Tải bản đầy đủ (.pdf) (160 trang)

Nghiên cứu nhóm văn bản gia lễ khắc in

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.44 MB, 160 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ VIỆT BẰNG

NGHIÊN CỨU
NHÓM VĂN BẢN GIA LỄ KHẮC IN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HÁN NÔM

Hà Nội, 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ VIỆT BẰNG

NGHIÊN CỨU
NHÓM VĂN BẢN GIA LỄ KHẮC IN
MÃ NGÀNH: 60 22 40

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS TRỊNH KHẮC MẠNH

Hà Nội, 2013


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc tới PGS. TS Trinh Khắc Mạnh đã tận tình
hướng dẫn tôi hoàn thành Luận văn
Tôi chân thành cảm ơn gia đình, thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp đã


động viên, góp ý, giúp đỡ tôi trong thời gian hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2013

Vũ Việt Bằng


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn là do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn, góp ý của PGS. TS Trịnh Khắc Mạnh và các thầy cô giáo, bạn bè,
đồng nghiệp.

Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2013
Tác giả Luận văn

Vũ Việt Bằng


MỘT SỐ QUY ƢỚC TRONG LUẬN VĂN
Nguyên văn

Quy ƣớc

Gia lễ tiệp kính

GLTK

Hồ Thượng thư gia lễ

HTTGL


Thọ Mai gia lễ

TMGL

Văn Công gia lễ

VCGL

Văn Công gia lễ nghi tiết

VCGLNT

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

VNCHN

Nhà xuất bản

Nxb.

Trang

Tr.

Số nhỏ hơn 10

Viết chữ: một, hai

Số lớn hơn 10


Viết số: 11, 111

Ngày tháng

Viết số: ngày 1 tháng 1 năm …


MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................................ 1
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 3
1. Lí do nghiên cứu ....................................................................................................................3
2. Lịch sử nghiên cứu .................................................................................................................4
3. Mục tiêu nghiên cứu...............................................................................................................9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................................10
5. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................................10
6. Đóng góp mới của luận văn .................................................................................................10
7. Kết cấu luận văn ...................................................................................................................11

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TƢ LIỆU GIA LỄ VIỆT NAM ........................................... 12
1.1. Xác lập tiêu chí thống kê tƣ liệu gia lễ ..............................................................................12
1.2. Hệ thống tƣ liệu gia lễ Việt Nam tại VNCHN ..................................................................16
1.2.1. Thống kê sơ bộ văn bản gia lễ lưu tại VNCHN .............................................................16
1.2.2. Thực trạng văn bản.........................................................................................................17
1.2.3. Xác lập hệ thống tư liệu gia lễ Việt Nam lưu tại VNCHN ...........................................22
1.3. Nội dung sách gia lễ Việt Nam nhìn từ cách tiếp cận gia lễ của nhà Nho Việt .............25
1.3.1. Trọng tang lễ ..................................................................................................................25
1.3.2. Lồng ghép tang lễ và tế lễ ..............................................................................................26
1.3.3. Ý thức lưu giữ văn hiến quan lễ .....................................................................................27
1.3.4. Luận giải nghi thức gia lễ...............................................................................................29

1.3.5. Nôm hóa tư liệu gia lễ ....................................................................................................30

TIỂU KẾT .......................................................................................................................... 33
Chƣơng 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ TIẾP BIẾN ........................................... 34
NHÓM VĂN BẢN GIA LỄ KHẮC IN VIỆT NAM ...................................................... 34
2.1. Những chặng đƣờng lịch sử gia lễ Việt Nam ....................................................................34
2.1.1. Thời kì tiếp biến gia lễ Trung Quốc thông qua giao lưu văn hóa và tiếp cận tư liệu gia
lễ (trước thế kỉ XVII) ...............................................................................................................34
2.1.2. Thời kì Nôm hóa và khắc in tư liệu gia lễ - biện pháp chấn hưng lễ học trước bối cảnh
lễ học bất minh (thế kỉ XVII – thế kỉ XVIII) ...........................................................................37
2.1.3. Thời kì tư liệu gia lễ viết bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ (từ đầu thế kỉ XIX): ...........39
2.2. Nhóm tác gia Gia lễ thế kỉ XVII – XVIII..........................................................................43
2.2.1. Ngô Sĩ Bình ....................................................................................................................43
2.2.2. Hồ Sĩ Dương ..................................................................................................................46
2.2.3. Hồ Gia Tân .....................................................................................................................52
2.3. Quá trình hình thành những tƣ liệu gia lễ Việt Nam - nhóm tƣ liệu gia lễ khắc in......54
1


2.3.1. Từ sơ đồ ngũ phục đến phục chế Nôm GLTK ...............................................................54
2.3.2. Từ VCGLNT đến nghi tiết Nôm HTTGL .......................................................................61
2.3.3. Từ phục chế Nôm GLTK, nghi tiết Nôm HTTGL đến phục chế, nghi tiết Nôm TMGL 67

TIỂU KẾT .......................................................................................................................... 68
Chƣơng 3: ........................................................................................................................... 70
VĂN BẢN GIA LỄ KHẮC IN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ VĂN BẢN HỌC......................... 70
3.1. Văn bản GLTK (độc bản) ...................................................................................................70
3.1.1. Khảo nhan đề tác phẩm ..................................................................................................70
3.1.2. Diện mạo bản in năm 1707 ............................................................................................71
3.2. Văn bản HTTGL .................................................................................................................73

3.2.1. Quá trình ra đời HTTGL: từ ý tưởng đến bản khắc in ....................................................73
3.2.2. Khảo nhan đề tác phẩm .................................................................................................76
3.2.3. Khảo dị văn bản (3 bản) .................................................................................................78
3.2.4. Diện mạo hai bản in Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng ..............................................................83
3.3. Văn bản TMGL ...................................................................................................................85
3.3.1. Số lượng và phân loại văn bản .......................................................................................86
3.3.2. Thực trạng hình thức văn bản TMGL .............................................................................87
3.3.3. Khảo dị văn bản .............................................................................................................91

TIỂU KẾT .......................................................................................................................... 97
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................. 101
PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 107
PHỤ LỤC I: Hiệu đối kết cấu Thanh Thận gia lễ và Lê Quý Đôn gia lễ ..............................107
PHỤ LỤC II: Thống kê đơn vị vấn đề vấn đáp luận giải nghi thức gia lễ trong tư liệu gia lễ
................................................................................................................................................111
PHỤ LỤC III: Hiệu đối phục chế giữa GLTK, TMGL và bản A.279 ....................................119
PHỤ LỤC IV: Niên biểu Hồ Sĩ Dương .................................................................................130
PHỤ LỤC V: Kết cấu bản in GLTK năm 1707......................................................................131
PHỤ LỤC VI: Kết cấu văn bản A.279...................................................................................134
PHỤ LỤC VII: Kết cấu bản khắc in HTTGL .........................................................................136
PHỤ LỤC VIII: Thực trạng văn bản TMGL ..........................................................................141
PHỤ LỤC IX: Hiệu đối nội dung các loại bản TMGL...........................................................144

2


MỞ ĐẦU
1. Lí do nghiên cứu
Gia lễ là nghi lễ gia tộc bao gồm quan lễ, hôn lễ, tang lễ, tế lễ. Gia lễ Việt Nam khai

thủy gắn với sự ra đời của nhà nước phong kiến. Tư liệu gia lễ thành văn Hán Nôm hình
thành từ thế kỉ XVII với sự ra đời của GLTK của Ngô Sĩ Bình, phát triển mạnh vào cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và dần giảm vai trò trong đời sống xã hội khi tư liệu gia lễ chữ
Quốc ngữ ra đời.
Tư liệu gia lễ Hán Nôm số lượng không nhiều nhưng không thể nói là ít, hình thành
và phát triển trong thời gian chưa lâu nhưng không thể nói là ngắn, dù vậy việc nghiên cứu
gia lễ Việt Nam chưa thể nói là xứng tầm nếu không nói là quá khiêm tốn so với giá trị
của nó. Nghiên cứu tổng quan gia lễ mở đầu từ đầu thế kỉ XX và diễn ra đều đều vào
những năm 50, 60 với nhiều bản dịch thuật gia lễ, tuyển tập nghi lễ thường nhật ra đời1.
Tuy vậy, đánh giá một cách khách quan, tư liệu gia lễ Việt Nam chưa được nghiên cứu
một cách có hệ thống, nghiên cứu gia lễ phần nhiều mang tính khảo luận lễ nghi thường
nhật, hình thành trên cơ sở kinh nghiệm, góp nhặt từ nhiều nguồn tư liệu, trong khi đó
công tác nghiên cứu văn bản tư liệu gia lễ chưa được chú ý.
Trong nghiên cứu Hán Nôm nói chung, kiến thức tư liệu đóng vai trò tiên quyết và
nghiên cứu gia lễ cũng không ngoại lệ. Tư liệu gia lễ lưu tại kho thư tịch VNCHN phân
thành hai dạng: dạng bản khắc in và dạng bản viết tay, trong đó các bản khắc in đã được
nhiều học giả trong và ngoài nước lấy làm đối tượng nghiên cứu ở những mức độ khác
nhau. GLTK của Ngô Sĩ Bình, HTTGL của Hồ Sĩ Dương, TMGL của Hồ Gia Tân là những
tư liệu đầu tiên trong hệ thống tư liệu gia lễ Việt Nam, đều được khắc in và đều được viết
bằng chữ Nôm đóng vai trò quan trọng đối với việc hình thành phát triển gia lễ Việt Nam.
Với tính nguyên sơ của những tác phẩm ra đời sớm, tính phổ dụng của loại bản khắc in
liên tiếp lưu hành trong thời gian dài, GLTK, HTTGL, TMGL có thể lột tả khá rõ nét diện
mạo gia lễ Việt Nam, đặc biệt là gia lễ trong thời kì vừa mới hình thành tư liệu gia lễ
thành văn. Là những tư liệu gia lễ Việt Nam đầu tiên, là một bộ phận cấu thành hệ thống
tư liệu gia lễ Việt Nam, nhưng văn bản gia lễ khắc in chưa được quan tâm nghiên cứu,

1

Như TMGL, văn khấn Nôm, lễ nghi gia tộc của Chu Ngọc Chi, Nxb. Hưng Long, 1952; Văn Công TMGL của
Hà Tấn Phát, Nxb Hồng Dân Sài Gòn, 1961; TMGL dẫn giải của Túy Lang Nguyễn Văn Toàn, Nxb Khai trí, Sài

Gòn, 1972; TMGL, Phan Hà Sơn, Trương Thị Thủy dịch, Nxb Hà Nội xuất bản năm 2009… và nhiều tư liệu tuyển
tập nghi lễ như Tân Việt: 100 điều nên biết về phong tục Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1993; Phạm Côn
Sơn: gia lễ xưa và nay, Nxb Thanh Niên, Sài Gòn, 1999; Quảng Tuệ: Một số phong tục nghi lễ dân gian truyền thống
Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002; Nguyệt Hạ: Phong tục hôn lễ, tang lễ, tế lễ Việt Nam, Nxb Đà Nẵng,
Đà Nẵng, 2005; Thục Anh: Phong tục cổ truyền người Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007; Tuấn Khanh,
Thanh Thủy: Cẩm nang ứng dụng phong tục dân gian, Nxb Hải Phòng, Hải Phòng, 2007...

3


hoặc chỉ là nghiên cứu đơn lẻ một đơn vị tác phẩm độc lập (TMGL là đối tượng nghiên
cứu chủ yếu), không nghiên cứu tổng thể văn bản khắc in một cách hệ thống.
Tư liệu gia lễ Việt Nam là sự kết hợp chồng chéo nhiều tư liệu trong đó có tư liệu gia
lễ Việt Nam và Trung Quốc, sự chồng chéo phụ thuộc vào lượng tri thức của người làm tư
liệu và đặc biệt có xu hướng tỷ lệ thuận với độ muộn về niên đại tư liệu. Sự kế thừa là có,
nhưng không vì thế mà nhận định tư liệu gia lễ Việt Nam không có tính độc lập. Thông
qua những tư liệu khắc in với tư cách là những tư liệu phổ dụng, tư liệu gia lễ Việt Nam
được nhận định là tư liệu được xây dựng trên nền tảng là một vài tư liệu gia lễ Trung
Quốc, nhưng với tư duy kiến tạo của nhà Nho Việt Nam. Việc nghiên cứu tư liệu gia lễ
khắc in đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu tư liệu gia lễ, nhằm đánh giá khách quan
tính độc lập của tư liệu gia lễ Việt Nam.
Để có kiến thức cơ bản về lịch đại gia lễ Việt Nam nhằm góp phần nhìn nhận gia lễ
Việt Nam trong thời kì đầu hình thành tư liệu thành văn, nhìn nhận nền tảng, chất liệu,
cách thức kiến tạo gia lễ của nhà Nho Việt Nam, đánh giá khách quan vị trí, mức độ ảnh
hưởng của tư liệu gia lễ Trung Quốc trong mối tương quan giữa hai không gian văn hóa
gia lễ, chúng tôi chọn nghiên cứu nhóm văn bản gia lễ khắc in.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đầu thế kỉ XX, nghiên cứu gia lễ được nhiều học giả Trung Quốc quan tâm, tập
trung chủ yếu vào VCGL từ nhiều góc độ: văn bản học, văn hiến học, nghiên cứu quan hệ
với gia lễ lịch đại Hán Đường Tống Minh, nghiên cứu so sánh với gia lễ khu vực Đông Á

như Nhật Bản, Hàn Quốc.v.v…: Trương Kinh Khoa nghiên cứu VCGL với tư cách thành
phần trong Nghi lễ kinh truyện thông giải2; Thúc Cảnh Nam nghiên cứu chân ngụy văn
bản3; Lâm Xuân Mai nghiên cứu Gia lễ từ góc độ văn bản học và mối liên hệ với Gia huấn
đời Tống4; Dương Chí Cương nghiên cứu Gia lễ từ góc độ ảnh hưởng đối với Hàn Quốc;
Sư Bội Quỳnh lấy mục “Từ đường” làm đối tượng nghiên cứu chính, từ đó lí giải về Gia
lễ trong phạm vi mối quan hệ với gia đình5; Trương Văn Xương nghiên cứu sách lễ đời
2

Trương Kinh Khoa: Nghiên cứu gia lễ trong Nghi lễ kinh truyện thông giải, Luận văn Thạc sĩ, Viện Nghiên

cứu Văn học Trung Quốc, trường Đại học Chính trị, Đài Bắc, 1990 張 經 科《儀 禮 經 傳 通 解 之 家 禮 研 究》,
碩士論文 , 政 治 大 學 中 國 文 學 研 究 所, 臺北, 1990 年
Thúc Cảnh Nam: Chu Hi dật văn tập, Giang Tô cổ tịch xuất bản xã, 1991 束 景 南《朱 熹 佚 文 辑 考》著
江 苏古 籍 出 版 社, 1991 年
3

4

Lâm Xuân Mai: Nghiên cứu gia huấn, gia lễ đời Tống, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Phụ Nhân, 1991 林 春 梅

《宋 代 家 禮、家 訓 的 研 究》, 碩 士 論 文, 輔 仁 大 學, 1991 年
5
Sư Bội Quỳnh: Lí giải Gia lễ của Chu Tử đối với gia đình – lấy từ đường làm trung tâm nghiên cứu, Luận
văn Thạc sĩ, Đại học Văn hóa Trung Quốc, 2002 師 瓊 珮《朱 子《家 禮》對 家 的 理 解 - 以 祠 堂 為 探 討 中
心》,碩 士 論 文, 中 國 文 化 大 學, 2002 年

4


Đường Tống trong phạm vi Công lễ và gia lễ, từ đó nhận định nguồn gốc và động cơ thúc

đẩy sự ra đời gia lễ, tác giả kết luận gia lễ là kết quả quá trình chuyển dịch từ Công lễ6…
Xuất phát từ tính phổ dụng, những văn bản gia lễ khắc in thường là đối tượng chính
khi học giả nghiên cứu gia lễ Việt Nam. Nếu như ở Trung Quốc, nghiên cứu gia lễ tập
trung vào VCGL thì ở Việt Nam, TMGL là đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Trong phong
trào dịch thuật tư liệu Hán Nôm ra chữ Quốc ngữ đầu thế kỉ XX, sách gia lễ đặc biệt là
TMGL được nhiều dịch giả chú ý với mục đích lưu giữ lại nền văn hóa đang dần biến dạng
theo sự biến thiên chính trị xã hội: TMGL được Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến lấy làm tư
liệu tham khảo chủ yếu khi viết Tang lễ in trên Tạp chí Nam Phong số 90 tháng 12 năm
1924 và số 92 tháng 2 năm 1925; Vũ Hi Tô dịch TMGL được Phú Văn đường ấn hành
năm 1927. Sau năm 1945, TMGL tiếp tục được biên dịch và ấn hành: Vũ Như Lâm dịch
TMGL được Nhà in Mỹ Thắng, Nam Định ấn hành năm 1945; TMGL dẫn giải của Túy
Lang Nguyễn Văn Toàn ấn hành bởi Nxb Khai trí, Sài Gòn, năm 1972. TMGL dẫn giải
gồm 2 phần: phần thứ nhất (7 chương) luận về xem ngày tốt xấu, tuổi xung khắc, đạo
phụng dưỡng…; phần thứ 2 (3 chương) luận về nhiều vấn đề trong tang lễ như nghi lễ,
tang phục lấy TMGL làm đối tượng nghiên cứu và trích dẫn chủ yếu. Tuy nhiên có thể cho
rằng, đây là một tác phẩm gia lễ độc lập, viết bằng chữ Quốc ngữ, trình bày nghi tiết trên
cơ sở khảo tư liệu, diễn giải sơ đồ ngũ phục theo quy tắc các hàng dọc, diễn giải từ hàng
dọc chính giữa (trực hệ) sang hàng dọc hai bên trái phải, thân trước sơ sau, nội trước ngoại
sau…
Tuy trầm lắng ở những năm đầu thống nhất đất nước, nhưng không dừng lại ở đó,
việc dịch thuật đối với TMGL tiếp tục được phát huy vào đầu thế kỉ XXI, như bản dịch:
TMGL, Phan Hà Sơn, Trương Thị Thủy dịch, Nxb Hà Nội xuất bản năm 2009. Song hành
cùng ấn phẩm dịch thuật là một số ấn phẩm ghi chép tập tục tang lễ, hôn lễ của người Việt
Nam trên cơ sở tham chước TMGL như: Hỏi Đáp Về Nghi Lễ tang lễ theo Thọ Mai tang lễ
của Ngô Bạch, Nxb Thời Đại, 01/2010; Phong tục của người Việt TMGL của Xuân
Trường, Nxb Văn hóa Thông tin, 2010; Thọ mai sinh tử - Sinh Nở, Cưới Hỏi, Trường
Thọ, Ma Chay của Nguyễn Mạnh Linh, Nxb Văn hóa - Thông tin, 2010; TMGL - Phong
tục dân gian về tục cưới hỏi ma chay của người Việt Nam của Đức Thành, Nxb Thời Đại,
2011.
Đầu thế kỉ XX, trên cơ sở dịch thuật hoặc tham cứu tư liệu gia lễ Hán Nôm, nhiều tư

liệu gia lễ chữ Quốc ngữ ra đời: Gia lễ chỉ nam: Tang lễ thọ lễ của Nguyễn Tử Siêu được
Thương Sơn dịch, Nxb Nhật Nam ấn hành khoảng thập kỉ 20 thế kỉ XX; Văn Công TMGL
của Hà Tấn Phát ra đời và đuợc Nxb Hồng Dân xuất bản tại Sài Gòn năm 1961; Gia lễ của
6

Trương Văn Xương: Nghiên cứu lễ thư đời Đường - từ công lễ đến gia lễ, Luận án Tiến sĩ, Đại học Đài

Loan, 2006 張 文 昌《唐 宋 禮 書 研 究 ── 從 公 禮 到 家 禮 , 博 士 論 文, 臺 灣 大 學, 2006 年

5


Tây Hồ Bùi Tấn Niên, Nguyễn Hữu Duệ, Lý Thái Anh xuất bản tại Sài Gòn năm 1972; Quan
hôn tang tế ấn hành bởi Bạch Vân ấn quán - Cơ quan Phát thanh nội ô Tòa Thánh Tây Ninh
vào năm Bính Thìn 1976 (Hội Thánh giữ bản quyền).
Theo đó, từ đầu thế kỉ XX đến trước năm 1945, tư liệu gia lễ tồn tại dưới ba dạng
văn tự Hán – Nôm – Quốc ngữ. Qua quá trình chuyển dịch văn tự, tư liệu gia lễ về cơ bản
đã biến thiên theo xu hướng giản lược cả phục chế và nghi tiết. Vì thế song hành cùng
dịch thuật tư liệu gia lễ, việc nghiên cứu phong tục Việt Nam trong đó có tang lễ hôn lễ
cũng được học giả Việt Nam chú ý từ trước cách mạng tháng Tám mặc dù chỉ là manh nha
nhằm nhìn nhận một cách khách quan về phong tục Việt Nam thời điểm cuối thời kì
phong kiến với diện mạo đan xen giữa nhiều nền văn hóa, và mục đích tối hậu là ủng hộ
cho sự giản lược nói trên, như nghiên cứu của Phan Kế Bính (1875 – 1921) với sự ra đời
ấn phẩm Việt Nam phong tục năm 1915. Tiếp đó có thể kể tới bài diễn thuyết Quan, Hôn,
Tang, Tế của Đỗ Thận ở Hội Trí tri Hà Nội ngày 14 tháng 5 năm 1925, sau được in trên
Tạp chí Nam Phong số 94 năm 1925. Bài diễn thuyết đã lột tả những nét cơ bản về gia lễ
Việt Nam đồng đại, đôi chỗ so sánh với gia lễ Trung Quốc. Chính vì mục đích định hướng
việc cử hành gia lễ theo một chuẩn mực nhất định, ấn phẩm Văn Công TMGL của Hà Tấn
Phát ra đời và đuợc Nxb Hồng Dân xuất bản tại Sài Gòn năm 1961. Thông qua khảo sát
một số tư liệu gia lễ Việt Nam (HTTGL, TMGL) và thực trạng lễ tục truyền thống hai miền

Nam Bắc, Hà Tấn Phát phân tích chọn lọc, gạt bỏ những nghi thức lỗi thời và tiếp thu một
số yếu tố ngoại lai tích cực để viết thành sách Văn Công TMGL.
Đóng góp to lớn đối với nghiên cứu tư liệu gia lễ Việt Nam phải kể đến kết quả
nghiên cứu của Shimao Minoru. Shimao Minoru 嶋尾稔 Giáo sư Viện Nghiên cứu Ngôn
ngữ và Văn hóa thuộc Đại học Keio (慶應義塾大学), chuyên gia nghiên cứu lịch sử Đông
Nam Á, dành nhiều tâm huyết nghiên cứu lịch sử, văn hóa, phong tục Việt Nam. Trong
chương trình nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Giáo sư Shimao Minoru dành khá nhiều trang
viết khảo cứu tư liệu gia lễ. Liên tục từ năm 2006 đến 2009, trên Tạp chí của Viện nghiên
cứu Ngôn ngữ Văn hóa của Trường Đại học Keio các số 37 năm 20067, số 38 năm 20078,
số 39 năm 20089, số 40 năm 200910, Shimao Minoru công bố nhiều kết quả nghiên cứu về
7

Shimao Minoru: Khảo sát cơ sở căn bản của TMGL, Tạp chí của Viện nghiên cứu Ngôn ngữ Văn hóa của
Trường Đại học Keio, số 37, 2006, tr.141-158 嶋尾稔: "『寿梅家礼』に関する基礎的考察" 慶應義塾大学言語文
化研究所紀要 37 号. 141-158 (2006)
8
Shimao Minoru: Khảo sát cơ sở căn bản của TMGL, (phần 2), Tạp chí của Viện nghiên cứu Ngôn ngữ Văn
hóa của Trường Đại học Keio, số 38, 2007, tr.123-143 嶋尾稔: "『寿梅家礼』に関する基礎的考察(二)" 慶應義塾
大学言語文化研究所紀要 38 号. 123-143 (2007)
9
Shimao Minoru: Khảo sát cơ sở căn bản của TMGL, (phần 3), Tạp chí của Viện nghiên cứu Ngôn ngữ Văn
hóa của Trường Đại học Keio, số 39, 2008, tr.215-231 嶋尾稔: "『寿梅家礼』に関する基礎的考察(三)" 慶應義塾
大学言語文化研究所紀要 39 号. 215-231 (2008)
10
Shimao Minoru: Khảo sát cơ sở căn bản của TMGL, (phần 4), Tạp chí của Viện nghiên cứu Ngôn ngữ Văn
hóa của Trường Đại học Keio, số 40, 2009, tr.247-257 嶋尾稔: "『寿梅家礼』に関する基礎的考察(四)" 慶應義塾
大学言語文化研究所紀要 40 号. 247-257 (2009)

6



TMGL chủ yếu ở phương diện cơ sở tư liệu hình thành tác phẩm. Tháng 10 năm 2009,
Shimao Minoru có bài viết Tiếp nhận và phát triển gia lễ ở Việt Nam trong Hội nghị
thường niên của hội nghiên cứu sử học Hiroshima của trường Đại học Hiroshima công bố
kết quả nghiên cứu về tiếp nhận gia lễ ở Việt Nam11. Trên cơ sở tổng hợp, kế thừa và phát
triển thành quả nghiên cứu trước đó, tháng 3 năm 2010, Shimao Minoru nghiên cứu gia lễ
Việt Nam trong mối quan hệ với văn hóa dân gian Việt Nam, kết quả được công bố trong
bài viết Gia lễ và Văn hóa dân gian Việt Nam12. Năm 2011, bài viết được được chính tác
giả chuyển thể Anh ngữ in trong Memoirs of the Research Department of the Toyo Bunko
(the Oriental Library) số 69 với nhan đề Confucian Family Ritual and Popular Culture in
Vietnam. Với độ dài 40 trang, ngoài phần giới thiệu (Introduction), kết luận, thư mục tài
liệu tham khảo, bài viết gồm bốn phần:
1. Tư liệu gia lễ Việt Nam: giới thiệu thư mục (The Various Vietnamese Versions: A
Bibliographical Introduction)
2. Sự ảnh hưởng của gia lễ Trung Quốc đối với Viêt Nam (The Adoption of Chinese
Family Ritual in Vietnam)
3. Việc truyền bá gia lễ của các triều đại Việt Nam (Family Ritual in Relation to
Indoctrination Efforts)
4. Gia lễ và văn hóa dân gian (Family Ritual and Popular Culture)
Bài viết tập trung vào đối tượng là bốn tác phẩm gia lễ Việt Nam lịch đại: GLTK,
HTTGL, TMGL, VCGL tồn chân; nghiên cứu ở các phương diện văn bản học, quá trình
hình thành tư liệu gia lễ Việt Nam (động cơ, cơ sở hình thành); thông qua tư liệu, Shimao
Minoru nhìn nhận gia lễ trong mối quan hệ với văn hóa dân gian. Kết quả nghiên cứu về
tư liệu gia lễ Việt Nam ở góc độ văn bản học được trình bày trong phần “1. The Various
Vietnamese Versions: A Bibliographical Introduction”. Kết quả đó rất có giá trị đối với
nghiên cứu hệ thống tư liệu gia lễ Việt Nam.
Shimao Minoru có cái nhìn khá toàn diện về tư liệu gia lễ Việt Nam lịch đại, ông
nhận định ngoài GLTK, HTTGL, TMGL, không có tác phẩm gia lễ khác được khắc in. Với
đối tượng chính là bốn tác phẩm nói trên, ngoài khái quát về tác giả, hoàn cảnh ra đời, kết
cấu các tác phẩm, Shimao Minoru đi sâu tìm hiểu những vấn đề còn đang tranh cãi, hoặc

chưa được giải đáp, hoặc chưa được ai đề cập, đồng thời đề xuất một số phát hiện mới liên
quan đến tư liệu gia lễ Việt Nam, như vấn đề văn bản và tác giả GLTK, vấn đề tác giả
TMGL. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2009, bài viết dành
11

Shimao Minoru: Tiếp nhận và phát triển gia lễ ở Việt Nam, bài viết tham gia Hội nghị thường niên của hội
nghiên cứu sử học Hiroshima, Trường Đại học Hiroshima, 2009 嶋尾稔: "ベトナムにおける家礼の受容と展開"
広島史学研究会大会. 広島・広島大学
12
Shimao Minoru: gia lễ văn văn hóa dân gian Việt Nam,「ベトナムの家礼と民間文化」in trong sách do
Eiji Yamamoto 山本英史 (chủ biên)『アジアの文人が見た民衆とその文化』, 應 慶 義 塾 大 學 出 版 会 , 東 京,
2010

7


khá nhiều trang viết về TMGL đặc biệt là tổng hợp thông tin nghiên cứu về vấn đề tác giả.
Trong một số phát hiện mới của Shimao Minoru, bài viết của Trần Thị Kim Anh: Ai soạn
“Thọ Mai gia lễ” đăng trên Nguồn sáng dân gian năm 2003 đóng vai trò quan trọng. Nhờ
bài viết của Trần Thị Kim Anh, Shimao Minoru có thêm tư liệu chứa đựng thông tin về
GLTK, HTTGL, TMGL, đó là tác phẩm Vũ trung tùy bút. Từ Vũ trung tùy bút (bản R.1069
lưu trữ tại Thư viện Quốc gia), mục “Quán tẩy chi thiết”, Shimao Minoru không những
tìm được thông tin về tác giả TMGL mà còn có thể tìm hiểu kĩ hơn về tác giả GLTK.
Ngoài nghiên cứu về tư liệu gia lễ hiện còn, thông qua một số tư liệu Hán Nôm,
Shimao Minoru còn thu thập nhan đề một vài tác phẩm gia lễ hiện đã thất lạc, như Gia lễ
của Trần Tú Dĩnh, Chu Văn Công gia lễ tứ đại bổ chính diễn nghĩa quốc âm.
Với nguồn tài liệu phong phú kể cả tiếng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Nhật, bài
nghiên cứu của Giáo sư đã cung cấp một số nguồn tư liệu có thông tin liên quan đến tư
liệu gia lễ Việt Nam. Tuy vậy, nghiên cứu của Giáo sư Shimao Minoru mang tính tổng
hợp về văn hóa Việt Nam và tư liệu gia lễ được nghiên cứu với tư cách là một thành phần

trong đó, vì thế tư liệu gia lễ mới được đề cập ở góc độ thư mục học, đồng thời phạm vi tư
liệu mới chỉ xoay quanh những tác phầm nhan đề “gia lễ”, hoặc những tác phẩm có uy tín,
chưa thống kê một cách hoàn chỉnh hệ thống tư liệu gia lễ Việt Nam. Trong khi đó tại
VNCHN hiện còn lưu trữ ít nhất 12 tác phẩm thuộc môn loại này như Thanh Thận gia lễ,
Tam lễ tập yếu, Tứ lễ lược tập, tang lễ bị kí… Tuy vấn đề tác giả GLTK, TMGL đã được
Giáo sư đề cập và phân tích với nhiều luận cứ khoa học nhưng chưa đưa ra kết luận cụ thể,
hơn nữa vấn đề văn bản tác phẩm cũng chỉ dừng lại ở mức độ thống kê, chưa mô tả kết
cấu, khảo dị văn bản, đặc biệt với TMGL tác phẩm khá phức tạp về mặt văn bản, tuy được
dành nhiều trang viết nhất nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ thống kê và mô tả sơ bộ hình
thức dị bản. Ngoài đó ra, bài viết còn một vài khiếm khuyết nhỏ, như ở mục “3.1. Các điều
giáo hóa trong nửa cuối thế kỉ 17”, Shimao Minoru đã trích thông tin ở điều 41 trong Lê
triều giáo hóa điều lệ: “Tang gia, trung nguyên tiết đương tuân gia lễ” 喪 家 中 元 節 當
循 家 禮, nhưng nguyên văn chính xác phải là “Tang gia, trung nguyên tiết đương tuân
gia thể” 喪 家 中 元 節 當 循 家 体 (theo bản VNCHN). Tuy nhiên, bản Lê triều giáo hóa
điều lệ in trong Tạp chí Nam Phong số 19 năm 1924 bản chữ Hán lại viết là “đương tuân
gia lễ”, có lẽ Giáo sư Shimao Minoru đã sử dụng bản in trên Tạp chí Nam Phong.
Ở Việt Nam, tính đến năm 2013, HTTGL chỉ được nhắc đến trong một số tư liệu văn
hiến học, hay trong công cụ tra cứu, hoặc được đề cập trong vai trò một tác phẩm ảnh
hưởng đến TMGL, còn GLTK chưa được học giả đề cập, ngoài những nghiên cứu bước
đầu về gia lễ của một số sinh viên ngành Hán Nôm trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn. Đầu năm 2012, HTTGL đã được chúng tôi dịch chú và nghiên cứu văn bản
trong Báo cáo Tập sự tại VNCHN. Trong đó, khi nghiên cứu về lịch sử hình thành hệ
thống tư liệu gia lễ Việt Nam, GLTK cũng được nghiên cứu bước đầu về tác giả, diện mạo
8


bản in năm 1707 và nghiên cứu nguyên lưu phục chế nội tại. Cùng thời gian đó, Phạm Thị
Hường đã bước đầu nghiên cứu văn bản và phiên âm dịch chú TMGL trong báo cáo tập sự
tại VNCHN13. Cuối năm 2012, luận văn Khảo cứu văn bản Tứ lễ lược tập của Lê Phương
Duy (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) đi sâu

nghiên cứu trường hợp Tứ lễ lược tập, khẳng định giá trị tư tưởng lễ học, tư duy gia lễ của
Bùi Huy Tùng, không những khảo cứu công phu tác phẩm Tứ lễ lược tập mà còn khảo tả
khá công phu về diện mạo gia lễ Việt Nam.
Có thể nhận định, con đường nghiên cứu gia lễ ở Việt Nam đứt khúc nhiều chặng,
chủ yếu do nguyên nhân khách quan như chiến tranh, quan niệm xã hội… Sau khi thống
nhất hai miền Nam Bắc, do thay đổi đời sống xã hội và quan niệm xã hội, việc nghiên cứu
gia lễ có xu hướng trầm lắng. Giữa thập kỉ 90 thể kỉ XX, Phạm Côn Sơn cho ra đời sách
Gia lễ xưa và nay, do Nxb Tổng Hợp Đồng Tháp xuất bản năm 1996, sau này được Nxb
Thanh Niên tái bản nhiều lần. Trong ấn phẩm, Phạm Côn Sơn công bố một số kết quả
nghiên cứu nhất định về tư liệu gia lễ Hán Nôm và một số quan niệm, nghi thức liên quan
gia lễ. Đầu thế kỉ XXI, tư liệu gia lễ lại tiếp tục được dịch thuật và nghiên cứu, mặc dù
mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu phong tục nói chung, hoặc chỉ là giới thiệu dịch chú
một tác phẩm nhất định, chưa nghiên cứu chuyên sâu về tư liệu gia lễ.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Kế thừa kết quả nghiên cứu gia lễ ở Trung Quốc như Bành Mĩ Linh, Trương
Kinh Khoa, nội hàm “gia lễ” được xác định, từ đó luận văn xác lập tiêu chí thống kê tư
liệu gia lễ lưu tại VNCHN: những văn bản nhan đề “Gia lễ”, “Tam lễ”, “Tứ lễ”, “Tang lễ”,
“Tế lễ”, “Hôn lễ”, “Quan lễ”, kết quả sơ bộ: 15 đầu sách (trên 48 kí hiệu). Lượng văn bản
trên được khái quát ở góc độ văn bản học (thực trạng văn bản: tác giả, niên đại, nội dung)
từ đó chọn lọc tư liệu phù hợp với tiêu chí đã định, xác lập hệ thống tư liệu gia lễ Việt
Nam lưu tại VNCHN, kết quả thu được: 12 tác phẩm. Từ đó khái lược nội dung thông qua
khảo cứu cách tiếp cận gia lễ của nhà Nho Việt Nam.
3.2. Trên cơ sở kết quả nêu trên, tác phẩm gia lễ khắc in được nghiên cứu ở các
phương diện tác giả, hoàn cảnh ra đời trong mối liên hệ với thời đại và lịch sử hình thành
phát triển tư liệu gia lễ Việt Nam.
3.3. Nghiên cứu nhóm tác phẩm gia lễ khắc in từ góc độ văn bản học: số lượng văn
bản, mô tả kết cấu văn bản, khảo dị văn bản, công bố thiện bản.
GLTK của Ngô Sĩ Bình là tư liệu ra đời khá sớm, và được khắc in đầu tiên trong hệ
thống tư liệu gia lễ Việt Nam, hiện còn bản in năm 1707, mất nhiều tờ, hầu hết bản tâm
đều không nguyên vẹn nên khó xác định số trang, tuy nhiên dựa vào nội dung và bản tâm

ở một số trang còn nguyên vẹn, diện mạo bản in năm 1707 đã được lược tả phẩn cơ bản.
13

Phạm Thị Hường: Giới thiệu và dịch chú tác phẩm TMGL, Báo cáo tập sự, VNCHN, 2012.

9


HTTGL của Hồ Sĩ Dương hiện còn 3 văn bản lưu tại VNCHN: một bản khắc in đời Lê
Vĩnh Hựu, một bản khắc in đời Lê Cảnh Hưng, một bản viết tay (thực chất là một bản tuyển
tập sao chép từ nhiều nguồn tư liệu, trong đó có lời tựa của Chu Bá Đang). Thông qua khảo dị
văn bản, mô tả bố cục, kết cấu văn bản, bản Vĩnh Hựu được chọn làm thiện bản.
TMGL của Hồ Gia Tân được thống kê với ít nhất 39 văn bản lưu tại VNCHN. Năm
2012, TMGL được Phạm Thị Hường nghiên cứu sơ bộ về hiện trạng từng văn bản, phân
tích những sai khác (về lỗi chính tả) giữa các văn bản trong Báo cáo tập sự “Giới thiệu
dịch chú tác phẩm TMGL” thực hiện tại VNCHN. Văn bản TMGL được chúng tôi phân
thành hai loại căn cứ vào bố cục hình thức văn bản, dựa vào những sai dị trùng lặp ở các
nhóm văn bản, khảo chứng một số tư liệu gia lễ khác có trích dẫn TMGL, trên cơ sở đó
công bố bản kí hiệu AB.312 làm thiện bản.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: tư liệu gia lễ khắc in Việt Nam (GLTK của Ngô Sĩ Bình,
HTTGL của Hồ Sĩ Dương, TMGL của Hồ Gia Tân).
4.2. Phạm vi tư liệu: Tư liệu gia lễ lưu trữ tại VNCHN. Tư liệu gia lễ Việt Nam chủ
yếu được lưu trữ tại VNCHN, với số lượng tác phẩm, văn bản nhiều hơn Thư viện Quốc
gia Việt Nam. Ngoài Gia lễ hoặc vấn, Thư viện Quốc gia không lưu tư liệu nào khác nằm
ngoài phạm vi tác phẩm gia lễ VNCHN. Tư liệu gia lễ Việt Nam có thể còn được lưu trữ ở
nhiều thư viện khác ở trong và ngoài nước, tuy nhiên có thể nhận định tư liệu tại VNCHN
là khá đầy đủ để nhìn nhận diện mạo hệ thống tư liệu gia lễ Việt Nam. Đó là lí do chúng
tôi khoanh vùng tư liệu nghiên cứu trong phạm vi lưu trữ tại VNCHN
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng phương pháp sau:
Phương pháp văn bản học: (1) Thông qua thao tác thống kê tư liệu gia lễ hiện lưu trữ
tại kho thư tịch VNCHN ở các cấp độ tác phẩm, văn bản tác phẩm, chúng tôi xác định
phần “thô” hệ thống tư liệu gia lễ Việt Nam. Số tư liệu đó được bước đầu khái quát thực
trạng, đặc điểm hình thức, nội dung từng văn bản cụ thể, từ đó xác lập hệ thống tư liệu gia
lễ Việt Nam trên cơ sở tiêu chí đã định. (2) Cũng bằng phương pháp văn bản học, nhóm
văn bản gia lễ khắc in được thống kê phân loại dị bản, khảo dị văn bản, từ đó xác định
thiện bản.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện Luận văn, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
khác như: phân tích, so sánh, khảo chứng…
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1. Luận văn thống kê một cách có hệ thống các văn bản gia lễ Việt Nam khắc in.
10


6.2. Trên cơ sở hệ thống tư liệu gia lễ, chúng tôi nghiên cứu lịch sử tiếp biến và hình
thành tư liệu gia lễ Việt Nam nói chung và cơ sở hình thành ba ấn phẩm gia lễ Việt Nam:
GLTK, HTTGL, TMGL.
6.3. Tiến hành nghiên cứu ba tác phẩm GLTK, HTTGL, TMGL từ góc độ văn bản học
và phân tích giá trị nội dung các tác phẩm.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm ba chương:
Chương I: Tổng quan tư liệu gia lễ Việt Nam; Chương II: Quá trình hình thành và tiếp
biến nhóm văn bản gia lễ khắc in Việt Nam; Chương III: Văn bản gia lễ khắc in nhìn từ
góc độ văn bản học.

11


Chƣơng 1: TỔNG QUAN TƢ LIỆU GIA LỄ VIỆT NAM

Trong chương I, chúng tôi khảo cứu tư liệu gia lễ nhằm nhìn nhận diện mạo hệ thống
tư liệu gia lễ Việt Nam trước khi nghiên cứu nhóm văn bản gia lễ khắc in trong mối quan
hệ với hệ thống tư liệu đó. Không chỉ là lấy đối tượng nghiên cứu là những tác phẩm nhan
đề “gia lễ”14, phạm vi còn được mở rộng ra các tác phẩm có nhan đề nằm trong nội hàm
“gia lễ”, bao gồm: “gia huấn”, “tam lễ”, “tứ lễ”, “quan lễ”, “hôn lễ”, “tang lễ”, “tế lễ”.
1.1. Xác lập tiêu chí thống kê tƣ liệu gia lễ
Từ “gia lễ” xuất hiện trong nhiều bộ từ điển Tiếng Việt với tư cách là từ Hán Việt
mang hàm nghĩa “nghi lễ trong gia đình”. Tuy vậy mã từ “gia lễ” không xuất hiện trong
nhiều từ điển Hán ngữ, ngay cả bộ từ điển uy tín như Từ hải. Theo kết quả nghiên cứu của
Bành Mĩ Linh 彭 美 玲 (trong Khảo dị thuật lược các thư tịch có nguyên lưu từ Gia lễ),
từ “gia lễ” xuất hiện đầu tiên trong sách Chu lễ 周 禮, thiên “Xuân quan” 春 官15, tuy
nhiên theo lời chú của Trịnh Huyền, hàm nghĩa của chữ “Gia” tức là “Đại phu thái địa” 大
夫 采 地 (thái ấp của quan Đại phu) chế độ đặc hữu của xã hội tông pháp nhà Chu. Hàm
nghĩa đó khác biệt với cách hiểu sau này. Thời Tiên Tần Lưỡng Hán, từ “gia lễ” không
xuất hiện trong thư tịch, thay vào đó là sự xuất hiện ngữ “gia nhân chi lễ”16, Bành Mĩ Linh
nhận định “gia nhân chi lễ” và “gia lễ” khác nhau về mặt từ ngữ, nhưng hàm nghĩa tương
đồng”17. Theo đó, từ “gia lễ” ban đầu không mang hàm nghĩa “nghi lễ trong gia đình”, mà
là “nghi lễ trong gia tộc quan đại phu”.
Năm 1191, Chu Hy soạn Nghi lễ kinh truyện thông giải 仪礼经传通解 trong đó có
môn “gia lễ”, dự định viết thành bộ lễ nghi trong gia đình ban bố rộng rãi cho tầng lớp sĩ
thứ. Theo đó, Chu Hi đặt khái niệm “gia lễ” là để chỉ “nghi lễ trong gia đình”. Thế kỉ XIII,
14

Những văn bản này đã được chúng tôi khái quát số lượng, văn bản, nội dung trong khóa luận tốt nghiệp Giới
thiệu tác phẩm VCGL tồn chân của Đỗ Huy Uyển, năm 2010
15

“Gia tông nhân chưởng gia lễ dữ kì y phục, cung thất, xa kì chi cấm lệnh” 家 宗 人 掌 家 禮 與 其 衣 服 宮

室 車 旗 之 禁 令 (dịch nghĩa: “Gia tông nhân chủ trì nghi lễ tế tự ở nhà đại phu, bao gồm công tác tế tự, trí phúc.

Quốc gia nếu như có tai ương gì lớn thì phụng mệnh nhà vua cử hành cầu đảo. Công việc xong xuôi lại phải trình báo
với nhà vua, cùng với việc phụng mệnh nhà vua tế tự là phải chủ trì công tác tế tự trong nhà đại phu và cấm lệnh y
phục, cung thất, cờ xe”)
16

Sử kí 史 記, mục “Lã Thái hậu bản kỉ” 呂 太 后 本 紀 có viết: “Hiếu Huệ dữ Tề Vương yến ẩm thái hậu

tiền,[…] trí thượng tọa như gia nhân chi lễ” 孝 惠 與 齊 王 宴 飲 太 后 前 置 上 坐 如 家 人 之 禮.
Hậu Hán thư 後 漢 書, mục “Chung Li Tống Hàn liệt truyện” 鍾 離 宋 寒 列 傳: “Sùng dĩ thúc phụ chi tôn,
đồng chi gia nhân chi lễ” 崇 以 叔 父 之 尊 同 之 家 人 之 禮.
17

Vũ Việt Bằng tóm lược ý kiến từ Bãnh Mĩ Linh 彭 美 玲 《家 禮 流 源 群 書 述 略 考 易》 簡 易 版, 行

政 院 國 家 科 學 委 員 會 補 助 專 題 研 究 計 畫 成 果 報 告 , 中 華 民 國, 90 年

12


sau khi sách Gia lễ của Chu Hy ra đời, từ “gia lễ” được người ta thừa nhận là “nhan đề cũ
của một cuốn sách” như như nhận định của Từ nguyên 辭源: “Gia lễ là nhan đề cũ của
một cuốn sách, Chu Hy đời Tống soạn, gồm năm quyển, phụ lục một quyển. Sách này ghi
chép việc quan lễ, hôn lễ, tang lễ, tế lễ và các nghi tiết phong kiến”18. Theo đó, ít nhất có
thể khẳng định, xét trong ngôn ngữ Hán, từ thế kỉ XII, “gia lễ” là một từ phức mang hàm
nghĩa là “nghi lễ trong gia đình, bao gồm bốn nghi lễ thành phần quan, hôn, tang, tế.
Xét trong phạm vi ngôn ngữ Việt, từ “gia lễ” xuất hiện trong An Nam chí lược (ra
đời năm 1333) ít nhất đã cho thấy khoảng thời gian trước thế kỉ XIV, “gia lễ” là một danh
từ chỉ “nghi lễ trong gia đình”. Lúc này, “gia lễ” chưa được cụ thể hóa bao gồm bốn nghi
lễ thành phần. Trong An Nam chí lược 安南誌略, quyển nhất, mục “Phong tục”, trang
12a, Lê Trắc sử dụng từ “gia lễ” với tư cách là một danh từ mang hàm nghĩa “nghi lễ gia

đình” để phân biệt với nghi lễ trong triều đình, phân biệt giữa một bên là những nghi lễ
biểu thị quan hệ quân thần và một bên là nghi lễ trong nhà biểu thị quan hệ phu phụ, phụ
tử, huynh đệ, bằng hữu, thân sơ, tôn ti, nội ngoại: “Chính đán ngũ canh, vương tọa Vĩnh Thọ
điện, […] tông tử thần liêu phân ban bái hạ […]. Nhị nhật thần liêu các hành gia lễ” 正 旦 五 更
王 坐 永 壽 殿 […] 宗 子 臣 僚 分 斑 拜 賀 二 日 臣 僚 各 行 家 禮 (dịch nghĩa: “Canh năm
chính đán, nhà vua ngự ở điện Vĩnh Thọ […] tông tử và quan lại lần lượt chúc mừng. […]. Ngày
mồng hai, quan lại về nhà cử hành nghi lễ trong nhà”.

Sau thế kỉ XV khi sách Gia lễ được truyền bá ở Việt Nam thì từ “gia lễ” mới được cụ
thể hóa bao gồm bốn loại nghi lễ thành phần. Từ đó trải các thời, từ “gia lễ” được hiểu
theo hàm nghĩa đó. Thế kỉ XX, một số từ điển ở Việt Nam19 đều thống nhất cho rằng, gia
lễ là từ chỉ nghi lễ gia đình bao gồm quan lễ, hôn lễ, tang lễ, tế lễ. Đào Duy Anh còn giải
thích thêm, “gia lễ […] bộ sách chép các lễ Quan, Hôn, Tang, Tế” [Đào Duy Anh: Hán Việt từ
điển, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004, tr.317]. Theo đó, trong ngôn ngữ Việt, từ “gia lễ” ban
đầu chỉ để biểu thị ý các hoạt động nghi lễ gia đình nói chung và sau thế kỉ XV, từ “gia lễ”
mới bắt đầu có ý nghĩa như các từ điển hiện đại nhận định.
Như vậy, “gia lễ” ban đầu có hàm nghĩa “Nghi lễ trong thái ấp gia tộc quan đại phu”.
Thời Tiên Tần Lưỡng Hán, để biểu thị ý “nghi lễ trong nhà” người ta thường dùng cấu
trúc định trung “Gia nhân chi lễ” 家 人 之 禮. Thời Đường Tống, do sự biến thiên chính
trị xã hội, Quốc gia lễ điển xu hướng biến đổi về chất mà từ Công lễ dần chuyển biến
thành gia lễ, và VCGL của Chu Hy là tư liệu đại biểu. Những nghi lễ thường dùng trong
gia đình bao gồm quan lễ, hôn lễ, tang lễ, tế lễ được được ghi chép đầy đủ trong VCGL, từ
Nguyên văn: 家 禮 舊 題 宋 朱 熹 撰 五 卷 附 錄 一 卷 此 書 記 冠 婚 喪 祭 等 封 見 禮 節 “gia lễ cựu đề
Tống Chu Hy soạn, ngũ quyển, phụ lục nhất quyển, thử thư kí quan hôn tang tế đẳng phong kiến lễ tiết”
19
Một số từ điển như: Nguyễn Lân: Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1989, tr.254; Nguyễn
Như Ý: Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin, 1999, tr. 720; Đào Duy Anh: Hán Việt từ điển, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 2004, tr.317.
18


13


đó “gia lễ” trở thành một danh từ với hàm nghĩa “nghi lễ trong gia đình” song song với tư
cách là “Nhan đề cũ một cuốn sách”. Trong tiếng Việt, từ “gia lễ” trở thành một từ danh từ
Hán Việt với hàm nghĩa như trên từ khoảng thế kỉ XIV.
“Gia lễ” bao gồm bốn loại nghi lễ thành phần, nhưng mỗi nghi lễ thành phần đều có
tính độc lập tương đối. Sư Bội Quỳnh nhận định: “Gia lễ được chia làm năm quyển Thông
lễ, Hôn lễ, Quan lễ, Tang lễ, Tế lễ. Từ góc độ nghiên cứu, bất cứ một nghi lễ nào cũng có
thể nghiên cứu một cách độc lập” [Sư Bội Quỳnh: Lí giải gia lễ của Chu Tử đối với gia đình – lấy từ
đường làm trung tâm nghiên cứu, luận văn thạc sĩ, bản tóm tắt, Đại học văn hóa Trung Quốc, 2002].
Thực tế tư liệu gia lễ lịch đại cho thấy, “gia lễ” không nhất thiết phải đầy đủ bốn loại nghi
lễ thành phần mà có thể chỉ là một hoặc một vài nghi lễ thành phần, chỉ có điều nhan đề
các tư liệu gia lễ không đầy đủ nghi lễ thành phần được gọi bằng những tên gọi khác nằm
trong nội hàm của gia lễ như “tam lễ”, “tứ lễ”.
Xét từ góc độ tư liệu để nhận định nội hàm của từ “gia lễ” có thể lấy nhận định của
Bành Mĩ Linh 彭 美 玲 (trong Khảo dị thuật lược các thư tịch có nguyên lưu từ Gia lễ) về
tư liệu gia lễ Trung Quốc làm cơ sở. Từ phân tích của Bành Mĩ Linh, có thể nhận thấy tư
liệu nhan đề Tứ lễ, Tam lễ đều có nguyên lưu từ Gia lễ20.
Như vậy, xét từ tư liệu gia lễ Trung Quốc, “tứ lễ”, “tam lễ” là thành phần trong “gia lễ”,
trong đó “tam lễ” bao gồm “hôn lễ”; “tang lễ”; “tế lễ”, “tứ lễ” bao gồm “tam lễ” và “quan lễ”,
“tứ lễ” cộng thêm “thông lễ” trở thành những tư liệu nhan đề “gia lễ”.
Nhận định về gia lễ không chỉ là nhận định về nội hàm gia lễ một cách đơn lẻ, mà
phải nhìn gia lễ với tư cách là thành phần trong nội hàm gia tộc, để nhận định mối quan hệ

20

Bành Mĩ Linh 彭 美 玲 trong 《家 禮 流 源 群 書 述 略 考 易》 簡 易 版, 行 政 院 國 家 科 學 委 員 會

補 助 專 題 研 究 計 畫 成 果 報 告 ,中 華 民 國 90 年, 21 頁 cho rằng: “Hậu thế khi soạn sách đều kế thừa gia lễ

của Chu Hy, lấy Tứ lễ (quan lễ, hôn lễ, tang lễ, tế lễ) - những nghi lễ nhật dụng thường hành trong gia đình thứ nhân
làm chủ đạo mà bổ sung, sắp xếp tuần tự cùng Thông lễ. Như vậy, họ đã hoàn toàn tuân thủ theo bố cục trình bày của
Văn Công. Những sách đó đều lấy nhan đề gia lễ”. […] Một số sách không đề cập đến Thông lễ chỉ sử dụng quan lễ,
hôn lễ, tang lễ, tế lễ. Những sách đó lấy nhan đề Tứ lễ. Một số ít đặc lệ như Tam lễ tòng kim 三 禮 從 今 (gồm 3
quyển) của Hoàng Bản Hoan đời Thanh lấy nhan đề là Tam lễ với lí do „quan lễ cửu dĩ bất hành‟ (Bành Mĩ Linh chú
thích: Từ thời Trung Đường. “quan lễ” truyền thống bị người đời xem nhẹ. Thời cận đại, dân gian đa phần theo
phương thức cử hành “quan lễ” đồng thời với “hôn lễ”, khiến cho “quan lễ” ngày càng mai một. Xem cụ thể trong Lí
Long Hiến: Nghiên cứu Sĩ quan lễ trong Nghi lễ - Nghiên cứu so sánh giữa lễ thành niên thời tiên Tần và lễ thành
niên hậu thế 李 隆 獻 《 儀 禮 士 冠 禮 研 究 (二 ) - 先 秦 成 年 禮 與 後 世 成 年 禮 的 比 較 研 究》 (行 政 院
國 科 會 專 題 研 究 計 畫 報 告 ,國 民 87 年 )). Ngô học lục 吾 學 錄 cũng rút ra ba loại nghi lễ hôn lễ, tang lễ, tế
lễ soạn rất đại khái, phân mỗi loại thành một quyển (Bành Mĩ Linh chú thích: Tục tu Tứ khố toàn thư tổng mục lục đề
yếu, Bắc Kinh, Đài Loan Thương vụ ấn thư quán, (“Kinh bộ” – “Lễ loại”) 續 修 四 庫 全 書 總 目 題 要, 北 京, 臺
灣 商 務 印 書 館 (經 部 . 禮 類 ))”. Có lẽ do hiện thực quan lễ không còn được sử dụng, tựu sự mới luận sự, cho nên
chỉ trình bày ba loại nghi lễ còn lại”

14


giữa gia lễ và những thành phần khác, như gia huấn, gia quy21. Theo Lâm Xuân Mai: “„gia
lễ‟ chỉ nghi tiết gia đình, „gia huấn‟ là quy phạm ước thúc hành vi của thành viên tổ thành
nên gia đình” [Lâm Xuân Mai: Nghiên cứu gia huấn, gia lễ đời Tống, luận văn thạc sĩ, bản tóm tắt, Đại
học Phụ Nhân, 1991]. Cùng là công cụ lập thân xử thế, trị gia giáo tử, mục đích kéo dài sinh
mệnh gia tộc, vì thế giữa “gia lễ” và “gia huấn” có mối quan hệ tương trợ lẫn nhau, điều
này có thể được nhìn nhận thông qua Nhan thị gia huấn 颜氏家训 của Nhan Chi Thôi 颜
之推22. Nội dung sách này, “ngoài việc giáo dục gia lễ, Nhan thị gia huấn còn nhiều thiên
nhiều chương thể hiện tính tri thức”23.
Từ phân tích về tư liệu gia lễ Trung Quốc, nội hàm “gia lễ” được khái quát thông qua
sơ đồ sau:

Sơ đồ biểu thị nội hàm “gia lễ”

xét từ góc độ tư liệu gia lễ Trung Quốc

Từ việc khảo từ “gia lễ”, tiêu chí thống kê tư liệu gia lễ được xác lập như sau:
Thứ nhất, tư liệu nhan đề “gia lễ”.
Thứ hai, tư liệu nhan đề “tam lễ”, “tứ lễ”.
Thứ ba, tư liệu nhan đề là nghi lễ thành phần trong gia lễ, bao gồm: “quan lễ”, “hôn
lễ”, “tang lễ”, “tế lễ”.
Thứ tư, tư liệu nhan đề “gia huấn”. Tư liệu gia huấn có số lượng khá nhiều, chúng tôi
lựa chọn tư liệu gia huấn có ghi chép gia lễ (quan lễ, hôn lễ, tang lễ, tế lễ).
21

Theo Bành Mĩ Linh 彭 美 玲 《家 禮 流 源 群 書 述 略 考 易》 簡 易 版, 行 政 院 國 家 科 學 委 員 會

補 助 專 題 研 究 計 畫 成 果 報 告 ,中 華 民 國 90 年, 3 頁: “Xét lịch đại thư tịch từ thời Lục triều về sau, trước tác
về „gia lễ‟, „Gia huấn‟, „Gia nghi‟, „Gia phạm‟, „Gia tắc‟, „Gia quy‟ của nhà Nho ngày càng phong phú. Trong đó loại
sách về „gia lễ‟, „Gia nghi‟ thiên về mặt lễ nghi tiết văn, lấy nghi lễ quan lễ, hôn lễ, tang lễ, tế lễ gia đình thứ nhân
thường dùng làm nội dung chủ yếu, đặc điểm tinh thần việc lập lễ là tham chước thời nghi, tiện lợi cho thế tục thi
hành, có sự khác biệt với cổ lễ trang nghiêm ghi chép trong Tam lễ. Thư tịch gia lễ lịch đại, đầu tiên là sách Gia lễ
gồm 10 quyển của Dương Quýnh được ghi chép trong Tân Hán thư – „Nghệ văn chí nhị‟ – „Nghi chú loại‟ – „Sử lục‟
– „Ất bộ‟. Thời Lưỡng Tống, trước có Thư nghi của Tư Mã Quang (1019 – 1086), sau có gia lễ của Chu Hy (11301200) được tầng lớp sĩ thứ đời Tống sử dụng”
22
Nhan Chi Thôi: sinh năm 531, mất trong khoảng những năm niên hiệu Khai Hoàng nhà Tùy, người Lâm
Nghi 临沂, Lang Tà 琅邪.
23
Vũ Việt Bằng trích dịch từ Bành Lâm: Trung Quốc lễ nghi văn minh, chương 22: Thi lễ truyền gia: gia lễ,
Trung Hoa thư cục, 2004 (彭 林《 中 国 礼 仪 文 明 》, 其第二十二章: 诗礼传家:家礼, 中 华 书 局 , 2004 年)

15



1.2. Hệ thống tƣ liệu gia lễ Việt Nam tại VNCHN
1.2.1. Thống kê sơ bộ văn bản gia lễ lƣu tại VNCHN
Từ những tiêu chí nêu trên, kết quả khảo sát tư liệu Hán Nôm tại kho sách Hán Nôm
VNCHN như sau:
Tư liệu nhan đề “gia lễ”: 07.
Tư liệu nhan đề “tứ lễ”: 01
Tư liệu nhan đề “tam lễ”: 01
Tư liệu nhan đề “tang lễ”: 03 (Tang tế khảo nghi, Tang lễ bị kí, Tang nghi sự nghi)
Tư liệu nhan đề “tế lễ”: 01 (Tế tổ nghi tiết thực chất là một cuốn Gia phả họ Hoàng ở Bố
Nha, Hải Dương)
Tư liệu nhan đề “gia huấn” có ghi chép “gia lễ”: 01.
Tư liệu nhan đề “quan lễ”, “hôn lễ”: 0
Bảng thống kê tƣ liệu gia lễ tại VNCHN
STT

Tên tác phẩm

Tác giả

Niên đại

1.

Gia lễ lược biên 家 禮 略 編

Trần thị gia tàng

Nguyễn

2.


Gia lễ tạp nghi 家 禮 雜 儀

3.

Số
lượng
(kí
hiệu)
1

Trúc Đình chủ Lê
1
nhân
Nguyễn
Tuấn Ông
Hậu Lê: 3
HTTGL 胡 尚 書 家 禮(Gia lễ Hồ Sĩ Dương
1739,
quốc ngữ 家 禮 國 語, Hồ
1767
khắc in
tướng công gia lễ 胡 相 公 家

Chủ đề

Loại
tự

tế lễ


Hán
Hán

tang lễ

Quyển
thượng:
Nôm;
Quyển hạ:
Hán
Hán, Nôm

禮, HTTGL vấn đáp)
4.

Lê Quý Đôn gia lễ 黎 貴 惇 Lê Quý Đôn

văn

Nguyễn

1

tang lễ, tế lễ

Đình 1849
Nguyễn Thị gia huấn 阮 氏 家 Phượng
Nguyễn
Mai


Hiên cẩn chí
Thanh Thận gia lễ đại toàn Thanh Thận
Hậu Lê

1

quan lễ, hôn Hán
lễ, tang lễ, tế
lễ
tang lễ, tế Hán, Nôm
lễ

家禮
5.

6.

1

清慎家禮大全
7.

TMGL 壽 梅 家 禮

Hồ Gia Tân

Hậu Lê

38


hôn lễ, tang Hán, Nôm
lễ, tế lễ

8.

GLTK (Gia lễ) 捷 徑 家 禮

Ngô Sĩ Bình

1

tang lễ

9.

Tam lễ tập yếu 三 禮 集 要

Phạm Phủ

1707
khắc in
1782

4

10.

Tang lễ bị kí 喪 禮 備 記


?

1911

1

hôn lễ, tang Hán
lễ, tế lễ
tang lễ
Hán

11.

Tang tế khảo nghi 喪 祭 考 疑

?

1894

1

tang lễ, tế lễ

12.

Tang nghi sự nghi 喪 儀 事 Bộ lễ soạn

1925

1


tang
lễ Hán
Khải Định

16

Hán, Nôm

Hán



13.

Tế tổ nghi tiết 祭 祖 儀 節

?

Nguyễn

1

tế lễ

14.

Tứ lễ lược tập 四 禮 略 集

Bùi Tú Lĩnh


1839

2

15.

VCGL tồn chân (Gia lễ tồn Đỗ Huy Uyển

1870

1

quan lễ, hôn Hán
lễ, tang lễ, tế
lễ
tang lễ, tế Hán
lễ

chân) 文 公 家 禮 存 真

Hán

Tổng số 58

1.2.2. Thực trạng văn bản
Với số lượng khá lớn về tác phẩm và văn bản, gia lễ Việt Nam đã đạt được những
thành tựu đáng kể về mặt tư liệu qua các thời kì lịch sử. Tuy nhiên, gia lễ Việt Nam còn
nhiều vấn đề đáng bàn xét từ góc độ văn bản tư liệu: về niên đại, về tác giả, về nhan đề
(nhiều văn bản mang nhan đề “tạm”)… Thông qua khái quát sơ bộ thực trạng văn bản,

diện mạo hệ thống tư liệu gia lễ Việt Nam phần nào được lột tả và đánh giá chính xác hơn.
1.2.2.1. Khó xác định niên đại tác phẩm
Ngoài Tứ lễ lược tập, Tam lễ tập yếu, Nguyễn thị gia huấn, VCGL tồn chân, Tang tế
khảo nghi, Tang lễ bị kí là những tác phẩm được tác giả ghi niên đại, còn lại những tác
phẩm khác đều không được ghi chép rõ ràng về niên đại. Căn cứ vào một số thông tin như
địa danh, nhân danh nội tại văn bản, vấn đề niên đại tác phẩm cũng khó giải quyết một
cách tường tận và chính xác mà chỉ có thể xác định được thời đại hoặc một khoảng thời
gian tác phẩm ra đời. Nếu căn cứ vào chữ húy chỉ có thể xác định niên đại văn bản, ví dụ
căn cứ vào chữ húy “Thời” suy đoán văn bản Lê Quý Đôn gia lễ, Gia lễ lược biên hình
thành thời Tự Đức; văn bản A.1064 Thanh Thận gia lễ đại toàn được Viện Viễn đông Bác
cổ Pháp sao chép vào những năm 1920 đến 1940, nhưng căn cứ vào nhân danh Lê Quý
Đôn (1726 – 1784) xuất hiện trong văn bản suy đoán Thanh Thận gia lễ đại toàn soạn thời
hậu Lê…
Căn cứ chữ húy, người ta chỉ có thể dễ dàng xác định thời đại mà khó xác định niên
đại, dễ dàng áp dụng đối với văn bản đời Nguyễn mà khó áp dụng đối với văn bản thời Lê,
dễ dàng xác định niên đại văn bản mà chưa đủ cơ sở xác định niên đại tác phẩm. Tuy
nhiên, đối với những tác phẩm được khắc in, xuất phát từ tính phổ dụng của chúng (được
nhiều tác phẩm gia lễ thể hệ sau sử dụng trích dẫn) mà có thể căn cứ vào cứ liệu nội tại
mỗi tư liệu, kết hợp với cứ liệu trong tư liệu gia lễ thế hệ sau để ít nhất có thể xác định
khoảng thời gian chúng ra đời, ví dụ trường hợp GLTK, TMGL.
1.2.2.2. Khó xác định tác giả
Vấn đề tác giả một số tác phẩm gia lễ khó được xác định chủ yếu do chính tác giả và
người sao chép không ghi tên tác giả trong quá trình sáng tác, sao chép hoặc khắc in, như
các trường hợp sau:
17


(1) GLTK
(2) TMGL
(3) Thanh Thận gia lễ

Thanh Thận gia lễ đại toàn 清 慎 家 禮 大 全 hay Thanh Thận gia lễ hiện lưu tại
VNCHN kí hiệu A.1046, là bản viết tay, 194 trang, khổ sách 31x20cm, có lời tựa, văn bản
A.1046 là bản Viện Viễn đông Bác cổ Pháp sao chép trong những năm từ 1920 đến 1940.
Theo Lê Quý Đôn gia lễ kí hiệu VHv.271 (nội dung lược trích từ Thanh Thận gia lễ,
có thể coi đây là một hệ bản của Thanh Thận gia lễ, sau đây gọi là văn bản VHv.271), Lê
Quý Đôn soạn lời tựa sách Thanh Thận gia lễ (tờ đầu văn bản viết “Bảng nhãn Lê Quý
Đôn cẩn soạn Thanh Thận gia lễ tự”).
“Thanh Thận” người “tập thành hội lục” sách Thanh Thận gia lễ tuy chưa được xác
định, nhưng chí ít có thể khẳng định Thanh Thận và Lê Quý Đôn là hai người khác nhau.
Cuối “Thanh Thận gia lễ đại toàn tự” 清 慎 家 禮 大 全 序 viết: “Tiên Động Cầm Đường
Thượng Am Thanh Thận tiên sinh niên lục thập tứ tập thành hội lục” 僊 洞 琴 堂 上 庵 清
慎 先 生 年 六 十 四 集 成 會 錄 (dịch nghĩa: “Tiên sinh Thanh Thận ở Thượng Am,
Cầm Đường, Tiên Động năm sáu mươi tư tuổi sưu tập ghi chép”), theo đó “Thanh Thận
gia lễ tự” được sao chép bởi Thanh Thận người Tiên Động24, thọ trên 64 tuổi, trong khi đó
Lê Quý Đôn quê Diên Hà, thọ 58 tuổi.
Một số cứ liệu liên quan tác giả Thanh Thận gia lễ rút ra từ văn bản VHv.271 và
Thanh Thận gia lễ có thể khẳng định việc gán Lê Quý Đôn là tác giả Thanh Thận gia lễ
chỉ là sự hiểu lầm:
Thứ nhất: “Lời tựa”. Hai văn bản đều có Thanh Thận gia lễ tự:
 Văn bản VHv.271, đầu trang 2a viết “Bảng nhãn Lê Quý Đôn cẩn soạn Thanh
Thận gia lễ tự” (“Bảng nhãn Lê Quý Đôn kính cẩn soạn lời tựa sách Thanh Thận gia
lễ”). So với bản Thanh Thận gia lễ, bản lời tựa trong VHv.271 có sai khác: “nhân tập
thành Thanh Thận gia lễ” - “nhân tập thành Lê thị gia lễ”
VHv.271, trang 2a
Bảng nhãn Lê Quý Đôn cẩn soạn Thanh Thận
gia lễ tự
Phù lễ giả thiên lí chi tiết văn, nhân sự chi nghi
tắc dã. Kì vi vật đại hĩ. Cố cổ giả chế lễ quan,
hôn, tang, tế mị bất bị cụ. Tuy nhiên tang lễ nhất
sự tắc tiết thứ hạo phồn, nghi văn thâm mật, thế

chi hành lễ giả lâm sự thảng thốt vị dị chu tri. Cố
Thọ Mai cư sĩ cố dĩ tham chất chư thư y tập cổ lễ,
châm chước tổn ích, phu diễn quốc âm, cập trục
tiết tế văn đối liên, thực hữu công ư thế hậu thế
chi vi lễ giả dã. Dư kim khẩu tụng, tâm tư, vị
thường bất tái tam bao tưởng, sơ vị hữu nhất hào
kiến tiếu giả hĩ. Tư nhân phụ chí chi vị thành dục
quảng hậu côn chi kiến thức. Cố ư hành lễ thể
24

Thanh Thận gia lễ, trang 1a
Thanh Thận gia lễ tự
Phù lễ giả thiên lí chi tiết văn, nhân sự chi nghi
tắc dã. Kì vi vật đại hĩ. Cố cổ giả chế lễ quan,
hôn, tang, tế mị bất bị cụ. Tuy nhiên tang lễ nhất
sự tắc tiết thứ hạo phồn, nghi văn thâm mật, thế
chi hành lễ giả lâm sự thảng thốt vị dị chu tri.
Cố Thọ Mai cư sĩ cố dĩ tham chất chư thư y tập
cổ lễ, châm chước tổn ích, phu diễn quốc âm,
cập trục tiết tế văn đối liên, thực hữu công ư thế
hậu thế chi vi lễ giả dã. Dư kim khẩu tụng, tâm
tư, vị thường bất tái tam bao tưởng, sơ vị hữu
nhất hào kiến tiếu giả hĩ. Tư nhân tiền hiền chi
tuyển thành dục quảng hậu côn chi kiến thức.
Cố ư hành lễ thể thức trục tiết tế văn mỗi gia

Tra cứu từ Đồng Khánh địa dư chí, hai tỉnh có địa danh Tiên Động, đó là Cao Bằng và Hải Dương.

18



thức trục tiết tế văn mỗi gia thâm mật cập đề chủ
gia tường. Dĩ lợi thị giả hựu tăng sư đệ chi đạo,
phu phụ chi nghĩa, bằng hữu chi luân, huynh đệ
chi tình, cái tam trọng ngũ luân chi đạo các quy kì
nhất. Bất khả bất cẩn chi vân, nhân tập thành
“Lê thị gia lễ” cẩn bút đằng lục, gian diệc thiết
phụ kỉ ý, bổ kì sở khuyết nhi vĩnh kì truyền. Thị vi
tự.

thẩm mật cập đề chủ bút pháp gia tường. Dĩ lợi
đề giả hựu tăng sư đệ chi đạo, phu phụ chi
nghĩa, bằng hữu chi luân, huynh đệ chi tình, cái
tam trọng ngũ luân chi đạo các quy kì nhất. Bất
khả bất cẩn chi pháp vân, nhân tập thành
“Thanh Thận gia lễ” cẩn bút thảo lục, gian
diệc thiết phụ kỉ ý, bổ kì sở khuyết nhi vĩnh kì
truyền. Thị vi tự.
Tiên Động Cầm Đương Thượng Am Thanh
Thận tiên sinh niện lục thập tứ tập thành hội
lục.

 Theo Thanh Thận gia lễ, sau phần lời tựa trang 1b có viết “Thanh Thận tiên sinh
niên lục thập tứ tập thành hội lục” nghĩa là “tiên sinh Thanh Thận tuổi sáu mươi tư
tập hợp sao chép”.
Thứ hai: “Nội dung”. Thanh Thận gia lễ, trang 4a viết: “Diên Hà huyện Diên Hà xã
Bảng nhãn Lê Quý Đôn tiên sinh tuyển tập” 延 河 縣 延 河 社 榜 眼 黎 貴 惇 先 生 撰 集,
(“tiên sinh Bảng nhãn Lê Quý Đôn người xã Diên Hà huyện Diên Hà tuyển25 tập”). Đây là
nguyên nhân dẫn đến nhận định của người tạo văn bản VHv.271 cho rằng Lê Quý Đôn là
tác giả Thanh Thận gia lễ

Thứ ba, mục “Đề chủ pháp” 題 主 法, ở hai văn bản có sự khác nhau về cách xưng hô:
Thanh Thận gia lễ, quyển hai, mục “Đề chủ Văn bản VHv.271, mục “Đề chủ pháp”, trang
pháp”, trang 33b
44a
“hoặc vấn hồ đề chủ khả hồ dư đương soạn lễ “hoặc vấn vu Lê Quý Đôn viết đề chủ khả hồ?
chi thời đáp viết […]” 或 問 乎 題 主 可 乎 予 Đáp viết […]” 或 問 于 黎 貴 惇 曰 題 主 可
當 撰 禮 之 時 答 曰, nghĩa là “có người hỏi ta 乎 答 曰, nghĩa là “có người hỏi Lê Quý Đôn
rằng „ông có đề chủ được không‟ đúng lúc ta rằng „(ông) có thể làm đề chủ được không‟,
đang soạn lễ, trả lời rằng […]”
Ông trả lời […]”

Như vậy, người tạo văn bản VHv.271 cho rằng Lê Quý Đôn soạn Thanh Thận gia lễ
nên đồng nhất Thanh Thận gia lễ và Lê thị gia lễ, đồng nhất người xưng “tôi” trong Thanh
Thận gia lễ và Lê Quý Đôn. Sau này, Phạm Côn Sơn trong Gia lễ xưa và nay, cũng nhận
định: “ông Lê Quý Đôn viết ra bộ Thanh Thuận gia lễ” [Phạm Côn Sơn: Gia lễ xưa và nay, Nxb
Thanh Niên, Hà Nội, 1999, tr.21]
Từ những cứ liệu trên đã cho thấy Lê Quý Đôn từng tuyển tập tư liệu gia lễ. Sau đó,
Thanh Thận “tập thành hội lục”26 tập hợp trong Thanh Thận gia lễ.
(4) Gia lễ tạp nghi
Văn bản kí hiệu VHv.456 có 4 phần: phần một: Gia lễ tạp nghi 家禮雜儀 lược trích
từ VCGLNT 文公家禮儀節 quyển 8; phần hai: Thái Thượng cảm ứng thiên 太上感應篇;
25

Chữ “tuyển” có thể đọc là “soạn”, tuy nhiên nên đọc là “tuyển”, bởi lẽ nhiều chi tiết trong sách được tuyển
tập từ sách khác, ví dụ “Tả tế văn thể tức” sao chép từ TMGL, một số câu vấn đáp được sao chép từ HTTGL.
26
Ngoài những cứ liệu đó, trong Thanh Thận gia lễ còn một số tiểu tiết liên quan đến quê hương, thời đại Lê
Quý Đôn, ví dụ trang 21a có nói đến sự kiện quan Nhạc tiến thu lễ tư Tri phủ tổ chức mừng thọ tuổi 60 năm Cảnh
Hưng Lê triều, địa danh Vũ Tiên, Thụy Anh…


19


phần ba: Văn Xương đế quân âm chất văn 文昌帝君陰騭文; phần bốn: Tự huấn minh 自
訓銘. Văn bản VHv.456 có chữ “thời” 時 viết theo lối chữ húy thời Nguyễn.
Cuối văn bản viết: “Trúc Đình chủ nhân Nguyễn Tuấn Ông cẩn thư vu Cấp Lí” 竹亭主
人阮俊翁謹書于笈裡, theo đó tác giả là Trúc Đình chủ nhân Nguyễn Tuấn Ông (Nguyễn
Tuấn (1562 - ?) hiệu Trúc Đình [Dương Thái Minh: Thư mục Hán Nôm mục lục tác giả, Ủy ban Khoa
học Xã hội Việt Nam, Ban Hán Nôm, bản in Roneo, tr.245], “người xã Nhân Mục huyện Thanh Trì
nay là thôn Quan Nhân xã Nhân Chính huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội. Con của Nguyễn
Trung. 52 tuổi đỗ Đình nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Quý Sửu niên hiệu
Hoằng Định 14 (1613) đời Lê Kính Tông. Được cử đi sứ sang nhà Minh. Làm quan đến Tá lí
công thần, Lại bộ hữu thị lang tước Lại Phong hầu. Khi mất được tặng chức Binh bộ Tả thị
lang, tước Quận công” [Ngô Đức Thọ chủ biên: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 – 1919, Nxb. Văn học,
Hà Nội, 1993, tr.524].
Văn bản kí hiệu VHb.79 nét chữ khá giống VHv.456, có 4 phần: phần một: Khải
đồng thuyết ước 啟童說約; phần hai: Tân tăng hiếu thuận ca 新增孝順歌; phần ba: Chu
Văn công gia huấn 朱文公家訓; phần bốn: Tự huấn minh 自訓銘. Cuối văn bản viết “Tân
Tỵ thu, Tự huấn minh Trúc Đình chủ nhân Nguyễn Tuấn Ông cẩn thư vu Cấp Lí 辛巳秋自訓
銘竹亭主人阮俊翁謹書于笈裡”. Theo đó, Nguyễn Tuấn chỉ là tác giả của Huấn tự minh.
Như vậy, VHv.456 do một người thời Nguyễn sao chép từ nhiều nguồn tư liệu, trong đó
có Gia lễ tạp nghi là quyển 8 của VCGLNT và Tự huấn minh của Nguyễn Tuấn.
1.2.2.3. Văn bản nhan đề “tạm”
Văn bản nhan đề tạm là văn bản không rõ nhan đề do nhiều nguyên nhân (rách trang
bìa, hoặc do ý tác giả hoặc người sao chép không ghi tên người soạn trong khi sáng tác
hoặc sao chép), được người làm thư mục “tạm” đặt nhan đề để thuận tiện tra cứu.
(1) Gia lễ (nhan đề thực là GLTK).
(2) Lê Quý Đôn gia lễ (nhan đề thực là Thanh Thận gia lễ)
Lê Quý Đôn gia lễ 黎 貴 惇 家 禮 hiện lưu tại kho thư tịch VNCHN kí hiệu
VHv.271, viết tay, văn tự Hán xen Nôm; 98 trang; khổ giấy 26x15cm, có lời tựa. Văn bản

ra đời trong hoặc sau thời Tự Đức (văn bản có chữ húy “thời”) trong khi đó Lê Quý Đôn
(1726 – 1752) người thời Lê, có lẽ vì lí do đó sách Di sản Hán Nôm thư mục đề yếu cho
rằng VHv.271 có thể là ngụy tác. Giả sử trên thực tế có tác phẩm nhan đề “Lê Quý Đôn
gia lễ” do Lê Quý Đôn soạn (tạm gọi là VHv.271*), thì VHv.271 được sao chép từ
VHv.271* vào sau thời Tự Đức. Tuy nhiên cách xưng hô trong văn bản VHv.271 đã cho
biết người tạo nên VHv.271* không phải Lê Quý Đôn. Văn bản VHv.271 mục “Đề chủ
pháp” 題 主 法, trang 44a có viết: “Hoặc vấn vu Lê Quý Đôn viết đề chủ khả hồ? Đáp viết
[…]” (或 問 于 黎 貴 惇 曰 題 主 可 乎 答 曰 […], Dịch nghĩa: “có người hỏi Lê Quý
Đôn rằng „(ông) có thể làm đề chủ được không‟, ông trả lời […]”)
20


×