Tải bản đầy đủ (.doc) (184 trang)

skkn xây dựng và sử dụng tài liệu tự học có hướng dẫn chương 6 kim loại kiềm kiềm thổ nhôm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 184 trang )

Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

MỤC LỤC
Trang 2

Trang 42

Bản đăng ký sáng kiến năm học 2014 - 2015

Phụ lục
Chương I

Trang 97
Trang 101
Trang 130

Phần 4: Tài liệu tự học: Bài tập trắc nghiệm tổng
hợp chương 6

Trang 161
Trang 180

Chương II

Trang 185
Trang 186

Tài liệu tự học có hướng dẫn chương 6 – Kim loại
kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm - Hóa học lớp 12 THPT - Ban cơ bản.


Phần 1: Tài liệu tự học có hướng dẫn với nội dung
lý thuyết.
Phần 2: Bài tự kiểm tra đánh giá kiến thức “chương
6 – Kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm”.
Phần 3: Tài liệu tự học có hướng dẫn với nội dung
bài tập.
Phần 3.1: Các dạng bài tập lý thuyết.
Phần 3.2: Các dạng bài tập tính toán.

Thực nghiệm sư phạm.
Tài liệu tham khảo.

Phụ lục 1

Một số tư liệu liên hệ thực tế về kim loại kiềm, kim
loại kiềm thổ, nhôm và các hợp chất của chúng

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bài tập hóa học: BTHH
Phương pháp dạy học: PPDH
Kim loại kiềm: KLK
Giáo viên: GV
Kim loại kiềm thổ: KLKT
Học sinh: HS
Dung dịch: Dd (DD, dd)
Thực nghiệm, thí nghiệm: TN
Phương trình hóa học: PTHH
Sách bài tập: SBT
Tài liệu tự học: TLTH
Sách giáo khoa: SGK

Kiến thức: KT; Kĩ năng: KN
Trắc nghiệm khách quan: TNKQ
Bảng tuần hoàn: BTH
Điều kiện tiêu chuẩn: đktc
Trung học phổ thông: THPT
Phương trình phản ứng: ptpư
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do – Hạnh phúc

Sáng kiến kinh nghiệm

1

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

BẢN ĐĂNG KÝ SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2014 - 2015

I.

TÊN SÁNG KIẾN:

“XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU TỰ HỌC
CÓ HƯỚNG DẪN THEO ĐỊNH HƯỚNG TÍCH CỰC
“CHƯƠNG VI: KIM LOẠI KIỀM, KIM LOẠI KIỀM THỔ, NHÔM” HÓA HỌC LỚP 12 - THPT - BAN CƠ BẢN, NHẰM NÂNG CAO NĂNG
LỰC TỰ HỌC CỦA HỌC SINH”.

II. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN: TRƯƠNG THỊ HỒNG CHIÊN
Chức danh: Giáo viên.
Trình độ chuyên môn: Cử Nhân Hóa Học.
Địa chỉ: Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy, Thành Phố Ninh Bình,
tỉnh Ninh Bình.
Email:
ĐTDĐ: 0946 108 599.
III. NỘI DUNG SÁNG KIẾN.
1. Giải pháp cũ thường làm.
1.1. Phân tích sử dụng một số phương pháp dạy học truyền thống mà
người thầy đóng vai trò trung tâm :
a. Sử dụng phương pháp thuyết trình.
Phương pháp thuyết trình là một phương pháp dạy học trong đó GV dùng
lời nói, chữ viết để trình bày, giảng giải nội dung bài học, còn HS chủ yếu thụ
động nghe, nhìn, ghi chép, tái hiện và ghi nhớ nội dung bài học.
Phương pháp thuyết trình gồm các bước sau:
- Bước 1: Đặt vấn đề.
Mục đích của việc này là nhằm thu hút sự chú ý của HS và tạo tâm thế
học tập, thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, đồng thời giới
thiệu mục tiêu của bài học.
Cách đặt vấn đề có thể là dựa vào kiến thức, vốn sống, kinh nghiệm đã có
của HS hoặc dựa vào các tư liệu về lịch sử phát triển khoa học Vật lí, hoặc dựa
vào hiện tượng thực tế có liên quan,…
- Bước 2: Giải quyết vấn đề.

Sáng kiến kinh nghiệm

2

Năm học 2014 - 2015



Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

Giải quyết theo từng nội dung trong bài, chú ý các đoạn chuyển tiếp giữa
các phần, minh họa – giải thích, nêu vấn đề và giải quyết,… Có thể giải quyết
vấn đề theo con đường quy nạp hoặc diễn dịch tuỳ theo đặc điểm nội dung bài
học.
- Bước 3: Kết luận.
Tóm tắt những nội dung trọng tâm, hệ thống hoá và chỉ ra logic giữa các
đơn vị kiến thức trong bài, củng cố bài học và giao nhiệm vụ tiếp cho HS.
* Phương pháp này có ưu điểm là GV chủ động về mặt thời gian và kế
hoạch lên lớp, do đó cũng chủ động thiết kế logic nội dung, cập nhật bổ sung
kiến thức, tiết kiệm thời gian.
* Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của phương pháp này là HS thụ
động, việc truyền thụ kiến thức dễ mang tính áp đặt, dập khuôn máy móc,
gây ra sự nhàm chán, khó tiếp thu, khó ghi nhớ; HS bị động, học trong tư
tưởng gượng ép, học vẹt, nhanh quên, không có hứng thú và say mê môn
học. Do vậy, khi sử dụng phương pháp này, cần chú ý các điểm sau:
+ Lời giảng của GV phải đủ to, rõ, không vi phạm các qui luật logic.
+ Tốc độ vừa phải, có định hướng ghi chép, theo dõi của HS.
+ Biết dừng đúng lúc với thời gian hợp lí.
+ Nội dung bài thuyết trình phải logic.
+ Tư thế, tác phong và cách diễn đạt của GV phải hấp dẫn, lôi cuốn HS.
b. Sử dụng phương pháp đàm thoại.
Phương pháp đàm thoại là phương pháp trong đó GV đặt ra một hệ thống
câu hỏi, HS sẽ trả lời hay trao đổi với GV hoặc tranh luận giữa các thành viên
trong lớp với nhau, qua đó HS sẽ củng cố, ôn tập kiến thức cũ và tiếp thu được

kiến thức mới. Trong hệ thống câu hỏi, ngoài các câu hỏi chính còn có những
câu hỏi phụ để gợi ý khi HS gặp khó khăn.
Người ta thường chia ra hai dạng đàm thoại chính là:
+ Đàm thoại tái hiện: các câu hỏi, vấn đề do GV đặt ra đòi hỏi HS nhớ,
tái hiện lại kiến thức, kinh nghiệm đã có thì có thể giải quyết được. Loại này chủ
yếu dùng để ôn tập, củng cố kiến thức.
+ Đàm thoại gợi mở hay vấn đáp tìm tòi: Trong vấn đáp tìm tòi GV
luôn đóng vai trò chỉ đạo, điều khiển hoạt động của HS. Hệ thống câu hỏi của
GV giữ vai trò chỉ đạo, định hướng hoạt động nhận thức của HS. Trật tự logic
của câu hỏi góp phần hướng dẫn HS từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật,
quy luật của hiện tượng và quá trình vật lí. Muốn nâng cao hiệu quả của phương
pháp vấn đáp tìm tòi, GV cần đầu tư nâng cao chất lượng của các câu hỏi. Giảm
bớt các câu hỏi có yêu cầu thấp về mặt nhận thức (chỉ đòi hỏi tái hiện kiến thức).
Sáng kiến kinh nghiệm

3

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

Tăng dần số câu hỏi có yêu cầu cao về mặt nhận thức (câu hỏi có sự thông hiểu
và sáng tạo trong vận dụng kiến thức để trả lời câu hỏi, cũng như đòi hỏi cả sự
phân tích, hệ thống hoá, khái quát hoá,… kiến thức). Loại câu hỏi thứ hai có tác
dụng kích thích tư duy tích cực của HS. Tuy nhiên, cũng không nên xem thường
loại câu hỏi thứ nhất, vì không tích lũy kiến thức đến một mức độ nhất định nào
đó thì khó mà tư duy sáng tạo.

1.2. Quy trình chuẩn bị và thực hiện một giờ học theo phương pháp
dạy học truyền thống.
a. Quy trình chuẩn bị một giờ học.
Hoạt động chuẩn bị cho một giờ dạy học đối với GV thường được thể
hiện qua việc chuẩn bị giáo án. Đây là hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho
một bài học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa GV với HS, giữa HS với
HS nhằm đạt được những mục tiêu của bài học. Hoạt động chuẩn bị cho một giờ
học có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng, quyết định nhiều tới chất lượng và hiệu
quả giờ dạy học.
Từ thực tế dạy học, có thể tổng kết thành quy trình chuẩn bị một giờ
học với các bước thiết kế một giáo án và khung cấu trúc của một giáo án cụ thể
như sau:
* Các bước thiết kế một giáo án
- Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học căn cứ vào chuẩn kiến thức (KT),
kĩ năng (KN) và yêu cầu về thái độ trong chương trình. Bước này được đặt ra bởi
việc xác định mục tiêu của bài học là một khâu rất quan trọng, đóng vai trò thứ
nhất, không thể thiếu của mỗi giáo án. Mục tiêu (yêu cầu) vừa là cái đích hướng
tới, vừa là yêu cầu cần đạt của giờ học; hay nói khác đi đó là thước đo kết quả
quá trình dạy học. Nó giúp GV xác định rõ các nhiệm vụ sẽ phải làm (dẫn dắt
HS tìm hiểu, vận dụng những KT, KN nào; phạm vi, mức độ đến đâu; qua đó
giáo dục cho HS những bài học gì).
- Bước 2: Nghiên cứu SGK và các tài liệu liên quan để: hiểu chính xác,
đầy đủ những nội dung của bài học; xác định những KT, KN, thái độ cơ bản cần
hình thành và phát triển ở HS; xác định trình tự logic của bài học. (Đúc kết được
phạm vi, mức độ KT, KN của từng bài học sao cho phù hợp với năng lực của HS
và điều kiện dạy học. Trong thực tế dạy học, nhiều khi chúng ta thường đi chưa
tới hoặc đi quá những yêu cầu cần đạt về KT, KN. Nếu nắm vững nội
dung bài học, GV sẽ phác họa những nội dung và trình tự nội dung của bài giảng
phù hợp, thậm chí có thể cải tiến cách trình bày các mạch KT, KN của SGK, xây
dựng một hệ thống câu hỏi, bài tập giúp HS nhận thức, khám phá, vận dụng các

KT, KN trong bài một cách thích hợp).
Sáng kiến kinh nghiệm

4

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

- Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức của
HS, gồm: xác định những KT, KN mà HS đã có và cần có; dự kiến những khó
khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải quyết.
- Bước 4: Lựa chọn PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy
học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động,
sáng tạo.
Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới PPDH,
GV phải quan tâm tới việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo,
rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, KN vận dụng KT vào
những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tác động đến tư
tưởng và tình cảm để đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho HS. Trong
thực tiễn dạy học hiện nay, các GV vẫn quen với lối dạy học đồng loạt với
những nhiệm vụ học tập không có tính phân hoá, ít chú ý tới năng lực học tập
của từng đối tượng HS. Đổi mới PPDH sẽ chú trọng cải tiến thực tiễn này, phát
huy thế mạnh tổng hợp của các PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức
dạy học và cách thức đánh giá nhằm tăng cường sự tích cực học tập của các đối
tượng HS trong giờ học.
- Bước 5: Thiết kế giáo án.

Đây là bước người GV bắt tay vào soạn giáo án - thiết kế nội dung, nhiệm
vụ, cách thức hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt cho từng hoạt động dạy
của GV và hoạt động học tập của HS.
Trong thực tế, có nhiều GV khi soạn bài thường chỉ đọc SGK, sách GV và
bắt tay ngay vào hoạt động thiết kế giáo án; thậm chí, có GV chỉ căn cứ vào
những gợi ý của sách GV để thiết kế giáo án bỏ qua các khâu xác định mục tiêu
bài học, xác định khả năng đáp ứng nhiệm vụ học tập của HS, nghiên cứu nội
dung dạy học, lựa chọn các PPDH, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy
học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp HS học tập tích cực, chủ động,
sáng tạo. Cách làm như vậy không thể giúp GV có được một giáo án tốt và có
những điều kiện để thực hiện một giờ dạy học tốt. Về nguyên tắc, cần phải thực
hiện qua các bước 1, 2, 3, 4 trên đây rồi hãy bắt tay vào soạn giáo án cụ thể.
* Cấu trúc của một giáo án được thể hiện ở các nội dung sau:
- Mục tiêu bài học:
+ Nêu rõ yêu cầu HS cần đạt về KT, KN, thái độ;
+ Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hoá được.
- Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học:

Sáng kiến kinh nghiệm

5

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

+ GV chuẩn bị các thiết bị dạy học (tranh ảnh, mô hình, hiện vật, hoá

chất,...), các phương tiện dạy học (máy chiếu, TV, đầu video, máy tính,...) và tài
liệu dạy học cần thiết;
+ Hướng dẫn HS chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu
và đồ dùng học tập cần thiết).
- Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ cách thức triển khai các
hoạt động dạy- học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ:
+ Tên hoạt động ;
+ Mục tiêu của hoạt động;
+ Cách tiến hành hoạt động;
+ Thời lượng để thực hiện hoạt động;
+ Kết luận của GV về: những KT, KN, thái độ HS cần có sau hoạt động;
những tình huống thực tiễn có thể vận dụng KT, KN, thái độ đã học để giải
quyết; những sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra nếu không có cách
giải quyết phù hợp;...
- Hướng dẫn các hoạt động tiếp nối: xác định những việc HS cần phải tiếp
tục thực hiện sau giờ học để củng cố, khắc sâu, mở rộng bài cũ hoặc để chuẩn bị
cho việc học bài mới.
b. Thực hiện giờ dạy học.
Một giờ dạy học nên được thực hiện theo các bước cơ bản sau:
* Kiểm tra sự chuẩn bị của HS.
- Kiểm tra tình hình nắm vững bài học cũ và những KT, KN đã học có liên
quan đến bài mới.
- Kiểm tra tình hình chuẩn bị bài mới (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài
liệu và đồ dùng học tập cần thiết))
Lưu ý: Việc kiểm tra sự chuẩn bị của HS có thể thực hiện đầu giờ học
hoặc có thể đan xen trong quá trình dạy bài mới.
* Tổ chức dạy và học bài mới.
- GV giới thiệu bài mới: nêu nhiệm vụ học tập và cách thức thực hiện để
đạt được mục tiêu bài học; tạo động cơ học tập cho HS.
- GV tổ chức, hướng dẫn HS suy nghĩ, tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội nội

dung bài học, nhằm đạt được mục tiêu bài học với sự vận dụng PPDH phù hợp.
* Luyện tập, củng cố.
GV hướng dẫn HS củng cố, khắc sâu những KT, KN, thái độ đã có
thông qua hoạt động thực hành luyện tập có tính tổng hợp, nâng cao theo những
hình thức khác nhau.
* Đánh giá.
Sáng kiến kinh nghiệm

6

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

- Trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu bài học, GV dự kiến một số câu hỏi,
bài tập và tổ chức cho HS tự đánh giá về kết quả học tập của bản thân và của
bạn.
- GV đánh giá, tổng kết về kết quả giờ học.
* Hướng dẫn HS học bài, làm việc ở nhà.
- GV hướng dẫn HS luyện tập, củng cố bài cũ (thông qua làm bài tập, thực
hành, thí nghiệm,…).
- GV hướng dẫn HS chuẩn bị bài học mới.
2. Giải pháp mới cải tiến.
2.1. Lý do chọn đề tài sáng kiến:
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, đổi mới nền giáo dục và
đào tạo là một trong những trọng tâm của sự phát triển. Muốn nâng cao chất
lượng giáo dục, chúng ta phải đổi mới nội dung và đổi mới phương pháp dạy học

ở các môn học, các cấp bậc học.
Đổi mới phương pháp dạy học đã và đang là vấn đề hết sức cấp bách hiện
nay. Ngày nay, nền kinh tế tri thức đòi hỏi ngành giáo dục phải đào tạo ra
những con người năng động sáng tạo, có khả năng tự học và tự đánh giá, biết
cách cộng tác với mọi người, để phát triển cá nhân hoà hợp với sự phát triển
chung của cộng đồng . Do đó, từ chỗ áp dụng các phương pháp dạy học mà
người thầy đóng vai trò trung tâm, thì chúng ta phải chuyển sang hướng dạy học
lấy học sinh làm trung tâm, nhằm phát huy tính tích cực chủ động của người học.
Có như thế thì chúng ta mới tạo ra được những “sản phẩm chất lượng cao” đáp
ứng cho nhu cầu của xã hội.
Để lựa chọn được phương pháp dạy học vào thực tế có hiệu quả không
thể bỏ qua vấn đề tự học của học sinh. Quá trình dạy học thành công của giáo
viên có quan hệ biện chứng với quá trình tự học của học sinh. Vì vậy, thước đo
hiệu quả của phương pháp dạy học là kết quả của tự học.
Dạy học trong nhà trường không phải là cung cấp một khối lượng tri thức
hàn lâm kinh điển mà dạy cho người học phương pháp tiếp cận thông tin,
phương pháp tư duy để họ có thể tiếp tục học sau khi rời ghế nhà trường. Thực
chất của phương pháp dạy học này là dạy cách học, cách tự học để học tập
suốt đời.
Hiện nay, nước ta cũng như các nước trên thế giới đều quan tâm đến vấn
đề tự học không chỉ trong các trường Đại học mà ngay cả ở bậc giáo dục phổ
thông. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu rõ: “ Tập trung sức nâng cao
chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo của học sinh, Bảo
đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, phát triển mạnh mẽ phong
Sáng kiến kinh nghiệm

7

Năm học 2014 - 2015



Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”. Trên tinh
thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có vị trí cực
kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo của đất nước. Bởi tự học và
học suốt đời là một trong những chìa khoá bước vào thế kỷ XXI. Đặc biệt trong
quan niệm mới về “học tập suốt đời: Một động lực của xã hội” sẽ giúp con người
đáp ứng yêu cầu của một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Điều này thể hiện
những đòi hỏi đang ngày càng mãnh liệt hơn “Không thể thoả mãn những đòi
hỏi đó được, nếu mỗi người không học cách học”.
Như vậy, việc hướng dẫn học sinh phương pháp tự học: Chủ động
sáng tạo và tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập, nghiên cứu, giải quyết vấn
đề, lĩnh hội kiến thức mới, ôn luyện kiến thức cũ là một nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách trong nhà trường phổ thông hiện nay mà mỗi thầy cô giáo dạy học ở
các môn học, các cấp bậc học đều phải quan tâm, chung tay thực hiện góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.
Trong quá trình dạy học Hóa học cần phải giải đáp được ba câu hỏi lớn:
- Dạy và học Hóa học để làm gì (mục đích và nhiệm vụ của môn Hóa học)?
- Dạy và học cái gì (nội dung môn Hóa học)?
- Dạy và học như thế nào (phương pháp, phương tiện, tổ chức việc dạy và việc
học)?
Ba câu hỏi trên liên quan đến ba nhiệm vụ cơ bản của phương pháp dạy
học hóa học: Nhiệm vụ thứ nhất đòi hỏi phải làm sáng tỏ mục đích của việc dạy
và học môn Hóa học trong trường phổ thông: không chỉ chú ý nhiệm vụ cung
cấp và tiếp thu nền học vấn Hóa học phổ thông mà còn phải chú ý tới nhiệm vụ
giáo dục thế giới quan, đạo đức cách mạng và nhiệm vụ phát triển tiềm lực trí
tuệ cho học sinh. Nhiệm vụ thứ hai đòi hỏi phải xây dựng nội dung môn Hóa học

trong nhà trường phổ thông Việt Nam đáp ứng được những yêu cầu của đất nước
trong giai đoạn mới. Nhiệm vụ thứ ba đòi hỏi phải nghiên cứu chỉ ra được những
phương pháp, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức việc dạy và việc học tối
ưu, trong đó trước hết chú ý nghiên cứu việc giảng dạy của giáo viên và đi
liền là việc tự học của học sinh. Trong quá trình dạy học ở trường THPT, bản
thân tôi và các đồng nghiệp luôn cố gắng dạy học làm sao để học sinh nắm vững
được kiến thức, hình thành thế giới quan, khơi dậy cho các em hứng thú học tập,
rèn tính tự giác, tích cực, chủ động góp phần phát triển tiềm lực trí tuệ, phát triển
năng lực nhận thức cho các em học sinh. Hoá học là bộ môn khoa học thực
nghiệm nên có rất nhiều khả năng trong việc phát triển năng lực nhận thức cho
học sinh ở nhiều góc độ. Nếu giáo viên có một hệ thống các giáo án được thiết
kế hay, theo hướng dạy học tích cực, có những tập tài liệu, chuyên đề hướng
Sáng kiến kinh nghiệm

8

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

dẫn học sinh phương pháp tự học thì chắc chắn việc giảng dạy sẽ có hiệu quả
cao hơn.
Trong chương trình Hoá học phổ thông, tôi nhận thấy phần kim loại kiềm,
kim loại kiềm thổ và nhôm có nội dung hết sức phong phú, đa dạng, có nhiều
ứng dụng quan trọng trong cuộc sống và là kiến thức chủ đạo của hoá học vô
cơ trong các đề thi đại học vì nó liên quan đến nhiều phần khác như: phản ứng
oxi hoá – khử, phi kim, axit, bazơ, muối, ancol,...

Những lí do trên đã thôi thúc tôi quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu:
“ Xây dựng và sử dụng tài liệu tự học có hướng dẫn theo định hướng tích
cực “chương 6: Kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ, nhôm” – Hóa học lớp 12
THPT - Ban cơ bản, nhằm nâng cao năng lực tự học của học sinh.” với
mong muốn đề tài sáng kiến của mình sẽ góp phần thiết thực vào việc đổi mới
phương pháp dạy học hóa học nâng cao năng lực tự học của học sinh hiện nay.
2.2. Khách thể và đối tượng nghiên cứu: Quá trình giảng dạy, kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của học sinh trong “chương 6: Kim loại kiềm, kim loại kiềm
thổ, nhôm” – Hóa học lớp 12 THPT - Ban cơ bản ở trường THPT.
2.3. Cơ sở lý luận.
2.3.1. Dạy học hóa học theo hướng tích cực:
Dạy học tích cực là quá trình dạy học phát huy được cao độ tính tích cực
nhận thức của học sinh trong hoạt động học tập, nó được dựa trên cơ sở quan
niệm về tính tích cực hóa hoạt động của học sinh và lấy học sinh làm trung
tâm của quá trình học tập. Để đạt được tính tích cực trong dạy học cần phải
đổi mới về “chất” tất cả các quá trình dạy học Hóa học.
Quá trình dạy học Hóa học là một hệ toàn vẹn bao gồm các thành tố: Mục
đích, nội dung dạy học, phương pháp và phương tiện dạy học, hoạt động
dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh, hình thức tổ chức dạy học và
kết quả của sự dạy học. Các thành tố này có mối quan hệ chặt chẽ, quan hệ
thống nhất và chi phối lẫn nhau.
Mục đích dạy học xác định nội dung, cấu trúc tiến trình và việc lựa chọn
phương pháp và phương tiện, hình thức tổ chức dạy học khác nhau.
Theo phương hướng dạy học tích cực cần đảm bảo tính hệ thống trong
việc đổi mới, khai thác các yếu tố tích cực trong các thành tố của cả quá trình
dạy học hóa học. Việc đổi mới cần được thực hiện từ sự đổi mới mục tiêu giáo
dục, nội dung dạy học. Khai thác các yếu tố tích cực trong hoạt động dạy và hoạt
động học, sử dụng phương pháp và phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy
học và đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh để
có được hình ảnh chân thực về kết quả của quá trình dạy học.

Sáng kiến kinh nghiệm

9

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

Theo phương hướng dạy học tích cực, để tạo điều kiện cho học sinh tham
gia vào hoạt đông nhận thức, giáo viên cần sử dụng các phương tiện dạy học như
là nguồn tri thức để học sinh tìm tòi, phát hiện ra tri thức cần lĩnh hội. Giáo viện
sử dụng các phương tiện dạy học phối hợp với lời giảng theo phương pháp
nghiên cứu, tổ chức cho học sinh tìm tòi, nghiên cứu qua các phương tiện dạy
học đó mà rút ra các kết luận cần thiết.
2.3.2. Phân tích sử dụng một số phương pháp dạy học truyền thống theo
hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh.
Các phương pháp dạy học tích cực hình thành và phát triển từ lâu, tuy
nhiên do những yêu cầu đổi mới giáo dục nhằm đào tạo thế hệ trẻ thành những
con người phát triển, năng động và sáng tạo, nên các phương pháp này ngày
càng được đặc biệt quan tâm hơn. Trong các phương pháp dạy học tích cực,
người ta đề cao vai trò hoạt động của HS, nhưng không hề hạ thấp hay giảm nhẹ
vai trò của GV. Trái lại, người GV càng có vai trò quan trọng hơn và được
chuyển đổi từ vai trò là người truyền đạt kiến thức sang vai trò là người tổ chức,
điều khiển, hướng dẫn hoạt động nhận thức của HS.
Phương pháp dạy học tích cực không phải là một phương pháp dạy học cụ
thể, chuyên biệt nào đó, cũng không phải là sự phủ nhận các phương pháp dạy
học truyền thống mà là muốn nhấn mạnh một định hướng khai thác mặt tích cực

của các phương pháp dạy học hiện có. Những phương pháp như thuyết trình,
đàm thoại…vẫn rất cần thiết trong quá trình dạy học. Điều cốt yếu là phải lựa
chọn và vận dụng các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung của bài dạy và
đặc biệt là phù hợp với đối tượng HS, trong đó cần chú ý khai thác và sử dụng
các kĩ thuật dạy học nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức và phát triển tư duy
của HS, hình thành cho các em khả năng độc lập, năng động, sáng tạo trong việc
tiếp thu và xử lí thông tin, cũng như trong việc giải quyết những công việc cụ thể
sau này.
Trước hết ta hãy bàn về những dấu hiệu đặc trưng của phương pháp dạy
học tích cực mà người thày giáo sử dụng trong các giờ học.
Thứ nhất: dạy học thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của HS.
Nét đặc thù của hoạt động dạy học là: HS vừa là đối tượng vừa là chủ thể
của quá trình dạy học. HS không chỉ tiếp thu những kiến thức từ người dạy, mà
phải thông qua hoạt động tự lực để chiếm lĩnh nó và làm biến đổi bản thân. Tâm
lí học sư phạm cũng khẳng định rằng: nhân cách của trẻ được hình thành và phát
triển thông qua các hoạt động có ý thức của chủ thể. Vì vậy có thể nói, hoạt động
học là cách tốt nhất để làm biến đổi chính người học. Dạy học không còn là sự

Sáng kiến kinh nghiệm

10

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

truyền thông tin từ thầy sang trò, thầy không còn là người truyền thông tin mà

phải là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển các hoạt động học tập của HS.
Thứ hai: chú trọng rèn luyện phương pháp tự học hơn là việc truyền
thụ kiến thức.
Câu nói: “Người thầy giáo tồi truyền đạt chân lí, người thầy giáo giỏi
dạy cách tìm ra chân lí” là hoàn toàn chính xác. Rèn luyện cho HS phương
pháp tự học không chỉ là biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là
mục tiêu của dạy học. Con người được đào tạo trước hết phải là con người năng
động, có tính tích cực, có khả năng tự học, tự nghiên cứu để tự hoàn thiện mình.
Mặt khác, trong một thời gian ngắn nhà trường phổ thông không thể kịp trang bị
cho HS những kiến thức cần thiết trong kho tàng kiến thức của nhân loại đang
ngày một phong phú thêm. Do vậy, người thày phải tìm cách hình thành ở HS
phương pháp và năng lực tự học, tự nghiên cứu để có thể tự chiếm lĩnh kiến thức
và hoàn thiện bản thân sau này.
Thứ ba: Tăng cường tính tự lực của cá nhân HS đồng thời chú trọng phối
hợp tương tác thày – trò và tương tác nhóm.
Phương pháp dạy học tích cực đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực của mỗi HS
trong quá trình tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Vì vậy, phải chú ý đến vai trò của
từng cá nhân trong hoạt động dạy học. Tuy nhiên, vai trò cá nhân chỉ có thể phát
huy tốt thông qua sự tương tác giữa GV và HS, giữa HS và HS và tương tác giữa
các nhóm với nhau, đó chính là phương pháp học tập hợp tác. Trong phương
pháp này, người ta đề cao vai trò giao tiếp giữa HS và HS. Để phát huy vai trò
của HS người ta thường tổ chức việc học tập hợp tác theo kiểu nhóm, tổ từ 4 đến
6 người. Học tập nhóm, tổ tạo cho HS có nhiều cơ hội bộc lộ suy nghĩ, hiểu biết
và thái độ của mình, cũng như biết cách bảo vệ ý kiến của mình. Đó là cách tốt
nhất để hình thành cho HS tính tích cực, độc lập và sáng tạo trong suy nghĩ, cũng
như hành động.
Thứ tư: Kết hợp đánh giá của GV và tự đánh giá của HS.
Quá trình dạy học bao gồm hai hoạt động dạy và học, với hai chủ thể là
GV và HS. Trong quá trình này luôn có sự điều chỉnh và tự điều chỉnh. Vì vậy,
ngoài sự đánh giá của GV, phải có sự tự đánh giá của HS. Qua tự đánh giá, HS

sẽ đưa ra những nhận định về bản thân và tự điều chỉnh cách học của mình cho
phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả học tập. Trong phương pháp dạy học tích cực,
người ta chú trọng đến việc dạy cho HS cách tự học đi kèm theo là năng lực tự
đánh giá của HS. Thiếu năng lực này HS không thể tự điều chỉnh cách học của
mình và không hoàn chỉnh được phương pháp tự học. Như vậy, năng lực tự học
luôn gắn liền với năng lực tự đánh giá, tự điều chỉnh, mà tự học là dấu hiệu
Sáng kiến kinh nghiệm

11

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

của phương pháp tích cực. Do vậy, khả năng rèn luyện năng lực tự đánh giá
của HS cũng là một dấu hiệu của phương pháp dạy học tích cực theo một
mô hình mới.
2.3.3. Học là gì? Tự học là gì? Tự học quan trọng như thế nào? Cách tự học
tốt nhất như thế nào?
a. Học là gì? Tự học là gì? Thực trạng tự học hiện nay của HS THPT?
Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật phát triển thì việc học tập cũng phát triển
theo. Chính vì vậy các em học sinh đã sáng tạo ra rất nhiều cách học nhằm mang
lại hiệu quả cao nhất cho bản thân. Nhưng theo tôi: trong học tập, tự học là cách
học tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong khi học. Và khi nói đến vấn đề này, tôi
muốn mọi người hiểu được trước nhất là ý nghĩa của việc học rồi mới đến cách
tự học. Vậy học là gì ? Tự học là gì ?
Học là quá trình con người tiếp thu những kiến thức, kĩ năng, thông tin

qua các giác quan do người khác truyền lại, não bộ xử lý các thông tin trở thành
kiến thức của mình, vận dụng vào thực tế và tự học là việc con người phát huy
những kiến thức, kĩ năng đã được truyền lại bằng chính sức lực, khả năng của
riêng mình. Thực tế ngày nay cho thấy các cách học của học sinh chưa mang lại
hiệu quả cao.
Học sinh ngày nay đã quá phụ thuộc vào các bài giảng của thầy cô trên
lớp, thầy cô dạy như thế nào thì lại hiểu và học như thế ấy dẫn đến quá trình thụ
động, thiếu suy nghĩ và thiếu sáng tạo trong lúc học để đào sâu kho tàng kiến
thức còn ẩn sâu sau các bài giảng của thầy cô.
Và cũng chính vì chỉ học cô đọng trong các bài giảng bốn mươi lăm
phút trên lớp của thầy cô mà dẫn đến tình trạng học sinh phải đi học thêm
tràn lan. Mà khi đã học thêm tràn lan thì lại càng khiến học sinh không chịu tự
học, càng thêm phụ thuộc vào việc học thêm. Thêm việc ngày nay khi việc học
được nâng cao thì có quá nhiều sách tham khảo, văn mẫu, hướng dẫn... dẫn đến
việc học sinh đâm lười suy nghĩ trong khi làm các bài tập.
Hậu quả của những việc trên rất nặng nề vì như vậy sẽ dễ dẫn đến hiện
tượng "học vẹt": học thuộc bài nhưng không hiểu nội dung, vấn đề được nêu ra
trong bài dẫn đến việc học xong là quên ngay, kiến thức không bền và sẽ không
làm được các bài tập thực hành, chỉ học lí thuyết suông, kiến thức sẽ ngày càng
rỗng, thành tích học tập sẽ càng sút kém khiến bản thân đâm nản chí. Một khi
kiến thức đã trang bị không chắc chắn thì kết quả sẽ không bao giờ cao.
Chính những thực tế được nêu trên lại càng khẳng định việc tự học cho
bản thân là rất quan trọng. Nó chính là một chiếc chìa khóa đưa ta đến kho tàng
tri thức, là điều kiện giúp ta thành công trong học tập. Nếu chúng ta biết tự học
Sáng kiến kinh nghiệm

12

Năm học 2014 - 2015



Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

cho bản thân thì chúng ta chắc chắn sẽ thành công và nâng cao được tri thức của
chính mình. Tự học giúp con người có được ý thức tốt nhất trong quá trình học:
chủ động suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề
từ đó tự học giúp ta tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách,
báo, từ truyền hình ti vi, từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh, những kinh
nghiệm sống của nhân dân.
Giáo sư – Tiến sĩ Khoa học Thái Duy Tuyên đã viết: “Tự học là hoạt
động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp,…)
cùng các phẩm chất, động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu
biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành
sở hữu của chính bản thân người học”.
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn
về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri
thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt
mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết
các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp,… Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa
việc học”.
Giáo sư Trần Phương cũng cho rằng: “ Học bao giờ và lúc nào cũng chủ
yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của nhân
loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện cho mình
kĩ năng thực hành những tri thức ấy”.
Từ những quan niệm trên đây có thể nhận thấy rằng, khái niệm tự học
luôn đi cùng, gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự thân. Tri thức, kinh nghiệm, kĩ
năng của mỗi cá nhân chỉ được hình thành bền vững và phát huy hiệu quả thông

qua các hoạt động tự thân ấy. Để có được, đạt tới sự hoàn thiện thì mỗi người,
mỗi HS phải tự thân tiếp nhận tri thức từ nhiều nguồn; Tự thân rèn luyện các kĩ
năng; Tự thân bồi dưỡng tâm hồn của mình ở mọi nơi mọi lúc.
Tự học giúp ta có thể chủ động ghi nhớ các bài giảng trên lớp, tiết kiệm
được thời gian, có thể tiếp thu một lượng kiến thức lớn mà vẫn hiểu và nắm chắc
bài học. Và qua tự học, từ lý thuyết, chúng ta biết chủ động luyện tập thực hành,
giúp ta có thể nhanh chóng hình thành kĩ năng, củng cố và nâng cao kiến thức đã
học.Vì vậy, chủ động tự học sẽ giúp ta tìm ra được phương pháp học tốt nhất
mang lại hiệu quả cao cho chính bản thân mình.
Tôi khẳng định rằng tự học là chìa khóa, là con đường đưa ta đến
thành công. Tấm gương sáng thành công nhờ đã từng nỗ lực tự học là Bác Hồ
kính yêu của dân tộc ta, Bác đã tự say mê tìm tòi học hỏi và đã thành công,
Sáng kiến kinh nghiệm

13

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

thông thuộc được nhiều ngôn ngữ của các nước trên thế giới và tìm ra được con
đường cứu nước, đưa cả dân tộc Việt Nam ra khỏi ách đô hộ của giặc Tây tàn ác,
hướng đến nền độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc ngày nay.
Chính vì vậy, tự học là cách tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong học tập,
mang lại một kết quả học tập cao nhất có thể. Nếu chúng ta biết nỗ lực tự học,
chúng ta sẽ thành công, sẽ mở được một tương lai rộng mở cho chính mình. Nếu
chúng ta học tập thành công, chúng ta sẽ trở thành những người có ích cho xã

hội, cho đất nước, đưa đất nước ngày càng đi lên, phát triển đến một tầm cao mới
b. Vị trí vai trò của tự học.
Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học.
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự
học. Trong quá trình hoạt động dạy học (DH), giáo viên (GV) không chỉ dừng lại
ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu HS ghi nhớ mà quan
trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho HS tự mình khám phá ra những qui
luật, thuộc tính mới của các vấn đề khoa học. Giúp HS không chỉ nắm bắt được
tri thức mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. Thực tiễn cũng như phương
pháp dạy học hiện đại còn xác định rõ: càng học lên cao thì tự học càng cần
được coi trọng, nói tới phương pháp dạy học thì cốt lõi chính là dạy tự học.
Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Nhất là đối
với HS THPT cần phải ghi nhớ một lượng kiến thức rất lớn chuẩn bị cho kỳ thi
đại học, cao đẳng quyết định bước ngoặt cuộc đời của mình, mà để đạt được sự
ghi nhớ tốt nhất và có kết quả thi đại học tốt nhất (đặc biệt đối với bộ môn Hóa
học rất dễ bị “mất gốc”) thì không thể không thông qua con đường tự học. HS
muốn thành công trên bước đường học tập và nghiên cứu sau này thì phải có khả
năng phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà cuộc sống, khoa học đặt ra.
Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực
mạnh mẽ cho quá trình học tập.
Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực,
sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.Và một trong những nhiệm vụ quan
trọng của giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo
dục mới mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với
mọi thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích
cực (hình thành từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển
nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những
biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá
trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề
cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác

Sáng kiến kinh nghiệm

14

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính
tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên
giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học
tập.
Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để
khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích
ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học
mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp
nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả
những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người
học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã
học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày
càng được nâng cao.
Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương
pháp tự học, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo sẽ khơi dậy
năng lực tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học.
c. Cách tự học như thế nào là tốt nhất?
Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự học, nghĩa là tự mình lao động
trí óc để chiếm lĩnh kiến thức. Trong tự học, bước đầu thường có nhiều lúng túng

nhưng chính những lúng túng đó lại là động lực thúc đẩy học sinh tư duy để
thoát khỏi “lúng túng”, nhờ vậy mà thành thạo lên, và ghi nhớ được lâu, vận
dụng lý thuyết vào bài tập ngày càng nhanh nhậy và chính xác hơn, hiệu quả
hơn.
Biện pháp thực hiện:
Trong quá trình học tập, việc xác định mục đích, xây dựng động cơ, lựa
chọn phương pháp, hình thức tự học hợp lý là cần thiết. Song điều quan trọng là
học sinh phải có hệ thống kỹ năng tự học, kỹ năng làm việc độc lập, trên cơ sở
phát huy tính tích cực nhận thức để chiếm lĩnh hệ thống tri thức. Vì tri thức là
sản phẩm của hoạt động, muốn nắm vững tri thức thì việc rèn luyện hệ thống kỹ
năng tự học một cách thường xuyên và nghiêm túc phải được chú trọng ngay từ
khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông.
Như vậy, để hoạt động học tập của học sinh đạt chất lượng và hiệu quả,
học sinh phải có tri thức và kỹ năng tự học. Chính kỹ năng tự học là điều kiện
vật chất bên trong để học sinh biến động cơ tự học thành kết quả cụ thể và làm
cho học sinh tự tin vào bản thân mình, bồi dưỡng và phát triển hứng thú, duy trì
tính tích cực nhận thức trong hoạt động tự học của họ.

Sáng kiến kinh nghiệm

15

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

Vận dụng hệ các phương pháp tự học nêu trên vào chu trình tự học của

học sinh . Đó là một chu trình ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1- Tự nghiên cứu: Người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giải
thích, phát hiện vấn đề, định hướng, giải quyết vấn đề, tự tìm ra kiến thức mới
(chỉ mới đối với người học) và tạo ra sản phẩm ban đầu hay sản phẩm thô có tính
chất cá nhân theo hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn của GV.
- Giai đoạn 2 - Tự thể hiện: Người học tự thể hiện mình bằng văn bản,
bằng lời nói, tự trình bày, bảo vệ kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của
mình, tự thể hiện qua sự đối thoại, giao tiếp với các bạn và thầy cô
- Giai đoạn 3 - Tự kiểm tra, tự điều chỉnh: Sau khi tự thể hiện mình qua
sự hợp tác trao đổi với các bạn và thầy cô, sau khi thầy cô kết luận, người học tự
kiểm tra, tự đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh thành
sản phẩm khoa học.
Chu trình trên bước đầu chỉ ra cho HS con đường phát hiện vấn đề, định
hướng giải quyết, và giải quyết vấn đề của nghiên cứu khoa học ở bậc đại học
sau này.
Rèn luyện phương pháp tự học phải trở thành một mục tiêu học tập của
học sinh. Tự học có ý nghĩa to lớn đối với bản thân học sinh để hoàn thành
nhiệm vụ học tập của họ đối với chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học trong
nhà trường phổ thông. Tự học là sự thể hiện đầy đủ nhất vai trò chủ thể trong
quá trình nhận thức của học sinh. Trong quá trình đó, người học hoàn toàn chủ
động và độc lập, tự lực tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức dưới sự chỉ đạo,
điều khiển của giáo viên.
Để phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của mình, sinh viên cần tự rèn
luyện phương pháp tự học, đây không chỉ là một phương pháp nâng cao hiệu quả
học tập mà là một mục tiêu quan trọng của học tập. Có như vậy thì phương pháp
tự học mới thực sự là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Phương pháp
tự học sẽ trở thành cốt lõi của phương pháp học tập.
Học là quá trình lâu dài và không ngừng nghỉ, dù bạn có thông minh tới
đâu nhưng nếu không học, không trau dồi kiến thức liên tục thì thông minh cũng
chỉ giống như vật trang trí mà thôi. Tuy nhiên, bạn cần phải hiểu rằng không

phải mỗi ngày cắp sách tới trường, chăm chú nghe thầy cô giảng bài, hay cứ ra
đời rồi mình sẽ tự có kiến thức. Đó là suy nghĩ hoàn toàn sai lầm. Để có được
kiến thức bạn cần phải có kỹ năng học và tự học, những kỹ năng đó sẽ không ai
dạy bạn mà chính bản thân bạn phải ý thức được sự quan trọng của kiến thức mà
rèn luyện cho bản thân. Vậy những kỹ năng đó là gì, bạn có thể rèn luyện cho
mình những kỹ năng đó hay không?
Sáng kiến kinh nghiệm

16

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

Kế hoạch và mục tiêu
Làm bất kỳ việc gì dù lớn hay nhỏ bạn cũng cần phải có kế hoạch và mục
tiêu rõ ràng. Với việc học cũng vậy, bạn phải lên cho mình một kế hoạch học tập
thật khoa học, xác định được khối kiến thức mà bạn cần phải trau dồi, phân bổ
thời gian cho từng loại kiến thức cụ thể nếu bạn không muốn lãng phí thời gian
cho một mớ kiến thức hỗn độn trong đầu.
Có kế hoạch thì phải có mục tiêu, mục tiêu sẽ là động lực học tập của bạn.
Bởi bạn biết mình cần phải học vì cái gì, những loại kiến thức bạn học sẽ phục
vụ vào công việc gì. Khi đó bạn sẽ chủ động học và tự học để có đủ kiến thức
thực hiện mục tiêu mà bản thân đã đề ra.
Phương pháp và nhẫn nại
Bạn không thể cứ ngồi vào bàn ghi ghi, chép chép, hay cầm quyển sách
lên đọc, lên mạng tìm kiếm tài liệu nghĩa là bạn sẽ có được lượng kiến thức như

mình mong muốn. Việc học không đơn giản như vậy, để có được những kiến
thức hay, bổ ích bạn phải có phương pháp học khoa học, tuy nhiên phương pháp
học của mỗi người mỗi khác, đừng cố áp dụng phương pháp của người khác vào
mình rồi ép bản thân phải làm được như vậy. Hãy tìm ra phương pháp phù hợp
với bản thân để việc học không gây khó khăn và chán nản cho bạn.
Để làm được như vậy bạn cần phải kiên trì, nhẫn nại. Đừng vội chán nản,
lo lắng khi đã bỏ ra quá nhiều thời gian nhưng kết quả thu lại không được bao
nhiêu. Hãy thay đổi phương pháp học nếu phương pháp bạn đang áp dụng không
mang lại hiệu quả, bởi học không phải là ngày một ngày hai mà là “học nữa, học
mãi”.
Kỷ luật khi học
Hãy luyện cho mình tính kỷ luật khi học trên lớp cũng như lúc tự học. Bạn
không thể vừa học, vừa nói chuyện, vừa học vừa chơi game hay làm một việc
khác. Khi học bạn hãy dành toàn bộ tâm trí, tập trung cao độ, không xao nhãng.
Đừng tập cho mình những thói quen xấu khi học, nếu không những thói quen
này sẽ theo bạn ở bất kỳ hoàn cảnh nào trong đời sống cũng như công việc. Hãy
kỷ luật khi học, đó cũng là cách tốt nhất để bạn rèn luyện tính kỷ luật cho bản
thân mình sau này.
Tìm kiếm tài liệu
Bạn không chỉ nên tiếp thu kiến thức từ một nguồn như giáo viên cung
cấp, sách vở, xã hội,… mà cần tìm kiếm tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau. Bạn
đã nghe giáo viên giảng về vấn đề nào đó mà bạn quan tâm thì hãy tìm kiếm tài
liệu về vấn đề đó từ sách, báo, các trang mạng, bạn bè để hiểu sâu hơn về nó.
Tuy nhiên, không phải ai cũng có kỹ năng tìm kiếm tài liệu nhanh và chính xác,
Sáng kiến kinh nghiệm

17

Năm học 2014 - 2015



Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

vì thế bạn cũng cần rèn luyện cho mình kỹ năng này nhé. Việc này chỉ khó khi
bạn mới bắt đầu, khi đã quen bạn sẽ dễ dàng tìm được các thông tin cần thiết để
bổ sung thêm vào kho kiến thức của mình.
Tự kiểm tra kiến thức
Không phải kiến thức của bạn lúc nào cũng được người khác kiểm tra, vì
vậy để việc học đạt hiệu quả cao bạn phải biết cách tự kiểm tra kiến thức của
mình bằng cách như: Tự làm bài kiểm tra ngắn, liệt kê những nội dung chính, vẽ
biểu đồ, bản đồ tư duy, thiết kế những bảng câm rồi tự điền kiến thức vào và đối
chiếu lại,… Việc kiểm tra lại kiến thức cũng là cách bạn một lần nữa củng cố lại
những gì đã học được, những gì còn mơ hồ cần phải học thêm.
Học cách ghi nhớ
Bạn cần phải biết được thói quen học của mình như thế nào để có cách ghi
nhớ hiệu quả nhất. Mỗi người sẽ có cách ghi nhớ khác nhau, có người sẽ viết lại
nhiều lần ra giấy, liệt kê những nội dung chính, có người sẽ đọc thật to, có người
chỉ đọc thầm,… miễn sao có thể nhớ được kiến thức đó. Hãy thử tất cả những
cách trên xem cách nào giúp bạn ghi nhớ nhanh nhất và hiệu quả nhất. Nếu
không có cách nào phù hợp bạn hãy tìm cho mình cách ghi nhớ khác. Đặc biệt là
môn Hóa học là môn học có liên quan nhiều đến hiện tượng thực tế, kiến thức
logic, có sự lặp lại cao, nhớ vấn đề này thì sẽ nhớ được vấn đề khác. Thí dụ, tính
chất hóa học của chất này lại chính là phương pháp điều chế hay nhận biết chất
kia, … vì vậy, khi học ta nên ghi nhớ tính chất của chất đó gắn với hiện tượng
thực tế nào, hay phản ứng này đã học ở bài nào chương nào, … biến việc học
môn hóa từ “rất khó” thành “vô cùng dễ”.
Chọn lọc thông tin, kiến thức
Mỗi ngày bạn sẽ tiếp nhận rất nhiều thông tin, kiến thức khác nhau từ thầy

cô, sách vở, các loại tài liệu tham khảo,… Nếu không có kỹ năng chọn lọc thông
tin, kiến thức sẽ khiến cho bạn bị nhấn chìm trong một mớ bòng bong của quá
nhiều kiến thức khác nhau. Hãy biết cách chọn lọc những thông tin, kiến thức
quan trọng, cần thiết và ghi nhớ lại chúng. Đừng cố nhớ quá nhiều thứ hỗn độn
trong đầu, điều đó sẽ khiến cho bạn cảm thấy việc học thật sự rất đáng sợ và tồi
tệ.
Hiểu sâu và thường xuyên ôn lại
Đây là hai kỹ năng bạn cần rèn luyện để việc học và tự học của bạn đạt
hiệu quả cao nhất. Việc hiểu sâu những kiến thức sẽ giúp bạn luôn nhớ và biết
cách áp dụng chúng vào từng hoàn cảnh như thế nào cho phù hợp. Ngoài ra bạn
cũng cần thường xuyên ôn lại những gì đã học, nếu không những gì bạn đã học
được sẽ dần bị lãng quên theo thời gian. Đừng chủ quan nghĩ rằng bạn vẫn nhớ
Sáng kiến kinh nghiệm

18

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

như in những gì đã học được, nếu không bạn sẽ phải ân hận nhất là trong lúc làm
bài thi.
Sắp xếp thời gian tự học
Tất cả các giờ học trên lớp bạn đều phải chú ý nghe giảng, tư duy, trả lời
được các vấn đề thầy cô nêu ra. Hạn chế việc đi học thêm tràn lan, ỷ lại vào thầy
cô chữa bài tập cho rồi nên không cần suy nghĩ gì nữa, chỉ cần học thuộc bài là
đủ.

Mỗi ngày phải có ít nhất từ 3 – 5 giờ tự học độc lập ở nhà. Tự hoàn thành
hết câu hỏi, bài tập trong tài liệu tự học có hướng dẫn thầy cô giao cho. Ghi chép
cẩn thận những câu hỏi và bài tập khó, lạ, chưa hiểu để trao đổi lại với bạn bè
hoặc thầy cô. Như vậy, hoạt động tự học diễn ra cả ở trường, ở nhà, thậm chí là
cả lúc đi chơi với bạn bè.
Học và tự học là cách duy nhất để mỗi chúng ta trau dồi kiến thức cho bản
thân. Dù còn ngồi trên ghế nhà trường hay đã đi làm, bạn cũng đừng quên việc
học nhé. Hãy luôn rèn luyện cho mình kỹ năng học và tự học mọi lúc, mọi nơi để
có thật nhiều kiến thức vững vàng thi đỗ đại học, phục vụ cho cuộc sống cũng
như công việc của chính mình và trở thành người có ích cho xã hội.
2.3.4. Nội dung của quá trình tự học.
Bàn về hoạt động tự học và phương pháp tổ chức cho HS tự học như thế
nào để có hiệu quả thiết thực là một vấn đề hoàn toàn không đơn giản, đặc biệt là
các em đã quen với việc học ghi chép, làm theo mẫu, theo sự áp đặt của thầy cô ở
trên lớp. Ngoài việc tìm hiểu khái niệm, những vấn đề liên quan đến động cơ, thói
quen học tập của HS thì mỗi GV rất cần đến quá trình nghiên cứu nhằm tìm ra nội
dung cơ bản, các phương cách tối ưu rèn luyện phương pháp tự học cho HS.
Để đáp ứng yêu cầu nêu trên cần xác định rõ những yêu cầu cơ bản của
hoạt động tự học như: nội dung của hoạt động tự học gồm mấy vấn đề, để tiếp
cận nó phải tuân thủ theo qui trình nào, điều kiện để áp dụng có hiệu quả các yêu
cầu ra sao,… từ đó xây dựng những biện pháp dạy tự học tích cực tương ứng.
Với tất cả các lĩnh vực khoa học, việc dạy tự học có những điểm chung,
thống nhất về cách thức cũng như phương pháp. Đó là những vấn đề được xác
định như sau:
a/ Xây dựng động cơ học tập
Khơi gợi hứng thú học tập để trên cơ sở đó ý thức tốt về nhu cầu học tập.
Người học tự xây dựng cho mình động cơ học tập đúng đắn là việc cần làm đầu
tiên. Bởi vì, thành công không bao giờ là kết quả của một quá trình ngẫu hứng
tùy tiện thiếu tính toán, kể cả trong học tập lẫn nghiên cứu. Nhu cầu xã hội và thị
Sáng kiến kinh nghiệm


19

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

trường lao động hiện tại đặt ra cho mỗi người những tố chất cần thiết chứ không
phải là những điểm số đẹp, những chứng chỉ như vật trang sức vào đời mà không
có thực lực vì động cơ học tập lệch lạc. Có động cơ học tập tốt khiến cho người
ta luôn tự giác say mê, học tập với những mục tiêu cụ thể rõ ràng với một niềm
vui sáng tạo bất tận.
Trong rất nhiều động cơ học tập của HS, có thể khuôn tách thành hai
nhóm cơ bản:
- Các động cơ hứng thú nhận thức.
- Các động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm trong học tập.
Thông thường các động cơ hứng thú nhận thức hình thành và đến được
với người học một cách tự nhiên khi bài học có nội dung mới lạ, thú vị, bất ngờ,
sinh động và chứa nhiều những yếu tố nghịch lí, gợi sự tò mò. Động cơ này sẽ
xuất hiện thường xuyên khi GV biết tăng cường tổ chức các trò chơi nhận thức,
các cuộc thảo luận hay các biện pháp kích thích tính tự giác tích cực từ người
học.
Động cơ nhiệm vụ và trách nhiệm thì bắt buộc người học phải liên hệ với
ý thức về ý nghĩa xã hội của sự học. Giống như nghĩa vụ đối với Tổ quốc, trách
nhiệm đối với gia đình, thầy cô, uy tín danh dự trước bạn bè,…Từ đó các em
mới có ý thức kỉ luật trong học tập, nghiêm túc tự giác thực hiện mọi nhiệm vụ
học tập, những yêu cầu từ GV, phụ huynh, tôn trọng mọi chế định của xã hội và

sự điều chỉnh của dư luận.
Cả hai động cơ trên không phải là một quá trình hình thành tự phát, cũng
chẳng được đem lại từ bên ngoài mà nó hình thành và phát triển một cách tự giác
thầm lặng từ bên trong. Do vậy người GV phải tùy đặc điểm môn học, tùy đặc
điểm tâm sinh lý lứa tuổi của đối tượng để tìm ra những biện pháp thích hợp
nhằm khơi dậy hứng thú học tập và năng lực tiềm tàng nơi HS. Và, điều quan
trọng hơn là tạo mọi điều kiện để các em tự kích thích động cơ học tập của mình.
Đối với phần đông những người trẻ nhất là lứa tuổi HS, việc tạm gác những
thú vui, những trò giải trí hấp dẫn nhất thời để toàn tâm toàn sức cho việc học là
hai điều có ranh giới vô cùng mỏng manh. Nó đòi hỏi sự quyết tâm cao và một ý
chí mạnh mẽ cùng nghi lực đủ để chiến thắng chính bản thân mình. Đối với người
trưởng thành, khi mục đích cuộc đời đã rõ, ý thức trách nhiệm đối với công việc
đã được xác định và sự học đã trở thành niềm vui thì việc xác định động cơ thái độ
học tập nói chung không khó khăn như thế hệ trẻ, tuy nhiên không phải là hoàn
toàn không có. Vì suy cho cùng ai cũng có những nhu cầu riêng và từ đó có những
hứng thú khác nhau. Vấn đề là phải biết kết hợp biện chứng giữa nội sinh và ngoại
sinh, tức là hứng thú nhận thức, hứng thú trách nhiệm được đánh thức, khơi dậy
Sáng kiến kinh nghiệm

20

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

trên cơ sở những điều kiện tốt từ bên ngoài. Trong đó người thầy đóng vai trò chủ
đạo.

b/ Xây dựng kế hoạch học tập
Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ
và kế hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải
được xác định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm
chí từng môn, từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời
điểm từng giai đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình.
Vấn đề kế tiếp là phải chọn đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu
tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó. Nếu việc học dàn trải
thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ không cao. Sau khi đã xác định được
trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách hợp lí logic về cả nội dung lẫn
thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm từng phần, từng hạng mục
theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ giúp quá trình tiến
hành việc học được trôi chảy thuận lợi.
c/ Tự mình nắm vững nội dung tri thức
Đây là giai đoạn quyết định và chiếm nhiều thời gian công sức nhất. Khối
lượng kiến thức và các kĩ năng được hình thành nhanh hay chậm, nắm bắt vấn đề
nông hay sâu, rộng hay hẹp, có bề vững không,… tùy thuộc vào nội lực của
chính bản thân người học trong bước mang tính đột phá này. Nó bao gồm các
hoạt động:
- Tiếp cận thông tin: Lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe
giảng, xem truyền hình, tra cứu từ Internet, làm thí nghiệm, quan sát,… Trong
hoạt động này rất cần có sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh
và linh hoạt. Xã hội hiện đại đang khiến phần lớn HS, sinh viên rời xa sách và
chỉ quan tâm đến các phương tiện nghe nhìn khác. Đơn giản vì nó thỏa mãn trí tò
mò, giúp cho tai nghe mắt thấy tức thời. Đó là chưa kể đến sự nhiễu loạn thông
tin mà nếu không vững vàng thì giới trẻ sẽ rất dễ sa vào những cạm bẫy thiếu
lành mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhân cách, tâm hồn. Trong lúc
từ cổ chí kim, muốn làm chủ tri thức nhân loại thì con đường tốt nhất của mọi
người là đọc sách. Đọc sách là phương pháp tự học rẻ tiền và hiệu quả nhất. Khi

làm việc với sách ta phải sử dụng năng lực tổng hợp toàn diện và có sự xuất hiện
của hoạt động của trí não, một hoạt động tối ưu trong quá trình tự học. Do vậy,
rèn luyện thói quen đọc sách là một công việc không thể tách rời trong yêu cầu
tự học. Ngoài việc tiếp nhận tri thức còn phải biết đối thoại, gợi mở, thắc mắc
hay đề xuất những vấn đề cần lưu ý sau khi đọc sách, hoặc chí ít là học cách viết,
Sáng kiến kinh nghiệm

21

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

lối diễn đạt từ những cuốn sách hay. Đó là cách đọc sáng tạo. Khác với sự giải trí
đơn giản hay cảm nhận thông thường.
- Xử lí thông tin: Việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ
diễn ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá
trình này có thể được tiến hành thông qua việc phân tích, đánh giá, tóm lược,
tổng hợp, so sánh,…
- Vận dụng tri thức, thông tin: Trong việc vận dụng thông tin tri thức khoa
học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các
tình huống, viết bài thu hoạch, báo cáo khoa học, tổng thuật… HS thường gặp
rất nhiều khó khăn. Có lúc tìm được một khối lượng lớn tư liệu nhưng việc tập
hợp phân loại nội dung để kiến giải một vấn đề lại không thực hiện được. Trong
trường hợp này cần khoanh vùng vấn đề trong một giới hạn đừng quá rộng. Chỉ
cần tập trung đào sâu một vấn đề nào đó nhằm phát hiện ra cái mới có giá trị
thực tiễn là đáp ứng yêu cầu. Trong khâu này việc lựa chọn và thay đổi hình thức

tư duy để tìm ra cách thức tối ưu nhất cho đối tượng nghiên cứu cũng rất cần
thiết.
- Trao đổi, phổ biến thông tin: Việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin
tri thức thông qua các hình thức: thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là công
việc cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức. Hoạt động này giúp người học có
thể hình thành và phát triển kĩ năng trình bày (bằng lời nói hay văn bản) cho
người học. Giúp người học chủ động, tự tin trong giao tiếp ứng xử, phát triển
năng lực hợp tác và làm việc nhóm tốt.
d/ Tự kiểm tra đánh giá kết quả học tập:
Việc nhìn nhận kết quả học tập được thực hiện bằng nhiều hình thức:
Dùng các thang đo mức độ đáp ứng yêu cầu của GV, bản thân tự đánh giá, sự
đánh giá nhận xét của tập thể thông qua thảo luận, tự đối chiếu so sánh với mục
tiêu đặt ra ban đầu,… Tất cả đều mang một ý nghĩa tích cực, cần được quan tâm
thường xuyên. Thông qua nó người học tự đối thoại để thẩm định mình, hiểu
được cái gì làm được, điều gì chưa thỏa mãn nhu cầu học tập nghiên cứu để từ
đó có hướng khắc phục hay phát huy. (Hoặc HS có thể làm việc cộng tác nhóm
nhỏ, tự trao đổi kiểm tra đánh giá lẫn nhau).
Vấn đề tự học rõ ràng không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập có hiệu
quả nhất thiết HS phải chủ động tự giác học tập bất cứ lúc nào có thể bằng chính
nội lực của bản thân. Vì nội lực mới chính là nhân tố quyết định cho sự phát
triển. Ngoài ra, rất cần tới vai trò của người thầy với tư cách là ngoại lực trong
việc trang bị cho HS một hệ thống tri thức, kĩ năng, thái độ cùng với phương

Sáng kiến kinh nghiệm

22

Năm học 2014 - 2015



Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

pháp tự học cụ thể, khoa học. Nhờ đó hoạt động tự học của HS mới đi vào chiều
sâu thực chất.
2.3.5. Dạy phương pháp tự học cho học sinh.
Ngoài những nội dung và phương pháp chung được trình bày ở trên mỗi
môn học, mỗi đối tượng đều có những đặc thù riêng. Và với GV cũng vậy, cũng
với những phương pháp giống nhau nhưng cách sử dụng của mỗi người ở những
thời điểm cũng có sự khác nhau. Do vậy, việc tìm ra những cách thức dạy tự học
cụ thể cho từng lĩnh vực là công việc rất có ý nghĩa. Tâm lý chung với đối tượng
HS THPT chỉ chú trọng các môn học theo khối thi đại học của mình nên nếu HS
không thi đại học khối A, B việc học môn Hóa học một phần do không thuộc sở
trường, một phần quỹ thời gian ngày càng eo hẹp, học tất cả các môn như nhau
sẽ chiếm nhiều thời gian ảnh hưởng đến kết quả thi đại học. Những HS thi khối
A, B có môn Hóa học là môn chính thì lại có tâm lý đua nhau đi học thêm để
nhồi nhét kiến thức, miễn là yên tâm sẽ có đủ kiến thức, kỹ năng làm tốt 50 câu
trắc nghiệm trong thời gian 90 phút là được. Với tình hình thực tế như vậy, việc
xác định các phương pháp dạy cho HS tự học môn Hóa học càng phải được quan
tâm nhiều hơn.
Dạy phương pháp tự học môn Hóa học – là môn khoa học tự nhiên cho
HS đã được định hình từ lâu bằng những yêu cầu cụ thể rõ ràng như thực hành
bài tập, vẽ sơ đồ, viết phương trình phản ứng, nêu hiện tượng thí nghiệm,…Việc
kiểm tra HS có thực hiện yêu cầu học tập mà GV giao hay không cũng vì thế mà
dễ xác định và đỡ mất thời gian hơn. Tuy nhiên, để mọi đối tượng HS cùng tham
gia việc tự học môn Hóa học không hề dễ dàng. Từ đặc thù của môn Hóa học,
qua nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học và thực tế giảng dạy nhiều
năm tôi đã rút ra bốn vấn đề cốt lõi có thể áp dụng trong quá trình dạy tự học cho
HS. Đó là:

a/ Dạy cách lập kế hoạch học tập
Trên cơ sở đề cương môn học, vào đầu mỗi chương GV cần hướng dẫn
HS lập kế hoạch học tập sao cho kế hoạch đó phải ở trong tầm với của mình, phù
hợp với điều kiện của mình. Tất nhiên có thể điều chỉnh khi điều kiện thay đổi.
Quán triệt để HS hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng trên những mục tiêu
cụ thể và hoàn toàn phấn đấu thực hiện được. Trong đó có sự phân biệt rõ việc
chính việc phụ, việc làm ngay và việc làm sau. Có như thế mới từng bước góp
nhặt tri thức tích lũy kết quả học tập một cách bền vững. Việc sử dụng và tận
dụng tốt quĩ thời gian cũng cần được đặt ra để không phải bị động trước khối
lượng kiến thức các môn học cũng như áp lực thi cử, áp lực học vì điểm số.
b/ Dạy cách nghe giảng và ghi chép theo tinh thần tự học.
Sáng kiến kinh nghiệm

23

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

Nghe giảng và ghi chép là những kĩ năng mà ai cũng phải sử dụng trong
quá trình học tập. Trình độ nghe và ghi chép của người học không giống nhau ở
những môn học khác nhau. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập. Tuy
nhiên đây là vấn đề mà xưa nay chưa có ai nghiên cứu. Mỗi người đều phải tự
mình rèn luyện thói quen ghi chép để có thể có được những thông tin cần thiết về
môn học. Điều quan trọng trước tiên là GV cần truyền đạt cho HS những nguyên
tắc chính của hoạt động nghe – ghi chép. Với môn Hóa học có hai nhóm kiến
thức là: các chương lý thuyết cơ bản thì khó hiểu, trừu tượng còn các chương lý

thuyết cụ thể về nguyên tố, hợp chất thì dễ hiểu hơn nhưng phải ghi nhớ rất
nhiều công thức hóa học, tên chất, tính chất, phản ứng xảy ra giữa các chất, điều
kiện của mỗi một phản ứng lại khác nhau…,việc vừa chú ý theo dõi để ghi nhận
thông tin vừa mong muốn ghi chép thật đầy đủ khiến đôi lúc trở thành một thách
đố lớn. Các em thường mang lối học thụ động, quen tách việc nghe và ghi chép
ra khỏi nhau, thậm chí nhiều HS chỉ chờ GV viết xong các phản ứng hay chữa
xong bài tập ở trên bảng mới có thể ghi chép được nội dung bài học, nếu ngược
lại thì đành bỏ trống vở khiến tâm lý bị ức chế, ảnh hưởng đến quá trình tiếp
nhận kiến thức. Thực tế đó đòi hỏi người học phải tập trung tư tưởng cao độ để
có khả năng lĩnh hội vấn đề một cách khoa học nhất. Phải rèn luyện để có khả
năng vừa nghe giảng vừa ghi chép, huy động vốn từ, sử dụng tốc độ ghi chép
nhanh bằng các hình thức viết tắt, gạch chân, tóm lược bằng sơ đồ hình vẽ những
ý chính, các luận điểm quan trọng mà GV nhấn mạnh, lặp lại nhiều lần là điều vô
cùng cần thiết. Ngoài ra, trong quá trình học tập trên lớp, nếu có vấn đề nào
không hiểu cần đánh dấu để hỏi ngay sau khi GV ngừng giảng nhằm đào sâu
kiến thức và tiết kiệm thời gian. Rất tiếc, trên thực tế đây là điểm yếu mà phần
lớn HS không quan tâm rèn luyện để có được.
Muốn tạo điều kiện cho HS nghe giảng và ghi chép tốt, GV cần lưu ý:
- Nội dung bài giảng phải mới mẻ, thiết thực, cần thiết có thể tạo ra những
tình huống giả định yêu cầu HS suy nghĩ phản biện.
- Các câu hỏi, vấn đề đặt ra trong giờ giảng phải có sự chọn lọc kĩ lưỡng,
tập trung vào trọng tâm bài học như một cách phát tín hiệu cho HS xác định nội
dung chính.
Đưa vào bài giảng những tình huống lý thú, những mẩu chuyện sinh
động, những hiện tượng lấy từ thực tế có liên quan trực tiếp đến đời sống để gây
sự chú ý cũng như tạo cảm giác hứng thú cho người học.
- Sau hoặc trong khi giảng bài có thể yêu cầu HS tự đặt ra những câu hỏi,
tình huống sát với nội dung bài học để thay đổi không khí, tăng cường sự chú ý
của cả lớp.
Sáng kiến kinh nghiệm


24

Năm học 2014 - 2015


Giáo viên: Trương Thị Hồng Chiên

Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy

- Sự truyền cảm, mạch lạc trong lời giảng cũng là điều có ý nghĩa thu hút
sự chú ý của người học.
Tất cả những công việc này muốn thực hiện tốt phải có sự phối hợp nhịp
nhàng ăn ý của cả thầy và trò. Trong đó, thầy đóng vai trò chủ đạo trong việc
hướng dẫn tổ chức còn trò với tư cách là chủ thể tích cực chủ động, sáng tạo cả
trong lĩnh hội tri thức lẫn rèn luyện kĩ năng và bộc lộ quan điểm, thái độ.
c/ Dạy cách học bài
Vấn đề mấu chốt theo quan điểm của tôi chính là dạy cách học bài. GV
cần giới thiệu và hướng dẫn cho HS tự học theo mô hình các nấc thang nhận
thức của Bloom. Tức là học cách phân tích, tổng hợp, học vận dụng tri thức vào
từng tình huống thực tiễn, học nhận xét đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến
thức,… Bên cạnh đó còn phải rèn luyện năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng,
tư duy sáng tạo để tìm ra những hướng tiếp cận mới các vấn đề khoa học.
Việc đưa ra các tình huống, vấn đề gắn với thực tiễn đời sống xã hội là ưu
thế của môn Hóa học. GV cần cho những tình huống sau mỗi bài/ chương/ mục
và yêu cầu HS chuẩn bị trước. Sau đó tùy tình hình để cho từng cá nhân hay từng
nhóm (cả lớp) thảo luận, giải quyết.
Một trong những hình thức giúp HS làm việc nhóm tốt nhất là tạo cơ hội
cho các em diễn ngôn trực tiếp. Từ cách lấy dẫn chứng để chứng minh một vấn đề,
giải thích, phản biện, nêu quan điểm ý tưởng hay thuyết trình, giới thiệu một vấn

đề khoa học hoặc đơn giản chỉ là sự bày tỏ chính kiến trước một hiện tượng.
Thông qua đó người dạy cũng có thể nắm được mức độ nhận thức của HS để có sự
bổ sung điều chỉnh hợp lí, kịp thời. Đảm bảo chất lượng giờ giảng luôn được cải
thiện theo hướng tích cực.
d/ Dạy cách tự kiểm tra, đánh giá.
Trước hết là dạy HS cách làm bài kiểm tra, khi làm phần trắc nghiệm phải
rèn kỹ năng đọc đề, đọc yêu cầu của đề trước rồi đến nhìn qua đáp án, sau đó
mới đọc nội dung câu hỏi để đỡ tốn nhiều thời gian đọc. Chú ý vận dụng các
phương pháp giải nhanh. Làm hết lý thuyết rồi mới làm đến bài tính toán, làm
hết bài dễ, ngắn rồi mới đến bài dài, khó. Đặc biệt là phải chuẩn thời gian quy
định. Sau khi làm xong thì đối chiếu với đáp án, tự chấm và ghi số câu đúng ứng
với số điểm. Xem lại những câu sai, chưa làm được, tìm nguyên nhân và rút kinh
nghiệm, tìm hướng giải khác. Khi làm bài tự luận thì phải đọc kỹ đề bài, chú ý
đến kỹ năng trình bày, lý luận chặt chẽ, xét hết các trường hợp có thể xảy ra, nêu
rõ hiện tượng thí nghiệm, viết đầy đủ các phương trình phản ứng có thể xảy ra,
đặc biệt chú ý cân bằng phương trình phản ứng. Làm xong đối chiếu đáp án, tìm

Sáng kiến kinh nghiệm

25

Năm học 2014 - 2015


×