Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Chính sách tiền tệ và việc thực thi chính sách tiền tệ của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.41 KB, 27 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng đã tạo cơ hội cho
phát triển kinh tế trong những năm vừa qua, nhưng kinh tế Việt Nam cũng chịu ảnh
hưởng nhiều của quá trình hồi phục hay suy giảm của kinh tế thế giới. Từ năm 2008
đến nay, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công ở
châu Âu, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam cũng có những diễn biến phức tạp; sau
những khó khăn về kinh tế năm 2008, 2009, bước sang năm 2010 nền kinh tế có dấu
hiệu ổn định hơn, nhưng từ đầu năm 2011, một số vấn đề kinh tế vĩ mô lại nổi lên, đòi
hỏi Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách phải nghiên cứu giải quyết như: tỷ lệ
lạm phát gia tăng; lãi suất cao; tiền Việt Nam mất giá so với đô la Mỹ; thâm hụt ngân
sách vẫn ở mức cao; hiệu quả của đầu tư công thấp; nhập siêu cao; tăng trưởng có xu
hướng chậm lại…
Toàn bộ các thao tác đó luôn nằm trong hệ thống những ý đồ mang tính chiến
lược mà người ta gọi là chính sách tiền tệ. Nếu chính sách tài chính tập trung vào thành
phần, kết cấu các mức chi phí, thuế khoá của Nhà nước, thì chính sách tiền tệ quốc gia
lại tập trung vào việc giải quyết khả năng thanh toán cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
bao gồm việc đáp ứng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông, điều khiển hệ thống
tiền tệ và tín dụng đáp ứng vốn cho hoạt động kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường
tiền tệ, thị trường vốn theo những quỹ đạo đã định, kiểm soát hoạt động của hệ thống
ngân hàng thương mại (NHTM) và các tổ chức tín dụng khác, cùng với việc xác định
tỷ giá hối đoái hợp lý nhằm ổn định và thúc đẩy kinh tế đối ngoại, hướng tới mục tiêu
cuối cùng là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá.
Nắm được vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc điều tiết chính sách tiền tệ
và các hoạt động trên thị trường trong nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là trong bối cảnh nền
kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ là
một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Đó cũng là lí do nhóm chúng em chọn
đề tài này làm đề tài thuyết trình. Vì kiến thức của chúng em còn hạn hẹp và khả năng
tổng hợp tài liệu cũng không chưa tốt, nên những thông tin và kiến thức đưa ra ngoài
giáo trình, tài liệu mang tính đúng đắn về mặt lý thuyết, cũng một phần là tiếp nhận lại
từ các bài luận đã có sẵn và các bài phát biểu, đánh giá trên các phương tiện đại chúng.
Do đó, có sự trùng lặp và sao chép lại mong Cô thông cảm và góp ý. Chúng em xin


được rút kinh nghiệm cho những bài thuyết trình sau được tốt hơn.

KINH TẾ VĨ MÔ

Page 1


I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:
1. Định nghĩa:
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ (monetary policy) là quá
trình quản lý cung tiền (money supply) của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là ngân hàng
trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn (targeting interest rate) để đạt
được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn
định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu
thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián
tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi
trên thị trường ngoại hối.
Chính sách tiền tệ là hệ thống biện pháp của một nhà nước trong lĩnh vực lưu
thông tiền tệ, nhằm điều hành khối lượng cung và cầu tiền tệ bằng các biện pháp như
phát hành tiền, chống lạm phát, dự trữ pháp định và quản lí dự trữ ngoại tệ, tái chiết
khấu các kì phiếu và lãi suất, chính sách lãi suất... để đáp ứng kịp thời nhu cầu giao
dịch, ổn định sức mua của đồng tiền, phát triển sản xuất, kinh doanh trong một giai
đoạn nhất định. Là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách và cơ chế quản lí
kinh tế của nhà nước, trên cơ sở vận dụng đúng đắn quy luật của sản xuất hàng hoá và
quy luật lưu thông tiền tệ để tổ chức tốt quá trình chu chuyển tiền tệ, đáp ứng kịp thời
nhu cầu của sản xuất - kinh doanh, thực hiện sự kiểm tra có hiệu lực của nhà nước ở
tầm vĩ mô cũng như ở tầm vi mô.
2. Phân loại chính sách tiền tệ:
Xét về mặt định tính ta có chính sách thắt chặt hoặc mở rộng tiền tệ. Nếu nền
kinh tế đang ở trong tình trạng lạm phát cao đòi hỏi phải thực hiện chính sách thắt

chặt tiền tệ (giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ
đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng- chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng
tiền). Ngược lại, nếu nền kinh tế đang ở trong tình trạng suy thoái thì chính sách tiền
tệ cần phải được mở rộng (tăng cung tiền, giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp).
Về mặt định lượng chính sách tiền tệ cần phản ánh khối lượng tiền tệ cung ứng
tăng lên (hay giảm bớt) trong một khoảng thời gian nhất định bao gồm tiền mặt và
chuyển khoản.
Để xây dựng các giải pháp tác động và sử dụng các công cụ để vận hành
KINH TẾ VĨ MÔ

Page 2


chính sách tiền tệ, nội dụng của chính sách tiền tệ gồm ba bộ phận hợp thành: chính
sách cung ứng và điều hòa khối tiền, chính sách tín dụng và chính sách về ngoại hối.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
- Ổn định giá cả
- Tăng trưởng kinh tế
- Đảm bảo công ăn việc
3. Các công cụ của chính sách tiền tệ:
Gồm có 6 công cụ sau:
a. Nghiệp vụ thị trường mở:
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực hiện trên thị
trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó điều tiết lượng tiền cung ứng.
Cơ chế tác động: Khi NHTW mua (bán) chứng khoán thì sẽ làm cho cơ
số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi). Nếu thị trường mở
chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ làm thay đổi lượng tiền dự trữ của
các NHTM (R), nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt
trong lưu thông (C).

- Ưu điểm: do tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là một công cụ rất năng
động, hiệu quả, chính xác của CSTT vì khối lượng chứng khoán mua (bán ) tỷ lệ với qui
mô lượng tiền cung ứng cần điều chỉnh, ít tốn kém về chi phí, dễ đảo ngược tình thế.
- Nhược điểm: vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc
vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường và để công cụ này đạt hiệu quả thì cần phải
có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, thị trường vốn.
b. Dự trữ bắt buộc:
Khái niệm : Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phải giữ lại, do NHTW
qui định, gửi tại NHTW, không hưởng lãi, không được dùng để đầu tư, cho vay và thông
thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền gửi của khách hàng để đảm
bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân
tiền tệ trong cơ chế tạo tiền của các NHTM. Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt
buộc thì khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng
(giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng).

KINH TẾ VĨ MÔ

Page 3


- Ưu điểm : NHTW chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động
của nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng
tới một lượng rất lớn mức cung tiền).
- Nhược điểm: tính linh hoạt của nó không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm,
phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các
NHTM.
c. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM:
Khái niệm: là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM không được
vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định (một năm) để thực hiện vai trò

kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn mức tín dụng cho toàn nền kinh tế
dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng trưởng ,lạm phát, tiêu thụ..) sau
đó NHTW sẽ phân bổ cho các NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức
do NHTW quy định.
Cơ chế tác động: Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng
tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có
quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
- Ưu điểm: giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các
công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những
giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế.
- Nhược điểm: triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, làm giảm hiệu quả
phân bổ vốn trong nến kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoài sự kiểm soát
của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế
tăng lên.
d. Quản lý lãi suất của các NHTM.
Khái niệm: NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho
vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới qui
mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản lý mức cung tiền của
mình.
Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền
cung ứng thay đổi theo.

KINH TẾ VĨ MÔ

Page 4


- Ưu điểm: giúp NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu
của từng thời kỳ phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều kiện để phát huy tác dụng

của các công cụ gián tiếp.
- Nhược điểm: dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì
thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ
cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Mặt khác việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất
dễ làm cho các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
e. Tỷ giá hối đoái:
Khái niệm: Tỉ giá hối đoái là đại lượng biểu thị mối tương quan về mặt giá trị giữa hai
đồng tiền. Nói cách khác tỉ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này được
biểu hiện bằng một đơn vị tiền nước khác.
Cơ chế tác động: tác động đến hoạt động kinh tế, từ hoạt động xuất nhập khẩu đến sản
xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước qua biến đổi của giá cả hàng hóa.
-Ưu điểm: NHTW có thể ấn định tỉ giá cố định hay thả nổi theo quan hệ cung cầu
ngoai tệ trên thị trường ngoại hối bện cạnh đó còn có tỉ giá cố định nhưng di động khi cần
thiết và tỉ giá thả nổi có quản lý.
- Nhược điểm: khi vận dụng công cụ này không phải NHTW đẩy tỉ giá lên cao hay
kéo tỉ giá xuống thấp mà ổn định tỉ giá ở một mức độ hợp lý phù hợp với đặc điểm điều
kiện thực tế của đất nước trong từng giai đoạn để tác động chung cuộc của nó là tốt nhất.
Chính sách tiền tệ nhắm vào lãi suất và lượng cung tiền. Thông thường, không thể
thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Chỉ để điều tiết chu kỳ kinh tế ở tình trạng bình
thường, thì mục tiêu lãi suất được lựa chọn. Còn khi kinh tế quá nóng hay kinh tế quá
lạnh, chính sách tiền tệ sẽ nhằm vào mục tiêu trực tiếp hơn, đó là lượng cung tiền.
Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.
Chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng xem xét trong thời
gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn
nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện
CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
II. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM TRƯỚC KHI GIA NHẬP WTO:

KINH TẾ VĨ MÔ


Page 5


Năm 1986 được gọi là năm lạm phát, nhưng thật sự lạm phát đã xuất hiện từ nhiều
năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) năm 1981 từ 70% lên đến 92% vào năm 1985. Chỉ
có điều hiện tại không ai dám đưa vấn đề ra phân tích một cách công khai. Không có giải
pháp tổng thể nào được đưa ra trong một thời gian dài cho đến khi xảy ra cuộc đổi tiền
vào năm 1985.
Lúc này Nhà nước ta có quan niệm rằng đổi tiền sẽ khôi phục lại giá trị đồng bạc
Việt Nam và mong lạm phát có thể giảm bớt. Nhưng sau khi đổi tiền, CPI không giảm
mà lên tới 775% năm 1986, nền kinh tế bước vào thời kì lạm phát dữ dội với mức tăng 3
chữ số kéo dài trong 2 năm tiếp theo.
Đến cuối năm 1988, đầu năm 1989, nhiều biện pháp về tiền tệ nhằm kiểm soát lạm
phát mới được đưa ra. Một trong những quyết định quan trọng đầu tiên là việc mạnh tay
nới lỏng tỷ giá USD/VND vào cuối năm 1988 và tiếp tục cơ chế linh hoạt tới năm 1991,
trước khi bước vào giai đoạn đóng băng tỷ giá từ năm 1992. Trước tháng 12/1988, tỷ giá
do ngân hàng Vietcombank công bố thường thấp hơn thị trường tự do hàng chục lần. Vào
tháng 12/1987, tỷ giá do ngân hàng Vietcombank là 3.000 đồng/USD. Đây là bước tăng
vọt so với tỷ giá 368,2 đồng công bố từ đầu năm.
Sự thay đổi tỷ giá đã có tác động rất mạnh đến cán cân thương mại. Nếu chỉ xét
trong khu vực giao dịch bằng USD, xuất khẩu trong giai đoạn từ năm 1989 đến 1992 bình
quân tăng 50% mỗi năm. Tỉ lệ nhập siêu giảm mạnh từ 47,6% trong năm 1986 xuống còn
0,8% vào năm 1989 và thậm chí xuất siêu âm vào năm 1990.
Theo số liệu thống kê được năm 2001, tốc độ tăng trưởng GDP là 6,89%. Trong
đó xuất khẩu chiếm 14%. Năm 2007, GDP tăng 8,48%, đóng góp của xuất khẩu là
2,62%. Xuất khẩu đã góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế Việt Nam. Sự thay đổi
của xuất khẩu sẽ kéo theo sự thay đổi của GDP, hai chỉ tiêu kinh tế này có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau.
Tốc độ tăng trưởng GDP, xuất khẩu và tỷ trọng XK/GDP- %


Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê các năm và ADB
Xuất khẩu là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam
trong những năm qua, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á vào năm
KINH TẾ VĨ MÔ

Page 6


1997. Xuất khẩu giúp nước ta có tốc độ tăng trưởng luôn cao hơn các nước trong khu
vực. Theo biểu đồ trên cho thấy xuất khẩu năm 1988-1990 rất cao gần 90% chiếm gần
40% GDP vào năm 1990. Năm 1991, xuất khẩu giảm mạnh xuống -15%, tuy nhiên
những năm sau đó xuất khẩu của nước ta tăng trưởng rất đều. Thấy được rằng xuất khẩu
từ năm 2002 đến 2006 tăng lên làm cho GDP cũng tăng đáng kể.
Năm 1989, với cơ chế rất thoáng trong việc thành lập quỹ tín dụng, hàng loạt quỹ
tín dụng ra đời để huy động vốn, sau một thời gian thì đổ bể. Lãi suất tiết kiệm năm 1989
cực kỳ cao, có khi lên đến 12%/ tháng. Lãi suất cho vay đầu năm 1989 là 10,5%/ tháng,
cuối năm giảm còn 4%/ tháng và duy trì ở mức lãi suất dưới 3%/ tháng trong các năm
1990 đến 1992.
Tình hình kinh tế xã hội vào lúc đó còn khá phức tạp, mặc dù lạm phát đã giảm
mạnh so với năm 1986-1988. Đến năm 1991, tỷ giá VND/USD tăng vọt lên
13.000VND/USD, và giảm đột ngột xuống còn 11.000VND/USD vào năm 1992. Trong
suốt từ năm 1992-1996 tỷ giá được neo giữ ở mức 10.500 đến 11.000VND/USD.
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ năm 1992-1996 đạt đến 9%/năm, nhưng từ
năm 1997 thì giảm dần. Cùng lúc đó thì kinh tế châu Á bị khủng hoảng và Nhà nước ta
đổ lỗi cho việc tăng trưởng kinh tế bị giảm sút là vì lí do này. Đó là cách lý giải không có
sức thuyết phục, dấu ấn của chính sách tỷ giá, tiền tệ các năm đó ảnh hưởng hơn là do
cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực. Chính là cơ chế cứng nhắc cùng với tỷ giá đồng nội tệ
cao đã làm mất đi cơ hội của đất nước khi mà dòng FDI thế giới đang hướng vào. Đồng
nội tệ được đánh giá cao cùng với tỷ giá cố đinh trong khoảng thời gian từ 1992-1996 đã
thúc đẩy nhập khẩu ồ ạt. Do vậy, thâm hụt thương mại liên tục tăng lên đến 45% vào năm

1995.
Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế tỷ giá được điều chỉnh và kết quả đạt được đáng
mong đợi. Liên tục trong 4 năm thâm hụt thương mại giảm mạnh chỉ còn -1% vào năm
2000.
Cùng với tăng cường xuất khẩu, tăng đầu tư nước ngoài, dự trữ ngoại tệ của Việt
Nam cũng tăng cao hơn đảm bảo ổn định thị trường ngoại hối, giữ tỷ giá ổn định trong
một thời gian dài. Tỷ giá ổn định tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Dự trữ ngoại
tệ của nước ta tăng từ gần 3,4 tỷ USD năm 2001 lên gần 22 tỷ USD chiếm 30,7% GDP
cuối năm 2007.
Dự trữ ngoại hối Việt Nam (2002-2007):

KINH TẾ VĨ MÔ

Page 7


Nguồn: IMF Staff Country Report No 03/382, December 2003 và No 07/338,
December 2007
Tháng 5/2001 tăng tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ lên 15%, giảm tỷ lệ DTBB bằng
VND xuống 3%; tháng 11/2001 giảm tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ xuống còn 10%. Lãi suất
trong năm này được điều hành theo hướng tự do hóa và phù hợp với mục tiêu của chính
sách tiền tệ.
Chi tiêu của Nhà nước (so với GDP) đã tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% từ sau
năm 2005. Tỉ lệ vốn đầu tư/GDP cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40% năm
2004.
Năm 2004 đã xuất hiện những dấu hiệu của cuộc lạm phát mới và được xác nhận
lại vào năm 2005 nhưng đã không có những giải pháp thoả đáng. Thậm chí đến giữa năm
2007 dấu hiệu trở nên rõ ràng hơn thì lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước vẫn tuyên bố mạnh
mẽ “lạm phát không thể đến mức hai con số”.
Năm 2006 tỷ giá VND/USD lần đầu được điều hành thử nghiệm theo cơ chế tỷ giá

thả nổi thận trọng, có quản lý, thực hiện can thiệp mua bán ngoại tệ trên thị trường theo
mục tiêu điều hành. Tỷ giá VND/USD có xu hướng tăng nhẹ, nhưng nhìn chung được giữ
tương đối ổn định trong thời gian dài.
Chính sách về nghiệp vụ thị trường mở (khai trương tháng 7/2000), đã góp phần
điều chỉnh vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng.
Từ năm 2004, Nghiệp vụ thị trường mở được tăng cường sử dụng như một công
cụ chủ yếu điều tiết tiền tệ, không chỉ khắc phục hiện tượng mất cân đối cung cầu ngoại
tệ, mà còn tạo điều kiện cho NHNN tăng dự trữ ngoại hối.
Trong năm 2007, nghiệp vụ thị trường mở đã có những đổi mới như cố định phiên
mua, thay đổi phương thức đấu thầu nhằm bám sát mục tiêu điều hành CSTT và diễn
biến vốn bằng VND của các tổ chức tín dụng.
III. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM HẬU WTO:
*Năm 2007
1/ Tình hình kinh tế năm 2007:
Vị trí nền kinh tế VN trong nền kinh tế thế giới qua các chỉ số (2007)

KINH TẾ VĨ MÔ

Page 8


Nguồn :WB, IMF và UNESCO

Từ cuối năm 2006 đến giữa đầu năm 2007, nền kinh tế VN nổi lên với nhiều sự
kiện, chỉ tiêu đầy hứa hẹn. Khi VN chính thức là thành viên của WTO, lượng vốn đầu tư
nước ngoài và kiều hối vào VN tăng đột biến (năm 2007 đã tới 20,3 tỉ USD). 2007 là năm
ảm đạm trong nền kinh tế Mỹ khi mà đồng đô-la xuống giá nghiêm trọng. Sự suy thoái
của nền kinh tế lớn nhất thế giới này đã khiến cho nhiều nền kinh tế khác trên thế giới
chịu ảnh hưởng, trong đó có Việt Nam.
Thị trường thế giới biến động lớn, phức tạp gây nhiều yếu tố bất lợi cho nền

kinh tế Việt Nam. Giá cả nhiên liệu, vật tư, nhất là xăng dầu, phôi thép, thép, nguyên liệu
sợi, vải, vật liệu phục vụ công nghiệp dệt may, da giày, hóa chất, phân bón, thức ăn chăn
nuôi tăng cao. Thị trường xuất khẩu một số mặt hàng biến động phức tạp như dệt may, da
giày, thủy sản, thủ công mỹ nghệ, xe đạp và phụ tùng, động cơ điện... Điều đó đã làm cho
giá cả tiêu dùng trong nước tăng cao liên tục chưa có điểm dừng.
Trở thành thành viên chính thức của WTO và thực hiện cam kết PNTR với Hoa
Kỳ, do đó, thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với các nước
thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được
nâng cao qua Hội nghị cấp cao APEC năm 2006. Quan hệ ngoại giao, các hoạt động hợp
tác kinh tế, đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu được củng cố và tăng cường thông qua
KINH TẾ VĨ MÔ

Page 9


các cuộc thăm hỏi cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng với sự tham gia của các
nhà doanh nghiệp. Tình hình chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng bảo đảm, đã tạo môi
trường thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong
nước.
Thị trường và giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam diễn biến theo
hướng cầu lớn hơn cung như dầu thô, gạo, cà phê, chè, thủy sản... Do đó, giá cả các mặt
hàng này tăng cao, có lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Dẫu rằng có nhiều khó khăn về thiên tai lớn, dịch bệnh diễn biến phức tạp và
sự biến động thị trường bất lợi về giá cả tăng song nền kinh tế nước ta vẫn tăng trưởng
cao, kinh tế năm 2007 đạt mức 8,48% là mức tăng cao nhất trong 11 năm qua
đứng thứ 3 châu Á (sau Trung Quốc và Ấn Độ). Mức tăng CPI là 12,63%, lạm phát bình
quân tăng từ 7,45% lên 8,3%.
Kinh tế phát triển có biểu hiện thiếu bền vững đó là hiệu quả và chất lượng tăng trưởng
thấp qua các chỉ số dưới đây. Thứ nhất, hiệu quả đầu tư thấp qua chỉ số ICOR cao hơn
các nước trong khu vực có tốc độ tăng trưởng cao theo các thời kỳ (Bảng 4).

Bảng 4: Chỉ số ICOR của VN so với các nước trong khu vực

Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của IMF và World Bank
Thứ hai, khoảng cách giữa tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng GDP của VN cao hơn
nhiều so với các nước Trung Quốc và Thái Lan. Điều này giải thích tại sao VN có tỷ lệ
lạm phát cao hơn tỷ lệ lạm phát ở các nước này trong ba năm qua (2006-2008) (Hình 2).
Hình 2: Tỷ lệ lạm phát củaVN và một số nước trong khu vực (2006-2008)

KINH TẾ VĨ MÔ

Page 10


Chuyên gia IMF cho rằng, một trong những lí do tại sao lạm phát ở Trung Quốc,
Malaysia, Thái Lan thấp hơn Việt Nam nằm ở chính sách tỷ giá hối đoái. Việt Nam ràng
buộc tỷ giá vào một điểm so với đồng USD trong khi đồng tiền này biến động trên thị
trường tiền tệ toàn cầu. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam đã nhập khẩu một phần
ảnh hưởng lạm phát của việc đồng USD mất giá.
Trong khi đó, các nước khác trong khu vực đã cho phép tỷ giá biến động phù hợp
với những biến động của đồng USD trên thị trường. Đồng USD đã giảm giá 9% so với
euro, 7% so với đồng yên. Điều này đồng nghĩa với giá hàng hóa trên thế giới tính theo
tiền USD tăng rất nhanh. Phản ứng của các nước này giúp cho giá hàng hóa không bị
tăng theo sự mất giá của đồng USD, xóa đi một số tác động xấu đối với nền kinh tế.
Thứ ba, trong khi các nước Trung Quốc và Thái Lan có cán cân thanh toán dương với qui
mô lớn, tăng dần qua các năm, thì VN có cán cân thanh toán là số âm lớn do nhập siêu
cao và số nhập siêu cũng tăng dần qua các năm (Bảng 5). Thứ tư, tỷ trọng hàng xuất khẩu
của VN năm 2007 chủ yếu là dầu thô chiếm 17,5%, hàng nông sản, hải sản chiếm trên
15%, còn lại là các hàng gia công như hàng may mặc, giầy dép…. . Điều này thể hiện
VN chưa có những sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, năng suất lao động của
VN thấp, lợi thế xuất khẩu chỉ phụ thuộc vào tài nguyên và lao động rẻ.

Bảng 5: Cán cân thanh toán của VN và các nước (2006-2008)

KINH TẾ VĨ MÔ

Page 11


Nguồn: IMF,WB,2008

2/.Các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ:
Đồng tiền mất giá là ấn tượng đáng nhớ nhất trong năm 2007 và đầu năm 2008.
Về nguyên tắc, khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào VN tăng, đồng tiền VN (VND) sẽ
lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, NHNN đã can thiệp thị trường ngoại hối
nhằm giảm áp lực tăng giá VND.
* NHNN VN phát hành VND mua lại lượng ngoại tệ này với mục đích kiềm
hãm tỷ giá của VND với USD thấp hơn điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh
của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ VND yếu là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu.
* Tỉ giá linh hoạt với việc nới lỏng biên độ tỷ giá từ 0,25% lên 0,5% vào đầu
năm và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%.
* Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm
2006 để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng
trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức ép tăng lạm phát trong
những tháng cuối năm.
* Giữ ổn định các mức lãi suất chính thức do NHNN công bố, nhằm phát tín
hiệu ổn định lãi suất thị trường. NHNN đã chính thức thực hiện bỏ qui định về trần
lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD để hoàn toàn tự do hóa lãi suất thị trường,
phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế.
* Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay
chiết khấu trong hạn mức phân bổ.


KINH TẾ VĨ MÔ

Page 12


* NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục
tiêu thanh khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính
theo tuần nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm
2006 lên gần 18 tuần năm 2007.
Tuy nhiên, mặt trái của chính sách thị trường mở là Ngân hàng nhà nước đã
phải cung ra số lượng khổng lồ tiền đồng để mua hết số đô la này, Đồng đô la mất giá,
đồng nghĩa với việc tiền Việt lên giá. Người ta lại dồn dập bán đô-la để thu tiền Việt.
Cung tiền đồng lại phải tăng thêm để giữ tỉ giá hối đoái (VND/USD) khỏi xuống quá
thấp, làm cho lượng cung tiền củaVN từ năm 2005 đến hết tháng 6/2007 tăng tổng cộng
110%. Đây là mức tăng rất lớn, là tác nhân quan trọng đối với lạm phát. Con số lạm phát
lên đến 12.63% so với chỉ số tăng GDP là 8.5% -nghĩa là về thực chất chúng ta tăng
trưởng âm. Chính sách tỷ giá hiện nay đã ảnh hưởng hạn chế nhất định đối với nền kinh
tế. Mặc dù ngay từ đầu năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện nới lỏng biên độ tỷ giá từ
0,25% lên 0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục nới rộng biên độ lên 0,75%, nhưng với biên
độ dao động chưa đáng kể, chưa đủ thích ứng với môi trường bên ngoài. Điều chỉnh tăng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng gấp 2 lần so với mức của năm 2006 để hạn chế mức độ dư thừa
vốn khả dụng của các TCTD.
3/. Thành tích đạt được năm 2007:
Thành tích nổi bật là tăng trưởng kinh tế cao nhất so với tốc độ tăng của 12 năm
trước đó, đạt được mức cao của mục tiêu do Quốc hội đề ra, thuộc loại cao so với các
nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao đã góp phần làm cho quy
mô kinh tế lớn lên. GDP tính theo giá thực tế đạt khoảng 1.143 nghìn tỉ đồng, bình quân
đầu người đạt khoảng 13,42 triệu đồng, tương đương với 71,5 tỉ USD và 839 USD/người.
Cùng với tăng trưởng kinh tế cao là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tích cực. Theo nhóm ngành kinh tế, nông, lâm nghiệp-thủy sản vốn tăng thấp, năm nay lại

gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh lớn và tỷ trọng trọng GDP của nhóm ngành này tiếp
tục giảm (hiện chỉ còn dưới 20%). Công nghiệp-xây dựng tiếp tục tăng hai chữ số, cao
nhất trong ba nhóm ngành, nên tỷ trọng trong GDP tiếp tục tăng (hiện đạt gần 42%), phù
hợp với giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Dịch vụ được mở
cửa rộng hơn sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nên đã
tăng cao hơn tốc độ chung, nhờ đó đã chặn được sự sút giảm trong tỷ trọng GDP của
nhóm ngành này trong thời kỳ 1995 - 2004 và cao hơn năm trước.
- Qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không để xảy ra những cú sốc
về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của tình hình thị trường tài chính
quốc tế :
+ Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày
giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất huy
động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so với cuối
năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Tính
đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các TCTD tăng 31,2%, ước cả năm tăng 39,6%,
KINH TẾ VĨ MÔ

Page 13


cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%,
ước cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 22,8% của năm 2006).
+ Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ), trong
bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn
định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị
trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi
suất VND.
- Diến biến tổng phương tiện thanh toán mặc dù tăng cao, nhưng cơ cấu thay đổi
theo chiều hướng tích cực:
+ Tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán giảm từ mức 19,3% năm 2006

xuống mức 17,8% năm 2007.
+ Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm
2007 - giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
- Hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế:
+ Trong hoạt động đầu tư tín dụng của các TCTD có những diễn biến tích cực, các
sản phẩm dịch vụ tín dụng đã được đa dạng hơn, nhiều lĩnh vực cho vay đầu tư được mở
rộng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều điều kiện thuận lợi tiếp cận nguồn vốn vay
ngân hàng để phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp góp phần
ổn định xã hội, cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, cho vay chính sách hỗ trợ các
hộ nghèo, hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn cũng được mở rộng, góp phần tích cực
thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc cho vay tiêu dùng cũng được
mở ra rất đa dạng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của xã hội.
+ Tín dụng đầu tư vào thị trường chứng khoán được kiểm soát chặt chẽ và giảm
dần cả số tuyệt đối và tỷ lệ dư nợ qua các tháng, góp phần thúc đẩy thị trường chứng
khoán phát triển ổn định. Tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản cũng được theo dõi,
giám sát chặt chẽ nhằm góp phần hạn chế những tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động ngân
hàng và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển bến vững.
+ Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu
hướng giảm so với tỷ lệ nợ xấu tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các
nhóm TCTD đều giảm. Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước là 2,8% (giảm
0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các NHTM cổ phần là 1,26% (giảm 0,34%); tỷ lệ nợ xấu của các
ngân hàng liên doanh và chi nhánh nước ngoài là 0,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các
TCTD khác là 2,4% (giảm 0,5%).
* Năm 2008
1/. Tình hình kinh tế năm 2008 :
Năm 2008 là năm mà tình hình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến
động lớn. Sự lên xuống thất thường của giá dầu thô, diễn biến phức tạp của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu cùng với thiên tai, dịch bệnh đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
KINH TẾ VĨ MÔ


Page 14


kinh tế, xã hội của nước ta, là năm có nhiều khó khăn và thử thách đối với hoạt dộng
ngân hàng.
Thị trường chứng khoán biến động thất thường nhưng hiện có xu hướng đi
xuống 30%.
Muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phải có vốn đầu tư. Tuy nhiên dòng vốn chủ
yếu để thúc đẩy đầu tư hiện nay là vốn tín dụng ngân hàng. Vô tình chúng ta vướng vào
một vòng mang tên "tín dụng".
Với mục tiêu kiểm chế lạm phát, hỗ trợ thị trường chứng khoán, kiềm hãm sự tăng
trưởng nóng của thị trường BĐS. NHNN đứng trước một bài toán khó trong công cuộc
điều hành chính sách tiền tệ. Tất cả khó khăn trên đặt lên vai trò chính sách tiền tệ của
NHNN.
2/.Các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ năm 2008
a/. Giai đoạn từ đầu năm đến tháng sáu:
NHNN Việt Nam quyết định nâng dự trữ bắt buộc đối với các NHTM và qui
định các NH mua trái phiếu NHNN. Kèm với đó là hạn chế tăng trưởng tín dụng nóng
bằng việc khống chế ở mức 30%.
-Hai quý đầu của năm 2008, cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế
giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá dầu thô tăng cao,
cộng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hoá Việt Nam
có hiện tượng “bốc hoả” về giá. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%,
mức cao nhất so với nhiều năm trở lại đây. Trong đó đáng quan tâm nhất là hai nhóm
hàng lương thực và thực phẩm: lương thực tăng 59,44%, thực phẩm tăng 21,83%, đã góp
phần đẩy chỉ số lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86%/tháng. Đến cuối
tháng 6, chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6
của nhiều năm trước (2,14%).
+Trước tình hình đó, thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ là mục tiêu chủ yếu của
NHNN, với ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở được sử dụng đồng

thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản…
đã tác động mạnh đến thị trường.
+Tiền tệ thắt chặt lập tức bằng cách NHTW tung ra hơn 20.000 tỉ đồng tín
phiếu. Ba ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất, mỗi ngân hàng phải mua 3000 tỷ
đồng.
+NHNN liên tục tăng LSCB trong 6 tháng đầu năm, đỉnh điểm là vào tháng 6 năm
2008 lên đến 14%.
+ Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%.
Trong điều kiện tiền quá nhiều trong lưu thông thì việc sử dụng các công cụ chính
sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn đúng xét cả về lý thuyết lẫn thực tiễn.
Sự can thiệp quyết liệt của NHNN cho thấy được chính kiến cũng như sự quyết tâm của
KINH TẾ VĨ MÔ

Page 15


toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn
đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5
xuống các mức thấp hơn trong quý và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm
phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%.Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng thực sự các NHTM
đã phải trải qua những tháng ngày (đặc biệt là trong tháng 2, tháng 3) cực kỳ khó khăn về
thanh khoản và luôn nằm trong tình trạng “nguy cơ”. Chiến dịch lãi suất của các ngân
hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Chỉ trong khoảng thời gian vài
ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được
đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng. Lãi suất cho vay rất
cao đồng nghĩa với các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó khăn để vay vốn kinh doanh.
Giá cả cũng chưa chắc xuống thấp được vì dù đồng tiền tăng giá vì lượng tiền lưu thông
giảm xuống nhưng chi phí vốn của các doanh nghiệp lên giá.
Tỷ giá trên thị trường diễn biến phức tạp và chia ra làm nhiều giai đoạn:
• Giai đoạn đầu (3 tháng đầu năm từ 01/01/2008 - 25/03/2008): Tỷ giá liên tục

giảm, dưới mức sàn.
Tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112
đồng xuống 15.960 đồng, mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị trường tự do, tỷ
giá dao động từ mức 15.700 - 16.000 đồng/USD.
Nguyên nhân là thời điểm này đang ở giai đoạn gần tết Dương lịch, do đó lượng
kiều hối chuyển về nước khá lớn. Thứ hai, các nhà đầu tư dự kiến VND sẽ tăng giá so với
USD, cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn giữa USD và VND nên các nhà đầu tư đẩy mạnh
việc bán USD chuyển qua VND. Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ (1,4 tỷ USD), các doanh nghiệp xuất khẩu vay USD để
phục vụ sản xuất kinh doanh...Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán USD.
Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế
lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng
12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD
nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm
lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.

KINH TẾ VĨ MÔ

Page 16


• Giai đoạn 3(từ 26/03 - 16/07): Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên
cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.
Trong giai đoạn này, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6,
đỉnh điểm lên đến 19.700 đồng/USD vào ngày 19/06, cách hơn 2.900 đồng so với mức
trần. Tâm lý hoang mang cộng với động thái đầu cơ của giới buôn ngoại tệ trên thị trường
tự do đẩy USD cùng với giá vàng tăng mạnh lên gần 19 triệu đồng/lượng.
Tỷ giá lên đỉnh ngày 19/06, sau đó giảm dần. Ngày 27/06, NHNN tăng biên độ
USD/VND từ 1% lên 2%.
Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ yếu do tâm lý bất ổn của

doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm ngoại tệ của
giới đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả doanh nghiệp xuất và nhập
khẩu đến hạn cao. Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và
quốc tế.
Nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam bằng việc bán Trái phiếu
chính phủ khi lo ngại về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị
trường thế giới đẩy nhu cầu mua USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ
USD).
Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh
nghiệp xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết

KINH TẾ VĨ MÔ

Page 17


khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng
doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tệ bán lại trên thị trường.
Với những quyết định được coi là cứng rắn và kiên quyết nói trên trong điều hành
CSTT của NHNN đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì của thị trường
tiền tệ và của NHTM. Có thể nói đây là một cú phanh gấp trong quá trình tụt dốc của nền
kinh tế nhằm ngăn chặn vật giá leo thang và lạm phát.
b/. Giai đoạn từ tháng sáu đến cuối năm 2008:
Chính phủ đã có chủ trương giảm tăng trưởng, tập trung chống lạm phát
-Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước
nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng lãi suất cơ
bản đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08),12% (từ 05/11/08)và liên tiếp được
điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008( 11% từ 21/11/08,10% từ
05/12/08,8,5% từ 22/12/08). Lãi suất tái chiết khấu, Lãi suất tái cấp vốn cũng được điều
chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc

được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên
đã tác động mạnh tới thị trường, làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng
trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23%. Tăng trưởng tín dụng đã góp phần chặn đà suy
giảm, ổn định kinh tế vĩ mô.
-Từ tháng sáu đến cuối năm 2008 tình hình tỷ giá chia ra 2 giai đoạn
• Giai đoạn 1(từ 17/07 - 15/10): Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn.
Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng, tỷ giá
giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn quanh
mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 - tháng 11.
Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử,
NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin
trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm.
Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị
trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên
thị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ
khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán ngoại tệ can
thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.
• Giai đoạn 2(từ 16/10 đến nay): tỷ giá USD tăng trở lại.
Tỷ giá USD/VND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998
sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cũng hạn chế, cầu ngoại
tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 7/11/2008, tăng
tới mức 17.440 đồng/USD.
Nguyên nhân: Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước
ngoài đẩy mạnh việc bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ
KINH TẾ VĨ MÔ

Page 18


phiếu (100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao

khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của các
ngân hàng nước ngoài cũng tăng mạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày).
Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập vàng
thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là đồng
tiền thanh toán chính).
Như vậy, năm 2008 là năm hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những
khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới.Trước bối cảnh phức
tạp của kinh tế thế giới và trong nước trong 6 tháng đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đã có những phản ứng kịp thời, sử dụng đồng bộ và quyết liệt về điều hành
chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô.
Các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt để hút tiền từ lưu thông nhưng
vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị
trường. Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của
thị trường ngoại hối và của các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng
có thể gây mất an toàn hệ thống của các tổ chức tín dụng. Đến cuối năm 2008, để chủ
động ngăn chặn suy giảm kinh tế, chính sách tiền tệ thắt chặt được chuyển dần sang nới
lỏng một cách thận trọng. CSTT chưa thể nói là cực chuẩn nhưng có thể nói là thành
công.
Tuy nhiên, do Chính phủ không dự đoán được tình hình khủng hoảng xảy ra nên
việc áp dụng CSTT của NHNN được thực hiện trong bị động và tình hình căng thẳng,
Việc thắt chăt CSTT đột ngột trong giai đoạn đầu sẽ tạo ra sú sốc lớn và gây ra các phản
ứng tiêu cực tức thời của thị trường tiền tệ và của NHTM. Thêm vào đó, sự mâu thuẫn
giữa các mục tiêu trong ngắn hạn sẽ khiến cho nền kinh tế trong ngắn hạn không thể thực
hiện được tất cả các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
3/. Kết quả đạt được trong năm 2008
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng
6,23 so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%, khu
vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%, khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Tốc độ tăng tổng
sản phẩm trong nước năm nay tuy thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục tiêu
kế hoạch điều chỉnh là tăng 7% nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng kinh

tế của nhiều nước suy giảm mà nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc độ tăng tương đối cao như
trên là một cố gắng rất lớn.
- Kiềm chế lạm phát từ đỉnh điểm 3,91%/tháng xuống 1,13% vào tháng 7
và âm vào những tháng cuối năm.
- Sự phối hợp giữa NHNN và toàn bộ hệ thống NH trong việc kiềm chế
lạm phát.
- Sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để giảm lượng tiền thừa là hoàn toàn
đúng xét cả về lý thuyết lẫn thực tiễn.
KINH TẾ VĨ MÔ

Page 19


4/. Giai đoạn cuối năm 2008 và trong năm 2009
- Quý 4 năm 2008, NHNN sử dụng chính sách nới lỏng tiền tệ và công cụ lãi
suấtvẫn là 1 công cụ quan trọng.
- LSCB giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5%/ năm.
- Lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thì lần lượt tăng lên: 3,5%/năm;
5 % / n ă m ; 10%/năm, sau đó giảm nhưng với tốc độ giảm chậm.
- Tín phiếu bắt buộc được thanh toán trước hạn; biên độ tỷ giá được nới lỏng từ
+/-2% lên +/- 3% giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%/năm xuống còn 5%/năm và cácloại
lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ xuống…
* Năm 2009
1.Tình hình kinh tế năm 2009 :
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới
vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị
trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta.
Tình hình kinh tế: Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối
mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác

động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. Nhìn nhận một cách khách
quan có thể thấy, lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước
ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến
tâm lý các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỷ
giá.

Nguồn: Tổng cục thống kê

KINH TẾ VĨ MÔ

Page 20


Sự giảm sút rõ rệt cả về xuất nhập khẩu của nước ta.
2.Các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ năm 2009:
Trước những tác động bất lợi như vậy, NHNN đã thực thi CSTT một cách linh
hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường. Từ đầu năm
2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận
được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu
của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả,
NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11%
xuống 5%.
Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị
trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại
tệ.
- NHNN mở rộng biên độ tỷ giá mua bán USD/VND từ +/-3% lên +/-5%.
- Lãi suất cho vay ngoại tệ giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống 3%/năm kê
từ ngày01/6/2009 không quá lãi suất huy động giảm xuống mức không quá 1,5%/năm
- Bán nguồn ngoại tệ thu được phát hành trái phiếu Chính phủ cho

NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ
sang vay bằng ngoại tệ.
- Áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các
DN và ngưòi dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi
các thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất
cho vay và huy động bằng ngoại tệ ( lãi suất cho vay giảm từ 6 – 6.5%/năm xuống không
quá 1.5%/năm kể từ ngày 01/06/2009).
- Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách
ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá.
3/.Kết quả đạt được năm 2009
Như vậy, có thể nói những khó khăn nhất đã qua, năm 2009 mặc dù phải đối mặt
với rất nhiều thách thức trong quá trình thực thi CSTT, nhưng với sự điều hành linh hoạt,
sự ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình, về cơ bản CSTT đã đạt được mục
tiêu của năm 2009 là kiềm chế lạm phát từ mức 19,98% năm 2008 xuống còn 6,52%, hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế ở mức 5,2% và CSTT đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế
vĩ mô. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và đòi hỏi CSTT của
NHNN phải có phản ứng kịp thời để ngăn chặn
* Năm 2010
1/.Tình hình kinh tế năm 2010
Năm 2010, kinh tế của Việt Nam tiếp tục có sự phục hồi nhanh chóng sau tác
động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Hình 1 cho thấy có cải thiện tốc độ tăng GDP
KINH TẾ VĨ MÔ

Page 21


theo các quý trong năm 2010. Tốc độ tăng GDP quý I đạt 5,83%, quý II là 6,4%, quý III
tăng lên 7,14% và dự đoán quý IV sẽ đạt 7,41%. GDP cả năm 2010 tăng trưởng cao
6,7% nhờ động lực đầu tư (vốn đầu tư toàn xã hội tăng 12,9%), xuất khẩu (25,5%) và tiêu
dùng (tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 24,5%); các cân đối lớn của nền kinh tế

và an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn phục hồi chậm chạp và trong nước gặp phải
nhiều khó khăn, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao như trên là
một thành công. Với kết quả này tốc độ tăng trưởng GDP cả giai đoạn 2006 - 2010 đạt
bình quân 7%/năm và thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 1.160
USD.

2/.Các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ năm 2010 :
Trong năm 2010, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và
thận trọng, để kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng đối với nền
kinh tế, lãi suất và tỷ giá ở mức hợp lý, bảo đảm khả năng an toàn thanh toán của hệ
thống ngân hàng.
Với mục tiêu duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng
kinh tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường
tài chính và kinh tế thế giới, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh lãi suất cơ
bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, tăng lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm,
lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm áp dụng từ 1/12/2009.
* Trong 10 tháng đầu năm, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức
8%/năm, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và giám sát việc thực
hiện các tỷ lệ an toàn của TCTD đã điều tiết lãi suất huy động và cho vay giảm dần theo
chỉ đạo của Chính phủ (đến cuối tháng 10, lãi suất huy động VND bình quân
10,44%/năm, cho vay 13,18%/năm).
KINH TẾ VĨ MÔ

Page 22


* Hai tháng cuối năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái cấp vốn tăng
1%/năm, kết hợp với điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng, quy định trần lãi suất huy
động VND 14%/năm để ổn định thị trường tiền tệ, đã làm tăng lãi suất thị trường và giảm

cầu tín dụng (cuối tháng 12, lãi suất huy động VND bình quân 12,44%/năm, cho vay
14,96%/năm, cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu 12-14%/năm; lãi suất thị trường
nội tệ liên ngân hàng 9,5 - 12%/năm).
Tiếp tục hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay được giải ngân năm 2009 và các
khoản cho vay năm 2010 theo Quyết định số 2072/QĐ-TTg ngày 11/12/2009 và Quyết
định số 2213/QĐ-TTg ngày 31/12/2009; cuối tháng 12, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất
khoảng 95.000 tỷ đồng, trong đó cho vay hỗ trợ lãi suất lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
8.000 tỷ đồng, cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách 28.000 tỷ đồng.
Điều chỉnh tỷ giá mua - bán ngoại tệ của các TCTD tăng 5,52%; thực hiện các
biện pháp ổn định thị trường ngoại tệ, như kết hối ngoại tệ đối với 7 tập đoàn, tổng công
ty nhà nước, quy định trần lãi suất tiền gửi của tổ chức kinh tế bằng USD 1%/năm, bán
ngoại tệ cho nhập khẩu mặt hàng thiết yếu, chỉ đạo các TCTD hạn chế cho vay nhập khẩu
mặt hàng không thiết yếu và không khuyến khích. Thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối
ổn định trong hơn 9 tháng đầu năm; từ tháng 10, tỷ giá thị trường tăng phù hợp với điều
kiện kinh tế vĩ mô.

3/ Kết quả đạt được năm 2010 .
Nhìn chung, thị trường tiền tệ, tín dụng trong năm 2010 tương đối ổn định và diễn
biến phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội.Tính đến 31/12, tăng trưởng tín dụng
ước đạt 29,81%, tổng dư nợ tăng 27,6%; tổng phương tiện thanh toán tăng 25,3% so với
KINH TẾ VĨ MÔ

Page 23


cuối năm 2009. Sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận và các biện pháp điều hành
tiền tệ linh hoạt của NHNN, lãi suất huy động và cho vay VND của các NHTM giảm dần.
Hiện nay, các ngân hàng đã thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND không vượt quá
14%/năm; lãi suất cho vay bình quân 15,27%/năm.
Thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã dần ổn định, nguồn cung ngoại tệ được

cải thiện đáng kể, tỷ giá diễn biến phù hợp với mục tiêu khuyến khích xuất khẩu, góp
phần hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Giá vàng trong nước diễn
biến tương đối sát với giá vàng thế giới, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới đã
được thu hẹp.
*Năm 2011
a. Tình hình kinh tế:
Về những giải pháp chủ yếu tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội năm 2011, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho rằng, nền kinh tế sẽ phải
đối mặt với những khó khăn, thách thức mới, lớn hơn so với dự báo cuối 2010, tiềm ẩn
nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô.
b. Phân tích và bình luận:
"Năm 2011, NHNN sẽ điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng
nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần tăng
trưởng kinh tế." - Đây là một định hướng chiến lược mới, thay cho hỗ trợ tăng trưởng của
chinh sách tiền tệ năm 2010.
Hiện nay: Lãi suất cơ bản 9%; Lãi suất tái chiết khấu 12%; Lãi suất tái cấp vốn 13%.
TGBQLNH ngày 19/4/2011 là 1USD = 20.733VND.
Ngày 8/3/2011, Ngân hàng Nhà nước ban hành Quyết định số 379/QĐ-NHNN về lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử
liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng
Nhà nước đối với các ngân hàng.
Theo quyết định trên, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi
suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và
cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các
ngân hàng là 12,0%/ năm.
Như vậy, đây là lần thứ hai kể từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước tăng một số loại lãi
suất điều hành. Lần trước, ngày 17/2, mức tăng lãi suất tái cấp vốn là từ 9%/năm lên

KINH TẾ VĨ MÔ


Page 24


11%/năm, lần này thì từ 11% lên 12%. Đáng chú ý là trong lần điều chỉnh này, lãi suất
tái chiết khấu được tăng mạnh, từ 7%/năm lên 12%/năm.
Ngày 9/4/2011, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số
750/QĐ-NHNN điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 4% lên 6% đối với
các tổ chức tín dụng. Quyết định này có hiệu lực kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng
5/2011. Tuy nhiên, thực tế sau 3 tháng đầu năm 2011, tăng trưởng tín dụng vẫn còn cao,
lạm phát chưa có dấu hiệu giảm.
Con số tăng trưởng tín dụng quý I/2011 tính đến gần cuối tháng 3 khoảng 4,3% và
trong những ngày cuối tháng 3 các ngân hàng hầu như cũng ít giải ngân nên khó có thể
vượt ngưỡng 5%. Do vậy, biện pháp tăng dự trữ bắt buộc khó có thể xảy ra, nhưng với
việc tăng các mức lãi suất chỉ đạo như vừa qua, và nếu NHNN tiếp tục tăng các loại lãi
suất này, chắc chắn sẽ tác động trực tiếp tới lãi suất huy động và cho vay trên thị trường
của các ngân hàng.
Một trong những giải pháp chủ yếu yêu cầu triển khai thực hiện là phải áp dụng chính
sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt phải tiến tới kiềm chế lạm phát cao, góp phần
ổn định giá trị tiền đồng Việt Nam, tăng dần dự trữ ngoại hối. Nhanh chóng xây dựng các
cơ chế, chính sách tăng cường quản lý thị trường ngoại tệ (đô la) và vàng, khắc phục tình
trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép, không gây trở ngại cho việc thu hút các nguồn
ngoại tệ từ nước ngoài về nước, tổ chức lại thị trường kinh doanh vàng. Tăng cường quản
lý hoạt động các ngân hàng thương mại, tránh rủi ro về nợ xấu, bảo đảm tính thanh
khoản; khắc phục những bất hợp lý về lợi nhuận và thu nhập trong lĩnh vực này. Kiểm
soát tỷ giá biến động thấp hơn mức lạm phát kỳ vọng, tiếp tục thực hiện các giải pháp
tăng cung và giảm cầu ngoại tệ như năm 2010, đi đôi với chống đầu cơ và giảm giữ ngoại
tệ. Dành một phần lượng tiền cung ứng để cho vay tái cấp vốn với lãi suất hợp lý, hỗ trợ
TCTD mở rộng tín dụng ngắn, trung và dài hạn đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn,
xuất khẩu. NHNN thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua lãi suất.


KINH TẾ VĨ MÔ

Page 25


×