu Âu, trong đó có chính sách y
tế, mơi trường, giáo dục của cộng hòa Liên bang Đức là những ví dụ tiêu
biểu.
Giải quyết các vấn đề xã hội phải huy động đồng bộ các nguồn lực, các
chính sách, cơ chế, các điều kiện về pháp lý và giáo dục nhận thức xã hội…
Theo đó, cần thấy hết những mặt tiến bộ, tích cực của lý luận dân chủ xã hội của trào lưu CNXH dân chủ (hay chủ nghĩa dân chủ xã hội) trong các

11



cương lĩnh, chính sách của họ.
Ngay trong những thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX, Thụy Điển đã là nơi
điển hình, chứng tỏ tác động và ảnh hưởng của khuynh hướng dân chủ và
nhân đạo trong chính sách xã hội. Thỏa ước lao động, hòa giải các xung đột
theo cơ chế ba bên: Nhà nước, giới chủ và lao động đã từng được áp dụng
trong quản lý.
Ở Đức, Tô Mat May E đã từng đưa ra lý thuyết CNXH dân chủ trong
“36 luận điểm về dân chủ”, ơng cịn là chủ biên một chuyên khảo lớn: “Tương
lai của CNXH dân chủ”, trong đó luận chứng về sự phát triển trong đoàn kết,
hợp tác, đồng thuận, sự phối hợp giữa nhà nước với các tổ chức xã hội dân sự
để thực thi lợi ích cho ba bên: nhà nước, doanh nghiệp và người lao động…
Thứ tư, nghiên cứu của các học giả ở nhiều nước còn chú ý tới vấn đề
con người với môi sinh và môi trường, mở rộng sự quan tâm thực hiện chức
năng xã hội của nhà nước (dịch vụ công) đề phục vụ công dân.
Đảm bảo sự an toàn cuộc sống, sự an sinh trong đời sống, sự phát triển
của cá nhân và cộng đồng là mối quan tâm có tính văn hóa của các cá nhân và
tổ chức có thẩm quyền giải quyết, đáp ứng những đòi hỏi hợp lý của dân cư…
Thứ năm, những nghiên cứu dự báo và chủ động đề ra các giải pháp xử
lý các tình huống phức tạp trong phát triển xã hội: Tội phạm, tệ nạn, đói
nghèo và bệnh tật (nhất là đại dịch ở người và gia súc), thiên tai, mất cân bằng
giới tính và thế hệ, lứa tuổi, sự bùng nổ dân số, sự mất an toàn trong lương
thực thực phẩm (nhất là ở Trung Quốc). Gần đây, tại thành phố Quý Dương,
tỉnh Quý Châu, Trung Quốc đã diễn ra cuộc hội thảo lần thứ 3 giữa 2 đảng
(Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam) với chủ đề Phát
triển khoa học, hài hòa trong xây dựng CNXH. Trong tất cả các sự hài hịa đó,
đáng lưu ý là hài hịa kinh tế - xã hội, tăng cường các quan tâm và đầu tư xã
hội vào giải quyết các vấn đề xã hội, chính sách xã hội và an sinh xã hội. Đó
là chưa nói đến, các nước trong ASEAN, EU và nhiều nước có trình độ phát

triển cao trên thế giới càng ngày càng quan tâm tới phát triển xã hội và quản
lý phát triển xã hội
4. Phương pháp nghiên cứu.

12


Việc nghiên cứu chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội được thực
hiện trên cách tiếp cận của các khoa học tổng hợp liên ngành, tiếp cận vĩ mơ
(từ quan điểm, đường lối, chủ trương,chính sách của Đảng và Nhà nước), tiếp
cận vi mô (từ nhu cầu của cộng đồng, các nhóm xã hội, các hoạt động thực
tiễn của con người), tiếp cận quan điểm hệ thống, quan điểm lịch sử, quan
điểm phát triển. Tiếp cận trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước Việt Nam.
- Chú trọng hàng đầu hướng tiếp cận thực tiễn, tình huống theo quan
điểm phát triển, đổi mới.
- Tiếp cận liên ngành lấy lịch sử, khoa học lịch sử làm nền, lấy triết học,
xã hội học, chính trị học làm trục chính, lấy kinh tế học và văn hoá học làm
chất liệu nghiên cứu, phân tích và luận chứng.
Các khoa học lịch sử, văn hoá học, dân tộc học, nghiên cứu con người
tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề liên quan đến văn hoá, giá trị, đạo
đức của người Việt Nam qua các thời kỳ
Các khoa học triết học, tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, nghiên cứu
con người làm rõ các vấn đề liên quan đến thực trạng đời sống và phát triển
của con người, ... để từ đó đưa ra được các chính sách xã hội và quản lý phát
triển xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu phân tích và tổng hợp tài liệu, phương
pháp so sánh và thống kê, phân loại nhằm tìm kiếm, phân tích các kết quả
nghiên cứu có sẵn để miêu tả, khái qt hố tồn cảnh về chủ đề nghiên cứu

từ các góc độ khác nhau
- Phương pháp điều tra khảo sát xã hội học:
+ Điều tra bằng bảng hỏi đã được soạn sẵn. Thu được thông tin định
lượng, tổng hợp các ý kiến của các nhóm xã hội về nội dung như trong bảng
hỏi phục vụ mục tiêu đặt ra của đề tài .
+ Phỏng vấn sâu thu được thơng tin định tính, dựa trên nguyên tắc cùng
tham gia, trao đổi, thảo luận, nhằm làm rõ các ý kiến, quan điểm, thái độ của
các nhóm đối tượng khác nhau về nội dung phục vụ mục tiêu của đề tài

13


+ Phương pháp nghiên cứu tham gia: Nhóm được nghiên cứu đóng vai
trị là chủ thể tích cực tham gia tồn bộ q trình thực hiện nghiên cứu
+ Phương pháp thống kê và dự báo.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về phát triển xã hội và quản lý
phát triển xã hội ở Việt Nam gắn với quá trình cấu trúc lại mơ hình phát triển
đất nước.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài.
- Xây dựng các khái niệm công cụ làm cơ sở cho các nghiên cứu cơ bản
và hoạch định chính sách về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
- Làm rõ những đặc trưng của quản lý phát triển xã hội trong sự so sánh
với quản lý hành chính và quản lý doanh nghiệp.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế của quá trình đổi mới tư duy lý
luận ở Việt Nam qua 25 năm đổi mới.
- Xác định một số hướng đột phá nhằm hoàn thiện lý luận về phát triển
xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, tầm
nhìn 2021 – 2030.

7. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Hệ giải pháp do đề tài đề xuất được ứng dụng vào hồn thiện mơ hình
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong thập kỷ tới, cụ thể là ứng
dụng vào sửa đổi, bổ sung Cương lĩnh và xây dựng Chiến lược phát triển kinh
tế – xã hội 10 năm 2011 – 2020.
8. Kết cấu báo cáo tổng hợp
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Báo cáo tổng hợp
đề tài gồm 4 phần:
Phần thứ nhất: Phương pháp luận nghiên cứu về phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới.
Phần thứ hai: Những vấn đề lý luận về phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội.

14


Phần thứ ba: Mơ hình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở
một số nước và định chế quốc tế.
Phần thứ tư: Hiện trạng nhận thức lý luận về phát triển xã hội và quản lý
phát triển xã hội ở Việt Nam qua 25 năm đổi mới.
Phần thứ năm: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện lý luận về phát triển
xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta giai đoạn 2011- 2020, tầm nhìn
2030.

15


NỘI DUNG
PHẦN THỨ NHẤT
PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU

VỀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI
I. KHÁI NIỆM “XÃ HỘI” VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
VỚI PHÁT TRIỂN TỔNG THỂ

1. Khái niệm “xã hội” theo hàm nghĩa rộng và hẹp
a. Theo nghĩa rộng, “xã hội” được hiểu là một cấu trúc hệ thống - chỉnh thể,
trong đó nghĩa rộng nhất, có tầm khái quát lớn nhất là xã hội loài người, là lịch
sử thế giới nhân loại. C. Mác gọi đó là một “tự nhiên thứ hai” được con người và
loài người sáng tạo ra. Ngay ở tầm rộng lớn này, xã hội vẫn gắn liền với tự
nhiên. Tự nhiên ấy chính là thân thể vơ cơ của con người, là môi trường hiện
thực cho sự sống và hoạt động của con người. Trước khi con người - chủ thể
hoạt động có ý thức - có thể tự tách mình ra khỏi đời sống của thế giới động vật,
lồi vật thì con người đã và mãi vẫn là một bộ phận của giới tự nhiên. Khi đã
hình thành xã hội với dấu ấn sáng tạo của con người, tự nhiên vốn có, tự nó, đã
trở thành một tự nhiên - xã hội, là khách thể và đối tượng của chủ thể người, cá
thể người cũng như cộng đồng người - tức là cả nhân loại. Khơng có mơi trường
tự nhiên thì khơng thể có mơi trường cho tồn tại và sống, bằng cả tồn tại sinh học
và tồn tại xã hội của con người xã hội. Con người hiện thực trong quan niệm
kinh điển của chủ nghĩa Mác là một thực thể song trùng (cái sinh vật và cái xã
hội) mà bản chất của nó - một cách hiện thực, trực tiếp, cảm tính chỉ có thể hiểu
là tổng hòa tất cả các quan hệ xã hội. Ngay các quan hệ xã hội ấy, hiểu một cách
biện chứng, chính là các quan hệ xã hội - tự nhiên và các quan hệ tự nhiên - xã
hội.
Hệ luận rút ra từ quan niệm này là: xã hội là đời sống của những con người
hiện thực chỉ có thể biểu hiện ra trên cái giá đỡ vật chất của nó, ấy là tự nhiên.

16



Bởi vậy, mọi nghiên cứu về xã hội, bất kể ở cấp độ nào (rộng hay hẹp), dù khác
biệt ở phạm vi, giới hạn nào cũng đều phải tính đến sự tác động của môi trường,
coi môi trường tự nhiên - sinh thái là một vấn đề cấu thành nội dung nghiên cứu
về xã hội. Dĩ nhiên, đây là nghiên cứu môi trường tự nhiên với tư cách là nghiên
cứu xã hội học chứ không phải là tự nhiên học. Hơn nữa, con người và xã hội
của nó khơng chỉ tồn tại trong môi trường tự nhiên - sinh thái mà cịn trong mơi
trường của chính nó, đó là mơi trường xã hội - nhân văn.
Độ an tịan của mơi trường là điều kiện cho sự phát triển người và xã hội.
Sự suy thối của mơi trường, cả tự nhiên - sinh thái hay xã hội - nhân văn đều có
thể cản trở, gây thương tổn cho sự phát triển của con người và đồng loại, thậm
chí có thể dẫn tới hậu quả "phát triển xấu" hay là "phản phát triển". Trong luận
đề của Mác, giới tự nhiên có một q trình lịch sử và đó là một q trình lịch sử tự nhiên. Có thể nhận thấy, tư duy triết học của Mác sâu sắc biết nhường nào, nó
gợi mở một khía cạnh phương pháp luận nghiên cứu rất có giá trị, đó là phải bám
sát hiện biện chứng xã hội - tự nhiên trong các nghiên cứu về xã hội.
Mác còn nhấn mạnh trong "Hệ tư tưởng Đức" (1846) rằng "trình độ hạn chế
của con người với tự nhiên quy định trình độ hạn chế của con người ta với
nhau". Có thể xem đây là sự biểu đạt đầu tiên của Mác về quy luật tổng quát của
mọi thời đại lịch sử mà sau này người ta gọi là quy luật về phép biện chứng giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Xã hội xét theo nghĩa rộng, trong đó có nghĩa rộng nhất, nói tóm lại là sự
kết hợp của hai cấp độ: xã hội - thế giới nhân loại và xã hội - quốc gia dân tộc.
Trong khi khu biệt xã hội vào phạm vi quốc gia dân tộc để nghiên cứu cho phù
hợp với yêu cầu phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở từng nước, còn
phải lưu ý hai tính quy định phương pháp luận sau đây:
Thứ nhất, tồn cầu hóa là một xu thế tất yếu, khách quan, phổ biến, không
thể đảo ngược. Sự phát triển của thế giới tòan cầu tác động và chi phối sự phát
triển của tất cả các thực thể xã hội khác nhau, đặt các nước vào thế phụ thuộc và
tùy thuộc lẫn nhau. Hội nhập quốc tế trong thế giới tòan cầu hóa là địi hỏi tất
yếu của phát triển đối với mỗi quốc gia - dân tộc trong bối cảnh hiện nay.


17


Thứ hai, phát triển trong thế giới tồn cầu hóa khơng cịn và khơng thể cịn
chỗ cho kiểu phát triển đơn tuyến. Mối quốc gia dân tộc không thể tồn tại và
phát triển trong thể khép kín, đóng cửa, tự biến mình thành một ốc đảo biệt lập.
Phát triển ngày nay khơng chỉ địi hỏi phải Đổi mới mà cịn phải mở cửa và
hội nhập. Đó là thời cơ mà cũng là thách thức trong phát triển.
Bài toán phát triển quốc gia - dân tộc trong khi tìm lời giải cho chính mình
phải chủ động đặt mình trong sự phát triển tổng thể của thế giới đang biến đổi,
không loại trừ cả những đột biến. Đổi mới để phát triển, tiếp biến một cách sáng
tạo để phát triển tích cực và bền vững trở thành một triết lý phát triển trong thế
giới đương đại ngày nay.
Do đó, trữ năng và tiềm năng phát triển, trong chiều sâu của nó, trong sức
mạnh tổng hợp của nó phải được nhìn nhận và cắt nghĩa từ văn hóa.
Thế và lực trong phát triển của mỗi quốc gia dân tộc ngày nay được sản sinh
và nhân lên từ tài sản văn hóa mà quốc gia dân tộc đó có được, được sử dụng có
hiệu quả và được sáng tạo không ngừng. Tài sản văn hóa đó tạo thành vốn xã
hội, kết hợp các giá trị truyền thống và hiện đại, cả sức mạnh dân tộc lẫn sức
mạnh thời đại, quan trọng nhất và quyết định nhất là vốn người, trong đó sự quy
tụ hiền tài tạo nên ngun khí quốc gia, tức là ni dưỡng và phát huy các tinh
hoa có một tầm quan trọng đặc biệt. Yêu cầu này được đảm bảo như thế nào, tùy
thuộc một phần lớn vào năng lực văn hóa và bản lĩnh sáng tạo của các chủ thể
lãnh đạo, quản lý đất nước trong thời điểm phát triển có tính bước ngoặt hiện
nay.
Tầm tư tưởng và trí tuệ của mưu lược cầm quyền sẽ quyết định sự sáng suốt
và đúng đắn của các quyết sách và chính sách phát triển.
Như vậy, xã hội theo nghĩa rộng bao gồm: đời sống xã hội với 4 mặt (bốn
lĩnh vực hoạt động): kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Ngồi ra, mơi trường,
trước hết là mơi trường tự nhiên – sinh thái, sau đó là mơi trường – xã hội – nhân

văn cũng là một tác nhân vô cùng quan trọng tham dự vào đời sống xã hội và
hoạt động của con người, của cộng đồng xã hội. Do đó, nghiên cứu xã hội (cả

18


nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp) phải tính đến tác nhân mơi trường, nhất là trong tình
hình biến đổi khí hậu dữ dội như hiện nay.
Đây là những cấu phần hợp thành xã hội, chúng gắn bó mật thiết với nhau
chứ khơng tách rời nhau, hợp thành một chỉnh thể tịan vẹn. Xã hội xét theo
nghĩa rộng như vậy phải được hình dung với những hàm nghĩa và những tư cách
sau đây:
- Xã hội như một cấu trúc vật chất - xã hội, đó là một xã hội, một đất nước,
một cộng đồng dân tộc.
- Xã hội như một quốc gia - dân tộc, với một hình thái nhà nước, một nước
độc lập, có chủ quyền tịan vẹn, có địa vị pháp lý và quan hệ quốc tế.
- Xã hội như một chế độ xã hội, chế độ chính trị và chế độ kinh tế với
những thể chế xác định trong một nước độc lập, có chủ quyền, có chính phủ hợp
hiến, hợp pháp được thừa nhận ở trong nước và có quan hệ bang giao quốc tế,
theo đuổi những mục tiêu phát triển.
- Xã hội như một thực thể, một bộ phận của thế giới nhân loại.
Với những hàm nghĩa đó, phát triển xã hội theo nghĩa rộng là phát triền tòan
diện, tòan bộ các lĩnh vực nêu trên. Đối tượng nghiên cứu khảo sát xã hội theo
đó là tịan bộ đời sống xã hội trong một nước, một quốc gia dân tộc với một nhà
nước điều hành quản lý, chủ thể của luật pháp, chính sách, điều hành và quản lý
về đối nội và đối ngoại trong phát triển.
Phát triển xã hội theo đó là tất cả những gì cấu thành phát triển quốc gia dân tộc do chủ thể quyền lực chính trị được nhân dân ủy quyền là nhà nước và
chủ thể quyền lực xã hội là nhân dân và hệ thống chính trị của nhân dân thực
hiện.
b. Theo nghĩa hẹp, "xã hội" là phương diện xã hội của đời sống xã hội, của

hoạt động sống của con người trong một nước, một chế độ xã hội nhất định.
Nó là mặt xã hội của đời sống, có tầm quan trọng và vị trí ngang bằng với
các mặt, các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị, văn hóa.
Mặt, hay phương diện xã hội của đời sống ln ở trong mối liên hệ không

19


tách rời của xã hội tổng thể như một cấu trúc chỉnh thể – hệ thống.
Mặt xã hội là một tập hợp lớn, một hệ thống các vấn đề xã hội trong phát
triển, liên quan trực tiếp tới đời sống của con người như lao động và việc làm,
mức sống, tình trạng đói nghèo, dân số, sức khỏe và y tế cộng đồng, nhà ở, giáo
dục, vệ sinh môi trường, an tồn giao thơng, văn hóa tinh thần... nói tóm lại là tất
cả những vấn đề của đời sống cá nhân và cộng đồng, có tính chất và hệ quả xã
hội mà xã hội và nhà nước phải giải quyết bằng chính sách. Đó là hệ thống chính
sách xã hội và hệ thống chính sách an sinh xã hội.
Báo cáo của Chính phủ Việt Nam về phát triển xã hội tại Hội nghị Thượng
đỉnh các quốc gia bàn về phát triển xã hội tại Côpenhaghen (Đan Mạch) vào 031995 đã đề cập tới 10 vấn đề xã hội trong phát triển. Đó là:
1. Giải quyết việc làm (đó là một vấn đề tổng hợp kinh tế - xã hội).
2. Xóa đói giảm nghèo.
3. Hịa nhập xã hội (tạo cơ hội đảm bảo sự bình đẳng cho mọi người về các
quyền chính trị, kinh tế, các dịch vụ xã hội: học tập, chữa bệnh, hưởng thụ văn
hóa, đảm bảo tuổi già, hướng vào các nhóm xã hội quan trọng bị thiệt thịi trong
phát triển, dễ bị tổn thương) vớicác nhóm đối tượng sau đây:
3.1. Phụ nữ.
3.2. Trẻ em.
3.3. Thanh niên.
3.4. Dân tộc thiểu số.
3.5. Người tàn tật.
3.6. Người cao tuổi.

3.7. Đồng bào vùng khó khăn, phịng chống và khắc phục hậu quả thiên tai,
dịch bệnh... để hòa nhập cộng đồng.
4. Gia đình (tăng cường vai trị của gia đình).
5. Phát triển giáo dục.
6. Dân số, kế hoạch hóa gia đình.
7. Chăm sóc sức khỏe nhân dân (cộng đồng).

20


×