Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Các công cụ tài chính trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở việt nam thực trạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.59 KB, 35 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Lời mở đầu

Trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH hiện hay, việc lực chọn phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng XHCN là một bước đi đúng đắn. Tuy nhiên, để đảm
bảo tránh được nguy cơ chệch hướng XHCN thì Nhà nước cần phát huy tốt vai
trò của mình trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Một trong những công cụ
hiệu quả của Nhà nước đó là công cụ tài chính.
Trong báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn Nga các Ban Tài chính các XôViết ngày 18/5/1918, V. I. Lênin đã phát biểu: “Chúng ta phải thực hiện bằng
được những cải cách vững chắc về mặt tài chính. Chúng ta nên nhớ rằng nếu
chính sách tài chính của chúng ta không thu được thắng lợi thì mọi cách giải
quyết của chúng ta sẽ thất bại”.
Đồng chí Lê Duẩn, nguyên Bí thư Đảng uỷ Đảng Cộng sản Việt Nam,
trong tác phẩm Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì CNXH, tiến
lên dành những thắng lợi mới, cũng đã khẳng định: “Tài chính, ngân hàng là
trung tâm phân phối thu nhập quốc dân, trung tâm thanh toán và trung tâm thần
kinh của toàn bộ nền kinh tế quốc dân”.
Việc lựa chọn đề tài Tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam được xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn của đề án trong sự phát
triển kinh tế – xã hội hiện nay. Tuy nhiên, do những hạn chế về mặt thời lượng
và trình độ, đề án mới chỉ dừng lại phân tích các khía cạnh bản chất, chức năng
của tài chính, vai trò của các công cụ tài chính trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Cần thiết phải có những nghiên
cứu sâu hơn để đề án mang tính khả thi.
Trong quá trình thực hiện đề án, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình
của thầy giáo GS – TS Phạm Quang Phan .Em xin chân thành cảm ơn thầy đã
giúp em hoàn thành tốt đề án này!



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

I. Tiền đề ra đời và tồn tại của tài chính
Ngày nay, tài chính đã trở thành một thuật ngữ quen thuộc không chỉ với
các nhà hoạch định chính sách mà với từng cá nhân. Chính sách thuế hay các dự
án hỗ trợ đầu tư từ ngân sách , nâng cấp đường xá, xây dựng trường học... đều
nằm trong phạm vi của lĩnh vực tài chính nhà nước. Mẹ của bạn là người quản lý
tài chính tốt trong gia đình bởi vì bà luôn ra những quyết định chi tiêu đem lại
hiệu quả cao nhất... Vậy phải chăng, khái niệm tài chính gắn liền với sự xuất
hiện của xã hội loài người ?
Lịch sử xã hội của loài người đã cho thấy, vào cuối thời kỳ công xã nguyên
thuỷ, phân công lao động xã hội đã bắt đầu phát triển làm xuất hiện chế độ tư
hữu, kết quả là sản xuất hàng hoá ra đời và kéo theo tiền tệ đã xuất hiện như một
đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội. Chính trong điều kiện của nền kinh
tế hàng hoá với việc sử dụng tiền tệ đã làm nảy sinh phạm trù tài chính.
Bên cạnh đó, khi chế độ tư hữu xuất hiện thì xã hội loài người cũng được
phân chia thành giai cấp và có sự đấu tranh giai cấp. Trong điều kiện đó, nhà
nước đã xuất hiện và tác động chủ quan của nhà nước đã thúc đẩy sự phát triển
của kinh tế hàng hoá - tền tệ. Nhà nước quản lý việc phát hàng và lưu thông tiền
tệ, sử dụng mạnh mẽ các hình thức tiền tệ trong việc phân phối các sảm phẩm xã
hội và thu nhập quốc dân, lập ra ngân sách nhà nước để phục vụ cho nhiệm vụ
của mình, hình thành nên lĩnh vực tài chính nhà nước. Một nhà nước nhất định
trong từng giai đoạn có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất
hàng hoá - tiền tệ và do đó thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động tài chính thông qua
cơ chế quản lý kinh tế. Tuy nhiên nhìn chung nó luôn đi theo xu hướng phát
triển sản xuất hàng hoá - tiền tệ và sử dụng mạnh mẽ hệ quả tất yếu của nó là tài
chính. Vì thế có trể coi tiền đề quyết định sự tồn tại và phát triển của tài chính là
sản xuất hàng hoá và tiền tệ.
Ở Việt Nam, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN đang hội tụ và phát triển mạnh mẽ yếu tố quyết

định sự tồn tại và phát triển của tài chính. Trong điều kiện hiện nay, để có thể sử
dụng đúng đắn phạm trù tài chính thì nhất thiết phải xác định được nội dung của
nó.

II. Bản chất của tài chính
Trên bề mặt của hiện tượng xã hội, tài chính được cảm nhận như nguồn tài
chính đại diện cho những sức mua nhất định của các chủ thể trong xã hội như
dân cư, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và nhà nước. Khi nhà nước trợ cấp
cho các gia đình chính sách, khi dân cư đầu tư vào thị trường chứng khoán…,
tiền tệ xuất hiện không phải trước hết với chức năng thước đo giá trị , mà trước
hết với chức năng phương tiện thanh toán chi trả và phương tiện cất trữ. Khi ấy,
tiền tệ xuất hiện đại diện cho một lượng giá trị, đặc trưng cho một thế năng sức
mua nhất định – nguồn tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể trong
xã hội khi đã nắm trong tay những nguồn lực tài chính nhất định là đã nắm trong
tay một sức mua để có thể nắm được những nguồn vật lực hay sử dụng được


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

những nguồn nhân lực nhất định, để phục vụ cho mục đích tích luỹ hay tiêu
dùng.
Như vậy, một yếu tố cơ bản trong khái niệm tài chính là nguồn tài chính.
Nguồn tài chính là tiền tệ đang vận động độc lập với chức năng chủ yếu là
phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trình phân phối để tạo
lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ. Sự vận động của nguồn tài chính phản ánh sự
vận động của những lượng giá trị nhất định. Những lượng giá trị này phản ánh
những bộ phận của cải của xã hội dưới hình thức tiền tệ đã hình thành một lĩnh
vực đặc biệt – lĩnh vực tài chính.
Đằng sau mặt trực quan, tài chính là các quan hệ kinh tế trong phân phối
của cải của xã hội được thực hiện dưới hình thức giá trị bằng con đường tạo lập

và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng thể hiện tính mục đích của ngồn tài chính, nói
cách khác, nó là một lượng nhất định nguồn lực tài chính được dành cho một
mục đích nhất định. Các quỹ tiền tệ vận động thường xuyên, tức là chúng luôn
luôn được tạo lập (hoặc bổ sung) và được sử dụng.
Có thể nói, sự tạo lập các quỹ tiền tệ đặc trưng cho sự tích góp của các
nguồn lực tài chính ở các chủ thể trong xã hội. Sự tích góp đó phản ánh kết quả
của các quá trình phân phối, mà các quá trình đó chịu sự chi phối của quyền sở
hữu – một yếu tố cơ bản của quan hệ sản xuất rất đa dạng trong xã hội. Việc sử
dụng các quỹ tiền tệ không những phụ thuộc vào quyền sở hữu mà còn phụ
thuộc vào tính mục đích của quỹ tiền tệ, quy ước, nguyên tắc sử dụng quỹ, ý chí
chủ quan của người sở hữu trong việc phân phối.
Như vậy, những hiện tượng bên ngoài, sự vận động của các nguồn tài
chính, sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ là thể hiện rõ các quan hệ phân phối
dưới hình thức giá trị – một bộ phận của quan hệ kinh tế trong xã hội. Cũng như
các quan hệ xã hội trong phân phối dưới một thể chế chính trị nhất định, sự vận
động của các nguồn lực tài chính luôn thể hiện rõ việc giải quyết các quan hệ về
lợi ích kinh tế thông qua phân phối bị chi phối bởi các quan hệ sở hữu trong kinh
tế hoặc các quan hệ chính trị, xã hội.
Từ việc phân tích các khía cạnh bản chất của tài chính, có thể định nghĩa
tài chính như sau: tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế nhất định biểu hiện
dưới hình thức tiền tệ, phát sinh trong quá trình phân phối để hình thành và sử
dụng các quỹ tiền tệ, nhằm phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân.
Tài chính được đặc trưng bằng sự vận động tương đối của tiền tệ nhưng
không thể đồng nhất hai khái niệm này. Tiền tệ, về bản chất, là vật ngang giá
chung trong trao đổi hàng hoá với những chức năng thước đo giá trị, phương tiện
lưu thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất trữ. Còn tài chính là phương
thức vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh
toán và phương tiện cất trữ với đặc trưng riêng có của nó là tạo lập và sử dụng

các quỹ tiền tệ khác nhau cho các mục đích tích luỹ và tiêu dùng khác nhau.


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Trong điều kiện kinh tế thị trường, tài chính cũng chịu sự chi phối của các quy
luật của thị trường và có liên hệ chặt chẽ với thị trường tài chính.
Giá cả cũng là một phạm trù liên quan đến phân phối dưới hình thức giá trị.
Nhưng sự phân phối dưới hình thức giá trị thông qua giá cả được tiến hành
thông qua sự chênh lệch giữa giá trị và gái cả trong trao đổi hàng hoá. Khi trao
đổi không ngang giá thì xảy ra sự chuyển dịch giá trị từ chủ thể này sang chủ thể
khác nhưng gắn liền với hoạt động trao đổi. Còn tài chính là phạm trù phân phối
phản ánh sự chuyển dịch giá trị – sự vận động độc lập tương đối của giá trị – qua
việc tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ (kể cả thực hiện việc đó thông qua thị
trường tài chính).
Tiền lương cũng là một phạm trù phân phối. Ở nước ta, tiền lương là một
lượng tiền tệ được trả cho người lao động để bù đắp lại hao phí lao động đã bỏ
ra, được tính tương đương với giá trị tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất sức lao
động đã hao phí.
Tiền lương là một hình thức phân phối gắn liền với quá trình lao động theo
nguyên tắc phân phối theo lao động. Tiền lương muốn được thực hiện, tức là trả
lương, phải thông qua tài chính – qua sự vận động độc lập của giá trị với sự hình
thành quỹ tiền lương trong các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội hay cơ quan
nhà nước. Tiền lương đã được trả cho người lao động với biểu hiện là một số
tiền nhất định cũng là một bộ phận của nguồn tài chính hình thành nên ngân sách
gia đình, tài chính dân cư. Vì thế tiền lương và tài chính là hai phạm trù gắn bó
chặt chẽ với nhau nhưng có sự khác nhau. Trong lĩnh vực bù đắp sức lao động,
tài chính là phương tiện để thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
Bản chất của tài chính còn được thể hiện rõ hơn qua các chức năng của nó.


III. Chức năng của tài chính
Nói đến chức năng của tài chính là nói đến khả năng khách quan phát huy
tác dụng xã hội của nó. Trong đời sống xã hội, tài chính vốn có hai chức năng –
phân phối và giám đốc.
1. Chức năng phân phối của tài chính
Nhờ vào chức năng phân phối mà các nguồn lực đại diện cho những bộ
phận của cải xã hội được đưa vào những mục đích sử dụng khác nhau, đảm bảo
những nhu cầu khác nhau và những lợi ích khác nhau của đời sống xã hội.
Đối tượng phân phối ở đây là của cải xã hội dưới hình thức giá trị, là các
nguồn tài chính, là tiền tệ đang vận động một cách độc lập với tư cách phương
tiện thanh toán và phương tiện cất trữ trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ
tiền tệ. Chủ thể phân phối bao gồm: nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia định hay cá
nhân dân cư…
Việc phân phối các nguồn tài chính bị chi phối bởi quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng của các chủ thể đối với các nguồn tài chính trong lĩnh vực kinh
tế, hoặc bởi các quan hệ xã hội như quyền lực chính trị của nhà nước, quan hệ xã
hội trong các tổ chức xã hội, trong cộng đồng dân tộc và quốc tế.


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Kết quả của quá trình phân phối bằng việc sử dụng công cụ tài chính là sự
hình thành và sử dụng những thế năng về sức mua nhất định dưới dạng các quỹ
tiền tệ dành cho một mục đích nhất định – tích luỹ hoặc tiêu dùng ở các chủ thể
trong xã hội.
Phân phối của tài chính mang đặc điểm chủ yếu sau:
Một là, phân phối tài chính luôn luôn gắn liền với sự hình thành và sử dụng
các quỹ tiền tệ nhất định.
Hai là, phân phối tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá
trị, nó không kèm theo sự thay đổi hình thái giá trị. Thông qua chức năng phân

phối của tài chính, các quỹ tiền tệ nhất định được hình thành hoặc sử dụng,
nhưng chính trong các quá trình đó, bản chất của tài chính – phân phối dưới hình
thức giá trị – vẫn không thay đổi. Trong mối quan hệ kế tiếp giữa lĩnh vực phân
phối và trao đổi hay phân phối và tiêu dùng trong quá trình tái sản xuất xã hội,
sự phân phối diễn ra ở chính điểm tiếp giáp của các lĩnh vực đó. Đó là khi việc
thanh toán tiền mua, bán hàng hoá hay dịch vụ được thực hiện và việc đó biểu lộ
việc sử dụng hay hình thành các quỹ tiền tệ khác nhau.
Ba là, phân phối của tài chính bao hàm cả quá trình phân phối lần đầu (giữa
những người tạo ra sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân) và quá trình phân phối
lại, trong đó bao trùm rộng lớn có tính chất đặc trưng là phân phối lại.
Phân phối lần đầu là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất
cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải vật chất hay thực
hiện các dịch vụ. Phân phối lần đầu được thực hiện trước hết và chủ yếu trong
các khâu cơ sở của hệ thông tài chính. Trong phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm
xã hội trong khu vực sản xuất sẽ hình thành các bộ phận của các quỹ tiền tệ như
sau: Một phần để bù đắp chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất.
Phần này hình thành quỹ khấu hao tài sản cố định và quỹ bù đắp vốn lưu động
đã ứng ra. Một phần để trả lương cho người lao động. Một phần góp vào hình
thành các quỹ bảo hiểm. Một phần là thu nhập cho các chủ sở hữu về vốn vay
hay nguồn tài nguyên.
Như vậy, qua phân phối lần đầu sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân
dưới hình thức giá trị chỉ mới hình thành nên những phần thu nhập cơ bản. Dừng
lại ở đó chưa thể đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của toàn xã hội. Do đó nảy sinh nhu
cầu khách quan của xã hội đối với phân phối lại.
Phân phối lại là tiếp tục phân phối những thu nhập cơ bản, sử dụng những
quỹ tiền tệ chứa đựng những nguồn lực tài chính đã được hình hành trong phân
phối lần đầu ra phạm vi xã hội rộng lớn hơn hoặc theo những chi tiết cụ thể hơn
trong mục đích của các quỹ tiền tệ. Sự chuyên môn hoá và phân công lao động
xã hội trong khu vực sản xuất vật chất và sự tồn tại và phát triển của khu vực
không sản xuất vật chất đã ràng buộc quy mô rộng lớn của quá trình phân phối

lại của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Bản thân quá trình sử dụng các quỹ tiền
tệ đã đặc trưng hoàn toàn là quá trình phân phối lại,. Vì thế tính chất phân phối
lại là tích chất chủ yếu bao chùm của chức năng phân phối của tài chính.
2. Chức năng giám đốc của tài chính


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Đó là khả năng khách quan để sử dụng tài chính làm công cụ kiểm tra ,
giám đốc bằng đồng tiền với việc sử dụng chức năng thước đo giá trị và phương
tiện thanh toán của tiền tệ. Khả năng này biểu hiện ở chỗ, trong quá trình thực
hiện chức năng phân phối, sự kiểm tra có thể diễn ra dưới dạng: xem xét tính cần
thiết, quy mô của việc phân phối các nguồn tài chính, hiệu quả của việc phân
phối qua các quỹ tiền tệ.
Chủ thể của giám đốc cũng là các chủ thể phân phối. Đối tượng kiểm tra là
các quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, các quá trình vân động của các
nguồn tài chính. Kết quả của kiểm tra là phát hiện và giúp cho việc hiệu chỉnh
các quá trình vận động của các nguồn tài chính, quá trình phân phối của cải dưới
hình thức giá trị theo tính mục tiêu được đặt ra theo yêu cầu hiệu quả của việc sử
dụng các quỹ tiền tệ.
Chức năng giám dốc của tài chính luôn gắn liền với chức năng phân phối.
Ngay trong quá trình phân phối bằng việc sử dụng tài chính đã luôn có sự cần
thiết và khả năng kiểm tra sát sao các quá trình đó.
Chức năng giám đốc của tài chính có những đặc điểm sau:
Một là, giám đốc tài chính như một chức năng của tài chính, không đồng
nhất với mọi khả năng giám đốc bằng đồng tiền khác. Giám đốc tài chính là khả
năng giám đốc khi sử dụng tài chính như một công cụ phân phối.
Hai là, trong điều kiện kinh tế thị trường, sự vận động tương đối độc lập
của các nguồn tài chính luôn là điều kiện tiền đề cho các hoạt động kinh tế xã
hội. Do đó, giám đốc tài chính là một khả năng tính toán toàn diện, thường

xuyên, liên tục, rộng rãi, kịp thời trong khi tài chính được con người sử dụng
như một công cụ, biện pháp kinh tế.
Hai chức năng kể trên của tài chính gắn bó chặt chẽ và bổ sung cho nhau.
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước,
để thực hiện đầy đủ chức năng của tài chính thì cần thiết phải thiết lập một mặt
bằng giá thống nhất, hệ thống báo biểu khoa học và một hệ thống pháp luật
thanh tra hoàn chỉnh.

IV. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
1. Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN
Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển
nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước tới nay nó tồn tại và phát triển chủ
yếu dưới CNTB, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của CNTB. CNTB
đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát
triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc
đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị
trường TBCN đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các
nước tư bản phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường TBCN không phải là vạn
năng. Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất
của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của CNTB càng bộc lộ sâu
sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính bất công và bất
ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn
thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, nó còn ràng buộc các nước kém
phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm – ngoại

vi”, Có thể nói, nền kinh tế thị trường TBCN toàn cầu ngay nay là sự thống trị
của một số ít nước lớn hay một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các
nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo.
Chính vì thế mà, như C. Mác đã phân tích và dự báo, CNTB tất yếu sẽ phải
nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, nhân
đạo hơn. CNTB mặ dù đã và đang tự điều chỉnh, tự thích nghi bằng cách phát
triển “nền kinh tế thị trường hiện đại”, “nền kinh tế thị trường xã hội”, tạo ra
“chủ nghĩa tư bản xã hội” “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, “nhà nước phúc lợi
chung”…, tức là phải có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước và cũng phải chăm
lo vấn đề xã hội nhiều hơn, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, CNTB
không thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được phần nào
mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trường TBCN hiện đại đang ngày càng thể
hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hoá để chuyển sang giai đoạn hậu công
nhiệp, thao xu hướng xã hội hoá. Đây là tất yếu khách quan, là quy luật phát
triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát
không thể dừng lại ở kinh tế thị trường TBCN.
Mô hình CNXH kiểu Xô-Viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế
muốn sớm khắc phục những khuyết tật của CNTB, muốn nhanh chóng xây dựng
một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh hơn, hiện đại
hơn CNTB. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt 70 năm tồn tại,
CNXH thực hiện ở Liên Xô đã đại được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn
bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ là do nôn
nóng, làm trái quy luật (muốn xoá bỏ ngay kinh tế hàng hoá, áp dụng ngay cơ
chế kinh tế phi thị trường), không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết
cho nên rốt cuộc đã không thành công.
Thực ra khi mới vận dụng học thuyết Mác vào xây dựng CNXH ở nước
Nga sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lê-nin cúng đã từng chủ trương không áp
dụng mô hình kinh tế thị trường mà thực hiện “chính sách cộng sản thời chiến”.
Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn , Người đã phát hiện ra sai lầm, khắc phục
nóng vội bằng cách đưa ra thực hiện “chính sách kinh tế mới” (NEP) mà nội

dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển kinh tế hàng hoá , chấp nhận ở
mức độ nhất định cơ chế thị trường. Theo Lê-nin, để xây dựng CNXH ở một
nước còn tương đối lạc hậu về kinh tế như nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ
hàng hoá - tiền tệ và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đặc biệt là sử
dụng CNTB Nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất. Tuy chỉ thực hiện trong
thời gian ngắn nhưng NEP đã đem lại những kết quả tích cực cho nước Nga: hồi
phục và phát triển nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế bắt đầu
hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng, tư tưởng của Lê-nin về xây
dựng CHXH với chính sách NEP đã không được tiếp tực thực hiện sau khi
người qua đời. Sự thành công và phát triển mạnh mẽ suốt một thời gian dài của


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Liên Xô trong công cuộc công nghiệp hoá đất nước bằng mô hình kinh tế dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, kế hoạch hoá tập trung cao độ, phân
phối thu nhập mang tính bình quân, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường bị loại
bỏ đã có sức hấp dẫn lớn đối với nhân loại và làm cho giới lý luận kinh tế các
nước XHCN và các nước đang phát triển tuyệt đối hoá, biến thành công thức để
áp dụng cho tất cả các nước đi theo con đường XHCN.
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế khuyết tật của mô
hình kinh tế Xô-viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự yếu kém trong công tác lãnh
đạo, quản lý lúc bấy giờ làm cho công cuộc xây dựng CNXH ở Liên Xô và
Đông Âu rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Một số người lãnh đạo chủ chốt
của Đảng và nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình bằng công cuộc
cải cách, cải tổ, nhưng với một “tư duy chính trị mới”, họ đã phạm sai lầm
nghiêm trọng cực đoan, phiến diện (ở đây chưa nói tới sự phản bội lý tưởng
XHCN của họ và sự phá hoại thâm hiểm của các thế lực thù địch), dẫn tới sự tan
rã của Liên Xôvà sự sụp đổ của hệ thống XHCN thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô
và các nước XHCN khác ở Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu những năm 90

của thế kỷ XX đã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hình kinh tế cứng nhắc phi
thị trường, mặc dù những khuyết tật đó không phải là nguyên nhân tất yếu dẫn
đến sự sụp đổ.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội
còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên CNXH lầ mục tiêu lý tưởng
của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng
liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên CNXH bằng cách nào? Đó là một
câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời
gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình CNXH kiểu
Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này
đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ
đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm;
và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa
của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức
về CNXH không đúng với thực tiễn Việt Nam.
Trên cơ sơ nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam (12/1986) đã
đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nướcnhằm thực hiện có hiệu quả hơn công
cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đường,
phương pháp xây dựng CNXH, đặc biệt là quan niệm công nghiệp hoá XHCN
trong thời kỳ quá độ, về kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất
hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, và
khẳng định chuyển hẳn sang hoạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù
hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện
và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đại hội
VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng
Cộng Sản Việt Nam về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đó là



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng rất
gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm.
Hội nghị Trung ương 6 (3/1989), khoá VI, phát triển thêm một bước, đưa
ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần
đi lên CNXH, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược
lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH”.
Đến Đại hội VII(6/1991), Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ
trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên
CNXH của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng XNCH, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước”. Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng:
“Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuôc xây dựng CNXH
và cả khi CNXH đã được xây dựng”. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế
hàng hoá, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến
Đại hội IX của Đảng (4/2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị
trường định hướng XHCN”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng
quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Đây là kết quả sau
nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về tư
duy lý luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
2.Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam
Lựa Chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải là sự
gán ghép chủ quan giữa “kinh tế thị trường” và “CNXH”, mà là sự nắm bắt và
vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày

nay. Đảng Cộng Sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của
thời đại và sự khái quát, đúc rút kinh nghiệm Phát triển kinh tế thị trường thế
giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam và ở Trung Quốc để
đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm sử
dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên CNXH. Đây
là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển kinh tế thị trường.
Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, còn kinh tế thị trường định
hướng XHCN là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm
cụ thể của Việt Nam.
Nói kinh tế thị trường XHCN có nghĩa đây không phải là kinh tế thị trường
tự do theo kiểu TBCN, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập
trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN, bởi vì như
đã nói ở trên, Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vừa có vừa
chưa có đầy đủ các yếu tố của CNXH.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự tiếp thu
có chọn lọc thành tựu của văm minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh
tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất, xã hội hoá lao động, cải tiến


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

kỹ thuật – công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp
phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời phải có
những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường ,
như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh khốc liệt, bóc lột và phân hoá
giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm đến các vấn đề xã hội. Đây cũng là sự lựa chọn
tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác – Lênin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam .
Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ rõ: kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức vừa tuân theo những quy luật của

kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc
và bản chất của CNXH, thể hiện ở cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân
phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước nhăm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xãhội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng
sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, nâng cao đời
sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đặígn liền với xây dựng quan
hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành lực lượng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Nhà
nước XHCN quản lý kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách,
pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước, đồng
thời sử dụng các cơ chế thị trường áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp
quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sức sản xuất, giải phóng sức sản
xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn
và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục,
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân
trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của
đất nước.
Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức
kinh tế xã hội của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế

còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới xã hội mới –
xã hội XHCN. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước XHCN, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ tốt nhất lợi
ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về sự phù hợp
giữa tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH ở Việt Nam.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN không phải đơn
giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh
tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển sang
nền kinh tế hiện đại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên CNXH. Đây là
sự lựa chọn phù hợp với quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của
thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này giảm thiểu được
những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới CNXH trên cơ sở
được ưu thế cũng như hạn chế được khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị
trường. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN là kiểu tổ chức
kinh tế đặc biệt, vừa tuân theo những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường, vừa đảm bảo tính định hướng XHCN. Chính tính chất, đắc trưng cơ bản
này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và
con đường đạt tới mục tiêu, là sử dụng kinh tế thị trường, nâng cao hiệu quả và
hiệu lực điều tiết của Nhà nước XHCN, phát triển khoa hoc và công nghệ, phát
triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá và phát triển rút ngắn để trong khoảng thời gian không dài có
thể khắc phục được tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công

nghiệp theo hướng hiện đại.

V. Vai trò của tài chính trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị
trường
Xuất phát từ tích chất và đặc điểm của tài chính là vừa gắn liền với tích
chất và đặc điểm của Nhà nước lại vừa nảy sinh từ kinh tế hàng hoá nên trong
điều hàng vĩ mô, nó có hai vai trò cơ bản:
1. Tài chính là công cụ trọng yếu để điều hành vĩ mô của Nhà nước
Trước hết Nhà nước thông qua quan hệ tài chính để xây dựng một chính
sách tài chính quốc gia có tính chiến lược thể hiện ở các mặt sau:
Một là, Thông qua các quan hệ tài chính cho phép để tạo vốn, huy động
vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả các nguồn tài nguyên và giá trị tài sản
quốc gia. Thông qua đầu tư của tài chính nhằm giữ thế cân bằng động cho toàn
bộ nền kinh tế. Thông qua công ty di chuyển và mới ra đời tạo động lực cạnh
tranh lành mạnh trong nền kinh tế. Nhà nước vừa tài trợ cho các công ty, xí
nghiệp…Mặt khác thông qua đầu tư tài chính mà Nhà nước góp phần làm cho
cạnh tranh luôn sống động và có tác dụng tích cực.
Hai là, Thông qua chính sách tài chính quốc gia như tính ổn định tiền tệ,
tính sinh lãi của các bất động sản, của vốn nhàn rỗi, của các vị trí lợi thế so
sánh…mà làm cho mọi người dân có ý thức bảo vệ, sử dụng và đưa nhanh các
tài sản đó vào kinh doanh. Như vây, nhờ chính sách sinh lợi của tài chính mà


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

biến bất động sản thành vốn kinh doanh, biến tiền nằm im thành tiền kinh doanh,
các lợi thế so sánh trở thành lực lượng kinh doanh, một số tư liệu sinh hoạt trở
thành vốn kinh doanh…
Ba là, Tài chính góp phần điều hành thực hiện muc tiêu: tiết kiệm, tích luỹ
tưng đầu tư đi đến tăng việc làm chống thất nghiệp và góp phần tăng thu nhập,

tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, tài chính có vai trò tích cực trong điều hành mục tiêu chống lạm
phát.
2. Vai trò tài chính có trọng lượng trong điều hành cơ chế thị trường đi
theo các mục tiêu kinh tế xã hội đã được xác định
Tài chính vừa là công cụ để góp phần điều hành kinh tế vĩ mô, vừa là lĩnh
vực kinh tế hoạt động theo các yêu cầu của kinh tế. Trong kinh tế thị trường thì
tài chính vừa là người mua có trọng lượng, vừa là người bán có vai trò quyết
định điều hành thị trường để điều tiết vĩ mô. Chẳng hạn, Nhà nước trưng mua
thóc để tăng dự trữ quốc gia nhằm hai mục đích: một mặt, Nhà nước là người
mua chủ yếu của nông dân để giữ giá nông sản, bảo vệ lợi ích cho nông dân; mặt
khác, là người bán lương thực chủ yếu để ổn định thị trường, chặn đứng những
cơn sốt gạo…
Qua phân tích trên đây có thể đi đến kết luận tài chính có vị trí hai mặt: vừa
là công cụ trọng yếu để Nhà nước điều hành vĩ mô có hiệu quả; vừa là sức mạnh
với các quỹ tiền tệ sinh lời, hoạt động theo quy luật thông qua ngân sách nhà
nước, thuế, bảo hiểm, kho bạc…với tư cách người mua , người bán trong thị
trường để thực hiện kiểm kê, kiểm soát bằng đồng tiền.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay,vị trí đó gắn phải với điều kiện là
Nhà nước và tổ chức tài chính có năng lực thực sự về các mặt:
Thứ nhất, có nhận thức hiểu biết sâu về kinh tế thị trường, cơ chế thị
trường, về sức mạnh của đồng tiền, tiền sinh lợi, tiền giữ được chữ tín, tiền để
Chính phủ chi tiêu, tiền để trợ giúp người nghèo, …chứ không phải là hiện vật,
sản xuất vật phẩm cụ thể.
Thứ hai, có thực lực biểu hiện: có khả năng thu, có khả năng chi, có khả
năng vay nợ và trả nợ…có khả năng dự trữ, sau cùng là một chính sách tài chính
quốc gia ổn định có lòng tin của dân chúng, dân chúng tin vào đồng tiền của
Chính phủ, dân chúng tin tín phiếu kho bác, dân chúng tin vào sự bảo hiểm của
Nhà nước…Đó chính là vị trí to lớn của tài chính để thăng bằng ngân sách.
Thứ ba, thực lực được biểu hiện ở khả năng, trình độ người cán bộ tài

chính, tổ chức tài chính tinh gọn, xã hội vừa tin, vừa sợ, vừa kính nể.

VI. Các công cụ tài chính trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp
1. Ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nước là một trong những công cụ tài chính có ý nghĩa hết
sức quan trọng trong điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên muốn sử dụng tốt


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

công cụ này, cần thiết phải có nhận thức đúng đắn về các vấn đề có liên quan
đến Ngân sách, khái niệm về Ngân sách và các yêu cầu đổi mới Ngân sách trong
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
a. Khái niệm về Ngân sách và Ngân sách Nhà nước
Xung quanh khái niệm Ngân sách có rất nhiều quan điểm và ý kiến nhưng
phần lớn các quan điểm và ý kiến đều xoay quanh nội dung: Ngân sách là bảng
liệt kê, trong đó dự kiến cho phép thực hiên các khoản thu, chi bằng tiền của một
chủ thể nào đó; Ngân sách tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định, thường
là một năm.
Như vậy có thể hiểu Ngân sách Nhà nước là dự toán thu chi bằng tiền của
Nhà nước trong khoảng thời gian là một năm. Những khoản thu, chi Ngân sách
Nhà nước khác với bất kỳ hình thức thu, chi của các chủ thể khác. Một mặt Nhà
nước dựa vào quyền lực của mình để huy động đóng góp của xã hội đảm bảo hài
hoà lợi ích kinh tế của Nhà nước và các thành viên trong xã hội. Nếu Nhà nước
huy động quá cao thì sản xuất đình trệ, nếu thấp thì không đáp ứng được nhu
cầu về tài chính để thực hiện chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế xã hội
đã được giao phó. Các khoản thu, chi do Nhà nước ban hành được thực hiện
bằng pháp luật và do luật định. Như vậy mội cơ chế kinh tế có một nét đặc thù
riêng từ đó ảnh hưởng và tác động của nó tới cơ chế, chính sách thu, chi Ngân

sách cũng khác nhau.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, Nhà nước ta cần sử dụng Ngân
sách Nhà nước để tạo hành lang và môi trường cho sự phát triển kinh tế - xã hội:
duy trì bộ máy quản lý Nhà nước, tổ chức an ninh, quốc phòng, ngoại giao, xây
dựng kết cấu hạ tầng cho kinh tế – xã hội (đường giao thông, liên lạc, giáo dục
phổ cập, đào tạo cán bộ) cũng như giải quyết một số vấn đề xã hội…
b. Thực trạng NSNN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi
xướng, NSNN đã có những chuyển biến tích cực, xứng đang là một khâu tài
chính chủ đạo trong hệ thống tài chính, đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy
Nhà nước và là một trong những công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Những
thành tựu đạt được của NSNN thể hiện chủ yếu như sau:
Do có sự tăng trưởng kinh tế và đổi mới chính sách thuế, chúng ta đã
chuyển từ một ngân sách chủ yếu dựa vào ngoại viện, thu trong nước không đủ
chi thường xuyên; tiến tới thu trong nước đã đảm bảo chi thường xuyên và có
tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển, hỗ trợ dắc lực
cho mục tiêu chống lạm phát.
Vốn đầu tư từ NSNN đã chú trọng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ
cho các ngành kinh tế mũi nhọn, then chốt; phát triển các khu công nghiệp, khu
chế xuất, thực hiện các chương trình mục tiêu, từng bước giải quyết hiệu quả các
vấn đề xã hội.
Chi NSNN từng bước được cơ cấu lại theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, xoá
bao cấp, tránh dàn trải trong chi tiêu, đáp ứng các nhu cầu xoá đói, giảm nghèo,
y tế, giáo dục, củng cố an ninh quốc phòng và giũ gìn trật tự, an toàn xã hội.


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Những thành công trong quản lý thu, chi ngân sách trực tiếp hỗ trợ cho
việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Luật NSNN đã được ban hành và thực hiện

khá tốt đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu đúng, thu đủ và kịp thời các nguồn
thu. Việc chi NSNN cũng được kiểm tra, kiểm soát khá chặt chẽ. Nhà nước tiếp
tục thực hiện nguyên tắc cân đối NSNN theo hướng thu từ thuế và phí phải lớn
hơn chi thường xuyên, do đó có điều kiện tích luỹ cho đầu tư phát triển, dành chi
đầu tư lớn hơn chi thường xuyên và chi NSNN. Việc bội chi NSNN được kiềm
chế trong phạm vi Quốc hội cho phép, góp phầnkích thích tăng trưởng kinh tế.
Quan hệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đã đựoc xử lý
theo hướng tăng quyền chủ động của ngân sách địa phương. Tập trung hoàn
thiện hệ thống thuế thông qua việc tiến hành cải cách thuế cấp III thưo hướng
vừa đảm bảo nhu cầu chi của ngân sách, vừa tạo mội trường tài chính thuận lợi.
Rà soát và chấn chỉnh việc ban hành và thu các loại phí, lệ phí trái quy định.
Nhà nước từng bước cắt giảm các khoản chi hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp
Nhà nước. Giảm mạnh các đối tượng bao cấp cả NSNN; có cơ chế huy động
thêm các nguồn lực ngoài ngân sách để đảm bảo mục tiêu phát triển các lĩnh vực
giáo dục, y tế, văn hoá.
Nhìn chung, chính sách động viên của Nhà nước vào NSNN là nhất quán,
hướng tới sự công bằng, chú trọng bồi dưỡng nguồn thu lâu dài, đảm bảo cho
NSNN đáp ứng các yêu cầu phát triển của đất nước. Chính sách động viên đã
bám sát quan điểm của Đảng là phải có tầm nhìn dài hạn trong chính sách thu,
giải quyết hợp lý quan hệ gữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa tập trung vào NSNN và
khả nưng tích tụ vốn, tái đầu tư của các doanh nghiệp. Chính sách khai thác các
nguồn lực ngoài NSNN được chú trọng, thực hiện xã hội hoá đầu tư, xã hội hoá
một số khoản chi NSNN nhằm đáp ứng các yêu cầu nâng cao chất lượng, chăm
lo cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá. Những cơ chế, chính sách và
pháp luật về NSNN đã tạo điều kiện thuận lợi để thức đẩy chuyển dịch cở cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đúng tiến độ và có hiệu quả,
khuyến khích đầu tư xã hội, mở rộng thị trường, phục vụ có hiệu quả cho chiến
lược con người, phát triển khoa học - công nghệ, phát triển kinh tế – xã hội ở
các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, hoạt động NSNN vẫn đứng trước những

khó khăn và tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định trong quá trình hội nhập và phát triển.
Điều đó thể hiện tập trung ở mấy điểm sau:
Thứ nhất, cơ sở, nền tảng để động viên GDP vào NSNN chưa thật vững
chắc. Cụ thể là cơ cấu nguồn thu trong nước tăng chậm do hiệu quả kinh tế còn
thấp; nguồn thu của NSNN chưa thật sự bắt nguồn từ kết quả sản xuất, kinh
doanh, từ hiệu quả chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế mà vẫn bi chi phối bởi các
khoản thu có tính bấp bênh, thiếu chắc chắn, phụ thuộc yếu tố bên ngoài (như
thu từ bán dầu thô, thu thuế xuất nhập khẩu…) đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổn
thu NSNN; ngân sách địa phương phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ đất, từ xổ số
kiến thiết và trợ cấp của ngân sách cấp trên.
Thứ hai, chính cách thuế đang tiếp tục hoàn thiện và còn nhiều vấn đề cần
giải quyết, nhất là thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

doanh nghiệp, thuế quyền sử dụng đất. Chính sách động viên chưa khuyến khích
sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, kết cấu hạ
tầng… Việc làm cho các chính sách thuế đơn gian, rõ ràng, dễ thực hiện, dễ
kiểm tra, kiểm soát vẫn chưa đạt được. Việc hướng dẫn các văn bản pháp lật còn
máy móc, thiếu thực tế nên thường xuyên diễn ra tình trạng trùng chéo, không rõ
ràng, vừa gây khó khăn cho người thực hiện, vừa gây cản trở cho công tác thanh
tra, giám sát.
Thứ ba, công tác quản lý và điều hành thu NSNN còn tồn tại tình trạng
thất thu, trốn thuế, lậu thuế, nhất là việc thoái trả thuế giá trị gia tăng. Kiểm soát
thu nhập cá nhân để làm cơ sở thu thuế thu nhập chưa thực hiện được.
Thứ tư, công tác quản lý và giám sát tài chính trong đầu tư xây dựng cơ
bản còn lỏng lẻo dẫn đến chất lượng công trình không cao và tình trạng tiêu cực,
thất thoát, lãng phí diễn ra khá phổ biến. Nợ xây dựng cơ bản lớn (năm 2003 là
trên 11.000 tỷ đồng) và kéo dài có nguyên nhân do công tác lập dự án, chuẩn bị

đầu tư, quản lý vốn còn hạn chế trong điều kiện phải đi vay vốn, từ đó dẫn đến
việc xử lý nợ không dứt điểm, không triệt để, tạo ngánh nặng phải trả nợ cho
NSNN.
Thứ năm, sức ép tăng chi NSNN vẫn còn lớn do nhu cầu đòi hỏi của nền
kinh tế – xã hội ngày càng cao, trong khi sự phân bố NSNN còn dàn trải, chưa
chú ý hiệu quả kinh tế – xã hội. Do sự hạn hẹp của NSNN mà định mức chi
NSNN mới chỉ thực hiện được nhiệm vụ duy trì mà chưa mang tính thúc đẩy
phát triển các hoạt động kinh tế – xã hội.
Thứ sáu, chủ trương xã hội hoá một số khoản chi (như giáo dục, y tế, văn
hoá) chưa được nhận thức đầy đủ, quán triệt kịp thời, phổ biến rộng rãi, dẫn đến
triển khai chậm, quản lý chưa tốt. Công tác quản lý và giám sát tài chính thiếu
tập trung, chưa chặt chẽ. Quan hệ giữa NSNN và doanh nghiệp Nhà nước còn
lẫn lộn giữa bao cấp và tài trợ hợp lý dẫn đến sự bảo hộ quá mức của NSNN, tạo
ra tư tưởng thụ động, ỷ lại, trong chờ, làm giảm sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp Nhà nước trong quá trình hội nhập.
Nguyên nhân của các hạn chế nêu trên, chủ yếu là chưa giải quyết được
mâu thuẫn giữa tỷ lệ động viên GDP vào NSNN đang có xu hướng giảm, trong
khi nhu cầu chi NSNN luôn đòi hỏi rất lớn, tốc độ tăng chi có xu hướng doãng
dần so với tốc độ tăng thu, thuế xuất nhập khẩu bị giảm do thực hiện các cam kết
trong qúa trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả,
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thất thu lớn, vấn đề “hậu kiểm” chưa được
quan tâm đúng mức, nộp ngân sách chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng, khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài đang thực hiện ưu đãi cho nhiều dự án… là những
nhân tố tiềm ẩn gây căng thẳng trong cân đối ngân sách Nhà nước.
Việc chi NSNN vẫn dành bao cấp cho một số lĩnh vực (bao cấp trực tiếp
hoặc gián tiếp), cho một số khoản chi không thuộc phạm vi bảo đảm của NSNN
(như chi cho các hiệp hội quần chúng, hỗ trợ vốn lưu động cho các doanh nghiệp
Nhà nước, chi sự nghiệp trong các tổng công ty Nhà nước…). Tỷ trọng chi dành
co lương quá lớn do bộ máy quản lý cồng kềnh nên mức lương bình quân cho
mỗi cán bộ công nhân thấp. Ngân sách phải chi cho các đối tượng thuộc diện trợ



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cấp xã hội còn lớn, trong khi chính sách xã hội hoá các nguồn lực để đầu tư cho
một số lĩnh vực (giáo dục, y tế, văn hoá…) tiến hành còn chậm.
c. Giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN
Mục tiêu năng cao hiệu quả sử dụng NSNN không thể tách rời mục tiêu
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Đặc biệt là, tăng cường nền tảng của thu
NSNN phải đi đôi với tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế,
loại bỏ dần những nguy cơ mất ổn định của NSNN. Để từng bước khắc phục
những khó khăn, hạn chế và nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN cần thực hiện
một số giải pháp sau:
Một là, chính sách thu NSNN cần phải được hoạch định theo hướng động
viên hợp lý các nguồn lực của nền kinh tế. Giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích
giữa Nhà nước – doanh nghiệp và xã hội, củng cố quốc phòng và điều chỉnh vĩ
mô nền kinh tế; tạo động lực cần thiết cho các doanh nghiệp trập trung vốn phát
triển sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính sách thu NSNN
phải chú trọng đến xu hướng hội nhập kinh tế và hợp tác quốc tế, nhanh chóng
chuyển đổi cơ cấu nguồn thu để vừa thực hiện tốt các cam kết quốc tế, vừa đảm
bảo nguồn thu NSNN.
Hai là, việc chi NSNN cần được cơ cấu lại theo hướng tiết kệm, hiệu quả,
có lộ trình hợp lý, cắt giảm dần các khoản chi bao cấp, bao viện. Việc bố trí chi
NSNN phải được cân nhắc trên cơ sở phối hợp giữa vốn của NSNN với các
nguồn lực tài chính khác trong toàn xã hội để đảm bảo tính thiết thực và hiệu
quả. Từ đó, góp phần phân bổ nguồn lực tài chính quốc gia công bằng và hợp lý
giữa các vùng, miền trong cả nước. Thực hiện cân đối NSNN tích cực theo
nguyên tắc thu từ thuế, phí phải lớn hơn chi thường xuyên, có tích luỹ cho đầu tư
phát triển.Bội chi ngân sách phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, không phát hành
thêm tiền, hạn chế tối đa vay thương mại nước ngoài để bù đáp bội chi NSNN.

Cân đối thu, chi ngân sách địa phương theo nguyên tắc chi phải cân bằng với
thu, tốc độ tăng chi đầu tư phát triển phải lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên;
bảo đảm tiết kiệm chi thường xuyên để tạo tích luỹ nội bộ từ NSNN cho đầu tư
phát triển.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành NSNN; hoàn thiện
cơ chế phân cấp quản lý NSNN; tổ chức nghiên cứu ban hành mới hệ thống định
mức chi tiêu NSNN; đổi mới quy trình phân bố ngân sách, thực hiện cấp phát,
thanh toán trực tiếp qua kho bạc cho người thụ hưởng ngân sách để xoá bỏ việc
cấp phát qua nhiều khâu; nghiên cứu sửa đổi chế độ kế toán, quyết toán và kiểm
toán ngân sáhc, thực hiện công khai và minh bạch hoá ngân sách các cấp; ổn
định nguồn thu và nhiệm vụ chi cho từng cấpngân sách để phát huy tính tự chủ,
năng động của hcính quyền địa phương trong quản lý và điều hành ngân sách
phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương trong khuôn khổ chung của
Luật NSNN.
Bốn là, tiếp tục hoàn thành chính sách thuế theo hướng giảm dần thuế suất,
giảm chênh lệch giữa các mức thuế suất, giảm số lượng thuế suất, giảm dần các
ưu đãi, miễn giảm thuế, mở rộng phạm vi, đối tượng nộp thuế, bảo đảm nguyên
tắc công bằng về thuế giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp trong


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

và nước ngoài, góp phần đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại sản xuất kinh doanh.
Đồng thời điều chỉnh lại các sắc thuế và thuế suất cho phù hợp với yêu cầu phát
triển, mở cửa, hội nhập kinh tế và thực hiện các cam kết quốc tế. Sửa đổi và
hoàn thiện các loại thuế gián thu; nâng dần tỷ trọng của thuế gián thu trong tổng
thu NSNN theo bước đi thích hợp, trong đó đặc biệt chú trọng đến triển khai áp
dụng thống nhất chế độ thuế thu nhập cá nhân để xác định thói quen đóng thuế
trong nhân dân, tạo dựng môi trường bình đẳng, thống nhất cho việc thiết lập các
chế độ thuế và các chính sách tài chính khác, góp phần cải thiện sự công bằng

bình đẳng trong xã hội và tăng nguồn thu cho NSNN.
Năm là, rá soát lại các chế độ thu ngân sách hiện hành theo hướng bao quát
tất cả các lĩnh vực hoạt động, phù hợp với điều kiện chung của nền kinh tế, điều
kiện riêng của từng ngành, khuyến khích nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh,
chất lượng sản phẩm, khuyến khích suất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch kinh tế theo
hướng của Nhà nước; tiếp thục hoàn thiện chính sách thu phí, lệ phí và chế độ
huy động các khoản đóng góp của nhân dân. Tăng cường các biện pháp chống
gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế, lậu thuế bằng việc tăng cường thanh
tra, kiểm tra, cưỡng chế hành chính.
Về chi NSNN cần đảm bảo duy trì sự hoạt động của bộ máy Nhà nước,
củng cố quốc phòng – an ninh, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học
– công nghệ, y tế, văn hoá, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều
khó khăn. Chi đầu tư từ nguồn NSNN phải được thực hiện tập trung, dứt điểm
theo từng công trình, đáp ứng yêu cầu tiết kiệm, hiệu quả, định hướng đầu tư xã
hội, thu hút nhiều nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Chú ý
tập trung chi đầu tư cho các vùng kinh tế trọng điểm để tạo động lực phát triển
cho cả nền kinh tế, tạo cơ sở giải quyết tốt yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội; bố
trí hợp lý các khoản dự phòng, dự trữ tài chính và trả nợ.
Sáu là, tiếp tục đổi mới các hcính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho việc
thúc đẩy xuất khẩu, xúc tiến thương mại và tìm kiếm thị trường mới. Mở rộng hệ
thống bảo hiểm và an ninh xã hội nhằm huy động sự tham gia của người lao
động thuộc mọi thành phần kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội. Cơ chế quản
lý thống nhất, chặt chẽ mọi khoản chi NSNN, chú trọng đổi mới quản lý các
khoản chi từ nguồn vốn nước ngoài, vốn sự nghiệp kinh tế, vốn chương trình
mục tiêu quốc gia. Mở rộng phạm vi xã hội hoá một số khoản chi NSNN, thực
hiện cơ chế tự trang trải chi tiêu, xây dựng mô hình tự lo chi phí ở một số đơn vị
hành chính sự nghiệp cung cấp các dịnh vụ công cộng, thay thế phương thức cấp
kinh phí trực tiếp bằng việc Nhà nước mua sản phẩm theo giá cả phù hợp với
chất lượng và tiến độ.
Bảy là, cải cách cơ bản chế độ tiền lương, giải quyết dứt điểm những bất

hợp lý trong chính sách tiền lương và thu nhập, thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động là chủ yếu, kết hợp vói các hình thức phân phối khác nhằm bảo
đảm phân phối công bằng trong xã hội. Củng cố và sắp xếp lại hệ thống các quỹ
hiện có nhằm đổi mới phương thức quản lý, nâng cao khả năng bảo toàn, phát
triển vốn và chất lượng, hiệu quả sử dụng vốn; bảo đảm lợi ích của các nhà đầu
tư và an toàn tài chính. Đa dạng hoá các công cụ hoạt động và hình thức tổ chức
tài chính, tiền tệ, các quỹ đầu tư nhằm động viên sự tham gia đóng góp của cộng


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

đồng và của nước ngoài hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, giáo
dục - đào tạo, khoa học – công nghệ.
Tám là, tiếp tục đổi mới chính sách, cơ chế quản lý và điều hành NSNN.
Đổi mới quy trình thành lập, chấp hành và quyết toán NSNN các cấp theo hướng
công khai, minh bạch, dân chủ, bao đảm tính kịp thời, đầy đủ, chính xác và phù
hợp với thông lệ quốc tế. Hiện đại hoá hệ thống thống kê, kế toán, dự báo nhằm
nâng cao hiệu quả của công tác điều hành NSNN. Chủ động và sử dụng linh hoạt
các giải pháp tài khoá “nới lỏng” hay “thắt chặt” cho phù hợp với diễn biến và
tình hình thực tế. Phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn cũng như cơ chế phối
hợp, kết hợp giữa các cơ quan có liên quan đến thu và chi NSNN. Cải thiện môi
trường pháp lý về NSNN để quản lý và điều hành nền tài chính quốc gia bằng
pháp luật và ban hành các cơ chế, chính sách dựa trên cơ sở chủ yếu là Luật
NSNN đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 2, thông qua.
2. Thuế
a. Khái niệm, ý nghĩa và tầm quan trọng của thuế trong điều chỉnh vĩ mô
của nhà nước.
Thuế là một hình thức phân phối lại được Nhà nước sử dụng để động viên
một phần thu nhập của các pháp nhân và thể nhân, là khoản đóng góp mang tính
chất pháp lệnh mà Nhà nước bắt buộc mọi người dân hoặc các tổ chức kinh tế

phải nộp cho NSNN để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình.Khoản nộp về thuế
mang tính chất không hoàn trả trực tiếp, một phần được hoàn trả dưới dạng gián
tiếp thông qua các trợ cấp xã hội, phúc lợi công cộng. Thuế là một phạm trù kinh
tế khách quan, xuất hiện và tồn tại cùng với sự hình thành và tồn tại của Nhà
nước và sự xuất hiện của sản phẩm thặng dư. Để thoả mãn nhu cầu chi tiêu của
mình và của xã hội, Nhà nước phải dùng quyền lực để tham dự vào việc phân
phối một phần sản phẩm xã hội, đặt ra chế độ thuế buộc mọi người dân phải
đóng góp. Phương thức động viên tài chính đầu tiên xuất hiện trong lịch sử, đó
là thuế.
Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội, sự phát triển ngày
càng cao của kinh tế hàng hoá, tiền tệ, sự gia tăng mạnh mẽ của quyền lực Nhà
nước đã phát sinh những chi tiêu to lớn và làm nảy sinh những biến đổi mới về
thuế, các quan hệ về thuế dưới hình thức giá trị được hình thành và phát triển có
tính hệ thống. Với những bước tiến của lịch sử, chỉ dùng thuế không đủ, Nhà
nước còn phải phát hành công trái hoặc phát hành thêm giấy bạc, nhưng thuế
vẫnlà phương thức đông viên tài chính chủ yếu của Nhà nước thuộc các chế độ
xã hội khác nhau. Hiện nay, thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của Nhà nước
ta, chiếm xấp xỉ 85% tổng số thu NSNN. Nó đã đảm bảo được các khoản chi
thường xuyên và trả nợ của NSNN. Điều này đã chứng minh vai trò và ý nghĩa
quan trọng của thuế đối với nền tài chính nước ta.
Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường thì sự điều chỉnh vĩ mô
của Nhà nước phải phù hợp với yêu cầu khách quan, không thể là sự can thiệp
tuỳ tiện bằng mệnh lệnh hành chính, mà là tìm tòi những phương thức và công
cụ có hiệu quả để quy luật giá trị và các quy luật khác của nền sản xuất hàng hoá
có điều kiện phát huy đầy đủ tác dụng, khắc phục tính tự phát của thị trường.


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Nhà nước điều chỉnh thị trường bằng chiến lược và kế hoạch định hướng, bằng

chính sách và công cụ kinh tế như giá cả, lãi suất, thuế là chủ yếu. Sự điều chỉnh
của Nhà nước phải nhanh nhạy và linh hoạt để đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển ổn định, có hiệu quả và công bằng xã hội. Nhà nước điều khiển thị trường
và thị trường định hướng hoạt động cho các doanh nghiệp. Trong nhiều công cụ
kinh tế được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế thì thuế là một
phương tiện có tầm quan trọng đặc biệt. Một chính sách thuế được ban hành hợp
lý, phù hợp với khả năng của nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, thì nó
sẽ góp phần khắc phục sự trì trệ và lạc hậu, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
nhanh chóng, ổn định và lâu dài. Ngược lại, một chính sách thuế không phù hợp
sẽ trở thành một vật cản, gây trở ngại cho sự lớn mạnh của nền kinh tế, làm cho
nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, thậm chí có thể gây nên khủng hoảng kinh
tế chính trị.
b. Vai trò của Thuế trong điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường, thuế có ba vai trò chủ yếu sau:
Thứ nhất, thuế là công cụ để huy động nguồn thu quan trọng cho NSNN.
Huy động nguồn thu quan trọng cho NSNN là vai trò chủ yếu của nhiều chính
sách thuế. Bất kỳ Nhà nước nào cũng phải thu thuế để đáp ứng nhu cầu chi tiêu
của mình. Thuế là nguồn vật chất quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của bộ máy quyền lực Nhà nước.
Thứ hai, thuế góp phần điều chỉnh kinh tế. Chính sách thuế có ảnh hưởng
trực tiếp đến giá cả, đến quan hệ cung cầu, đến cơ cấu đầu tư và sự phát triển
hoặc suy thoái của nền kinh tế. Căn cứ vào tình huống cụ thể, Nhà nước có thể
chủ động điều hành về thuế. Lúc hoàn cảnh kinh tế quá thịnh thì việc gia tăng
thuế sẽ có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của tổng cầu, làm giảm bớt sự phát
triển kinh tế. Lúc hoàn cảnh kinh tế sa sút, sản suất suy thoái thì việc hạ thấp
thuế sẽ có tác dụng nâng cao nhu cầu tổng thể, nhờ đó mà xúc tiến phục hưng
kinh tế. Thuế có tác động trực tiếp đến giá cả, đến thu nhập, vì vậy dựa vào công
cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích luỹ và đầu tư.
Việc quy định thuế lợi tức, thuế ưu đãi đối với các dự án đầu tư thuộc các
lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích như sản xuất nhiều hàng hoá xuất khẩu,

sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu cần thiết, đầu tư vào những vùng có điều
kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, không thuận lợi…là nhằm thúc đẩy phát triển kinh
tế một cách đồng bộ trong cả nước theo hướng có lợi.
Thông qua áp dụng thuế suất thấp đối với các mặt hàng thiét yếu, phổ
thông Nhà nước tác động làm cho giá cả hạ, tiêu dùng tăng lên đáng kể, cũng
qua đó cho phép doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh tế cao. Áp dụng thuế suất
cao đối với hàng hoá xa xỉ, dịch vụ cao cấp sẽ tác động làm cho giá cả tăng,
giảm mức tiêu dùng sản xuất. Như vậy thuế không những có ảnh hưởng đến
quan hệ cung cầu mà còn góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ý muốn.
Đối với thuế xuất nhập khẩu, thông qua việc xác định các mặt hàng chịu
thuế tương ứng với các mức thuế suất có phân biệt, Nhà nước đã phát huy tác


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

dụng bảo hộ sản xuất trong nước thúc đẩy các hoạt động kinh doanh xuất, nhập
khẩu theo định hướng đã đề ra.
Thứ ba, thuế góp phần điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối. Trong nền kinh tế thị trường, nếu không có sự can thiệp của Nhà
nước, để tự thị trường điều chỉnh thì việc phân phối của cải và thu nhập sẽ càng
tập trung, tạo hai cực đối lập nhau, một thiểu số người sẽ giàu có lên nhanh
chóng và đa số người nghèo cuộc sống vẫn không được cải thiện. Tình trạng trên
chẳng những liên quan tới vấn đề đạo đức công bằng mà còn tạo nên sự đối lập
giai cấp, và làm mất đi ý nghĩa cao cả của sự phát triển kinh tế của một đất nước.
Trong thực tiễn sự, phát triển kinh tế của một quốc gia; là kết quả nỗ lực cộng
đồng của toàn dân, mội thành viên trong xã hội đều có ngững đóng góp nhất
định của họ. Thành quả của sự phát triển kinh tế, nếu không chia sẻ cho mọi
người cùng hưởng thì rõ ràng là mất đi công bằng. Bởi vậy cần phải có sự can
thiệp của Nhà nước trong sự phân phối thu nhập trong xã hội, đặc biệt thông qua
công cụ thuế.

Việc điều hoà thu nhập được thể hiện qua thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế đánh cao vào những mặt hành dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu
nhập của người giàu, hoặc thuế đánh trực tiếp vào thu nhập của công ty hoặc cá
nhân có thu nhập. Nhìn chung đối tượng càng có thu nhập cao thì phải nộp thuế
nhiều, có thu nhập thấp thì nộp ít, thu nhập chỉ đủ đảm bảo cuộc sống bình
thường thì không phải nộp thuế. Số tiền Nhà nước thu được sẽ được sử dụng để
trợ cấp cho các đối tượng xã hội. Cơ chế thuế như vậy sẽ tạo điều kiện để
chuyển dịch thu nhập từ người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp, để
rút ngắn khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.
c. Thực trạng
Sau gần ba năm thực hiện chiến lược cải cách hệ thống chính sách thuế giai
đoạn 2001 – 2010, đến nay chúng ta đã thu được một số thành tựu đáng khích lệ:
Vai trò huy động nguồn thu cho NSNN đã được thực hiện và phát huy
mạnh mẽ trong thực tiễn cuộc sống. Thuế đã dược ban hành dưới hình thức luật,
pháp lệnh, tính pháp lý của chính sách thuế đã được nêu lên rõ rệt nên đã có tác
dụng nâng cao quyền lực của Nhà nước trong việc thu thuế và ý thức trách
nhiệm của người nộp thuế. Nguồn thu về thuế đã tăng lên đáng kể, chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số thu NSNN và đáp ứng dược yêu cầu chi thường xuyên và
trở nợ nước ngoài của NSNN, góp phần chống lạm phát và ổn định vật giá.
Chúng ta đã thực hiện được một chính sách thuế thống nhất đối với mọi
thành phần kinh tế. Điều này không những phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị
trường, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sản xuất kinh doanh trên cơ
sở cạnh tranh lành mạnh, mà còn đặt ra đòi hỏi cácc doanh nghiệp quốc doanh
phải vươn lên hoạt động có hiệu quả, khắc phục dần hiện tượng ỷ lại vào Nhà
nước, hạn chế được những lợi dụng mức chênh lệch về thuế trước đây để trốn,
lậu thuế dưới hình thức núp bóng quốc doanh, tập thể.
Tuy nhiên, hệ thống chính sách thuế hiện hành còn tồn tại nhiều hạn chế
sau:



Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Hệ thống thuế chưa bao quát được hết nguồn thu. Với sự phát triển của
kinh tế thị trường, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh mới, đối tượng thu mới
đã và đang xuất hiện, cho đến nay ta vẫn chưa có chính sách thu hoặc chưa
nghiên cứu định hướng thu cho phù hợp như: hoạt động kinh doanh bất động
sản, hoạt động sản xuất kinh doanh của doang nghiệp Việt Nam có vốn đầu tư ở
nước ngoài, dịch vụ môi giới đầu tư, công ty cổ phần… Động viên về thuế hiện
hành cũng chưa đề cập đến việc phân phối lại một phần vào tích luỹ của quá khứ
như thuế tài sản, thuế thừa kế… Hoặc ngay trong từng sắc thuế, diện thu thuế
cũng còn bị hạn chế chưa được nghiên cứu mở rộng, như chưa thực hiện thu
thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng xăng dầu, dịch vụ cao cấp…hoặc một số
mặt hàng nhập khẩu nhằm hạn chế để bảo vệ sản xuất nội địa và thúc đẩy phát
triển công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu.
Chính sách thuế của ta còn phức tạp, chưa rõ ràng và chưa phù hợp với
điều kiện, trình độ của người thu và nộp thuế. Tính chất gián thu và trực thu còn
lẫn lộn trong các chính sách thuế, chưa có sự phân biệt rõ ràng. Do mỗi sắc thuế
hiện nay phải đạt nhiều mục tiêu cùng một lúc nên cơ cấu thuế suất thường phức
tạp, có nhiều thuế suất khác nhau. Thậm chí trong cùng một ngành nghề cũng
phân biệt thuế suất khá chênh lệch.
Nội dung luật thuế và các văn bản hướng dẫn lại không xá định rõ những
phạm trù kinh tế mà theo đó sẽ áp dụng các mức thuế khác nhau nên đã gây khó
khăn cho việc thu và nộp thuế, tạo sơ hở trong chính sách, dễ gây tuỳ tiện và tiêu
cực khi thực hiện. Biểu thuế suất, thuế nhập khẩu hiện có tới 50.000 mặt hàng
khác nhau, có nhiều loại không thể xếp vào loại , chương, nhóm nào được nhưng
có mặt hàng lại có thể xếp vào nhiều loại, chương, nhóm khác nhau. Việc phân
chia quá chi ly về thuế vừa gây chậm trễ, khó khăn trong việc tra cứu để tính và
nộp thuế, vừa phải chi phí tốn kém cho việc quản lý thuế mà cuối cùng cũng
không đạt được những mục tiêu ban đầu đề ra. Mặt khác phạm vi miễn giảm
thuế còn quá rộng và chưa theo một nguyên tắc nhất quán nên đã khiến cho

nguồn thu về thuế bị ăn mòn, đồng thời tạo kẽ hở trốn thuế, tránh thuế, tỷ lệ thuế
đặt ra do đó không sao phát huy được trọn vẹn.
Việc ban hành luật pháp về thuế chưa đồng bộ, thời điểm ban hành giữa
luật, pháp lệnh thuế và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành chi tiết chính
sách thuế còn cách xa nhau nên làm cho người thi hành phải chờ đợi khá lâu,
không những làm cho việc thu thuế bị chậm trễ, mà còn làm cho tác dụng của
luật pháp bị hạn chế. Hơn nữa điều này còn tạo ra tâm lý coi trọng thông tư hơn
pháp luật, pháp lệnh, coi trọng cơ quan hành pháp hơn cơ quan lập pháp. Quan
niệm này hoàn toàn xa lạ với Nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường
mà chúng ta đang xây dựng.
Sự thống nhất chung của pháp luật không được thực hiện nghiêm chỉnh,
vẫn còn tình trạng ngành chủ quản tự hướng dẫn các đơn vị trực thuộc thi hành
nộp thuế khác với luật quy định làm rối trong việc thực hiện chính sách thuế ở
cơ sở. Tình trạng “loại phí, lệ phí” còn diễn ra phổ biến ở các địa phương, Nhà
nước không thể kiểm soát nổi, hầu hết các khoản thu này không được nộp vào
NSNN và sử dụng có hiệu quả. Bên cạnh đó vai trò của Nhà nước trong việc xử


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

lý và cưỡng chế thi hành luật và pháp lệnh còn bị xem nhẹ nên vấn đề dây dưa
nợ thuế, thất thu còn xảy ra rất đa dạng và phức tạp.
Về cơ bản, chính sách thuế vẫn chưa khắc phục được hiện tượng thu thuế
chồng chéo, trùng lắp qua các khâu (điều nay được thể hiện rõ ở việc đánh thuế
doanh thu qua các khâu sản xuất, lưu thông) nên đã gây ra áp lực đẩy giá lên cao
làm ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu dùng.
Thuế suất của một số sắc thuế hiện nay còn cao, chưa hợp lý nên đã gây ra
cản trở cho sản suất kinh doanh như thuế doanh thu đối với hoạt động kinh
doanh vàng bạc(2%), hoặc đối với hoạt động kinh doanh tiêu thụ hàng nhập
khẩu (8%), thuế tiêu thụ đặc biệt đối với bia (50%)… Kinh nghiệm quản lý thuế

ở nhiều nước cho thấy, mức thuế đặt ra vừa phải thì Nhà nước còn thu được
thuế, mức thuế đặt ra quá cao thì sẽ thúc đẩy tình trạng buôn gian, bán lậu, trốn
lậu thuế sẽ phát triển và thất thu ngày càng lớn.
Nội dung một số luật thuế hiện nay còn chưa rõ ràng, chắc chắn và có một
số điểm chưa phù hợp với thực tiễn khách quan. Các nhà đầu tư nước ngoài
thường có nhận xét, nhìn vào luật thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài người ta không hể tính toán được các khoản thuế phải nộp một cách
chắc chắn và từ đó tìm ra hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ thu được qua hoạt
động đầu tư vào Việt Nam. Đây cũng là một vấn đề cản trở việc khuyến khích
thu hút đầu tư vốn nước ngoài vào nước ta. Hoặc cơ sở tính thuế lợi tức hiện
nay không tính đến các chi phí thiệt hại do khách quan gây ra là một điều bất
hợp lý, không thể chấp nhận.
Vẫn còn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp quốc doanh và ngoài
quốc doanh trong chính sách thuế hiện nay. Ví dụ doanh nghiệp tư nhân phải
nộp thuế lợi tức bổ sung đối với số lợi tức vượt mức quy định nhưng các doanh
nghiệp khác không phải nộp. Hoặc kinh tế quốc doanh được hưởng ưu đãi thuế
mà các doanh nghiệp khác không được hưởng như: được xét giảm thuế lợi tức
trong trường hợp phần lợi nhuận còn lại không bảo đảm mức tối thiểu để trích
lập hai quỹ phúc lợi và khen thưởng. Thiết nghĩ, chuyển sang cơ chế kinh tế thị
trường việc phân biệt như trên là không hợp lý, trái với quan điểm cần tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Việc đánh thuế có phân biệt giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và các doanh nghiệp trong nước như hiện nay đã tạo ra những chênh lệch
lớn trong cạnh tranh kinh tế, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước tìm cách liên
doanh với nước ngoài để hưởng ưu đãi về thuế, tránh thuế hợp pháp. Thiết nghĩ,
việc khuyến khích thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước cho sự phát triển kinh
tế đều có tầm quan trọng như nhau, việc phân biệt đối xử về thuế như trên là
không hợp lý và không phù hợp với thông lệ quốc tế, cần thay đổi.
Trong các sắc thuế của ta còn để ra nhiều trường hợp ưu đãi miễn giảm

thuế, nội dung miễn giảm cũng không được quy định rõ ràng nên dễ gây tình
trạng tuỳ tiện trong việc thực hiện luật thuế, không bảo đảm công bằng, vì người
này xin được giảm thuế thì người khác cũng tìm mọi cách để được ưu đãi.


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

d. Phương hướng hoàn thiện chính sách thuế
Qua phân tích một số hạn chế nêu trên có thể đưa đến kiến nghị phương
hướng hoàn thiện chính sách thuế như sau:
Cần xây dựng một hệ thống thuế tương đối hoàn chỉnh, bao quát được hết
các đối tượng và các nguồn phải thu, phải sử dụng các hình thức đa dạng để có
thể thu được thuế ở những lĩnh vực, những đối tượng có thể điều tiết. Trước mắt
cần nghiên cứu bổ sung chính sách thuế nhằm động viên vào các loại hình sản
xuất kinh doanh mới xuất hiện như kinh doanh bất động sản, hoạt động dịch vụ
môi giới đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam có vốn đầu tư
nước ngoài…định hướng thu thuế vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch
vụ sẽ hình thành như công ty cổ phần, kinh doanh chứng khoán và các chứng
phiếu có giá trị…Cần mở rộng diện thu thuế của một số sắc thuế trên cơ sở sắp
xếp lại thuế suất và cơ cấu thuế suất của các loại thuế, cần thu thuế tiêu thụ đặc
biệt vào các mặt hàng xăng dầu, các dịch vụ cao cấp và một số mặt hàng nhập
khẩu cần hạn chế để bảo vệ sản xuất trong nước và khuyến khích công nghiệp
thay thế hàng nhập khẩu. Có kế hoạch nghiên cứu thuế đánh vào tài sản để khi
có điều kiện có thể ban hành chính sách cụ thể.
Thực hiện cơ cấu thuế suất đơn giản, với mức thuế suất vừa phải và mở
rộng diện thu thuế. Mỗi sắc thuế chỉ nên tập trung vào một hoặc hai mục tiêu
chủ yếu. Để đạt được nhiều mục tiêu như: Đảm bảo nguồn htu cho ngân sách,
kích thích sản xuất phát triển theo đường lối phát triển kinh tế – xã hội của Nhà
nước, đảm bảo công bằng xã hội thì cần phải sử dụng nhiều loại thuế để bổ sung
lẫn nhau trong một hệ thống thuế nói chung.

Trong thời gian tới vẫn cần coi trọng thuế gián thu hơn thuế trực thu. Muốn
có hệ thống thuế ổn định về cơ cấ cần phải lấy thuế gián thu làm trụ cột cho cả
hệ thống. Thuế gián thu đáng vào hàng hoá và dịch vụ, được tính trong giá cả
hàng hoá, dịch vụ. Thuế này có khung hướng ổn định hơn thuế trực thu vì ngay
cả khi nên kinh tế giảm sút thì người ta vẫn phải mua sắm và tiêu dùng cho
những nhu cầu cần thiết, Nhà nước vẫn thu được thuế. Thuế trực thu đánh vào
thu nhập, thường không ổn định vì nó phụ thuộc vào sự tăng giảm của hiệu quả
kinh tế, của thu nhập dân cư và doanh nghiệp. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế
một nước còn kém phát triển như nước ta hiện nay, do năng suất lao động còn
thấp, hiệu quả kinh doanh chưa cao, thu nhập còn ít ỏi nên thuế trực thu chưa trở
thành một nguồn thu lớn của ngân sách. Đồng thời việc quản lý thuế trực thu rất
phức tạp và tốn kém, Việc coi trọng thuế gián thu còn xuất phát từ nguyên lý:
việc đánh thuế vào những gì mà đối tượng chịu thuế lấy đi của xã hội sẽ có tác
dụng tốt hơn là đánh vào những gì mà đối tượng chịu thuế nhập vào cho xã hội.
Thực hiện phương hướng này, sẽ có lợi cả về mặt nghiệp vụ quản lý lẫn tâm lý
người nộp thuế. Về nghiệp vụ, thu thuế gián thu sẽ đơn giản, dễ hiểu, dễ thực
hiện, đỡ tốn kém hơn nhiều so với thuế trực thu. Về tâm lý, đánh thuế gián thu
người chịu thuế sẽ dễ dàng chấp nhận, đôi khi còn kiêu hãnh khi trả giá cho sự
tiêu dùng cao cấp của mình.
Pháp luật về thuế cần được ban hành đồng bộ, thống nhất từ trên xuống.
Thời điểm ban hành về luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

cụ thể, chi tiết chính sách thuế cần đồng bộ một lúc, không cách xa nhau làm ảnh
hưởng đến việc thi hành và tính nghiêm túc của pháp luật. Nhà nước thống nhất
quản lý lệ phí trong cả nước. Việc ban hành lệ phí ở các địa phương phải được
phép của cơ quan thuế, tiền thu lệ phí phải nộp cho NSNN. Mức thu được tính
toán trên nguyên tắc đảm bảo bù đắp chi phí và điều tiết một phần nào cho ngân

sách. Đề cao vai trò của Nhà nước trong việc xử lý và cưỡng chế thi hành chính
sách thuế, chống thất thu có hiệu quả.
Cần xem xét lại việc quy định về thuế suất, tính cách thuế của một số thuế
suất (như thuế doanh thu, thuế lợi tức). Trên cơ sở rà soát lại các mức tích luỹ và
mức thuế huy động đối với các mặt hàng hoặc ngành nghề, mà xác định lại thuế
suất doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt cho phù hợp, giải quyết thoả đáng lợi ích
Nhà nước và người nộp thuế. Nhìn chung trong điều kiện sản xuất kinh doanh có
nhiều biến động như hiện nay chính sách thuế cần phải được điều chỉnh linh hoạt
không nên cứng nhắc. Nhiều qui định có thể phù hợp với điều kiện khi ban hành
chính sách thuế, nhưng lại trở nên lạc hậu trong quá trình thực hiện một vài năm
sau đó. Vì vậy việc sửa đổi, bổ sung chính sách cho phù hợp là một đòi hỏi
khách quan nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của công cụ thuế đối với việc phát
triển kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay, để đảm bảo khuyến khích các doanh nghiệp
trong va ngoài nước đầu tư vốn để phát triển kinh tế ở nước ta thì vấn đề quan
trọng là chính sách thuế đặt ra phải rõ ràng, chắc chắn, làm cho người có vốn
đầu tư có thể nhanh chóng tính toán được hiệu quả thu được sau khi đã hoàn
thành nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước. Không nên tạo cho chính sách thuế
mang đặc tính thoả hiệp, thương lượng, có thể vận dụng thực hiện thao nhiều
cách khác nhau. Nếu không định rõ được các chuẩn mực để dựa vào đó mà áp
dụng các thuế suất hoặc ưu đãi thuế thì không nên phân biệt đối xử về thuế.
Chính sách thuế cũng cần phải có tác động nhất định trong việc hạn chế sự
cạnh tranh về lợi nhuận tối đa dẫn tới độc quyền, đầu cơ và sự phá sản của
những người sản xuất nhỏ.
Cần phải có chính sách thuế bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nếu
giữa các doanh nghiệp có sự khác biệt về điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh
doanh thì cần phân biệt về mức thuế phải nộp. Những chênh lệch về thuận lợi do
tự nhiên mang lại phải được huy động vào NSNN. Ngược lại thì cần có ưu đãi
miễn giảm thuế lợi tức cho các doanh nghiệp quốc doanh để đảm bảo mức trích
tối thiểu vào vào hai quỹ phúc lợi và khen thưởng hiện hành.

Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút vốn trong nước và nước ngoài nhằm
đầu tư phát triển kinh tế đòi hỏi cần áp dụng một chính sách thuế thống nhất đối
với doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nếu
có ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì cũng nên
thực hiện đối với cả các doanh nghiệp trong nước.
Cần thu hẹp phạm vi ưu đãi miễn, giảm thuế và cần quy định rõ ràng tiêu
chuẩn các trường hợp được miễn giảm nhằm tạo nên sự bình đẳng về thuế và sự
nghiêm minh của pháp luật, khắc phục tính thoả hiệp , thương lượng của chính
sách thuế. Mọi vấn đề mang tính chất xã hội như các chính sách đối với người


Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nghèo, tàn tật, thương binh, liệt sỹ… cần được xử lý dưới hình thức chi Ngân
sách, không nên gắn yêu cầu này đòi hỏi chính sách thuế phải đáp ứng.
3. Tiền tệ – tín dụng
a. Khái niệm
Tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt tách ra làm vật ngang giá chung cho
các hàng hoá khác. Nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những
người sản xuất khác.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tiền tệ vẫn là một hàng
hoá đặc biệt đóng vai trò làm vật ngang giá chung, làm trung gian trong việc trao
đổi, cũng có năm chức năng và tuân theo quy luật lưu thông tiền tệ trong nền
kinh tế thị trường TBCN. Nhưng bản chất xã hội của nó đã thay đổi. Tiền tệ
không biểu hiện quan hệ bóc lột mà phản ánh quan hệ kiểu mới giữa người với
người: quan hệ bình đẳng, hợp tác, tương trợ giữa thành thị và nông thôn, giữa
Nhà nước và nhân dân. Nó không biến thành tư bản mà trở thành công cụ của
Nhà nước chuyên chính vô sản, dùng để xây dựng và phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống của nhân dân.
Tín dụng là quan hệ kinh tế dưới hình thức quan hệ tiền tệ mà người chủ sở

hữu tiền tệ cho người khác vay trong thời gian nhất định để thu món lời gọi là lợi
tức.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá và lưu
thông hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng hoá, tại cùng một thời điểm, tồn tại
những chủ thể kinh tế đang cần thêm vốn để đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới
công nghệ… nhưng cũng đồng thời tồn tại những vốn tiền tệ nhàn rỗi của các cá
nhân, doanh nghiệp, tổ chức… như tiền tiết kiệm của các hộ gia đình, tiền hàng
chưa mua nguyên vật liệu, tiền lương chưa tới kỳ thanh toán, tiền khấu hao tài
sản cố định đang trong quá trình tích luỹ…Do đó, việc điều hoà vốn trong nền
kinh tế quốc dân là một sự cần thiết khách quan.
b. Vai trò
Thông qua công cụ tiền tệ – tín dụng, Nhà nước can thiệp vào các hoạt
động kinh tế, quản lý và hướng dẫn các hoạt động đó theo một chính sách nhất
định. Kinh tế thị trường có đặc trưng cơ bản là tiền tệ được sử dụng như một
trong hai công cụ tác động có hiệu lực nhất đến hầu hết các hoạt động kinh tế và
điều chỉnh các mặt kinh tế – xã hội, đảm nhiệm thực thi các mối quan hệ kinh tế
thông qua hệ thống thị trường: thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động, thị
trường tiền tệ, thị trường vốn…
Khác với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, vai trò của tiền tệ bị bó hẹp, mối
quan hệ tiền tê - tín dụng luôn luôn được đặt trong khung của các kế hoạch mang
tính pháp lệnh. Do đó, tiền tệ trở nên phụ thuộc và mờ nhạt so với các công cụ
kế hoạch và giá cả gần như là một phương tiện thụ động tham gia quá trình phân
phối tổng sản phẩm xã hội.


×