Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Hiệu quả mô hình đào tạo tín chỉ trong trường đại học khoa học xã hội và nhân văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.53 KB, 64 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

TÊN ĐỀ TÀI :“ Hiệu quả của mô hình đào tạo tín chỉ trong trường đại
học” (Nghiên cứu trường hợp Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQGHN)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Hà Nội – 2012

1


Đề tài:
“HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ TRONG TRƯỜNG ĐẠI HỌC
HIỆN NAY”
(Nghiên cứu trường hợp Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQGHN)

2


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1

Lý do chọn đề tài
Đào tạo theo Hệ thống tín chỉ, lần đầu tiên được tổ chức tại trường Đại học Harvard,

Hoa kỳ vào năm 1872, sau đó lan rộng ra khắp Bắc Mỹ và thế giới. Đây là phương thức
đào tạo theo triết lý “Tôn trọng người học, xem người học là trung tâm của quá trình đào


tạo”. Theo đánh giá của Tổ chức ngân hàng thế giới (World Bank), thì đào tạo theo Hệ
thống tín chỉ, không chỉ có hiệu quả đối với các nước phát triển mà còn rất hiệu quả đối với
các nước đang phát triển. Ở nước ta, trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh
đã triển khai đào tạo theo Hệ thống tín chỉ từ năm học 1993-1994 và đã đạt được nhiều kết
quả tốt đẹp. Trong “Chương trình hành động của chính phủ” thực hiện nghị quyết số
37/2004/QH11 khóa XI, kỳ họp thứ sáu của Quốc hội về giáo dục đã chỉ rõ: “Mở rộng, áp
dụng học chế tín chỉ trong đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp …”. Đề án
đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã được Chính phủ phê duyệt
cũng khẳng định: “… xây dựng học chế tín chỉ thích hợp cho giáo dục đại học ở nước ta
và vạch ra lộ trình hợp lý để toàn bộ hệ thống giáo dục đại học chuyển sang đào tạo theo
học chế tín chỉ…”. Cho đến nay, cả nước đã có hơn 20 trường trong toàn quốc chuyển đổi
sang đào tạo theo Học chế tín chỉ với lộ trình và bước đi hợp lý.
Nếu như trong đào tạo theo học chế – niên chế, sinh viên phải học theo tất cả những
gì Nhà trường sắp đặt, không phân biệt sinh viên có điều kiện, năng lực tốt, hay sinh viên
có hoàn cảnh khó khăn, năng lực yếu. Ngược lại, đào tạo theo học chế tín chỉ cho phép sinh
viên có thể chủ động học theo điều kiện và năng lực của mình. Những sinh viên giỏi có thể
học theo đúng hoặc học vượt kế hoạch học tập toàn khóa, kế hoạch học tập từng học kỳ
theo gợi ý của Nhà trường, để tốt nghiệp theo đúng thời gian chuẩn của chương trình hoặc
sớm hơn. Những sinh viên bình thường và yếu có thể kéo dài thời gian học tập trong
trường và tốt nghiệp muộn hơn. Vì thế, sinh viên phải tự lập kế hoạch học tập toàn khóa và
từng học kỳ cho phù hợp với năng lực và điều kiện cụ thể của bản thân dưới sự giúp đỡ của
3


giáo viên chủ nhiệm hay cố vấn học tập. Toàn bộ hệ thống quản lý đào tạo, quản lý sinh
viên vì thế phải vận hành theo yêu cầu riêng của từng sinh viên làm cho quá trình quản lý
trở nên hết sức phức tạp so với đào tạo theo học phần - niên chế. Chương trình đào tạo của
tất cả các ngành đều phải cấu trúc lại theo hướng mô đun hóa thành những học phần; lịch
trình giảng dạy phải thực hiện hết sức chính xác, không được đổi giờ hoặc bỏ giờ; mỗi
giảng viên, mỗi sinh viên đều có thời khóa biểu riêng, không theo một quy luật nào cả v.v.

Vì thế, nếu trước kia sinh viên phải “chạy” theo kế hoạch của nhà trường thì bây giờ nhà
trường phải “chạy” theo kế hoạch của từng sinh viên. Khi triển khai đào tạo theo Hệ thống
tín chỉ, trong học kỳ thứ nhất và thứ hai, các nhà trường đều gặp phải những khó khăn nhất
định, đó cũng là điều tất yếu, vì đào tạo theo Hệ thống tín chỉ yêu cầu một hệ thống quản lý
khoa học, chặt chẽ, linh hoạt và mềm dẻo. Đào tạo theo tín chỉ còn đòi hòi cả người dạy và
người học phải thay đổi cách tư duy, đổi mới phương pháp dạy và học từ bị động sang chủ
động một cách nghiêm túc.
Tiến trình xây dựng các quy chế đào tạo tín chỉ luôn nằm trong lộ trình đổi mới và
nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Điều đó nói lên rằng, phương thức đào tạo theo hệ
thống tín chỉ không phải là mục đích mà giáo dục đại học Việt Nam hướng tới mà là một
giải pháp được lựa chọn để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển giáo dục đại học.
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN là một trong những trường đại
học đầu tiên trong hệ thống các trường của ĐHQGHN đạt được những bước thành công
lớn sau 5 năm chuyển đổi phương thức đào tạo đại học theo tín chỉ. Chính vì vậy chúng tôi
lựa chọn đề tài “ Hiệu quả của mô hình đào tạo tín chỉ trong trường đại học” (Nghiên
cứu trường hợp Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQGHN) làm đề tài nghiên cứu. Trong
phạm vi đề tài, chúng tôi mong muốn đem lại những kết quả về tác động của mô hình đào
tạo tín chỉ đối với người học, người dạy và sự biến đổi trong cấu trúc quản lý của trường
đại học.

2 Câu hỏi nghiên cứu
 Việc áp dụng theo mô hình đào tạo theo tín chỉ tại trường Đại học KHXH và Nhân

văn - ĐHQGHN diễn ra như thế nào ?
4


 Mô hình đào tạo tín chỉ tác động như thế nào đối với giảng viên và sinh viên hiện

nay?

 Với việc áp dụng theo mô hình đào tạo theo tín chỉ này thì trường Đại học KHXH
và Nhân văn – ĐHQGHN đã đạt được những thành tích gì?
3 Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Thông qua đề tài chúng tôi có thể vận dụng một số khái niệm, lý thuyết và phương
pháp nghiên cứu xã hội học vào nghiên cứu một vấn đề cụ thể của đời sống xã hội dưới góc
độ của nghiên cứu Xã hội học giáo dục. Đề tài cũng nhằm mang lại những hiểu biết chung
nhất về một vấn đề mà xã hội học nói chung và xã hội học giáo dục nói riêng quan tâm tìm
hiểu.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Vấn đề hiệu quả của mô hình đào tạo theo tín chỉ sau khi áp dụng nhận được sự
quan tâm của nhà trường nói riêng và xã hội nói chung. Sự thay đổi mô hình đào tạo mới sẽ
kéo theo nhiều khía cạnh khác liên quan, có tầm ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục cũng
như chất lượng đầu ra của nguồn lực lao động. Hiện nay có càng nhiều trường áp dụng mô
hình đào tạo theo tín chỉ vào cơ chế đào tạo của trường mình, do đó việc đánh giá mức độ
hiệu quả nó mang lại là rất cần thiết, để đánh giá những điểm tốt và những tồn tại từ đó đưa
ra những phương án thích hợp để phát huy hơn nữa những hiệu quả mà nó mang lại.
Qua việc nghiên cứu đề tài, chúng tôi không chỉ vận dụng được những lý thuyết,
phương pháp và kiến thức trong quá trình học tập vào nghiên cứu một vấn đề cụ thể trong
lĩnh vực giáo dục, mà có thể góp phần mang đến một vài hiểu biết về thực trạng vấn đề
này, trên cơ sở lựa chọn trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, một trường điển
hình về chuyển đổi mô hình đào tạo theo tín chỉ.
4

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
 Qua việc tìm hiểu về mô hình đào tạo theo tín chỉ chúng tôi muốn tìm ra được

những hiệu quả mà mô hình này mang lại.
 Tác động của nó đến việc quản lí cũng như học tập của nhà trường và sinh viên.


5


 Đưa ra kết luận và một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng

mô hình này trong đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Tìm hiểu về thực trạng mô hình đào tạo theo tín chỉ ở trường ĐHKHXH&NV.
 Qua việc tìm hiều về hình thức đào tạo theo tín chỉ được áp dụng ở trường

ĐHKHXH&NV, nó mang lại những kết quả gì về mặt học tập và quản lí.
 Qua các thông tin trên, thì so sánh với một số trường khác.
5 Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: hiệu quả của mô hình đào tạo theo tín chỉ đối với người học.
 Khách thể nghiên cứu: các sinh viên và giảng viên của trường Đại học khoa học xã

hội và nhân văn. Phòng đào tạo của trường trường Đại học khoa học xã hội và nhân
văn.
 Phạm vi nghiên cứu:
o
o
6

Không gian: Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn. ĐHQGHN
Thời gian: từ 3 tháng10 – 25 tháng 11 năm 2012.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi có sử dụng các phương pháp nghiên cứu xã


hội học đặc thù như: phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi, phương pháp quan sát,
phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp phỏng vấn sâu.
 Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi:
Nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra khảo sát qua phiếu trưng cầu ý kiến . Với kích
thước mẫu là 120 mẫu. Khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy những đặc điểm tình
hình của trương là học theo tín chỉ nên giờ lên lớp là khác nhau. Cộng với việc đây là một
bài tập nghiên cứu có tính chất chuyên ngành cao. Do đó , nhóm nghiên cứu đã quyết định
lựa chon với cơ cấu mẫu là 120 mẫu và tiến hành nghiên cứu tại các phòng học của trường
Đại học khoa học xã hội và nhân văn .ĐHQGHN. Tuy nhiên khi tiến hành nghiên cứu
chúng tôi thu về với số phiếu hợp lệ là 114 phiếu, với cơ cấu mẫu như sau:

6


ST

Tiêu chí

N

Tỉ lệ (%)

Nam

25

21.9

Nữ


89

78.1

Năm nhất

17

14.9

Năm hai

31

27.2

Năm ba

39

34.2

Năm tư

27

23.7

Giảng viên


0

0

Cán bộ/ chuyên viên

0

0

114

100

T
1

2

3

Giới tính

Năm học

Nghề nghiệp

Sinh viên
 Phương pháp phân tích tài liệu:


Là phương pháp thu thập thông tin thông qua những tài liệu sơ cấp và thứ cấp. Đây
là phương pháp đầu tiên chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu, nhằm nắm bắt được những
thông tin liên quan đến vấn đề, và từ đó thấy được tính bức thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Nguồn tài liệu chủ yếu là sách, báo, tạp chí và các bài viết có liên quan trên mạng
internet… Chúng tôi đã tiến hành thu thập một số thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu
như Kỷ yếu hội nghị tổng kết 4 năm mô hình đào tạo tín chỉ ở trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Hội nghị tổng kết công tác đào tạo tín chỉ của Bộ Giáo dục và Đào tạo
năm 2010 và của một số trường Đại học khác như Đại học Đà Nẵng, Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh,… Trên cơ sở những thông tin thu được, chúng tôi tiến hành phân
tích và xử lý để đưa ra các kết quả nghiên cứu phù hợp với đề tài.
 Phương pháp quan sát:
Trong thời gian thực hiện đề tài nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành các quan sát có tham

dự vào việc thực hiện mô hình đào tạo theo tín chỉ ở trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn.
7


Chúng tôi đã trực tiếp tham gia vào quá trình học tập theo mô hình đào tạo tín chỉ nên có
thể đưa ra một số nhận định về hiệu quả cũng như khó khăn cả về phía người dạy – người
học và sự quản lý của nhà trường trong việc thực hiện chuyển đổi mô hình đào tạo tín chỉ.
 Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp phỏng vấn sâu được sử dụng để thu thập những thông tin mang tính
chiều sâu, những vấn đề chưa được đề cập, cần đươc làm rõ hơn thông qua chia sẻ của
những người được phỏng vấn. Thông qua quá trình phỏng vấn, người nghiên cứu cũng có
khả năng kiểm chứng mức độ tin cậy của thông tin thu được và có thể dẫn dắt người được
phỏng vấn theo định hướng của nhà nghiên cứu, nhằm thu được thông tin cần thiết cho đề
tài.
Trong đề tài này, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn sâu 6 người là sinh viên
trường, sinh viên các khóa QH 2009, QH 2010,QH 2011,QH2012 để tiến hành thu thập

thông tin, xem xét quan điểm của những người đang theo học mô hình đào tạo tín chỉ.
7

Giả thuyết nghiên cứu
 Mô hình đào tạo theo tín chỉ ở trường ĐHKHXH và NV hiện nay diễn ra rất

tốt, được mọi người ủng hộ và tuân thủ theo những quy định mà trường đề ra.
 Đào tạo theo tín chỉ có nhiều tác động tích cực đến cả việc dạy và học của

giảng viên và sinh viên
 Mô hình đào tạo theo tín chỉ đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể: chất lượng
giảng dạy và học tập của giảng viên, sinh viên ngày càng tăng.
8

Khung lý thuyết

8


Điều
Điều kiện
kiện kinh
kinh tế
tế -- xã
xã hội
hội

Chính
Chính sách
sách đổi

đổi mới
mới giáo
giáo dục
dục

Giảng viên

Sinh viên

Nhà
Nhà trường
trường


Mô hình
hình đào
đào tao
tao tín
tín chỉ
chỉ

Phương
Phương thức
thức quản
quản lílí

NỘI DUNG CHÍNH
Chương I: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
1 Cơ sở lý luận
1

Phương pháp luận nghiên cứu đề tài
9


Nghiên cứu về mô hình đào tạo tín chỉ ở trường ĐHKHXH&NV – ĐHQGHN,
nhóm nghiên cứu lựa chọn cách tiếp cận vấn đề dưới góc độ xã hội học giáo dục, vận dụng
nguyên lý của phép biện chứng duy vật, chủ nghĩa duy vật lịch sử là những định hướng chủ
yếu, đóng vai trò chủ đạo xuyên suốt quá trình nghiên cứu.
Các nguyên tắc có tính phương pháp luận của báo cáo là: kết hợp các cách tiếp cận
xã hội học; kết hợp nghiên cứu lý thuyết với thực nghiệm; nghiên cứu vi mô kết hợp với
nghiên cứu vĩ mô.
2
Một số lý thuyết áp dụng
 Thuyết hành vi lựa chọn của Geogre Homans.
Trong “định đề duy lý”, G. Homans đã chỉ ra rằng: “cá nhân sẽ lựa chọn hành động
nào mà giá trị của kết quả hành động đó và khả năng đạt được kết quả đó là lớn nhất”.
Định để này cho thấy, con người là một chủ thể duy lý trong việc xem xét và lựa chọn hành
động nào có thể đem lại phần thưởng lớn nhất và có giá trị nhất. Có nghĩa là con người sẽ
quyết định lựa chọn một hành động nào đấy ngay cả khi giá trị của nó thấp nhưng bù lại,
họ chọn hành động vì tính khả thi của nó rất cao 1. Theo đây, thuyết lựa chọn hành vi hợp lý
cho rằng con người luôn hành động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử
dụng các nguồn lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu.
Thuật ngữ “lựa chọn” được dùng để nhấn mạnh việc phải cân nhắc, tính toán để quyết định
sử dụng loại phương tiện tối ưu trong những điều kiện khan hiếm các nguồn lực.
Trong đề tài này, chúng tôi xem xét sự lựa chọn hành vi ở cả hai phía: Nhà trường
và người học.
Về phía nhà trường, khi cân nhắc lựa chọn mô hình đào tạo theo tín chỉ cũng lựa
chọn những tính toán nhất định, như có thể thấy, trong phương thức đào tạo truyền thống,
một chương trình cử nhân gồm từ 200 – 210 đơn vị học trình, mỗi đơn vị học trình gồm 15
tiết tiếp xúc trực tiếp trên lớp giữa giáo viên và sinh viên (tương đương với 3000 – 3150

tiết). Đây là một chương trình được cho là “lấy công làm lãi”, chú trọng vào việc nhồi kiến
thức của giáo viên sang sinh viên, không tính đến thời lượng tự học của sinh viên và do đó
bỏ qua khả năng tự học, tự tìm tòi và phát triển tri thức của họ. Trong phương thức đào tạo
1Lê Ngọc Hùng, Lịch sử và lí thuyết xã hội học, NXB KHXH, HàNội, 2008,trang 366

10


theo tín chỉ, tự học, tự nghiên cứu của sinh viên được coi trọng được tính vào nội dung và
thời lượng của chương trình. Đây là phương thức đưa giáo dục đại học về với đúng nghĩa
của nó: người học tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét kiến thức của người dạy, và do
đó, phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. ... Theo định đề giá trị của thuyết
hành vi lựa chọn hợp lí, “nếu kết quả của hành động có giá trị cao thì chủ thể có xu hướng
tiếp tục thực hiện hành động đó”. Như vậy, có đào tạo theo mô hình tín chỉ hay không phải
tính đến chất lượng, hiệu quả mà mô hình đó mang lại cho cả người dạy, người học và
người quản lý, tổ chức... trước đây, mô hình đào tạo của các trường đại học và cao đẳng là
đào tạo theo niên chế, nhưng lợi ích mà mô hình này đem lại không cao do đó nhà trường
đã tìm những phương pháp mới để có thể đạt được kết quả tốt nhất. Nhà trường đã thấy
được những lợi ích mà mô hình đào tạo theo tín chỉ mang lại không chỉ về phía sinh viên
mà cả về phía nhà trường, theo thuyết lựa chọn hành vi hợp lý chi phí mà nhà trường bỏ ra
để tiến hành đào tạo theo tín chỉ đã mang lại nhiều kết quả, như nó là thước đo hiệu quả và
khả năng làm việc của giảng viên, nó còn là cơ sở để các trường đại học tính toán ngân
sách chi tiêu, nguồn nhân lực, có lợi không những cho tính toán ngân sách nội bộ mà còn
cả cho việc tính toán để xin tài trợ từ nguồn ngân sách nhà nước và các nhà tài trợ khác. Do
đó nhà trường sẽ tiếp tục duy trì và có nhiều phương pháp đổi mới hơn nữa để phù hợp với
nhu cầu và lợi ích của sinh viên cũng như nhà trường. Như vậy, từ khi áp dụng mô hình
đào tạo theo tín chỉ tại trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn đến nay đã là năm thứ 6,
nhà trường đã tính toán đến hiệu quả của nó mang lại để duy trì và ngày càng đổi mới,
nâng cao hiệu quả của mô hình này trong đào tạo.
Đối với người học, việc học theo mô hình đào tạo theo tín chỉ được coi là mô hình

bắt buộc mọi sinh viên phải chấp hành, khi được đào tạo theo mô hình đào tạo tín chỉ sinh
viên có thể chủ động về thời gian để có thể đăng kí học những môn phù hợp với khả năng
của mình, sinh viên có thể tham khảo giáo viên hoặc cố vấn học tập để chọn những môn
học phù hợp với mình, để hoàn thành những yêu cầu cho một văn bằng và để phục vụ cho
nghề nghiệp tương lai của mình. Sinh viên được cấp bằng khi đã tích lũy được đầy đủ số
lượng tín chỉ do trường đại học quy định; do vậy họ có thể hoàn thành những điều kiện để
được cấp bằng tùy theo khả năng và nguồn lực (thời lực, tài lực, sức khỏe, v.v.) của cá
11


nhân. phương thức đào tạo theo tín chỉ phản ánh được những mối quan tâm và những yêu
cầu của người học như là những người sử dụng kiến thức và nhu cầu của các nhà sử dụng
lao động trong các tổ chức kinh doanh và tổ chức nhà nước. theo lý thuyết lựa chọn hành vi
hợp lý, cá nhân sẽ lựa chọn hành động nào mà giá trị của kết quả hành động đó và khả
năng đạt được kết quả đó là lớn nhất. Như vậy, những lợi thế mà mô hình đào tạo theo tín
chỉ đem lại cho sinh viên là rất lớn, chính những lợi thế này mà sinh viên sẽ tiếp tục lựa
chọn những kết quả theo hướng có lợi cho mình mà mô hình đào tạo theo hệ thống tín chỉ
mang lại với những chi phí mà họ phải bỏ ra là thấp nhất.
 Thuyết chức năng.

E. Durkheim Coi chức năng như là các nhu cầu chung của cơ thể xã hội và mỗi sự
kiện xã hội đều có một chức năng nhất định. T. Parsons lại coi chức năng là nhu cầu của hệ
thống với bộ phận cấu thành ; Là quá trình hoạt động đáp ứng nhu cầu, tạo ra ích lợi…
Nhưng nhìn chung, “Chức năng” là sự đòi hỏi, sự cần thiết, lợi ích... mà một bộ phận hay
thành phần phải đảm nhiệm để phục vụ cho sự vận hành của cả hệ thống.
Như vậy, nhà trường là một hệ thống gồm những thiết chế đảm nhiệm những vị trí,
vai trò, chức năng nhất định đối với cả nhà trường. Trong đó, sự vận hành, hoạt động của
mỗi phòng ban đều có liên quan mật thiết và có tác động hai chiều đến những bộ phận,
phòng ban khác. Thuyết chức năng về giáo dục đặt ra vấn đề lớn đối với nhà trường là
nâng cao tính chuyên nghiệp của các bộ phận chức năng, từ bộ phận quản lý đến bộ phận

phục vụ... Thuyết này chủ yếu nói tới vị trí và vai trò của giáo dục trong xã hội. Giáo dục
có những chức năng nhất định đối với xã hội. Khi xã hội biến đổi từ trạng thái này sang
trạng thái khác thì chức năng của giáo dục cũng thay đổi 2. Trước đây, trong thời kì xã hội
phong kiến việc học hành chủ yếu là dạy cho nam giới, phụ nữ không được đến trường, và
nội dung chủ yếu của những bài giảng là tôn sư trọng đạo, trung quân ái quốc,… nhưng khi
bước vào thời kì xã hội chủ nghĩa tất cả mọi người đều được đến trường, đều bình đẳng
như nhau, và nội dung giảng dạy cũng thay đổi nhiều hơn, nhà trường ngoài đào tạo về mặt
2LêNgọcHùng, Xã hội học Giáo dục, NXB ĐHQG Hà Nội, 2009, trang 136.

12


lễ nghĩa thì còn đào tạo để sau này khi ra trường học sinh, sinh viên có thể tìm cho mình
một công việc phù hợp với khả năng của mình, như vậy chức năng của giáo dục cũng thay
đổi khi xã hội thay đổi.
Áp dụng vào đề tài này, chúng tôi nhận thấy mỗi nhà trường, trong đó có các phòng
ban khác nhau đều có những chức năng khác nhau. Cùng với đó, mô hình và cách thức đào
tạo của trường đó cũng có những chức năng xã hội nhất định. Ở đây, chúng tôi xem xét
hiệu quả của mô hình đào tạo theo tín chỉ ở trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, thực
chất nhằm nghiên cứu, tìm hiểu chức năng của những phòng ban trực tiếp liên quan đến
quản lý, tổ chức giảng dạy theo mô hình đào tạo mới, từ đó tìm hiểu những hiệu quả mà
mô hình này mang lại. Qua đây, chúng tôi cũng hy vọng làm rõ được những chức năng còn
tiềm ẩn của mô hình đào tạo theo tín chỉ, so sánh hiệu quả của nó với phương pháp cũ là
đào tạo theo niên chế.
2

Cơ sở thực tiễn
Hiện nay, hầu hết các trường Đại học trong cả nước đã chuyển sang đào tạo theo mô

hình tín chỉ thay cho đào tạo theo niên chế. Việc chuyển đổi này còn khá mới mẻ, tuy đã

đạt được những thành tựu tích cực nhưng cũng còn đặt ra những khó khăn, hạn chế đòi hỏi
phải không ngừng đổi mới để đem lại hiệu quả cao hơn.
Một số trường Đại học đã thực hiện chuyển đổi sang mô hình đào tạo tín chỉ như
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Đà Nẵng, Đại học Thái Nguyên đã
tiến hành tổng kết thực hiện chuyển đổi này, đánh giá những thành tựu đạt được và những
khó khăn đặt ra. Trong năm 2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã tiến hành Hội nghị tổng
kết mô hình đào tạo theo tín chỉ với những vấn đề cần đăt ra.
Có thể nói, nghiên cứu về hiệu quả của mô hình đào tạo tín chỉ cũng như những khó
khăn, thách thức để việc chuyển đổi này đạt kết quả mang tính tích cực hơn là một vấn đề
cần thiết và đặt ra để không ngừng đổi mới và thay đổi cho phù hợp và đạt kết quả tốt hơn.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, chúng ta có thể đánh giá tính tích cực của mô hình đào tạo
tín chỉ và khắc phục những hạn chế của mô hình này ở nước ta trong thời điểm hiện nay.
3 Thao tác hóa một số khái niệm
3.1.

Khái niệm sinh viên:

13


Sinh viên là tất cả những người đang học tập, nghiên cứu tại các trường đại học, cao
đẳng, các viện đào tạo hệ đại học và cao đẳng.
Dưới góc độ nghiên cứu xã hội học, sinh viên có những đặc điểm cơ bản sau:
Trong nhóm đối tượng thanh niên, sinh viên là một bộ phận thanh niên mà đất nước
đặt niềm tin vào họ, hi vọng họ trở thành lực lượng khoa học kỹ thuật quản lý kinh tế, xã
hội và các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Họ là đối tượng đang trong quá trình xã hội
hoá, được trang bị kiến thức toàn diện, cơ bản, được đào tạo về chuyên môn nghề nghiệp,
được sống trong môi trường nhiều thông tin, được giao tiếp ở những trung tâm văn hoá lớn.
Họ là những người nhạy cảm với các vấn đề xã hội.
Sinh viên là đối tượng có đặc thù trong sự phân tầng xã hội, đó là khái niệm di động

xã hội. Do tính chất của hoạt động nghề nghiệp trong tương lai, họ là những người có
nhiều cơ hội thuận lợi chiếm lĩnh những vị trí cao trong xã hội.
Sinh viên là nhóm xã hội có đặc thù về lứa tuổi và giai đoạn xã hội hoá so với các
nhóm thiếu niên nhi đồng và nhóm trung niên cao tuổi. Đây là độ tuổi đang liên tục phát
triển về chất, hăng hái, dũng cảm, muốn đi sâu vào đời sống xã hội, xác định việc làm, trau
dồi kinh nghiệm sống. Mối quan tâm lớn nhất đối với họ là nghề nghiệp, việc làm, nơi làm
việc, các biến đổi giá trị xã hội.
Sinh viên là đối tượng có lối sống và định hướng giá trị đặc thù, đó là khả năng cơ
động và thích ứng cao, tiếp thu nhanh chóng các giá trị mới.
3.2.

Đào tạo theo niên chế 3

Đào tạo theo niên chế hay đào tạo theo học chế tín chỉ là hai hình thức tổ chức đào
tạo khác nhau nhưng đều có chung một mục tiêu là đào tạo ra nguồn nhân lực có trình độ
cao, đáp ứng được sự phát triển của các ngành nghề trong xã hội trong từng giai đoạn lịch
sử nhất định.
Đào tạo theo niên chế là đào tạo theo năm học, mỗi chương trình đào tạo của một
ngành học được quy định đào tạo trong một số năm nhất định. Ví dụ chương trình đào tạo
trình độ đại học được cấp bằng cử nhân thường đào tạo trong 4 năm, cấp bằng kỹ sư được
đào tạo trong 5 năm, cấp bằng bác sỹ được đào tạo trong 6 năm. Sinh viên học hết thời gian
3 . />
14


quy định nếu không bị lưu ban, dừng tiến độ học tập thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học,
được ra trường.
Trong đào tạo theo niên chế mọi lịch học, lịch thi được phòng Đào tạo chuẩn bị sẵn.
Các lớp sinh viên được biên chế cố định ngay từ ngày nhập trường và ít khi có sự biến
động. Sinh viên chấp hành tốt các lịch học, lịch thi, các quy định, quy chế của nhà trường,

tích cực học tập và rèn luyện thì sẽ đạt kết quả tốt. Tổ chức đào tạo theo niên chế tương đối
thuận lợi, kế hoạch đào tạo, lịch giảng, lịch thi có thể làm ngay từ đầu năm học và ít khi có
sự biến động.
3.3.

Đào tạo theo học chế tín chỉ

Đào tạo theo tín chỉ không tổ chức theo năm học mà theo học kỳ. Một năm học có
thể tổ chức đào tạo từ 2 đến 3 học kỳ, mỗi chương trình đào tạo của một ngành học nhất
định không tính theo năm mà tính theo sự tích lũy kiến thức của sinh viên, sinh viên tích
lũy đủ số tín chỉ quy định cho một ngành học thì được cấp bằng tốt nghiệp đại học, được ra
trường.
Trong đào tạo theo tín chỉ, sinh viên phải tự đăng ký lịch học, sinh viên không đăng
ký sẽ không có lịch học. Để làm được việc đó sinh viên phải nghiên cứu kỹ, nắm chắc các
tài liệu của nhà trường như quyển niên giám, sổ tay sinh viên, nắm vững chương trình đào
tạo, các học phần phải học trước, các học phần học song hành, phần kiến thức giáo dục đại
cương, phần kiến thức giáo dục chuyên nghiệp… để có thể có được đăng ký lịch học cho
từng học kỳ cho phù hợp (phù hợp ở đây là phù hợp với quy định của nhà trường và phù
hợp với sức học của sinh viên). Sinh viên đã phải tự học các quy chế, quy tắc một cách thật
sự. Ưu điểm của cách tổ chức này là sinh viên có quyền lựa chọn, sinh viên không những
được lựa chọn các môn chính khóa của ngành được đào tạo mà còn có thể được đăng ký
học thêm 1 số học phần tự chọn yêu thích hỗ trợ cho hướng phát triển ngành nghề sau này.
Trong thời gian học chính khóa có thể học thêm ngoại ngữ, tin học (học bằng 2).
Trong đào tạo theo tín chỉ, đối với sinh viên tự học là vấn đề quan trọng nhất, sinh
viên phải tự học ngay trên lớp, lên lớp là làm việc thực sự (chứ không phải đi nghe giảng,
dự giờ). Muốn tự học trên lớp có hiệu quả sinh viên phải tự đọc tài liệu trước, không chỉ
đọc giáo trình mà phải đọc tài liệu có liên quan, không phải đọc cả quyển tài liệu mà chỉ
đọc những vấn đề trực tiếp liên quan đến bài giảng. Các vấn đề liên quan đều phải được
15



đánh dấu lại, ghi chép lại hoặc có chỉ dẫn rõ ràng để khi cần lập tức có thể tra cứu được
ngay.
Hình thức tổ chức đào tạo theo tín chỉ với hai yêu cầu: giảng dạy theo phương pháp
tích cực (lấy người học làm trung tâm) và sinh viên phải tự học là chính, phải lấy tự học
làm cốt.
3.4.

Khái niệm tín chỉ 4
Tín chỉ là đại lượng dùng để đo khối lượng kiến thức, kĩ năng của một môn học mà
người học cần phải tích lũy trong một khoảng thời gian nhất định thông qua các hình
thức:
(1) học tập trên lớp;
(2) học tập trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc làm các phần việc khác (có sự hướng
dẫn của giáo viên1); và
(3) tự học ngoài lớp như đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề hoặc chuẩn bị bài v.v.
Tín chỉ còn được hiểu là khối lượng lao động của người học trong một khoảng thời
gian nhất định trong những điều kiện học tập tiêu chuẩn.
4 Tổng quan vấn đề nghiên cứu

4.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vấn đề giáo dục luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, nhà nước và toàn xã hội.
Thực hiện tốt công tác giáo dục chính là công việc tạo dựng cho tương lai của đất nước,
của dân tộc. Vì thế, các thành tố trong hệ thống giáo dục trở thành đối tượng nghiên cứu
của nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau trong nước và trên thế giới như xã
hội học, tâm lý học, tội phạm học…
Đối với một đất nước đang phát triển như Việt Nam, quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa không thể không đi đôi với việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực
và bồi dưỡng nhân tài. Nhận thức được mối quan hệ biện chứng đó, tại buổi làm việc với
Uỷ ban Quốc gia Thập kỷ Giáo dục vì Phát triển bền vững của Việt Nam (UBQG TKGD

PTBV) chiều 23/1/ 2008, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân đề nghị UBQG

4 (ĐHQGHN 2006: 1)
( />Itemid=91&id=194:phuongthucdaotaotheotinchi&option=com_content&view=article)
16


TKGD PTBV chú trọng tới công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của giáo
dục đối với sự phát triển bền vững của đất nước, đặc biệt là giáo dục Đại học.
Quá trình giáo dục tuy mang ý nghĩa quan trọng đặc biết đối với sự phát triển kinh
tế, văn hóa xã hội…của đất nước nhưng không thể tách biệt và tồn tại độc lập mà luôn gắn
liền với các diễn biến của xã hội, kể cả giáo dục đại học. Theo nguyên lý này, cải cách giáo
dục Đại học theo học chế tín chỉ ở Việt Nam đòi hỏi phải cải cách đồng bộ các yếu tố của
hệ thống giáo dục từ cơ chế chính sách đến đội ngũ nhân lực, từ hệ các giá trị chuẩn mực
đến sự thích nghi, biến đổi vai trò của giảng viên và sinh viên… Do đó giảng viên và sinh
viên trở thành chủ thể nghiên cứu của nhiều nhà khoa học xã hội.
Tài liệu về giảng viên và sinh viên trong việc đổi mới phương pháp dạy và học do
đó cũng có khá nhiều nhưng tài liệu về sự biến đổi vai trò của thầy và trò trong học chế tín
chỉ hầu như không có. Những thông tin này chỉ xuất hiện lẻ tẻ và có rải rác trong các hạng
mục nhỏ của những nghiên cứu khác nhau về giáo dục. Cho đến nay chưa có một nghiên
cứu đầy đủ về sự biến đổi vai trò của thầy và trò khi hệ thống giáo dục đại học thay đổi từ
học chế niên chế sang tín chỉ.
Tìm hiểu tài liệu qua báo cắt từ những năm 2000 trở lại đây nhiều khi không có
được thông tin chung vì thông tin trong các bài báo chỉ mang tính sự kiện, điển hình chứ
không mang tính tổng thể. Ngoài ra cũng có một vài cuộc điều tra về phương pháp dạy học,
phương tiện trợ giảng, khả năng tự học ở sinh viên…nhưng ở mức độ nhỏ và lồng ghép với
các điều tra về đào tạo nguồn nhân lực, quản lý giáo dục...
Những thông tin mà nhóm nghiên cứu chúng tôi tìm hiểu và phân tích dưới đây
được tập hợp trong những bài viết ngắn gọn trên báo, tạp chí, trong những hạng mục nhỏ
của các nghiên cứu về giáo dục nói chung:

Trong bài lý luận dạy học với tiêu đề “ yêu cầu mới của thời đại, của đất nước đối
với giáo viên và phương hướng đổi mới phương pháp dạy – học ở các trường sư phạm”
đăng trên tạp chí giáo dục số 122 tháng 9/ 2005; tác giả Lê Khánh Bằng đã chỉ ra vai trò
của người giáo viên trong một thế giới đang biến đổi trước những yêu cầu mới của thời đại,
của đất nước đối với đội ngũ giáo viên. Trong bài viết của mình, tác giả đề cập rất nhiều
đến năng lực và phẩm chất của người giảng viên đại học thời đại mới và phương hướng đổi
17


mới phương pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả cho đội ngũ giáo viên. Ngoài ra, bài
viết còn hướng tới xu thế mới của đại học Việt Nam: gắn chặt hơn nữa việc dạy và học với
thực tiễn, đặc biệt “từng bước phát triển kinh tế tri thức” và xây dựng “xã hội học tập”. Tuy
nhiên bài viết mới chỉ đề cập đến sư biến đổi vai trò của người thầy trong xã hội hiện đại,
khi đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà chưa khái quát sự biến
đổi đó trong sự chuyển dịch học chế niên chế sang tín chỉ.
Và Đánh giá hệ thống giáo dục trong những bước chuyển đổi từ truyền thống sang
hiện đại, từ niên chế sang tín chỉ, Phó giáo sư - tiến sĩ Đặng Xuân Hải cũng trăn trở với
một câu hỏi lớn. Đó là quản lý sinh viên như thế nào và đánh giá giảng viên như thế nào
trong môi trường đào tạo đại học trò được chọn thầy. Và ông đã tìm cách trả lời băn khoăn
đó bằng việc lý giải vấn đề “về tính chủ động và chịu trách nhiệm của sinh viên và giảng
viên trong phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ” (tháng 10/ 2007). Ông đã chỉ ra quan
niệm, nội dung và điều kiện để có thể tự chủ của người dạy và người học.
Cũng viết về sự thay đổi vai trò của sinh viên, nhóm tác giả Đặng Thị Thanh Mai và
Nông Thị Hà, trong bài viết “Tăng cường khả năng tự học của sinh viên qua hướng dẫn
sinh viên cách học”, đăng trên tạp chí giáo dục số 177, tháng 11/ 2007, tác giả cũng đề cập
đến cách tiếp cận mục tiêu giáo dục thông qua sự thay đổi vai trò của giảng viên trước
thềm chuyển giao từ học chế niên chế sang tín chỉ. Đó chính là việc xây dựng các động cơ
học tập đúng đắn cho sinh viên, xây dựng các chủ đề hướng dẫn tự học và hướng dẫn sinh
viên lập kế hoạch cho môn học. Một cách gián tiếp, qua những phân tích của tác giả, ta có
thể nhận định rằng vai trò của của giảng viên và sinh viên trong giáo dục Đại học có mối

quan hệ biện chứng với nhau, sự thay đổi vai trò của giảng viên kéo theo sự thay đổi vai trò
của sinh viên và ngược lại. Tuy nhiên, sự thay đổi đó mới chỉ dừng lại ở vai trò bồi dưỡng
khả năng tự học cho sinh viên.
Trong bài viết “Tổ chức cho sinh viên nghiên cứu khoa học – một phương pháp dạy
học hiệu quả ở Đại học” của tác giả Phan Thanh Long trong tạp chí Giáo dục 2/ 2010, tác
giả đã so sánh và chỉ ra sự khác nhau giữa phương pháp dạy học theo quan điểm truyền
thống và hiện đại. Trong đó tác giả nhấn mạnh đến các phương pháp dạy học tích cực trong
học chế tín chỉ như thảo luận nhóm, tạo tình huống nêu vấn đề, phương pháp dự án…Và
18


đặc biệt chú trọng đến phương pháp hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khoa học. Tác giả
cũng chỉ ra các yếu tố chi phối quá trình dạy học và nhấn mạnh đến sự thay đổi của sinh
viên trong việc thực hiện các vai trò của mình trong hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, những
đánh giá thay đổi vai trò của tác giả mới chỉ tập trung vào hoạt động nghiên cứu khoa học
của sinh viên, mà chưa chỉ ra được thay đổi vai trò của sinh viên một cách tổng thể và toàn
diện.
Trong bài nghiên cứu “ hoạt động tự học của sinh viên trong phương thức đào tạo
theo tín chỉ” của thạc sĩ Nguyễn Phương Mai, bài viết đã khái quát về hoạt động tự học của
sinh viên như khái niệm tự học, vấn đề hoạt động tự học của sinh viên hiện nay, bài nghiên
cứu đã cho thấy được hoạt động của sinh viên hiện nay là mang tính hình thức, đối phó với
các bài kiểm tra, lười đọc sách. Nhận thức về vấn đề tự học của sinh viên là rất kém, không
hiểu được hết vai trò của hoạt động tự học. Đối với việc học học theo tín chỉ thì việc tự học
của sinh viên như hiện nay là có hiệu quả không? Mà trong phương thức đào tạo tín chỉ thì
việc tự học là rất quan trọng, nếu sinh viên có ý thức tự học thì kết quả sẽ rất cao. Hoạt
động tự học của sinh viên đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy đại học nói chung
và đặc biệt là cần thiết theo phương thức đào tạo tín chỉ.
Tạp chí giáo dục có bài viết “ một số vấn đề đào tạo theo hệ thống tín chỉ” của thạc
sĩ Phạm Thị Thanh Hải, bài viết đã nêu ra nhiều ưu thế của phương thức đào tạo theo tín
chỉ như: tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển năng lực của người học , sinh viên chủ

động trong việc đăng kí kế hoạch học tập. Sinh viên có nhiều cơ hội trong việc học cùng
lúc hai chương trình để khi tốt nghiệp có thể được cấp hai bằng. Việc tổ chức đào tạo mềm
dẻo, khoa học và linh hoạt. Ngoài ra bài viết cũng đưa ra các giải pháp để hoàn thiện quá
trình đào tạo theo tín chỉ, ví dụ như: từng bước hoàn thiện khung chương trình và chương
trình chi tiết của các phần học theo hướng đáp ứng của nhu cầu xã hội. Tăng cường các
sinh hoạt chuyên môn hóa và học thuật. Bổ sung hoàn thiện các các quy định, hướng dẫn
đào tạo theo hệ thống tín chỉ chỉ cho cán bộ giảng viên. Thực hiện tốt việc đánh giá kết quả
học tập của học sinh theo hình thức tín chỉ.Từng bước tháo gỡ những khó khăn về cơ sở vật
chất phục vụ đào tạo theo tín chỉ.
Ngoài ra còn có các đè tài khác viết về các vấn đề liên quan đến học chế tín chỉ như.
19


“Các điều kiện cần và đủ để triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ ở bậc đại học”
luận án của tác giả thạc sĩ Nguyễn Mai Hương. Tác giả cho rằng đào tạo đại học theo hệ
thống tín chỉ là một hệ thống đào tạo tiến bộ, do đó cần có các điều kiện để phát triển hệ
thống này, ví dụ như: xây dựng mô hình đào tạo riêng phù hợp với trình độ phát triển kinh
tế của đất nước, tương thích với cơ cấu và trình độ của hệ thống giáo dục ở Việt Nam.
Nhận thức đầy đủ về đào tạo học theo chế tín chỉ ở bậc đại học. Có hệ thống văn bản pháp
quy, tài liệu hướng dẫn rõ ràng, đầy đủ và đào tạo theo hệ thống tín chỉ. Có hệ thống môn
học đủ lớn và công khai hóa chương trình đào tạo dẫn tới các văn bản với các điều kiện cụ
thể. Đổi mới phương pháp dạy và học. Đảm bảo cơ sở vật chất cần thiết và phát triển hệ
thống học liệu.
Trên trang tin tức và sự kiện đại học Quốc Gia Hà Nội có bài viết phương thức đào
tạo theo tín chỉ: lịch sử, bản chất và những hàm ý cho phương pháp giảng dạy – học ở bậc
đại học bài viết đã cho người đọc thấy được lịch sử của giờ học tín chỉ nó là sản phẩm trí
tuệ của người Mỹ, sau này Việt Nam đã áp dụng mô hình đào tạo tín chỉ để đưa vào giảng
dạy ở các trường đại học. Bài viết đã định nghĩa bản chất của tín chỉ và nêu ra những lợi
thế của phương thức đào tạo theo tín chỉ như người học tự học, tự nghiên cứu, giảm sự
nhồi nhét kiến thức của người dạy do đó phát huy khả năng sáng tạo của sinh viên. Lợi thế

thứ hai mà tín chỉ đem lại đó là sinh viên có thể lựa chọn những môn học, thời gian học
phù hợp với khả năng của bản thân, sinh viên có thể ra trường sớm hơn hoặc muộn hơn tùy
theo khả năng, điều kiện của bản thân. Ngoài ra bài viết cũng đã đưa ra được những hàm ý
cho phương pháp dạy và học Ở Việt Nam đây thực sự là một phát hiện rất quan trọng để
người dạy và người học có thể áp dụng và đạt được những kết quả tốt nhất.
Trên tạp chí khoa học và công nghệ, đại học Đà Nẵng – số 5(40)2010 đã chỉ ra
những ưu điểm và hạn chế của mô hình đào tạo theo tín chỉ, bài viết đã chỉ ra những ưu thế
trong việc đào tạo theo tín chỉ như sinh viên có thể rút ngắn thời gian học tập không nhất
thiết phải học 4,5 năm như trước đây. Sinh viên có thể phát huy được khả năng tự học của
bản thân, phát huy tính sáng tạo. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm thì bài viết cũng đã
cho thấy những bất cập trong mô hình đào tạo theo tín chỉ như chất lượng đầu vào của sinh
20


viên chưa thực sự cao, khả năng tự học của sinh viên chưa cao, chưa thực sự có ý thức
trong vấn đề tự học. về vấn đề giảng viên cũng có một số bất cập như đội ngũ giảng viên ở
nước ta so với giảng viên trên thế giới về khả năng nghiên cứu và trình độ ngoại ngữ, về
điều kiện vất chất kĩ thuật cũng chưa đảm bảo. Báo lao động điện tử số ra ngày 24/2/2011
có bài viết “đào tạo theo tín chỉ - còn có nhiều bất lợi” bài viết đã đưa ra những bất lợi của
chương trình đào tạo theo tín chỉ như trên thực tế chúng ta mới chỉ sao chép mô hình giáo
dục của Mỹ chứ chưa thực sự học tập được mô hình đào tạo ĐH hiện đại của họ. Về điều
kiện cơ sở kĩ thuật dành cho giảng viên chưa đáp ứng đủ để giảng viên có điều kiện để đáp
ứng những thắc mắc của sinh viên như phòng tiếp sinh viên, thời gian…Ngoài ra thang
chấm điểm cũng chưa hoàn toàn đúng với khả năng cảu sinh viên. Tuy nhiên bên cạnh
những bất cập mà chương trình đào tạo theo tín chỉ mắc phải thì mô hình đào tạo theo tín
chỉ cũng mang lại nhiều lợi ích cho sinh viên bài viết trên Việt Báo.vn có bài viết “3 lợi thế
của đào tạo tín chỉ” đã cho người đọc thấy được những lợi thế mà sinh viên có được khi
được đào tạo theo mô hình đào tạo theo tín chỉ.
Trong những năm qua, rất nhiều những hội thảo về phương thức đào tạo trong hệ
thống tín chỉ được tổ chức ở các trường : Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Hà Tĩnh,

Đại học Vinh, Đại học Hồng Đức…, đặc biệt có những hội thảo mang tầm quốc gia như:
Hội thảo về phương thức đào tạo trong hệ thống tín chỉ tại đại học Đà Nẵng vào năm
2006 đã thu hút sự tham gia của rất nhiều giảng viên, nhà nghiên cứu ở các trường đại
học, các viện nghiên cứu trên mọi miền tổ quốc. Trong hội thảo này, những người hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục tại các trường đại học: đại học Đà Lạt, đại học Quốc Gia
Thành Phố Hồ Chí Minh, đại học Quốc Gia Hà Nội… đã phân tích một số vấn đề tồn tại
và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trong học chế tín chỉ, đưa ra
các giải pháp để triển khai phương pháp học tập theo học chế tín chỉ. PGS.TS Nguyễn
Văn Nhã – trưởng ban đào tạo Đại Học Quốc Gia Hà Nội đã có bài viết: “ Các giải pháp
triển khai phương thức đào tạo theo tín chỉ ở Đại Học Quốc Gia Hà Nội” trong hội thảo
này.

21


Hội thảo “ Đổi mới phương thức dạy học theo học chế tín chỉ” của Đại Học Khoa
Học Xã Hội và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh diễn ra vào năm 2008 với rất nhiều
bài viết nhằm mục đích: nhận diện thực trạng giảng dạy, học tập ở trường sau hai năm
tiến hành đào tạo theo học chế tín chỉ, tạo ra diễn đàn học tập, trao đổi, thảo luận những
vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến phương pháp đào tạo theo học chế tín chỉ.
Cũng phân tích về bản chất của học chế tín chỉ và việc áp dụng nó tại Việt Nam,
GS.TS Lâm Quang Thiệp đã phân tích về : “ Về học chế tín chỉ và việc áp dụng ở Việt
Nam” trong tạp chí khoa học số 3 năm 2007. Trong bài viết này Giáo Sư đã chỉ rõ sự ra
đời và lan tỏa của học chế tín chỉ, đặc điểm của học chế tín chỉ, các ưu điểm và nhược
điểm của học chế tín chỉ cũng như cách khắc phục và việc áp dụng học chế tín chỉ ở nước
ta trong tương quan so sánh với Hoa Kì và những giải pháp.
Trong đề tài: “ Nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên trường Đại Học Hồng
Đức với phương pháp học tập theo học chế tín chỉ” của Nguyễn Thị Lý ( luận văn Thạc
Sĩ, khoa xã hôi học, trường đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn- ĐHQGHN, 2011) đã
thể hiện được thực trạng nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên với phương pháp học

tập theo học chế tín chỉ: mức độ nhận thức đúng về phương pháp học tập theo học chế tín
chỉ của sinh viên trường đại học Hồng Đức khá cao ( nhận thức về phương pháp học tập
trên lớp, nhận thức về hoạt động tự học trong phương pháp học tập ở nhà và trên thư
viện…).
Bài “đổi mới giáo dục đại học Việt Nam” của tác giả Trần Quốc Toản ( Tổng thư
kí Hội đồng quốc gia Giáo dục Việt Nam) đề cập đến những vấn đềeeftoonf tại trong giáo
dục hiện nay về nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục. Đây là những vấn đề
đáng quan tâm tìm hiểu bởi chúng có ảnh hưởng rất quan trong tới hành vi và hiệu quả
học tập của sinh viên. Tác giả bài viết cũng đề cập đến những tác động từ phía xã hội
trong đó có xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Tác giả chỉ rõ về xu thế lớn trong
thế kỉ XXI, đó là sự tác động của cách mạng khoa học, công nghệ, kinh tế, tri thức xây
dựng xã hội học tập và học tập suốt đời, phát triển văn minh trí tuệ đều dựa vào nền tảng
năng lực sáng tạo của con người và trở thành cơ hội cho mọi nền giáo dục (8/tr 18) để đáp
22


ứng xu thế phát triển trong thế kỉ mới đòi hỏi hoạt động giáo dục đại học nói chung, hoạt
động học tập của sinh viên nói riêng phải có sự đổi mới về nội dung, phương pháp đáp
ứng yêu cầu của thời đại.
Nói chung mô hình đào tạo theo tín chỉ đã được khá nhiều bài báo, các nghiên cứu
đi trước nghiên cứu, tìm hiểu cho thấy đây là một vấn đề đang được dư luận xã hội quan
tâm, để ý. Như vậy trong tất cả mô hình mà chúng tôi tiếp cận được các tác giả đều đề cập
đến vấn đề những hiệu quả mà mô hình đào tạo theo tín chỉ đạt được cũng như những bất
cập mà mô hình đào tạo tín chỉ vấp phải cũng như những phương pháp mà cả người dạy
lẫn người học cần phải tìm hiểu để đạt được kết quả cao hơn trong quá trình dạy và học tín
chỉ.
4.2. Khái quát địa bàn nghiên cứu
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn là trường Đại học có truyền thống
lâu đời và sứ mệnh đi đầu trong việc đào tạo, nghiên cứu và truyền bá tri thức khoa học xã
hội và nhân văn hàng đầu trong cả nước, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước.

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội là một trong
những trường Đại học đi tiên phong trong việc chuyển đổi sang mô hình đào tạo tín chỉ và
đã đạt được những thành tựu đáng kể, và đem lại những hiệu quả mang tính tích cực cả về
phía người dạy và người học cũng như sự quản lý của nhà trường và phòng đào tạo. Trong
thời gian gần vừa qua, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã không ngừng đổi
mới việc thực hiện chuyển đổi sang mô hình tín chỉ để đạt kết quả tốt nhất.

23


Hình 1: Vị trí địa bàn nghiên cứu: Đại học khoa học xã hội và nhân văn- Đại học Quốc
Gia Hà Nội, số 336 Nguyễn Trãi , Thanh Xuân, Hà Nội.

Chương II: HIỆU QUẢ CỦA MÔ HÌNH ĐÀO TẠO THEO TÍN CHỈ TẠI TRƯỜNG
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN – ĐHQGHN

1

. Mô hình đào tạo theo tín chỉ ở trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân
Văn
Áp dụng mô hình tín chỉ chung trên toàn thế giới vào trường .
Cũng như trên thế giới, trường cũng sử dụng 12 tiêu chí để đánh giá mô hình đào
tạo theo Hệ thống tín chỉ triệt để, đó là:
(1) Chương trình đào tạo gồm các khối kiến thức cấu trúc thành các mô đun (học

phần);

24



(2) Quá trình học tập là sự tích lũy kiến thức của người học theo từng học phần
(đơn vị: Tín chỉ);
(3) Đăng ký học đầu mỗi học kỳ, tổ chức lớp học theo lớp học phần;
(4) Đơn vị học vụ là học kỳ, một năm học có hai học kỳ chính và một học kỳ phụ;
(5) Đánh giá quá trình, sử dụng thang điểm 10, chữ và 4, điểm trung bình chung tích
lũy đến thời điểm tốt nghiệp phải 2;
(6) Quy định khối lượng kiến thức tích lũy cho từng văn bằng. Xếp năm đào tạo của
người học theo số tín chỉ tích lũy;
(7) Có hệ thống cố vấn học tập;
(8) Chương trình đào tạo mềm dẻo, cùng với các học phần bắt buộc có những học
phần tự chọn đảm bảo hướng chuyên sâu nghề nghiệp hoặc đơn thuần chỉ để sinh viên
tích lũy;
(9) Không tổ chức thi tốt nghiệp, không tổ chức bảo vệ khóa luận tốt nghiệp đối với
các chương trình đào tạo cao đẳng và đại học;
(10) Áp dụng phương pháp dạy và học tích cực;
(11) Chỉ có một văn bằng chính quy với hai loại hình tập trung và không tập trung;
(12) Có thể tuyển sinh theo học kỳ.
Đại học khoa học xã hội và nhân văn – ĐHQGHN là một trong những trường
đại học thực hiện mô hình đào tạo theo tín chỉ sớm nhất cả nước và đạt được nhiều
thành tựu đáng kể. Nhà trường đã bạn hành các quyết định đào tạo theo theo tín chỉ ở
bậc đại học chính quy nhằm góp phần thực hiện tốt việc chuyển đổi từ cách học niên
chế sang tín chỉ: “ Đào tạo đại học hệ chính quy theo tín chỉ ở trường Đại Học Khoa
Học Xã Hội và Nhân Văn ( Ban hành theo quyết định số 1289 QĐ/ XHNV- ĐT, ngày
31/8/2009 của Hiệu trưởng trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn )”, một
trong những quy định đó là quy định về Đăng kí môn học của sinh viên: “
Điều 13. Đăng ký môn học
13.1. Đầu mỗi học kỳ, sinh viên phải tìm hiểu, nghiên cứu để nắm được chương
trình đào tạo và đăng ký môn học sẽ học trong học kỳ đó. Đối với những sinh viên có
25



×