Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Nghiên cứu hán văn đông kinh nghĩa thục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.49 MB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---***---

NGUYỄN THỊ MAI

NGHIÊN CỨU
HÁN VĂN ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC

LUẬN VĂN THẠC SĨ HÁN NÔM

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 3

1. Lý do chọn đề tài .............................................................................. 3
2. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu vấn đề……………………………4
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề................................................................ 4
3.1. Các công trình nghiên cứu có tình chất sử liệu, sử học, văn học,
văn hóa về Đông Kinh nghĩa thục. ...................................................... 4
3.2. Các công trình nghiên cứu về Hán văn Đông Kinh nghĩa thục ..... 6
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu .................................................... 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................. 8
6. Bố cục Luận văn ............................................................................... 8
CHƢƠNG 1
ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC VÀ HÁN VĂN ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC ....... 10

1.1. Đông Kinh nghĩa thục ................................................................. 10
1.2. Hán văn Đông Kinh nghĩa thục .................................................. 17


1.2.1. Danh mục sách Hán văn Đông Kinh nghĩa thục trong Thư viện
Viện Nghiên cứu Hán Nôm. ............................................................. 18
1.2.2. Danh mục sách Hán văn Đông Kinh nghĩa thục ở Thư viện Viện
sử học Việt Nam. .............................................................................. 23
1.2.3. Hán văn Đông Kinh nghĩa thục theo Văn thơ Đông Kinh nghĩa
thục 詩文東亩義塾 ....................................................................... 27
1.3. Sự vận động về văn thể của Hán văn Việt Nam đầu thế kỷ XX .... 29
1.4. Một số đặc trƣng của Hán văn Đông Kinh Nghĩa thục ............ 31
1.4.1. Hán văn Đông Kinh nghĩa thục là Hán văn nhà trường ........... 32
1.4.2. Hán văn Đông Kinh nghĩa thục là Hán văn giác thế, Hán văn
khải mông, nâng cao dân trí, dân khí. ............................................... 37
1.4.3. Hán văn Đông Kinh nghĩa thục là Hán văn sách luận ............. 41
1.4.4. Hán văn Đông Kinh nghĩa thục là Hán văn thời vụ ................. 45

1


1.4.5 Hán văn Đông Kinh nghĩa thục là Hán văn phi kinh điển, Hán
văn sử Việt ....................................................................................... 50
1.4.6. Hán văn Đông Kinh nghĩa thục là Hán văn đổi mới, cách tân
ngữ pháp ........................................................................................... 54
Tiểu kết Chƣơng 1 .......................................................................... 56
CHƢƠNG 2
HÁN VĂN ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC QUA QUỐC DÂN ĐỘC BẢN 國民讀本

......................................................................................................................... 57
2.1. Quốc dân độc bản 國民讀本 - sách giáo khoa cho quốc dân .. 57
2.2. Hệ vấn đề nội dung của Quốc dân độc bản 國民讀本 ............. 60
2.2.1. Tư tưởng cộng đồng............................................................... 60
2.2.2. Tư tưởng quốc gia dân tộc ..................................................... 62

2.2.3. Tư tưởng về quốc dân ............................................................ 63
2.2.4. Các thiết chế của nhà nước hiện đại ........................................ 64
2.2.5. Hệ vấn đề về pháp luật:........................................................... 65
2.2.6. Hệ vấn đề về giáo dục ............................................................. 65
2.2.7. Hệ vấn đề về kinh tế ............................................................... 65
2.3.Quốc dân độc bản 國民讀本 là Hán văn giáo dục quốc dân ..... 66
2.4.Quốc dân độc bản 國民讀本 là Hán văn tân văn thể ................... 78
2.5. Quốc dân độc bản 國民讀本 là Hán văn mở mang văn hóa....81
Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................... 92
PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 96
PHỤ LỤC 1 ................................................. Error! Bookmark not defined.
PHỤ LỤC 2...................................................................................................................120

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đông Kinh nghĩa thục là một trường tư thục do Cụ cử Lương Văn
Can và các sỹ phu yêu nước thành lập vào năm 1907 ở Hà Nội. Tuy trường
chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi (từ tháng 3 đến tháng 12 năm
1907), nhưng với những hoạt động yêu nước nhằm nâng cao dân trí, chấn
hưng dân khí, hóa quốc cường dân, đào tạo nhân tài để cách tân văn hóa, xã
hội, tư tưởng…, “Đông Kinh Nghĩa thục đã được đánh giá như là một
phong trào cải cách văn hóa Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX”.
(Chương Thâu, 1982). Trong số những tài liệu dùng để phục vụ cho mục
đích hoạt động của trường Đông Kinh khi ấy, số lượng tư liệu viết bằng
chữ Hán chiếm khá nhiều. Bộ phận tài liệu này được gọi là Hán văn Đông
Kinh nghĩa thục. Do đó, Hán văn Đông Kinh Nghĩa thục là thuật ngữ dùng

để chỉ tất cả những tác phẩm Hán văn của trường Đông Kinh nghĩa thục
viết những năm đầu thế kỷ XX (những tác phẩm này có thể được đề dưới
danh nghĩa một tác giả cụ thể, cũng có khi mang tên chung Đông Kinh
nghĩa thục). Những ấn phẩm Hán văn này chứa đựng trong mình những nét
đặc trưng về chức năng, phong cách và nội dung tư tưởng của một giai
đoạn Hán văn Việt Nam; mang đậm hơi hướng của thời đại, thể hiện đặc
trưng hệ tư tưởng, nguyện vọng, chí hướng và xu thế đấu tranh của giới sỹ
phu yêu nước nhiệt huyết với công cuộc canh tân đất nước trong những
năm đầu thế kỷ XX. Đặt trong bối cảnh lúc đó, Hán văn Đông Kinh nghĩa
thục với những đổi mới về lối viết, cách dùng từ cũng như phương pháp
diễn đạt đã thực sự tạo ra những thay đổi mạnh mẽ khác với Hán văn
truyền thống, góp phần thúc đẩy cho văn học nước nhà, nền ngôn ngữ nước
nhà phát triển. Do đó, chúng tôi chọn Hán văn Đông Kinh nghĩa thục làm
đề tài luận văn Cao học Hán Nôm của mình.
3


2. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu vấn đề
Trong đề tài: Nghiên cứu Hán văn Đông Kinh nghĩa thục, chúng tôi
sẽ hướng đến làm sáng tỏ những vấn đề sau: Hán văn Đông Kinh nghĩa
thục bao gồm những gì, trường Đông Kinh nghĩa thục đã sử dụng Hán văn
của mình như thế nào để phục vụ công cuộc duy tân đất nước, cải lương
nền Hán học cũ, xây dựng nền giáo dục quốc dân cận đại. Không những thế,
Nghiên cứu Hán văn Đông Kinh nghĩa thục theo định hướng trên còn giúp
chúng ta hình dung ra vai trò của Hán văn trong hệ thống nhà trường Việt
Nam những năm đầu thế kỷ XX, góp phần làm sáng tỏ đôi điều về đời sống
Hán văn Việt Nam buổi giao thời giữa cũ và mới, Á và Âu cũng như bước
quá độ từ truyền thống đến hiện đại theo góc nhìn văn hóa.
Nghiên cứu Hán văn Đông Kinh nghĩa thục, chúng tôi hy vọng sẽ
đóng góp thêm một phần nào đó vào những nghiên cứu và tìm hiểu về

Đông Kinh nghĩa thục từ trước tới nay, nhằm hướng đến mục tiêu cụ thể
hóa những đặc điểm và vai trò của Đông Kinh nghĩa thục trên phương diện
giáo dục bằng Hán văn.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do tính chất, đặc điểm về phong cách và những nét độc đáo về nội
dung mà Đông Kinh nghĩa thục cũng như Hán văn Đông Kinh nghĩa thục
đã được các thế hệ học giả ở nhiều lĩnh vực như văn học, sử học, tư tưởng
học…quan tâm nghiên cứu. Theo mục đích của Luận văn đặt ra, chúng tôi
sẽ tiến hành tổng hợp và phân chia những tài liệu nghiên cứu về Đông Kinh
nghĩa thục thành hai loại chính: Loại 1, bao gồm các công trình nghiên cứu
có tính chất sử liệu, sử học, văn học, văn hóa về Đông Kinh nghĩa thục;
Loại 2 gồm các công trình nghiên cứu về Hán văn Đông Kinh nghĩa thục.
3.1. Các công trình nghiên cứu có tình chất sử liệu, sử học, văn
học, văn hóa về Đông Kinh nghĩa thục.
* Đông Kinh nghĩa thục của Đào Trinh Nhất, do Nxb Mai Lĩnh - Hà
Nội, xuất bản 25/1/1938. Mặc dù còn hạn chế về tư liệu, nhưng Đông Kinh

4


nghĩa thục của Đào Trinh Nhất được coi là công trình sớm nhất viết về
trường Đông Kinh nghĩa thục và phong trào Đông Kinh nghĩa thục.
* Năm 1954, Nguyễn Hiến Lê viết Đông Kinh nghĩa thục. Cuốn sách
đến 3/3/1974 đã được Nxb Lá Bối in lại lần thứ 3 và dày 202 trang. Chính
tác giả Nguyễn Hiến Lê đã nhận xét về giá trị của cuốn sách như sau:
“Cuốn sách nhỏ độc giả đang đọc đây không phải là cuốn sử, nó chỉ chứa
đựng những tài liệu về sử mà thôi”. Như vậy các tác phẩm Hán văn của
Đông Kinh nghĩa thục mới chỉ được giới thiệu qua loa, ghép cùng hệ thống
sách khoa giảng dậy học tập của trường chứ chưa được đi sâu nghiên cứu,
phiên dịch và công bố chi tiết.

* Tạp chí Nghiên cứu lịch sử trong nhiều năm đã mở những cuộc hội
thảo kéo dài để thảo luận về một số vấn đề thuộc văn hóa tư tưởng của
Đông Kinh nghĩa thục như:
- Đông Kinh nghĩa thục có phải là cuộc cách mạng văn hóa dân tộc
dân chủ hay không? của tác giả Nguyên Anh (Nghiên cứu Lịch sử, số
tháng 11/1961).
- Cố gắng tiến tới thống nhất nhận định về Đông Kinh nghĩa thục
của Trần Minh Thư (Nghiên cứu Lịch sử, số tháng 12/1965).
- Phong trào Đông Kinh nghĩa thục, cuộc cách mạng văn hóa dân
tộc dân chủ đầu tiên ỏ nước ta của Đặng Việt Thanh (Nghiên cứu Lịch sử,
số 4/1961).
* Gần đây có một số công trình nghiên cứu chuyên về Đông Kinh
nghĩa thục, đặc biệt trong đó đã chú ý nhiều đến mảng văn học, sử học như
các cuốn:
- Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900-1925) của Giáo
sư Đặng Thai Mai, NXb Văn học, in lần thứ 3, 5/1974. Bên cạnh việc phân
tích và trình bày vai trò, vị trí của Văn thơ Đông Kinh nghĩa thục trong nền

5


văn học Việt Nam, tác giả Đặng Thai Mai đã tiến hành trích dịch nội dung
cuốn sách Văn minh tân học sách 文明新學策
- Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ
XX của tác giả Chương Thâu, Nxb. Hà Nội, 1982. Điều đặc biệt cần quan
tâm là ở Phần thứ 2 của cuốn sách, tác giả đã trích dẫn phần dịch của một
số tác giả khác từng dịch về Hán văn Đông Kinh nghĩa thục như: Văn minh
tân học sách 文明新學策 (trích theo bản dịch của GS Đặng Thai Mai),
Quốc dân độc bản 國民讀本 (trích theo bản dịch của Nguyễn Đình Chú),
Nam quốc địa dư 南國地輿 (trích theo bản dịch của Vũ Tuấn Sáu), Cải

lương mông học quốc sử giáo khoa thư 改蒙學國史教科書(trích theo
bản dịch của GS Trần Văn Giàu)…Cuốn sách này không chỉ là tư liệu quý
cho ngành sử học khi tìm hiểu về Đông Kinh nghĩa thục mà nó còn có công
tập hợp những bản dịch đáng tin cậy của các học giả khác về các cuốn sách
Hán văn Đông Kinh nghĩa thục.
- Văn thơ Đông Kinh nghĩa thục của Nxb Văn hóa xuất bản năm
1997. Cuốn sách này có dịch trọn vẹn hai cuốn sách Hán văn của trường
Đông Kinh nghĩa thục là Tân đính luân lý giáo khoa 新訂倫理教科書
và Quốc dân độc bản 國民讀本. Ngoài ra còn thống kê thêm các bài thơ
Quốc ngữ, Phần phụ lục có các bài thơ chữ Hán của Phan Bội Châu, Huỳnh
Thúc Kháng… Đây có thể coi là tư liệu đầu tiên dịch trọn vẹn một trong
các cuốn sách Hán văn của trường, tạo điều kiện rất lớn cho việc nghiên
cứu về Đông Kinh nghĩa thục nói chung cũng như Hán văn Đông Kinh
nghĩa thục nói riêng.
3.2. Các công trình nghiên cứu về Hán văn Đông Kinh nghĩa thục
Song song với các công trình nghiên cứu ở trên, gần đây cũng đã
xuất hiện các công trình nghiên cứu về Hán văn Đông Kinh nghĩa thục,
trong đó có hai công trình tiêu biểu: Một số vấn đề về chữ Hán thế kỷ XX
6


của tác giả Phạm Văn Khoái và đề tài Luận án Tiến sỹ Khảo sát từ ngữ một
số tác phẩm Hán văn Đông Kinh nghĩa thục của Đỗ Thúy Nhung.
- Một số vấn đề về chữ Hán thế kỷ XX của tác giả Phạm Văn Khoái
do NXb Đại học Quốc gia Hà Nội, xuất bản năm 2001. Tác giả đã đi sâu
vào tìm hiểu hệ vấn đề, sự đổi mới trong ngôn từ của Hán văn Đông Kinh
nghĩa thục nói riêng và Hán văn thế kỷ XX nói chung ở chương 4. Trong
cuốn sách này, Quốc dân độc bản 國民讀本 được nhìn dưới góc độ là
một cuốn sách dạy tri thức phổ cập bằng chữ Hán với các hệ vấn đề và hệ
thống từ ngữ chính trị - xã hội, thuật ngữ khoa học hiện đại của những năm

đầu thế kỷ XX ở nước ta.
- Luận án Tiến sỹ Khảo sát từ ngữ một số tác phẩm Hán văn Đông
Kinh nghĩa thục của Đỗ Thúy Nhung mang mã số V-L2/01043, dày 249
trang, chia làm 4 chương, trong đó: Chương 2, 3, 4 tác giả nghiên cứu về
thực từ, hư từ, thành ngữ - quán ngữ và tên riêng trong Hán văn Đông Kinh
nghĩa thục. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về cơ cấu vốn
từ của Hán văn của Đông Kinh nghĩa thục dựa trên cơ sở phân tích một số
tác phẩm Hán văn cụ thể.
Tuy trực tiếp hay gián tiếp thì các công trình nghiên cứu, sưu tầm,
thống kê, dịch thuật, phân tích, luận giải về Hán văn Đông Kinh nghĩa thục
trong lịch đại, xét ở góc độ nào đó cũng đều gợi mở ra những cách tiếp cận
và cung cấp nguồn tri thức cũng như một số kết luận quý báu để người
nghiên cứu đi sau lấy làm căn bản, trên cơ sở đó tìm hiểu thêm ra. Nghiên
cứu Hán văn Đông Kinh nghĩa thục nhằm tìm hiểu về bộ phận Hán văn
cuối cùng của Hán văn Việt Nam những đầu thế kỷ XX, để thấy rõ tính
giác thế, khải mông từ tư tưởng cho đến những thay đổi về hình thức của
Hán văn giai đoạn này.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi sẽ nghiên cứu Hán văn Đông Kinh nghĩa
thục dưới góc độ coi nó là một bộ phận của Hán văn Việt Nam những năm

7


đầu thế kỷ XX, coi nó như là một biểu hiện cụ thể của ngôn ngữ viết Hán
văn Việt Nam của bước chuyển văn hóa Việt Nam từ truyền thống đến hiện
đại. Do đó, phải xem xét, nghiên cứu bộ phận Hán văn Đông Kinh nghĩa
thục này từ các góc độ sau:
- Xuất phát từ các đặc trưng về mặt cấu trúc ngôn ngữ của bộ phận
Hán văn này.

- Xuất phát từ các đặc trưng có tính chất chức năng của hệ thống
ngôn ngữ viết Hán văn này.
- Xuất phát từ các đặc trưng mang tính chất loại thể và phong cách
của hệ thống ngôn ngữ Hán văn này.
Nếu xuất phát từ các đặc trưng về mặt cấu trúc của hệ thống ngôn
ngữ viết này thì sẽ phải đề cập đến cơ cấu vốn từ, hệ thống ngữ pháp liên
kết, tổ chức vốn từ đó. Hiện nay, nước ta đã có Luận án Tiến sỹ của Đỗ
Thúy Nhung làm về Khảo sát từ ngữ một số tác phẩm Hán văn Đông Kinh
nghĩa thục. Do đó, ở một mức độ nhất định, trên cơ sở những gì mà người
đi trước đã làm, chúng tôi sẽ đi sâu vào các vấn đề thuộc phạm trù chức
năng và phong cách thể hiện trong Hán văn Đông Kinh nghĩa thục. Đồng
thời, những chức năng và phong cách đó sẽ được xem xét trên tinh thần
quán triệt các nguyên tắc của nghiên cứu đại diện và nghiên cứu trường
hợp, chúng tôi sẽ chọn Quốc dân độc bản 國民讀本 số ký hiệu A.174 làm
đối tượng cho nghiên cứu đại diện của Hán văn Đông Kinh nghĩa thục.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Từ những mục đích và giới hạn như trên của đề tài, chúng tôi sẽ sử
dụng triệt để các nguyên tắc và phương pháp ngữ văn học Hán văn để
nghiên cứu vấn đề.
6. Bố cục Luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính
của Luận văn được trình bày như sau:

8


Chƣơng 1: Với tiêu đề “Đông Kinh nghĩa thục và Hán văn Đông
Kinh nghĩa thục”, nhằm giới thiệu sự ra đời của Đông Kinh nghĩa thục
cũng như một số đặc trưng chức năng, phong cách của Hán văn Đông Kinh
nghĩa thục.

Chƣơng 2: Với tiêu đề “Hán văn Đông Kinh nghĩa thục qua Quốc
dân độc bản 國民讀本", nhằm nghiên cứu về Hán văn Đông Kinh nghĩa
thục thông qua đại diện của nó là Quốc dân độc bản 國民讀本.

9


CHƢƠNG 1
ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC VÀ
HÁN VĂN ĐÔNG KINH NGHĨA THỤC
Hán văn Đông Kinh nghĩa thục là những tư liệu Hán văn được viết
bởi một bộ phận các nhà nho tiến bộ trường Đông Kinh nghĩa thục những
năm đầu thế kỷ XX. Chính vì nó được viết bởi những tấm lòng nhiệt thành
và tư tưởng đổi mới, tiến bộ nên Hán văn Đông Kinh nghĩa thục còn được
gọi là Hán văn của nhà trường, Hán văn cải cách văn hóa, khải mông tư
tưởng và cách tân về phương diện từ vựng, ngữ pháp. Dưới đây chúng tôi
sẽ lần lượt làm sáng tỏ những đặc trưng về chức năng và phong cách của bộ
phận Hán văn này.
1.1. Đông Kinh nghĩa thục
Cuối thế kỷ XIX, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
Đất nước bị chia cắt làm ba kỳ với 3 chế độ chính trị khác nhau: Nam Kỳ
dưới chế độ trực trị, Trung Kỳ dưới chế độ bảo hộ và Bắc kỳ dưới cả hai
chế độ đó. Thực dân Pháp phải mất 25 năm (từ 1858-1883) mới hoàn thành
xâm lược Việt Nam, mất gần 15 năm (từ 1883-1896) để hoàn thành cái gọi
là “bình định”. Trong suốt 40 năm ấy, mọi hoạt động lớn của dân tộc đều
hướng đến một nhiệm vụ bao trùm: đối phó với bọn thực dân để khôi phục
lại chủ quyền đất nước. Phong trào Cần Vương do Hàm Nghi và Tôn Thất
Thuyết phát động năm 1885 đã phát triển rộng khắp từ miền Trung cho đến
miền Bắc trong những năm 1885, 1886, 1887 rồi suy giảm dần, đi đến hồi
kết với thất bại của khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo

năm 1897. Từ sau cuộc khởi nghĩa Hương Khê cho đến trước cuộc chiến
tranh Thế giới lần thứ nhất, khắp đất nước tuy các đoàn thể cứu quốc còn
nhiều nhưng đáng kể thì chỉ có cuộc khởi nghĩa vũ trang của Hoàng Hoa

10


Thám ở Yên Thế. Nhưng Hùm thiêng Yên Thế khi ấy lúc lâm vào cảnh
thân cô thế cô cũng phải tạm thời hòa hoãn với quân xâm lược. Mặc dù nỗi
e ngại của nhà cầm quyền về chúng dân xứ thuộc địa vẫn còn nhưng bọn
thực dân Pháp cũng không giấu nổi sự hể hả trước những thành công trong
việc trấn áp của chúng: “Nhân dân toàn xứ hầu như đã bị quật xuống dưới
quyền thống trị của chúng ta, nhưng họ chưa phải đã thấm nhuần tính chất
vĩnh viễn của nền đô hộ Pháp và họ vẫn sẵn sàng nắm lấy một thời cơ
thuận lợi hay một giây phút yếu đuối của chúng ta để lật nhào cái ách nặng
trên cổ”. [Đặng Thai Mai, 1971. tr, 56-57]. Trong báo cáo của Toàn quyền
Đông Dương Pôn Đume gửi về Pari năm 1897 có đoạn viết rằng: “Hiện
nay tình hình chính trị trên toàn cõi Đông Dương không còn một nơi nào
đáng lo ngại hay bi đát”. [Đặng Thai Mai, 1971. tr, 58]. Năm 1902, Đume
gửi báo cáo về Pari, trong báo cáo đó có viết rằng: “Từ năm 1897 đến nay
không có người lính Pháp nào chết trận ở Đông Dương nữa”. [Đặng Thai
Mai, 1971, tr, 58]. Hình thức đấu tranh vũ trang đã hoàn toàn chấm dứt trên
đất nước ta, nếu còn cũng chỉ là vài cuộc đánh hậu vệ, diễn ra đơn lập, lẻ tẻ
và bột phát. Bộ máy chính quyền thực dân đã được xây dựng và củng cố
với sự hợp tác của triều đình Huế và một bộ phận không nhỏ tầng lớp phú
hào. Nhà nước bảo hộ thi hành nhiều chính sách thực dân nhằm biến nước
ta thành một thị trường tiêu thụ hang hóa và bóc lột nhân công để thu lợi
nhuận cao nhất cho tư bản Pháp, đồng thời lại kìm hãm xã hội Việt Nam
trong tình trạng trì trệ của một nước nông nghiệp để dễ bề cai trị. Cả bộ
máy quan lại Nam triều từ trên xuống dưới bắt tay với lũ thực dân xâm

lược ra sức bóc lột dân ta. Thực dân Pháp còn cho phép duy trì và phát triển
những phong tục hủ bại thời phong kiến như: đánh bạc, uống rượu, hút
thuốc phiện, cổ động mê tín dị đoan, truyền bá và xúi giục các thứ tôn giáo
và tà giáo…nhằm ru dân ta ngủ mãi trong kiếp ngu hèn, bạc nhược về tinh
thần và kiệt quệ về thể chất.

11


Trong không khí đầy xáo trộn ấy, ở các nhà nho Việt Nam đã xuất
hiện những tâm trạng khác nhau: hoặc là ẩn dật chờ thời, hoặc chán đời tiêu
cực không hoạt động cứu nước cũng không chịu ra làm quan, hoặc cho
rằng "rau vi chẳng lấy gì làm đắng" nên bó tay về với triều đình, mà thực
chất của việc làm đó là cộng tác với quân xâm lược, trở thành một bộ phận
tay sai, một mắt xích quan trọng trong cơ cấu bóc lột đàn áp nhân dân của
thực dân. Số đông sỹ phu cùng một tâm trạng: “Nghìn năm sự nghiệp nước
về đông”! Tuy nhiên trong hàng ngũ khoa bảng mới từ năm 1885 trở đi,
thậm chí ở cả hàng ngũ quan trường đã có khá nhiều người dám đứng lên
chống Pháp, nuôi chí khôi phục giang sơn. Họ mở lòng đón nhận những
luồng gió Tân thư Tân văn từ Trung Quốc và bên ngoài thổi vào, và chính
những tư tưởng mới mẻ ấy đã dần dần làm lung lay, dao động cách suy
nghĩ, tư duy đầy thủ cựu, bền gốc sâu rễ mấy trăm năm từng hằn in trong
đầu óc của biết bao thế hệ, thôi thúc các sỹ phu yêu nước hướng về con
đường tươi mới đang được đón nhận ở các nước đồng văn cùng cảnh ngộ.
Duy tân là một xu thế tất yếu của các nước châu Á trước sự xâm lược, bành
trướng đầy hùng mạnh của chủ nghĩa đế quốc và văn minh phương tây.
Duy tân còn nhằm mục đích tự cường, chấn hưng sức mạnh nội tại, làm
cho nhà nước phú cường để để tham gia vào xu thế cạnh tranh của thế cuộc.
Con đường đó không chỉ là một cách thức tối ưu để bảo vệ độc lập chính trị
quốc gia mà còn nhằm mục đích bảo vệ chủng tộc, gìn giữ sự sống còn cho

giống nòi. Các nhà nho yêu nước đã lao mình theo gương sáng của Trung
Quốc, Nhật Bản, mong muốn tiến hành một cuộc cải cách văn hóa xã hội
toàn diện. “Đông Kinh nghĩa thục là bước phát triển mới, đỉnh cao và cũng
là bước phát triển cuối cùng của tư trào đó”. [Trần Đình Hượu, 1983, tr. 54].
Từ năm 1906 đến đầu năm 1907, tại ngôi nhà của cụ cử Lương Văn
Can ở số 4 phố Hàng Đào, Hà Nội, các nhà nho yêu nước tiến bộ thường
lui tới để bàn bạc về con đường cứu nước mới. Họ đã đi tới quyết định nhất

12


quán là cần lập một trường học làm cơ sở giáo dục, nhằm “hóa quốc cường
dân” bằng con đường mở mang dân trí, chấn hưng kinh tế. Trường lấy tên
là Đông Kinh nghĩa thục 東亩義塾, trong đó Đông Kinh 東亩 là lấy từ
tên thành Thăng Long thời nhà Hồ, còn Nghĩa thục 義塾 là trường dạy vì
nghĩa, không lấy tiền. Đông Kinh nghĩa thục là một mô hình trường học tư
mô phỏng theo Khánh Ứng nghĩa thục (Keio-Gijuku) do Phúc Trạch Dụ
Cát (Fukuzawa Yukichi 1835-1901) thành lập ở Nhật năm 1858. Khánh
Ứng là tên để ghi nhớ triều đại trước chính thể Minh Trị (1865), còn Nghĩa
thục chỉ tinh thần “vì nghĩa lớn” của trường này. Tinh thần này theo Phúc
Trạch bao gồm bốn phẩm chất nếu phát huy được thì có thể làm rạng danh
người Nhật như tính tự chế, ý chí độc lập, óc tháo vát và lòng tự nguyện
đóng góp vào các công ích công thiện. Từ năm 1907, các nhà nho ta trên cơ
sở những hiểu biết về một trường học đào tạo nhân tài xây dựng đất nước
kiểu Khánh Ứng bên Nhật, đã đồng tâm thành lập ở Hà Nội một Nghĩa
Thục và rồi từ cái Nghĩa thục ấy các cụ đã gây lên thành một phong trào
Nghĩa thục hoạt động ở nhiều địa phương trong cả nước.
Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn được coi là hai trong số những
người “sáng lập viên” của Đông Kinh nghĩa thục, đồng thời cũng là công
chức của Pháp nên việc xin giấy phép mở trường sẽ được chính quyền bảo

hộ dễ dàng chấp thuận hơn. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Quyền - vị huấn
đạo về hưu và Trần Đình Đức - vốn là một giáo học chữ Pháp, đứng ra xin
phép mở trường. Trường chính thức chiêu sinh và đi vào giảng dạy từ
tháng 3 năm 1907 (trên thực tế thì tháng 5 năm 1907, chính quyền thực dân
mới cấp giấy, cho phép ông Huấn Quyền mở trường học “theo phương
châm khai hóa của Chính phủ bảo hộ”). Cụ cử Lương Văn Can lúc đó đã
53 tuổi, là người lớn tuổi nhất trong đám sỹ phu sáng lập, được bầu làm
thục trưởng của trường. Ông từng đỗ của nhân, từng được triều đình bổ làm
Giáo thụ phủ Hoài Đức và được người Pháp đề cử vào nhiều chức vụ khác,
13


nhưng lần nào cũng hết mực từ chối, chỉ muốn ở nhà dạy học. Nguyễn
Quyền, 38 tuổi, nguyên làm Huấn đạo Lạng Sơn, xin nghỉ việc để tham gia
vào tổ chức của trường, được cử làm Giám học. Hội viên chính thức còn có
Nghiêm Xuân Quảng, án sát Lạng Sơn về làm giáo viên trường sư phạm;
các nhà tân học như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học...
Bên cạnh đó cũng phải kể đến những hội viên tán trợ từng tham gia tích
cực vào việc tổ chức và duy trì cho trường hoạt động thường xuyên như:
Đào Nguyên Phổ, Phạm Tuấn Phong, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng Bí, Lê
Đại, Vũ Hoành, Nguyễn Hữu Cầu, Phan Tất Tuân...Hội (gồm các thành
viên chính thức và hội viên tán trợ) dự kiến sẽ thành lập ở Hà Nội một
Nghĩa thục, rồi mở rộng ảnh hưởng ra xung quanh, gây thành một phong
trào lớn lan tỏa ra khắp nơi và lấy Hà Nội làm trung tâm.
Trường lập ra bốn ban công tác, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau để
duy trì cho trường hoạt động và đạt kết quả tốt nhất.
Ban Giáo dục: làm công tác mở lớp, tiếp nhận học viên, tổ chức giảng
dạy. Đội ngũ giáo viên bao gồm các nhà nho và các nhà tân học. Ban chia làm
ba tổ bộ môn, gồm: Việt văn, Hán văn và Pháp văn. Đảm nhận dạy Hán văn
có Nguyễn Quyền, Vũ Trác, Hoàng Tích Phụng, Dương Bá Trạc, Hoàng Tăng

Bí, Lương Trúc Đàm, Đào Nguyên Phổ. Ban Việt văn và Pháp văn có Nguyễn
Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Bùi Đình Tá. Học viên của
trường rất đa dạng, gồm có cả người già và trẻ em, cả nam và nữ, tất cả được
phân làm tám lớp.
Ban tu thƣ có nhiệm vụ biên soạn tài liệu giảng dạy cho giáo viên,
tài liệu học tập cho học viên và các tài liệu tuyên truyền cổ động cho nhà
trường. Biên tập viên chính là Lương Văn Can, Lê Đại, Nguyễn Hữu Cầu.
Phan Chu Trinh và Ngô Đức kế cũng tham gia vào ban này. Ban chia làm
hai ngành: ngành soạn và ngành dịch. Tài liệu tham khảo chủ yếu là các
sách báo mới (Tân thư, Tân văn) của Trung Quốc, hoặc trích từ các áng văn

14


cổ, có nội dung phù hợp với mục đích hoạt động của trường. Trong một
thời gian ngắn, ban đã soạn được một số sách giáo khoa và tài liệu tuyên
truyền như: Quốc dân độc bản 國民讀本, Nam quốc giai sự 南國佳事,
Nam quốc địa dư 南國地輿, Quốc văn giáo khoa thư 國文教科書 ,
Luân lý giáo khoa thư 論理教科書… Đây là những sách viết bằng chữ
Hán, in bản gỗ trên giấy Bưởi, đóng bìa dầy, đem phát miễn phí cho học
sinh. Những tác phẩm xuất bản ở Nhật Bản và Trung Quốc như Trung
Quốc hồn 中國魂, Vạn quốc sử ký 萬國史記, Doanh hoàn chí lược 瀛

寰誌略, Nhật Bản tam thập niên duy tân sử 日本三十年維新史... cũng
được ban mua về để làm tài liệu tham khảo, biên soạn, nghiên cứu, giảng
dạy.
Ban tài chính: Phụ trách các khoản thu chi của nhà trường và là bộ
phận quan trọng để Đông Kinh nghĩa thục được tồn tại và mở rộng hoạt
động. Tài chính của trường chủ yếu là do các hội viên đóng góp, sau đó là
những người hảo tâm và gia đình học viên.

Ban cổ động: có nhiệm vụ tuyên truyền ảnh hưởng của trường với
quần chúng. Hình thức hoạt động chủ yếu của ban là tổ chức các buổi diễn
thuyết và bình văn hàng tháng. Sự đón nhận và ủng hộ của quần chúng với
phong trào được ghi lại qua câu thơ sau:
“Buổi diễn thuyết người đông như hội
Kỳ bình văn khách đến như mưa”!
(Dựa theo tư liệu Đông Kinh nghĩa thục của tác giả Chương Thâu).
Như vậy, Đông Kinh nghĩa thục cùng với những hoạt động và ảnh
hưởng của nó, không chỉ bó hẹp trong ý nghĩa của một trường học, mà thực
chất đã gây thành phong trào, một cuộc vận động chính trị công khai,
hướng tới mục đích “hóa quốc cường dân” để giành độc lập dân tộc và đổi
mới đất nước. Xuất phát từ thực trạng nước nhà, các nhà sáng lập và lãnh
đạo Đông Kinh nghĩa thục chỉ rõ con đường chống Pháp giành độc lập dân
tộc không thể xuất phát từ chủ trương bạo động hay cầu ngoại viện, mà
15


nguyên nhân sâu xa làm cho nước yếu dân hèn chính là do lạc hậu, cho nên
việc đầu tiên cần phải làm để cứu nước là chống tư tưởng phong kiến hủ
bại, mở đường cho việc thực hiện một cuộc cải cách về tư tưởng văn hóa xã
hội. Đó là cả một chặng đường tìm tòi, suy ngẫm và đấu tranh giữa chống
và xây, mà cụ thể là chống cái gì và xây cái gì của các nhà Đông Kinh
nghĩa thục. Đối với học thuật, giáo dục các nhà Đông Kinh cũng đưa ra các
chủ trương cải tổ, đổi mới. Họ nhìn thấy thực trạng của nền giáo dục khoa
cử từ chương. Các nhà tân học ra sức đả phá nền giáo dục và học thuật theo
lề thói phong kiến đã lỗi thời. Họ xác định phương pháp giảng dạy không
phải cứng nhắc giáo điều mà là “trong thi cử cho phép bàn bạc tha hồ, đối
đáp tự do không nề hà, không cần thể cách gì hết…” [Viện Viễn Đông bác
cổ - Cục lưu trữ Việt Nam, 1997]. Họ khẳng định học và dạy không phải để
cử nghiệp mà là để đào tạo nhân tài, để sản sinh ra các giá trị tinh thần và

vật chất, để nuôi sống bản thân, gia đình và làm cho nước nhà phát triển.
“Đó là cái học hướng nghiệp, cái học thực dụng và mang ý nghĩa thực tiễn
cuộc sống”. [Chương Thâu, 1982, tr. 47].
Từ những nhận định có tính định hướng như trên, Đông Kinh nghĩa
thục đưa ra các chủ trương cải cách trên mấy bình diện: Văn hóa - xã hội,
giáo dục - học thuật và kinh tế. Về văn hóa giáo dục, họ cho rằng, nền văn
hóa, giáo dục của chế độ phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề của
nền văn hóa, giáo dục bên Trung Quốc, nhưng nay đã lỗi thời, cần phải
thay thế nó bằng một cái mới tiến bộ phù hợp hơn. Họ kêu gọi nhân dân
nên chống nền cựu học, tẩy chay hủ nho, bãi bỏ khoa cử, học chữ Quốc
ngữ theo phương pháp mới, đề cao nhân bản cũng như phát huy óc sáng tạo,
đề cao tinh thần dân tộc và lòng yêu nước, xây dựng giáo dục sơ đẳng và
giáo dục chuyên môn… Từ những chủ trương định hướng trên cộng với
ảnh hưởng sâu sắc của Tân thư, Tân văn từ bên ngoài dội vào (chủ yếu là
cách sử dụng ngôn ngữ, phong cách hành văn cũng như nội dung trình bày
của Tân thư, Tân văn), các nhà sáng lập Đông Kinh nghĩa thục đã sử dụng
Hán văn như là một hệ thống ngôn ngữ văn tự phục vụ nhiệm vụ khải

16


mông, nâng cao dân trí cho dân tộc, đưa Hán văn vào trong giáo dục phổ
thông với những điều kiện cụ thể mình. Những tác phẩm Hán văn đó bên
cạnh những giá trị về mặt văn học, ngôn ngữ, lịch sử còn là kim chỉ nam,
tập cương lĩnh cho cả nước làm thành cuộc vận động cách mạng văn hóa
dân tộc dân chủ mạnh mẽ đầu thế kỷ XX.
1.2. Hán văn Đông Kinh nghĩa thục
Như trên đã trình bày, Đông Kinh Nghĩa thục chỉ tồn tại và hoạt
động trong một khoảng thời gian rất ngắn (thành lập vào 3/1907 và
12/1907 thì bị đóng cửa, hệ thống sách vở, tài liệu giảng dạy của nhà

trường bị tịch thu, nghiêm cấm lưu hành, các yếu nhân của Đông Kinh
Nghĩa thục bị thảm sát, tù đày) nên những tài liệu, sáng tác của họ hiện nay
đã mất mát, còn lại không được là bao. Trước thực trạng ấy, học giả Đặng
Thai Mai đã từng có những lời nhận xét như sau: “Sau khi nhà trường phải
đóng cửa, các chủ não bị đi đày, tù, thì toàn bộ văn học của Đông Kinh
nghĩa thục đã bị tịch thu, và cấm không được lưu hành tàng trữ. Sau này
Trường Viễn Đông bác cổ của Pháp cũng không hề để ý bảo tàng thứ thơ
văn đó. Cho nên ngày nay, các tập sách giáo khoa bằng chữ Hán của Đông
Kinh nghĩa thục cũng chỉ còn lại vài ba bốn bộ mà thôi. Còn phần tiếng
Việt thì mãi đến ngày đầu cách mạng tháng Tám thành công người ta mới
bắt đầu ghi chép và in lại được một ít. Phần thất lạc chắc còn nhiều. Một
mặt nữa, các bài đã được in lại phần lớn là do một số người nhớ được đọc
lại, cho nên chỗ lầm lỗi cũng khá nhiều: lầm lỗi về lời văn, về tác giả. Vấn
đề đặt ra cho người nghiên cứu là tìm tòi thêm và đính chính để dựng lại bộ
mặt chân thực của văn chương thời đại này và trả lại cho cuộc vận động
Đông Kinh nghĩa thục phần cống hiến của nó cho văn học nước nhà…”.
[Đặng Thai Mai, 1971, tr, 76]. Cùng nhận xét về thực trạng của các tư liệu
Hán văn Đông Kinh nghĩa thục, học giả Lê Quang Thiêm trong một công
trình nghiên cứu của mình đã viết như sau: “Phong trào Đông Kinh nghĩa
thục tuy ra đời và tồn tại trong thời gian rất ngắn nhưng số lượng các tác
phẩm còn lại đến ngày nay (chưa kể con số tác phẩm bị thất tán) cũng
17


không hề khiêm tốn: “tổng cộng có 33 tác phẩm, trong đó có 10 tác phẩm
khuyết danh, 11 tác giả, in trên 360 trang khổ 14,5 x 20,5 tức là bằng một
tập sách dày dặn ngày nay”. [Lê Quang Thiêm, 2001, tr, 34]. Để phục vụ
cho việc nghiên cứu, dựa trên sự chỉ dẫn của những học giả đi trước từng
nghiên cứu về Đông Kinh nghĩa thục, chúng tôi đã thiết lập danh mục các
tư liệu Hán văn Đông Kinh nghĩa thục ở một số trung tâm lớn như Thư

viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, Thư viện Viện Sử học, Trung tâm lưu trữ
Quốc gia I Hà Nội… Dưới đây là danh mục tư liệu Hán văn Đông Kinh
nghĩa thục hiện có ở các trung tâm đó:
1.2.1. Danh mục sách Hán văn Đông Kinh nghĩa thục trong Thƣ
viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
a, Văn minh tân học sách 文明新學策, soạn năm 1904, tác giả
khuyết danh. Văn bản có một bản in và ba bản viết.

Chú thích: Đây là tờ bìa cuốn Văn minh tân học sách 文明新學策 (bản
in ván gỗ) của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, A.567.

18


Sách gồm các ký hiệu: A.566: 156 trang, 28x16, viết; A.567: 40
trang, 27x15, in; VHv.2039: 50 trang, 28x16, viết; VHv.347: 36 trang,
28x15, viết. Nội dung như A.567; MF.358 (A.566).
Đây là cuốn sách tập hợp những bài viết của các nhà Đông Kinh
nghĩa thục, trong đó, cuốn A.566 và VHv.2039 có bài thơ Chí thành thông
thánh 至成通聖 và bài phú Lương sơn danh ngọc 梁山名 玉 của Đào
Mộng Giác (Phan Chu Trinh). Cuốn A.566 lại có thêm bài Á tế á... bằng
chữ Nôm, bài tựa bản in lại sách Thanh Tâm Tài Nhân tập, bài khuyên
người trong nước đi du học của Sào Nam tử - Phan Bội Châu
b, Quốc dân độc bản 國民讀本 - hiện chưa rõ tác giả. Sách viết
chữ Hán, mang ký hiệu A.174, gồm một bản in khắc gỗ, dày 190 trang, khổ
26x15. (Di sản Hán - Nôm Việt Nam, Thư mục đề yếu (Catalogue des livres
en Hán - Nôm), NXB KHXH, H, 1993, Tập II, tr 649).

Chú thích: Đây là tờ bìa cuốn Quốc dân độc bản 國民讀本 của Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, với kí hiệu VHv 174.


19


Quốc dân độc bản 國民讀本 gồm có 79 mục, chia làm hai tập
thượng và hạ. Tập thượng từ mục 1 đến mục 37, Tập hạ từ mục 38 đến mục
79. Nội dung sách có 79 bài học cơ bản, soạn theo các chủ đề khác nhau, đề
cập đến nhiều vấn đề như chính trị,, xã hội, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, giáo
dục..., trong đó chú trọng nhiều đến tình hình của Nhật Bản và Pháp. Ý
tưởng của cuốn sách là nhằm mục đích tuyên truyền giáo dục trong quốc
dân đồng bào tinh thần yêu nước, ý thức về sự đổi mới, tinh thần tự lực tự
cường....

Chú thích: Đây là trang Mục lục Thượng
biên của sách Quốc dân độc bản (hiện
đang lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm)

國民讀本目錄 -上編 bao gồm các vấn
đề như: Xã hội duyên khởi 社會緣起
(Nguồn gốc của xã hội), Ái quần tâm 愛

群心 (Lòng ái quần), Luyến gia, luyến
hương phi ái quần 戀 家 戀 鄉 非 愛 群
(Yêu gia đình, yêu làng xóm chưa phải là
lòng ái quần), Tranh tiên 爭先 (tranh lên
trước), Bác ái 博愛 , Lập tín 立信 ,(tạo
dựng chữ tín), Tồn thứ 存 恕 (giữ điều
thứ), Nguyên quốc 原 國 (Bàn về nước),
Ngã quốc gia độc lập chi cổ 我國獨立


之古 (Nước ta lập nước từ xưa), Ngã
quốc khai hóa chi tảo 我國開化之早
(Nước ta khai hóa rất sớn), Văn minh 文

明, Văn minh vô chỉ cảnh thuyết 文明無
止境 說 (Văn minh không có giới hạn).

20


c, Nam quốc địa dư 南國地輿 do Lương Trúc Đàm biên soạn, in
năm Duy Tân, Mậu Thân 1908, gồm 3 bản in, 1 bản viết, 1 lời tựa, 1 phàm lệ
và 1 mục lục.Với các ký hiệu như sau:
VHv.173: 158 trang, 26,5X15, in; VHv.1725:154 trang, 26,5x15, in;
A.75: 160 trang, 27,5x15,5, in; VHv.2102: 182 trang, 29,5x17. Chép bản
sao VHv.173; MF.44 (A.75).
Nam quốc địa dư 南國地輿 là cuốn sách giáo khoa địa lý Việt Nam,
dày 170 trang, in bản mộc, giới thuyết về hình thế, vị trí, giới hạn, sông
ngòi, đê đập, cửa biển, đường sá, khí hậu, dân cư, chính thể, quân sự, tài
chính, giáo dục, thuế khóa, sản vật, công nghệ, số phủ, số huyện, tổng, xã,
thôn ở các tỉnh trong nước và phong tục sinh hoạt của các dân tộc ít người.

Chú thích: Đây là trang bìa
cuốn Nam quốc địa dư 南國

地輿 đang lưu tại Thư Viện
Quốc gia Việt Nam với mã kí
hiệu R1424 với dòng chữ
Hán: 維新戊申冬, 南國地,


舉 人 梁 竹 潭 撰 (Nghĩa là:
Mùa đông năm Mậu Thân
niên hiệu Thành Thái, cử
nhân Lương Trúc Đàm biên
soạn Nam quốc địa dư).

21


d, Nam quốc vĩ nhân 南國偉人傳 và Nam quốc giai sự truyện 南

國佳事 gồm có 5 bản in, dày 76 trang, khổ 26,5x15, có một lời tựa, có
mục lục, và chữ Nôm, gồm các ký hiệu sau: A.3207; Paris: SA. PD: 2366:
40 trang; Paris: SA. PD: 2364: 47 trang; Paris: BN. A.22. Vietnamien: 47
trang; Paris: BN. A. 80. Vietnamien: 28 trang; Paris. EFEO. ME. 1/2/238
(A.32307).
- Nam quốc vĩ nhân truyện 南國偉人傳 (cả thảy có 48 trang), gồm
10 truyện về các vua (Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Đinh Tiên Hoàng...),
5 truyện về người dòng dõi nhà vua (Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo,
Trần Nhật Duật...), 13 truyện về các quan văn (Lê Bá Ngọc, Lê Phụ Trần,
Hàn Thuyên...), 17 truyện về các tướng võ (Lê Phụng Hiểu, Lý Thường
Kiệt, Trần Khánh Dư...) và có thơ đề vịnh của vua Tự Đức.

Chú thích: Đây là trang bìa cuốn
Nam quốc vĩ nhân truyện 南國
偉人傳 của Thư viện Quốc gia
Việt Nam với kí hiệu R87. Bên
phải trang là dòng chữ Hán 南
國 偉 人 傳 được bao bọc bởi
đường diềm hoa, nửa trên trái là

hình ảnh chú bé vui tươi gánh
quả địa cầu trên vai - hình ảnh
biểu tượng của sách Hán văn
Đông Kinh nghĩa thục.

- Nam quốc giai sự truyện 南國佳事 (28 trang) gồm 16 truyện như:
Dạ Trạch Vương, Phạm Lệnh Công, Đế Quai Vạc, Cao Nghĩa, Hội thề ở

22


phía nam thành, Bữa tiệc ở Lan Đình, Chiếc gậy của Trần Hưng Đạo, Mớ
tóc của Trường Phái Hầu, Diệt giặc Chiêm Thành.
Chú thích: Đây là trang bìa cuốn Nam
quốc giai sự 南國佳事 đang lưu tại
Thư viện Quốc gia Việt Nam với kí
hiệu R129. Tại lề bên phải của trang
có dòng chữ Hán: Hoàng triều Duy
Tân ngũ niên tuế thứ Tân Hợi thất
nguyệt cát nhật phụng biên (皇朝維
新伍年歲次辛亥柒月吉日奉編-南
國佳事), Nghĩa là: Ngày lành tháng 7
năm Tân Hợi niên hiệu Duy Tân thứ 5
phụng mệnh Hoàng triều biên soạn
sách Nam quốc giai sự.

1.2.2. Danh mục sách Hán văn Đông Kinh nghĩa thục ở Thƣ viện
Viện sử học Việt Nam (dựa theo thống kê trong cuốn Đông Kinh nghĩa
thục của tác giả Chương Thâu).
a, Cải lương mông học quốc sử giáo khoa thư 改良蒙學國史教

科書, viết bằng chữ Hán, tác giả khuyết danh. Sách có chia mỗi cuốn sử ra
làm ba thời kỳ: Thời kỳ nghi sử: từ Hồng Bàng đến Hùng Vương thứ 18;
Thời kỳ khuyết sử: từ An Dương Vương đến họ Khúc; Thời kỳ tín sử: từ
Ngô Quyền đến nay.

23


Chú thích: Đây là Lời tự của sách Cải lương mông học quốc sử giáo khoa thư
改良蒙學國史教科書 có kí hiệu R1946. Nội dung trang này như sau:
Phiên âm: Cải lương mông học quốc sử giáo khoa thư - Nguyên tự
Vực trung tam đại, kỳ nhất viết sử. Quốc sử giả sở dĩ kỉ nhất quốc dân tộc chi
cường nhược dữ kì tiến hóa chi trì tốc dã. Thái Tây chi học, thủ trọng quốc sử. Phàm
học hiệu nam nữ chư học sinh, giai tiên giáo dĩ bản quốc lịch sử, cánh nhiên hậu cập ư
ngoại quốc lịch sử. Đồng nhi tập chi, trưởng nhi tinh chi. Độc tổ quốc cường thịnh chi
lịch sử tắc hân nhiên dĩ úy; độc tổ quốc suy vi chi lịch sử tắc trắc nhiên dĩ bi. Cố kì
quốc dân , đương ư ái quốc tâm, nhân nhân giai đàm tinh kiệt lực, dĩ tiến tổ quốc
cường thịnh, nhi dương tổ quốc chi thanh dự. Quốc sử chi đối ư quốc dân, thực tối mật
thiết chi quan hệ dã. Ngã quốc sở học, tòng châu thủ chi, bang hủ lậu chi văn, kỳ ư bản
quốc. Cố thực mang nhiên nhược trụy yên vụ, thậm chí thượng lưu xã hội cao đẳng học
sinh, nhi vấn dĩ thử thân, cư hà quốc thổ, diệc bất năng đối. Ô hô! Dĩ bản quốc nhân
bất tường bản quốc sự, tịch đàm vong tổ, cơ cơ hồ bất phục tri ngô thân huyết lệ chi sở
tự lai. Cố ái quốc chi tâm, lí thiển thả bạc, toại sử tổ quốc tiền đồ, nhật hãm ư suy
nhược luân vong chi vực. Thâm khả sỉ dã, thâm khả thống dã. Dư vi thử cụ, viên thủ
ngã quốc lịch sử, san kì phồn nhi nhiếp kì yếu, phân vi ngũ thiên, danh viết Cải lương
mông học giáo khoa thư, chính cựu thuyết chi mậu vong, phôi tân giới chi tư tưởng…
Dịch nghĩa: Lời tựa của sách Cải lƣơng mông học quốc sử giáo khoa thƣ
Trong ba cái lớn thì lịch sử chiếm vị trí đầu tiên. Quốc sử là cuốn sách ghi chép
về sự mạnh yếu của dân tộc và tiến hóa nhanh chậm của một đất nước. Nền học vấn của
các nước Thái Tây coi trọng nhất là môn lịch sử dân tộc. Hầu hết học sinh nam hay nữ,

đã đi học đều được dạy môn lịch sử dân tộc trước tiên, sau đó mới học đến lịch sử của
các nước. Trẻ em thì chăm chỉ học tập, còn người lớn thì thông hiểu lịch sử nước nhà.
Đọc những trang lịch sử cường thịnh của tổ quốc thì vui mừng phấn khởi, đọc những

24


×