Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Tình hình triển khai sản phẩm An Sinh Giáo Dục của tổng công ty Bảo Việt nhân thọ.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.26 KB, 69 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Người Việt Nam chúng ta có câu: “Trẻ em như búp trên cành, biết ăn biết ngủ biết
học hành là ngoan”, một đặc tính của người Việt là rất yêu trẻ con, vì thế mà cha
mẹ thường dành cho con cái những gì tốt đẹp nhất của họ, mong muốn rằng con cái
sau này sẽ có một tương lai được bảo đảm vững chắc cho dù có vấn đề gì xảy ra
với bản thân họ đi nữa.Vì vậy, tổng công ty bảo hiểm đã cho ra đời chương trình
bảo hiểm dành cho trẻ em-An Sinh Giáo Dục và được đón nhận nồng nhiệt bởi lẽ
nó không chỉ mang tính tiết kiệm, bảo vệ cho đối tượng trẻ em mà cho cả phụ
huynh - người chủ hợp đồng, nếu có rủi ro xảy ra đối với chủ hợp đồng trẻ em đó
vẫn được bảo đảm. Nghĩa là sản phẩm này đã đáp ứng được nguyện vọng của nhiều
người, được thể hiện tình cảm với con cái, xây dựng quỹ tài chính độc lập để các
khoản chi không ảnh hưởng đến nhau, là hành trang để cho con vững bước vào đời,
An sinh giáo dục không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang tính xã hội đó là tính
nhân văn cao cả. Bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành, tạo dựng cho con cái
mình một tương lai vững chắc về mặt tài chính, được thể hiện tình thương yêu đối
với con cái đó chính là mong muốn của các bậc cha mẹ - điều này giải thích tại sao
sản phẩm An sinh giáo dục luôn là sản phẩm được bán chạy nhất trong các công ty
Bảo hiểm. Nhận thức được tầm quan trọng của sản phẩm An Sinh Giáo Dục, em đã
tiến hành nghiên cứu đề tài “ Tình hình triển khai sản phẩm An Sinh Giáo Dục
của tổng công ty Bảo Việt nhân thọ” và đưa ra ý kiến nhằm tiếp tục phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh doanh của sản phẩm An Sinh Giáo Dục.
Mặc dù bản thân em đã rất cố gắng nhưng do còn thiếu kinh nghiệm nên trong
chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận được sự
góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo trong khoa nói chung và cô giáo Nguyễn Ngọc
Hương nói riêng để chuyên đề hoàn chỉnh hơn về mặt lý luận và mang tính khả thi
hơn trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của công ty.
1
Phần I: Khái quát về bảo hiểm nhân thọ
I. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ:
1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ:
1.1. Trên thế giới:


BHNT là sự cam kết giữa người mua bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đó định trước xảy ra
(người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định), còn người
tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình
bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Đối tượng tham gia BHNT rất rộng, bao gồm mọi người ở các lứa tuổi khác
nhau. Lịch sử ra đời của BHNT khá sớm.
Hợp đồng BHNT đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1583, do công dân Luân
Đôn là ông William Gybbom tham gia. Phí bảo hiểm ông đóng lúc đó là 32 bảng
Anh, khi ông chết trong năm đó, người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh.
Năm 1759, Công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Philadelphia (Mỹ). Công ty
này đến nay vẫn còn hoạt động, nhưng lúc đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên
ở nhà thờ của mình.
Năm 1762, ở Anh thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable. Đây là
công ty đầu tiên bán các hợp đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp dụng
nguyên tắc phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo hiểm.
Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa được thành lập ở Bắc Mỹ.
Năm 1860, bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lưới đại lý bán bảo hiểm nhân
thọ.
Ở Châu Á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo
hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, 2 công ty khác: Kyoei và
Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay.
2
Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985 doanh thu
phí BHNT mới chỉ đạt 63.5 tỷ đô la, năm 1989 đã lên tới 1.210,2 tỷ và năm 1993 con
số này là 1.647 tỷ, chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm. Hiện nay có 5 thì trường
BHNT lớn nhất thế giới là: Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh, Pháp. Theo số liệu
thống kê năm 1993, phí BHNT của 5 thị trường thể hiện bảng sau:
Cơ cấu phí BHNT của 5 thị trường lớn nhất thế giới năm 1993:

Tên nước
Tổng doanh thu
phí bảo hiểm
(triệu USD)
Cơ cấu phí bảo hiểm (%)
Nhân thọ Phi nhân thọ
1. Mỹ 522,468 41,44 58,56
2. Nhật Bản 320,143 73,86 26,14
3. Đức 107,403 39,38 60,62
4. Anh 102,360 64,57 35,43
5. Pháp 84,303 56,55 43,65
(Nguồn: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, tháng 8 năm 1996)
Sở dĩ BHNT phát triển nhanh, doanh thu phí bảo hiểm ngày càng tăng vì loại
hình bảo hiểm này có vai trò rất lớn. Vai trò của BHNT không chỉ thể hiện trong từng
gia đình và đối với từng cá nhân trong việc góp phần ổn định cuộc sống, giảm bớt
khó khăn về tài chính khi gặp phải rủi ro, mà còn thể hiện rõ trên phạm vi toàn xã hội.
Trên phạm vi xã hội, BHNT góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, huy động vốn
trong nước từ nguồn tiền mặt nhà rỗi nằm trong dân cư. Nguồn vốn này không chỉ có
tác dụng đầu tư dài hạn, mà còn góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động.
1.2 Tại Việt Nam:
Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm nhân thọ,
trong những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp vụ
này. Với sự ra đời của công ty bảo hiểm nhân thọ, chính thức đầu tiên ở Việt Nam
năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước tầm vĩ mô. Mặc
dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ gần ba năm, nhưng trong
3
thực tế bảo hiểm nhân thọ đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm dưới nhiều hình thức
khác nhau.
Trước năm 1954, ở miền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã được bảo

hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này đều do các công ty bảo hiểm của
Pháp trực tiếp thực hiện.
Trong những năm 1970 - 1971 ở miền Nam công ty Hưng Việt bảo hiểm đã
triển khai một số loại hình bảo hiểm như “An sinh giáo dục”, “Bảo hiểm trường
sinh” (Bảo hiểm nhân thọ trọn đời), “Bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 - 10 - 20 năm”,
nhưng công ty này chỉ hoạt động từ một đến hai năm nên các nghiệp vụ bảo hiểm
không được biết đến rộng rãi.
Năm 1987, Bảo Việt đã có đề án “Bảo hiểm nhân thọ và việc vận dụng vào
Việt Nam”, nhưng vào lúc đó điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn như:
- Tỷ lệ lạm phát rất cao và không ổn định.
- Thu nhập của nhân dân chỉ đủ để chi tiêu cho những nhu cầu tối thiểu
thường ngày, phần tiết kiệm rất ít.
- Chưa có điều kiện để công ty bảo hiểm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư.
Công ty bảo hiểm lúc đó chưa được phép sử dụng quỹ bảo hiểm đi đầu tư, môi
trường đầu tư chưa phát triển.
- Chưa có những qui định mang tính chất pháp lý để điều chỉnh mối quan hệ
giá công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, bảo vệ quyền lợi cho người
được bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm.
Với những khó khăn trên đã không cho phép công ty Bảo Việt phát triển
nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990, Bộ Tài
chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai “Bảo hiểm sinh mạng con người thời
hạn 1 năm”.Thực tế triển khai nghiệp vụ này cho thấy:
4
- Việc lo xa cho gia đình khi không may người chủ gia đình bị mất mà chỉ
tính đến trong vòng 1 năm là không hấp dẫn. Tâm lý người tham gia loại hình bảo
hiểm này cũng không thoải mái. Và do đó loại hình bảo hiểm này chỉ đáp ứng được
nhu cầu cho những người già.
- Mọi người tham gia bảo hiểm đều thắc mắc, nếu không gặp rủi ro có được
nhận lại gì không?

Với thực tế trên, cùng với việc đánh giá các điều kiện kinh tế xã hội Việt
Nam trong những năm đầu thập kỷ 90, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu
tiến hành nghiên cứu triển khai nghiệp bảo hiểm nhân thọ với hai loại hình mang
tính chất tiết kiệm từ cuối năm 1993. Đến tháng 1 năm 1994, Tổng công ty bảo
hiểm Việt Nam mới chính thức trình Bộ Tài chính dự án thành lập công ty Bảo
hiểm nhân thọ.
Với những yêu cầu về quản lý quỹ bảo hiểm nhân thọ, Bộ Tài chính đã ký
quyết định số 568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ
trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt mới trong sự phát triển
của ngành bảo hiểm Việt Nam.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ:
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một số ít trong số họ phải
gánh chịu những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử
là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số
tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là
mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT).
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp
phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán...
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa
5
học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho
cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn
ôtô, hàng không , tai nạn lao động...
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân gây ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người càng có
nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát...
Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người
những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia

đình... làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro con
người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những
hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
+ Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn
ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn
chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện pháp này đã giúp
chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhưng khi rủi ro
xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và
bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích
khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro thì con
người phải đối phó với những khó khăn không những cho bản thân mà còn về mặt
tài chính của gia đình nữa cho nên bảo hiểm là phương pháp tốt hơn để đối phó với
rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của
các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo
hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo
hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một
số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo
hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất.
6
Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự
phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một
nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát
triển. ở châu á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện
chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự
phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao.
Theo số liệu của Thời báo kinh tế thì trong năm 2008 doanh thu phí BHNT đạt
10.339 tỷ đồng, chiếm 0,88% GDP. BHNT giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà
nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo

dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy
trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người
chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng
phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo
ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép
chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh".
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng
thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả
về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng gửi
tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản tiền
nhàn rỗi. Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân,
nhà nước cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn
vốn trong dân cho đầu tư phát triển.
BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính chất
7
vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ
trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng
tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người
dân một cách thức tiết kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng
đầu tư cho đất nước.
II. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản:
BHNT đáp ứng đước rất nhiều mục đích khác nhau. Đối với những người
tham gia mục đích chính của họ hoặc là để bảo vệ con cái và những người ăn theo
tránh khỏi những nỗi bất hạnh về cái chết bất ngờ của họ hoặc tiết kiệm để đáp ứng
các nhu cầu về tài chính trong tương lai...Do vậy, người được bảo hiểm đã thực
hiện đa dạng hoá các sản phẩm BHNT, thực chất đa dạng hoá các loại hợp đồng
nhằm đáp ứng và thoả mãn mọi nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Trong thực

tế, có 3 loại BHNT cơ bản:
- Bảo hiểm trong trường hợp tử vong
- Bảo hiểm trong trường hợp sống
- BHNT hỗn hợp
Ngoài ra, người được bảo hiểm còn áp dụng các điều khoản bổ sung cho các
loại hợp đồng BHNT cơ bản như:
- Bảo hiểm tai nạn
- Bảo hiểm sức khoẻ
- Bảo hiểm không nộp phí khi thương tật
- Bảo hiểm cho người đóng phí v.v...
Thực chất, các điều khoản bổ sung không phải là BHNT, vì không phụ thuộc
vào sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người, mà là bảo hiểm các rủi ro
khác có liên quan đến con người. Tuy nhiên, đôi khi người tham gia bảo hiểm vẫn
thấy rất cần thiết phải tham gia để bổ sung cho hợp đồng cơ bản (hợp đồng tiêu
chuẩn)
8
1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong:
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành 2 nhóm.
a, Bảo hiểm tử kỳ (còn được gọi là bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm sinh mạng
có thời hạn)
loại hình bảo hiểm này được ký kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời
gian đã quy định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì
người được bảo hiểm không nhận được bất kỳ một khoản hoàn phí nào từ số phí
bảo hiểm đã đóng. Điều đó cũng có nghĩa là người bảo hiểm không phải thanh toán
STBH cho người được bảo hiểm. Ngược lại, nếu cái chết xảy ra trong thời gian có
hiệu lực của hợp đồng, thì người bảo hiểm phải có trách nhiệm thanh toán STBH
cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định.
Đặc điểm:
- Thời hạn bảo hiểm xác định
- Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời

- mức phí bảo hiểm thấp vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được
bảo hiểm
Mục đích:
- Đảm bảo các chi phí mai táng chôn cất
- Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn
- Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của người
được bảo hiểm
Bảo hiểm tử kỳ còn được đa dạng hoá thành các loại hình sau:
- Bảo hiểm tử kỳ cố định: Có mức phí bảo hiểm và STBH cố định, không thay
đổi trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Mức phí thấp nhất và người
được bảo hiểm không thanh toán khi hết hạn hợp đông. Hợp đồng hết hiệu lực nếu
sau ngày gia hạn hợp đồng không nộp phí bảo hiểm. Loại này chủ yếu nhằm thanh
toán cho các khoản nợ tồn đọng trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong.
9
- Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục: Loại này có thể được tái tục vào ngày kết thúc
hợp đồng và không yêu cầu có thêm bằng chứng nào về sức khoẻ của người được
bảo hiểm, nhưng có sự giới hạn về độ tuổi (thường độ tuổi tối đa là 65). Tại lúc tái
tục, phí bảo hiểm tăng lên vì độ tuổi của người được bảo hiểm lúc này tăng lên.
Ví dụ: Anh A có độ tuổi là 45, anh không tham gia HĐBH tử kỳ với thời
hạn 20 năm, mà chỉ tham gia với thời hạn 5 năm sau đó tái tục, sau mỗi thời kỳ là 5
năm. Nhưng sau mỗi lần tái tục phí sẽ tăng lên vì độ tuổi của anh ta tăng dần.
- Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi: Đây là loại hình bảo hiểm tử kỳ cố định
nhưng cho phép người được bảo hiểm có sự lựa chọn chuyển đổi một phần hay
toàn bộ hợp đồng thành một hợp đồng BHNT trọn đời hay BHNT hỗn hợp tại một
thời điểm nào đó khi hợp đồng đang còn hiệu lực. Phí bảo hiểm được tính dựa trên
hợp đồng BHNT trọn đời hay hỗn hợp mới theo đọ tuổi của người có hợp đồng.
Loại hợp đồng này phát hành như một sự bảo chứng cho khoản tiền vay.
Đồng thời nó còn nhằm thực hiện yếu tố tiết kiệm trong tương lai của người được
bảo hiểm.
- Bảo hiểm tử kỳ giảm dần: Đây là loại hình bảo hiểm mà có một bộ phận của

STBH giảm dần hàng năm theo một mực quy định. Bộ phận này giảm tới 0 vào
cuối kỳ hạn hợp đồng.
Đặc điểm của loại này là:
+ Phí bảo hiểm giữ ở mức cố định
+ Phí thấp hơn bảo hiểm tử kỳ cố định
+ Giai đoạn nộp phí ngắn hơn toàn bộ thời hạn hợp đồng để tránh việc thanh
toán vào cuối thời hạn của hợp đồng khi mà số tiền bảo hiểm còn rất nhỏ.
Loại hình bảo hiểm này đáp ứng nhu cầu của người tham gia, khi họ phải nợ
một khoản tiền phải tra dần chẳng hạn: Anh C ở độ tuổi 31, anh mua 1 chiếc ô tô
theo phương thức trả góp 10 năm. Đơn giá chiếc xe mua theo phương thức này là
10
100.000.000 VND, mỗi năm anh phải trả người bán ô tô 10.000.000 VND. Anh lựa
chọn mua bảo hiểm ?
+ Loại hình bảo hiểm tử kỳ giảm dần
+ Số tiền bảo hiểm: 120.000.000 VND
Trong đó có: 100.000.000 VND giảm dần hàng năm.
+ Thời hạn hợp đồng là 10 năm.
Như vậy, mỗi năm STBH giảm 10.000.000 VND tương ứng với số nợ giảm
đi 10.000.000 mà anh C đã trả . Nếu chẳng may năm 35 tuổi anh bị chết, quyền lợi
bảo hiểm mà gia đình anh được nhận từ công ty bảo hiểm là: 70.000.0000 VND.
Với số tiền này, gia đình anh vẫn đủ để trả nợ và có tiền chi mai táng, khắc phục
khó khăn sau cái chết của anh.
- Bảo hiểm tử kỳ tăng dần: Loại này được phát hành nhằm giúp người tham gia
bảo hiểm có thể ngăn chặn được yếu tố lạm phát của đồng tiền. Có nghĩa STBH
thực trong hợp đồng bị giảm do đồng tiền sụt giá trong 1 khoảng thời gian. Để ngăn
chặn có thể:
+ Tăng số tiền bảo hiểm theo 1 tỷ lệ % được lập hàng năm
+ Hoặc đưa ra các loại hợp đồng ngắn hạn và sau đó tái tục với một số tiền bảo
hiểm tăng dần.
Như vậy, loại hợp đồng này có đặc điểm là phí bảo hiểm sẽ tăng dần theo

STBH và phải dựa trên tuổi tác của người được bảo hiểm khai tái tục hợp đồng.
- Bảo hiểm thu nhập gia đình: Loại hình bảo hiểm này nhằm đảm bảo thu nhập
cho 1 gia đình khi không may người trụ cột trong gia đình bị chết. Quyền lợi bảo
hiểm mà gia đình nhận được sau cái chết của người trụ cột có thể:
+ Nhận được toàn bộ (trọn gói)
+ Nhận được từng phần dần dần cho đến khi hết hạn hợp đồng
Nếu người được bảo hiểm còn sống đến hết hạn hợp đồng, gia đình sẽ không
nhận được bất kỳ một khoản thanh toán nào từ công ty bảo hiểm.
11
- Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên: Loại hình bảo hiểm này cũng nhằm
tránh yếu tố lạm phát của đồng tiền. Đảm bảo các khoản thanh toán của công ty bảo
hiểm cho gia đình không may có người được bảo hiểm bị chết, tương ứng với
STBH khi mới ký hợp đồng.
- Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện: Điều kiện ở đây là: việc thanh toán trợ cấp chỉ
được thực hiện khi người được bảo hiểm bị chết, đông thời người thụ hưởng quyền
lợi bảo hiểm được chỉ định trong hợp đồng phải còn sống.
b, Bảo hiểm nhâm thọ trọn đời (Bảo hiểm trường sinh)
Loại hình bảo hiểm này cam kết chi tra cho người thụ hưởng bảo hiểm một
STBH đã được ấn định trên hợp đồng, khi người được bảo hiểm chết vào bất cứ lúc
nào kể từ ngày ký hợp đồng. Phương châm của người bảo hiểm ở đây là: “ bảo
hiểm đến khi chết”. Ngoài ra, có một số trường hợp loại hình bảo hiểm này còn
đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay cả khi họ sống đến 100 tuổi.
Đặc điểm:
- STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết
- Thời hạn bảo hiểm không xác định
- Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong
suốt quá trình bảo hiểm
- Phí bảo hiểm cao hơn so với bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, vì rủi ro chết
chắc chắn sẽ xảy ra, nên STBH chắc chắn phải chi trả.
- BHNT trọn đời là loại hình bảo hiểm dài hạn, phí đóng định kỳ và không thay

đổi trong suốt quá trình bảo hiểm, do đó đã tạo nên một khoản tiết kiệm cho người
thụ hưởng bảo hiểm vì chắc chắn người bảo hiểm sẽ chi trả STBH.
Mục đích:
- Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất
- Bảo đảm thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình
- Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau.
12
Hiện nay, loại hình bảo hiểm này thường có các loại hợp đồng sau:
- BHNT trọn đời phi lợi nhuận: loại này có mức phí và số tiền bảo hiểm cố định
suốt cuộc đời. Vì vậy, khi thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng không
có khoản lợi nhuận được chia.
- BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhuận: Loại hợp đồng này cũng tương tự
như loại trên, nhưng khi thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền
lợi, họ được chia một phần lợi nhuận như đã thoả thuận trong hợp đồng.
- BHNT trọn đời đóng phí liên tục: Loại này yêu cầu người được bảo hiểm phải
đóng phí liên tục cho tới khi chết. Vì đóng phí liên tục nên số phí phải đóng phí liên
tục cho tới khi chết. Vì đóng phí liên tục nên số phí phải đóng hàng năm sẽ thấp
hơn so với các loại hợp đồng khác và mức phí này là bằng nhau giữa các năm
Với mực phí phải đóng bằng nhau giữa các năm thì thời kỳ đầu, người bảo
hiểm thu được số phí lớn hơn mực cần thiết để chi trả cho những người chết sớm.
Sau một khoảng thời gian, xác suất tử vong của những người tham gia sẽ ngày càng
cao hơn, số tiền chi trả tất yếu sẽ tăng thêm. Như vậy, khoản tiền dôi ra trong thời
kỳ đầu cùng với số lãi thu được sẽ bù đắp để chi trả cho giai đoạn sau và hợp đồng
được duy trì ổn định, an toàn.
- BHNT trọn đời phí đóng một lần: Đây là loại hình bảo hiểm mà người được
bảo hiểm chỉ đóng phí một lần khi ký hợp đồng, còn người bảo hiểm phải đảm bảo
chi trả bất cứ lúc nào khi cái chết của người được bảo hiểm xuất hiện. Khoản phí
đóng một lần là khá lớn nên người tham gia hạn chế.
Loại hợp đồng này rất cổ điển, tuy nhiên nó vẫn được sử dụng để đáp ứng
những nhu cầu của những người có thu nhập cao trong xã hội.

Ví dụ: khi người thanh niên 25 tuổi ở Mỹ, mua bảo hiểm loại này với số tiền
bảo hiểm là 1.000 ÚD, anh ta phải đóng phí 1 lần khi ký hợp đồng là 350 USD.
Tương ứng với số tiền bảo hiểm 100.000 USD, anh ta phải đóng phí 35.000 USD.
13
- BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí bảo hiểm: Loại này không đòi hỏi
người được bảo hiểm phải đóng phí liên tục hay 1 lần, mà quy định rõ số năm đóng
phí bảo hiểm. Ví dụ, đóng làm 5 lần, 10 lần, 15 lần, hoặc đóng đến một độ tuổi quy
định, chẳng hạn đến 60 hoặc 65 tuổi. Tổng số phí đóng mỗi lần phụ thuộc vào số
lần đóng phí. Nếu người được bảo hiểm chết trước khi hết thời hạn đóng phí thì
quyền lợi bảo hiểm sẽ được thanh toán cho người thụ hưởng bảo hiểm và không
phải trả thêm các khoản phí còn chưa trả hết.
Loại hợp đồng này rất phù hợp với những người sau khi nghỉ hưu, thu nhập
giảm, việc tiếp tục đóng phí bảo hiểm là một gánh nặng đối với họ, trong khi họ
vẫn có nhu cầu được bảo hiểm.
2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ):
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người được bảo hiểm cam kết chi
trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt
cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến
hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào.
Đặc điểm:
- Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc cho
đến khi chết
- Phí bảo hiểm đóng 1 lần
- Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định
Mục đích:
- Đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay tuổi cao sức yếu
- Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già
- Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời
Như vậy, với một khoản phí bảo hiểm phải nộp khi ký hợp đồng mà người
tham gia lựa chọn, người bảo hiểm sẽ thanh toán một khoản trợ cấp định kỳ hàng

tháng cho người được bảo hiểm. Nếu khoản trợ cấp này thanh toán định kỳ cho đến
14
hết đời, người ta gọi là “ Bảo hiểm niên kim nhân thọ trọn đời”. Nếu chỉ được
thanh toán trong một thời kỳ nhất định người ta gọi là “bảo hiểm niên kinh nhân
thọ tạm thời”.
Loại hình bảo hiểm này rất phù hợp với những người khi về hưu hoặc những
người không được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ BHXH đến độ tuổi tương ứng với
độ tuổi về hưu đăng ký tham gia, để được hưởng những khoản trợ cấp định kỳ hàng
tháng. Vì vậy, tên gọi “bảo hiểm tiền trợ cấp hưu trí”, “bảo hiểm tiền hưu”, “niên
kim nhân thọ” v.v... được các công ty bảo hiểm vận dụng linh hoạt.
3. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp:
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cả trong trường hợp người
được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đang xen nhau vì
thế nó được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới.
Đặc điểm:
- STBH được trả khi: hết hạn hợp đồng hoặc người được bảo hiểm tử vong
trong thời hạn bảo hiểm
- Thời hạn bảo hiểm xác định (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm....)
- Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo
hiểm.
- Có thể chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được hoàn phí
khi không có điều kiện tiếp tục tham gia.
Mục đích:
- Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân
- Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ
- Dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc khỏi nghiệp kinh doanh..
Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hoá loại
sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận,
có lợi nhuận và các loại hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế.
15

4. Các điều khoản bảo hiểm bổ sung:
Khi triển khai các loại hình BHNT, nhà bảo hiểm còn nghiên cứu, đưa ra các
điểu khoản bổ sung để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân. Có các điều khoản
bổ sung sau đây thường hay được vận dụng:
- Điều khoản bổ sung bảo hiểm nằm viện và phẫu thuật : có nghĩa là nhà bảo
hiểm cam kết trả các chi phí nằm viện và phẫu thuật cho người được bảo hiểm khi
họ bị ốm đau, thương tích. Tuy nhiên, nếu người được bảo hiểm tự gây thương tích,
tự tử, mang thai và sinh nở...thì không được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Mục đích
của điều khoản này nhằm trợ giúp người tham gia giảm nhẹ gánh nặng chi phí
trong điều trị phẫu thuật, đặc biệt là trong các trưởng hợp ốm đau, thương tích bất
ngờ.
- Điều khoản bổ sung bảo hiểm tai nạn: Nhằm trợ giúp thanh toán chi phí trong
điều trị thương tật, từ đó bù đắp sự mất mát hoặc giảm thu nhập do bị chết hoặc
thương tích của người được bảo hiểm. Đìêu khoản bảo hiểm này có đặc điểm là bảo
hiểm khá toàn diện các hậu quả tai nạn như: Người được bảo hiểm bị tàn phế,
thương tật toàn bộ, thương tích tạm thời và bị tai nạn sau đó bị chết. Nhưng trường
hợp tự thương, tai nạn do nghiện rượu, ma tuý, tự tử...sẽ không được hưởng quyền
lợi bảo hiểm.
- Điều khoản bổ sung bảo hiểm sức khoẻ: Thực chất của điều khoản này là nhà
bảo hiểm sẽ cam kết thanh toán khi người được bảo hiểm bị các chứng bệnh hiểm
nghèo như:
+ Đau tim
+ Ung thư
+ Suy gan
+ Suy thận
+ Suy hô hấp...
16
Mục đích tham gia bảo hiểm ở đây nhằm có được những khoản tài chính nhất
định để trợ giúp thanh toán các khoản chi phí y tế lớn và góp phần giải quyết, lo
liệu các nhu cầu sinh hoạt ngay trong thời gian điều trị.

Ngoài ra, trong một số hợp đồng BHNT, các công ty bảo hiểm còn đưa ra
những điểm bổ sung khác nhau như: Hoàn phí bảo hiểm, miễn thanh toán phí khi bị
tai nạn, thương tật v.v... nhằm tăng tính hấp dẫn để thu hút người tham gia.
Mặc dù có mức phí cao hơn, nhưng các HĐBH nhân thọ có các điều khoản
bổ sung đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm.
Phần II: Những nội dung cơ bản về sản phẩm An Sinh Giáo Dục
I. Quá trình hình thành và phát triển của sản phẩm An Sinh Giáo Dục:
Theo quyết định số 296 / TC / TCNH ngày 20 / 3 / 1996 của Bộ tài chính, khi
bước vào triển khai loại hình BHNT Bảo Việt đã tiến hành triển khai hai loại hình
BH đó là BHNT có thời hạn 5, 10 năm (BVNA1, BVNA2/1996) và bảo hiểm trẻ
em-chương trình đảm bảo cho trẻ em đến tuổi trưởng thành (BVNA3/1996).
Sản phẩm “chương trình bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành”, đây là tên
ban đầu của sản phẩm An Sinh giáo dục (BVNA3/1996) khi mới đưa vào triển
khai. Về bản chất sản phẩm này thuộc nhóm bảo hiểm hỗn hợp, nghĩa là loại hình
được bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống
yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen lẫn nhau. Vì thế nó rất phù hợp với đối tượng trẻ
em, bởi lẽ khi mua sản phẩm bảo hiểm này các bậc phụ huynh hoàn toàn không
mong muốn rủi ro xảy ra đối với con em mình mà chỉ mong muốn đó là một khoản
tiết kiệm dành cho những kế hoạch trung hay dài hạn cho con cái sau này. Đối
tượng được bảo hiểm ở đây là trẻ em cho nên tính tiết kiệm được đề cao hơn tính
rủi ro. Trong sản phẩm bảo hiểm này có một số đặc tính sau:
- Khi trẻ em được bảo hiểm đến tuổi trưởng thành (năm 18 tuổi) Bảo Việt Nhân
Thọ sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng.
17
- Nếu trẻ em không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt
ngừng thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cho đến năm trẻ
em tròn 18 tuổi.
- Nếu trẻ em không may bị chết, Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 % số phí đã
nộp.
- Nếu người chủ hợp đồng bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn

do tai nạn, công ty sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực.
- Ngoài số tiền bảo hiểm, tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ trả
cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh tại nghiệp vụ
này vào ngày kết thúc hợp đồng được gọi là bảo tức.
-Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên, người
tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị
giải ước.
Kể từ ngày 15/5/1998, công ty Bảo Việt nhân thọ dừng bán sản phẩm
(BVNA3/1996). Tuy nhiên, công ty vẫn duy trì hiệu lực hợp đồng cho đến hết thời
hạn bảo hiểm. Thế vào đó công ty triển khai sản phẩm mới Bảo hiểm An Sinh Giáo
Dục (BVNA6/1998).Thực chất đây là một bước cải tiến hoàn thiện sản phẩm của
công ty BHNT bởi vì sản phẩm mới này về căn bản dựa trên cơ sở sản phẩm
BHNT cũ có sửa đổi và hoàn thiện.
Sang năm 2001, đứng trước bối cảnh đó là việc nhà nước mở cửa thị trường
BHNT nên công ty BHNT phải đối mặt với những thử thách mới, sự canh tranh của
các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm dành
cho trẻ em, do đó đòi hỏi công ty không ngừng đổi mới và phát triển sản phẩm. Vì
vậy, dựa trên cơ sở sản phẩm bảo hiểm cũ (BVNA6/1999) công ty đã cho ra đời
sản phẩm mới bảo hiểm An Sinh Giáo Dục (BVNA9/2001) thay thế cho cho sản
phẩm (BVNA6/1999).
18
Không ngừng đổi mới và hoàn thiện sản phẩm đến đầu năm 2007 công ty
ngừng triển khai sản phẩm (BVNA6/1999) và cho ra đời sản phẩm An Sinh Giáo
Dục (BVNV23P/2007) thay thế cho sản phẩm cũ. Đây là sản phẩm bảo hiểm An
Sinh Giáo Dục mới nhất của công ty hiện nay, với những tính năng ưu việt hơn sản
phẩm cũ, hiện nay sản phẩm An Sinh Giáo Dục (BVNT23P/207) đang thu hút được
số lượng lớn người tham gia, làm một trong những sản phẩm chiến lược của công
ty.
II. Đặc trưng cơ bản của sản phẩm An Sinh Giáo Dục:
1. Ý nghĩa của sản phẩm:

Sản phẩm An sinh giáo dục là bảo đảm cho trẻ em tới tuổi trưởng thành.
Chương trình này là một loại hình thuộc BHNT hỗn hợp nên nó mang rất nhiều ý
nghĩa:
- An sinh giáo dục: một giải pháp đầu tư cho tương lai, giúp con nhà nghèo có thể
học đại học.
Hiện nay có nhiều sinh viên phải bỏ dở việc học đại học hay đỗ đại học mà
không được đi học, một trong những nguyên nhân là do chi phí phải nộp cùng các
khoản đóng góp quá cao. Chi phí cho học hành trở thành vấn đề bức xúc đối với
toàn xã hội cũng như các bậc phụ huynh mà phần lớn họ có mức thu nhập thấp.
Nhà nước chủ trương không bao cấp mà thu học phí của sinh viên là thể hiện
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong giáo dục. Nhiều gia đình ở
nông thôn đã phải bán đất bán ruộng để đổi lấy một chỗ ngồi trên giảng đường cho
con cái (đây là vấn đề đã được nêu ở trên một tờ báo). Làm sao để con em mình có
tiền đi học đại học? Bạn có biết rằng chỉ với một vài ngàn đồng tiết kiệm mỗi ngày,
con bạn có thể ngẩng cao đầu trong tương lai. Vậy giải pháp có tính khả thi và phù
hợp với tất cả mọi người hiện nay là gì? Đó là An sinh giáo dục.
- Sản phẩm An sinh giáo dục giúp cho mọi người thực hiện được mong ước cho
tương lai và đảm bảo quyền lợi cho chính con cái và gia đình.
19
- An sinh giáo dục mang ý nghĩa nhân văn, giáo dục sâu sắc
Là một loại hình của BHNT hỗn hợp, nên người tham gia chương trình An sinh
giáo dục chắc chắn sẽ nhận được số tiền vào một thời điểm nhất định trong tương
lai dù rủi ro không xảy ra và nhận được một khoản lãi được gọi là bảo tức tích luỹ
mà không phải chi ra một khoản tiền lớn cùng một lúc, chỉ tích luỹ dần dần. Hơn
nữa sản phẩm này lại thể hiện tính nhân văn cao cả mà các loại hình bảo hiểm khác
không thể hiện được. Có thể cùng nhận một khoản tiền như BHNT có thời hạn 5
năm, 10 năm nhưng nó mang một ý nghĩa to lớn hơn rât nhiều. Trong một xã hội
nói chung và một gia đình nói riêng, các thế hệ đi trước thường có mối quan tâm
đặc biệt đối với các thế hệ đi sau và sản phẩm bảo hiểm An sinh giáo dục đã thể
hiện rõ sự quan tâm đặc biệt đó. Nó thể hiện sự chăm lo sâu sắc của ông bà, cha mẹ

đối với con cháu và ngược lại, nó làm cho thế hệ trẻ chúng ta biết sống vì người
khác, hiểu rõ hơn sự quan tâm của ông bà, cha mẹ để phấn đấu hơn trong học tập
và rèn luyện.
- An sinh giáo dục còn góp phần tạo nên một phong cách, tập quán và lối sống
mới.
Người tham gia bảo hiểm có thể bảo hiểm, tạo quyền lợi cho chính mình và con
cháu mình. Điều đó thể hiện một nét sống đẹp là biết chăm lo cho con cái và biết
tự lo cho chính bản thân. Cha mẹ tham gia chương trình An sinh giáo dục là một
cách để giáo dục con cái mình và sống có trách nhiệm với người khác.
- Tham gia bảo hiểm An sinh giáo dục là góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh
tế xã hội.
Vì “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai“ nên đầu tư cho giáo dục phải
được coi là một trong những nhân tố then chốt cho sự phát triển, nó làm cho sự tiến
bộ xã hội không ngừng được nâng cao.
An sinh giáo dục là một trong những giải pháp huy động nguồn vốn
dài hạn để đầu tư cho giáo dục từ việc tiết kiệm thường xuyên và có kế hoạch của
20
mỗi gia đình. Đây là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu công bằng xã hội. Bảo
đảm tương lai cho con em mình, cũng nên được coi là trách nhiệm của mỗi gia đình
- tế bào của xã hội với chức năng cơ bản tạo ra thế hệ kế cận ưu tú hơn.
- An sinh giáo dục là chưong trình bảo hiểm cho cả người tham gia bảo hiểm và
người được bảo hiểm.
Đây là một đặc trưng của bảo hiểm trẻ em vì khi ông ba, cha mẹ tham gia bảo
hiểm An sinh giáo dục cho con em mình thì đồng thời cũng bảo hiểm cho bản thân
bởi lẽ nếu có rủi ro xảy ra đối với chủ hợp đồng thì con em họ vẫn tiếp tục được
bảo vệ mà không tiếp tục phải đóng phí, tất nhiên về mặt tình cảm là không thể bù
đắp được nhưng trên phương diện tài chính thì có thể yên tâm rằng con em họ vẫn
được bảo vệ. Đó là quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và người được bảo
hiểm.
2. Những nội dung cơ bản về sản phẩm An Sinh Giáo Dục:

2.1. Một số khái niệm về hồ sơ yêu cầu bảo hiểm:
Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm: là mẫu đăng ký bảo hiểm do công ty bảo hiểm phát
hành, người yêu cầu bảo hiểm phải điền đầy đủ và chính xác những thông tin liệt
kê sẵn trên mẫu. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm được xem là một phần của hợp đồng bảo
hiểm. Hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, điều khoản và các phụ lục là những bộ phận cơ bản
của hợp đồng bảo hiểm.
Nội dung của hồ sơ yêu cầu: hồ sơ yêu cầu là một phần quan trọng của
hợp đồng bảo hiểm. Người yêu cầu bảo hiểm phải kê khai trung thực mọi chi tiết về
bản thân: tên, tuổi, giới tính, chỗ ở, sở thích; về tình trạng sức khoẻ, về điều kiện
bảo hiểm mà mình lựa chọn theo mẫu đã in sẵn. Trên cơ sở giấy yêu cầu bảo hiểm,
công ty bảo hiểm sẽ đề nghị khám sức khoẻ và đưa ra quyết định có nhận bảo hiểm
hay không. Nếu đồng ý chấp nhận bảo hiểm, công ty sẽ đưa ra một mức phí phù
hợp. Sau khi nhận được số phí đầu tiên, công ty sẽ phát hành hợp đồng bao gồm
21
điều khoản và các phụ lục. Một bản gửi lại cho khách hàng, một bản giữ lại ở công
ty cùng với giấy yêu cầu bảo hiểm.
Người chủ hợp đồng:
Là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có độ tuổi từ 18 đến 60 vào thời
điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng nhưng không quá 70 tuổi, là người kê khai
giấy yêu cầu bảo hiểm, đồng thời là người kí hợp đồng và nộp phí bảo hiểm.
Người được bảo hiểm:
Là trẻ em không quá 15 tuổi vào thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng và
được Bảo Việt Nhân Thọ chấp nhận bảo hiểm theo điều khoản và điều kiện của
hợp đồng. Tên người được bảo hiểm được ghi trong giấy yêu cầu bảo hiểm và hợp
đồng bảo hiểm.
Tai nạn:
Là một sự kiện hoặc một chuỗi sự kiện không bị gián đoạn gây ra do sự tác
động bất ngờ của một vật chất hoặc một lực từ bên ngoài, không chủ định và ngoài
ý muốn của người được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm lên cơ thể người được bảo
hiểm, bên mua bảo hiểm và gây ra thương tật hoặc tử vong, loại trừ bất cứ quá trình

nào xảy ra do bệnh tật, tuổi tác hay sự thoái hoá. Sự kiện hoặc chuỗi sự kiện nêu
trên phải là nguyên nhân trực tiếp và duy nhất gây ra thương tật hoặc tử vong cho
người được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm.
Thương tật toàn bộ vĩnh viễn:
Là tình trạng người được bảo hiểm hoặc bên mua bảo hiểm bị mất
hoàn toàn hoặc không thể phục hồi được chức năng của:
- Hai tay hoặc hai chân hoặc . . .
- Một tay, một chân hoặc hai mắt hoặc . . .
- Một tay, một mắt hoặc . . .
- Một chân, một mắt hoặc . . .
Giá trị giải ước (hay giá trị hoàn lại):
22
Là số tiền bên mua bảo hiểm được nhận khi bên mua bảo hiểm yêu
cầu huỷ hợp đồng hoặc khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực theo các quy định trong
điều khoản hợp đồng, trừ những trường hợp được qui định khác trong điều khoản
hợp đồng.
Số tiền bảo hiểm giảm:
Là số tiền bảo hiểm được xác định lại trong trường hợp bên mua bảo
hiểm yêu cầu dừng đóng phí bảo hiểm và tiếp tục duy trì hợp đồng.
Phạm vi bảo hiểm:
Do đây là loại hình BHNT nên phạm vi bảo hiểm phải gắn liền với
cuộc sống của con người do vậy ta phải phân ra:
-Sự kiện được bảo hiểm
+ Người được bảo hiểm sống đến đáo hạn hợp đồng bảo hiểm.
+ Thương tật toàn bộ vĩnh viễn: bị tai nạn và mất 2 trong 6 bộ phận quy định ở
phần trên,
+ Rủi ro tử vong: đây là rủi ro có thể phát sinh do 2 nguyên nhân: chết do tai
nạn hoặc chết cho bệnh tật.
Bên cạnh những rủi ro được bảo hiểm, trong BHNT còn có quy định
về rủi ro loại trừ. Việc đưa ra các rủi ro loại trừ nhằm hạn chế phạm vi trách nhiệm

của nhà bảo hiểm, mặt khác gián tiếp giáo dục mọi người về ý thức tổ chức kỉ luật,
tôn trọng pháp luật, có ý thức đề phòng và hạn chế rủi ro.
- Rủi ro loại trừ xảy ra do một số nguyên nhân sau:
+ Hành động cố ý của người được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm hoặc người
được thừa kế
+ Hành động vi phạm pháp luật của người được bảo hiểm, bên mua bảo hiểm.
+ Bên mua bảo hiểm bị ảnh hưởng nghiêm trọng của rượu, bia, ma tuý hoặc các
chất kích thích tương tự .
+ Do động đất, núi lửa v .v . . .
23
+ Do chiến tranh, bạo động v.v . . .
2.2. Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm:
2.2.1. Trách nhiệm của các bên:
* Trách nhiệm của bên mua bảo hiểm
- Kí hợp đồng bảo hiểm: người tham gia trực tiếp kí hợp đồng bảo hiểm, cùng
công ty bảo hiểm thoả thuận cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp
đồng.
- Trách nhiệm khai báo rủi ro: Ngay khi kí hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo
hiểm có trách nhiệm kê khai trung thực những yêu cầu của công ty bảo hiểm (kê
khai tình trạng sức khoẻ).
- Trách nhiệm đóng phí bảo hiểm: đây là số tiền mà họ phải đóng cho công ty
bảo hiểm, theo quy định nộp phí của công ty khoản phí đóng đầu tiên sẽ là cơ sở
thời điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng. Bên mua bảo hiểm phải đóng đầy đủ
phí theo quy định và đúng hạn.
- Trách nhiệm khai báo, thông báo tổn thất: khi có sự cố rủi ro xảy ra, người
tham gia bảo hiểm phải khai báo cụ thể tình hình xảy ra sự cố tổn thất, tình trạng
sức khoẻ của người được bảo hiểm cho công ty bảo hiểm biết. Bên cạnh đó phải
cung cấp đầy đủ hồ sơ cho công ty một cách trung thực, chính xác để công ty căn
cứ trả tiền bảo hiểm. Tạo điều kiện để công ty giám định tình trạng sức khoẻ.
* Trách nhiệm của công ty bảo hiểm:

- Kí kết hợp đồng chấp nhận người tham gia để hình thành quỹ bảo hiểm.
- Đề phòng, hạn chế tổn thất xảy ra trong thời gian hợp đồng còn hiệu lực.
- Thu phí và có trách nhiệm nộp cho ngân sách Nhà nước một khoản tiền gọi là
thuế như đối với các doanh nghiệp khác.
- Bảo toàn đồng vốn và chấp hành đúng pháp luật.
- Cung cấp đầy đủ và trung thực tất cả các thông tin có liên quan đến việc giao
kết và thực hiện hợp đồng.
24
2.2.2. Quyền lợi bảo hiểm:
1) Đến năm người được bảo hiểm tròn 18 tuổi, khi hợp đồng bảo hiểm hết hạn,
công ty BHNT sẽ trả cho người được bảo hiểm số tiền bảo hiểm đã cam kết và
được ghi trong hợp đồng bảo hiểm.
2) Bảo Việt Nhân Thọ hoàn trả 100% số phí bảo hiểm đã đóng sau khi trừ đi
các chi phí hợp lý liên quan cho bên mua bảo hiểm trong trường hợp người được
bảo hiểm chết khi hợp đồng đang có hiệu lực do một trong những nguyên nhân sau:
a) Do tự tử khi hợp đồng có hiệu lực chưa đủ 24 tháng
b) Do các nguyên nhân khác (không phải do tại nạn, tự tử) khi hợp đồng có
hiệu lực chưa đủ 12 tháng.
3) Bảo Việt Nhân thọ trả quyền lợi bảo hiểm tử vong cho bên mua bảo hiểm
trong trường hợp người được bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm do một trong
những nguyên nhân sau:
a) Do tai nạn xảy ra trong thời hạn bảo hiểm
b) Do tự tử khi hợp đồng có hiệu lực từ đủ 24 tháng trở lên
c) Do các nguyên nhân khác (không phải do tai nạn, tự tử) khi hợp đồng cso
hiệu lực đủ 12 tháng trở lên.
4) Trường hợp người tham gia bảo hiểm bị chết
4.1. Bảo việt nhân thọ dừng thu phí kể từ ngày đến hạn đóng phí ngày sau ngày
bên mua bảo hiểm chết và hợp đồng vẫn được duy trì với đầy đủ các quyền lợi bảo
hiểm trong trường hợp bên mua bảo hiểm chết trong thời hạn bảo hiểm do một
trong các nguyên nhân sau:

a) Do tại nạn xảy ra trong thời hạn bảo hiểm.
b) Do tự tử khi hợp đồng có hiệu lực từ 24 tháng trở lên.
c) Do các nguyên nhân khác (không phải do tai nạn, tự tử) khi hợp đồng cso
hiệu lực từ 12 tháng trở lên.
25

×