Những giải pháp quản lý để nâng cao kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi
những môn xã hội ở trường THPT Ngô Thì Nhậm.
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục và đào tạo nước ta đã và đang từng bước phát triển vững chắc, tạo
nền tảng cho việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Trong
đường lối và chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, Đảng ta đã coi “giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu” và khẳng định: muốn tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thắng lợi, phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn
lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững. Đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay, “nguồn lực con người” là vô cùng quan trọng. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc
dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ là một trong ba khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội giai đoạn 2011-2020. Nhà nước đã có nhiều chính sách để đào tạo và nâng cao
nguồn nhân lực. Ngân sách Nhà nước dành riêng cho giáo dục được chú trọng để
đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và GV, xây dựng, cải tạo và nâng cấp hệ
thống trường lớp, trang thiết bị, đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa và
phương pháp dạy học… Trong đó, hệ thống trường chuyên, trường THPT chất
lượng cao được đầu tư xây dựng nhằm mục tiêu bồi dưỡng, đào tạo, phát huy năng
lực đặc biệt của mỗi học sinh. Trong chương trình kế hoạch đào tạo của mô hình
trường THPTchất lượng cao, bồi dưỡng HSG luôn được coi là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm.
Ngày 24/6/2010, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết
định và phê duyệt “Đề án phát triển hệ thống trường THPT chuyên giai đoạn 2010
– 2020”, trong đó nhấn mạnh đến công tác đào tạo, bồi dưỡng HSG và sinh viên
tài năng. Nghị quyết số 07-NQ/HĐND của Hội đồng nhân ân ngày 20/7/2013 về
việc phê duyệt đề án 04 /ĐA-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình trong đó
có nhấn mạnh phát triển một số cơ sở giáo dục đào tạo chất lượng cao… Như vậy,
hoạt động bồi dưỡng HSG là phù hợp với mục tiêu phát triển chung của ngành giáo
dục nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước.
1
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng về công tác bồi dưỡng HSG ở trường THPT Ngô Thì Nhậm
Trường THPT Ngô Thì Nhậm được thành lập theo Quyết định số: 2242/QĐUBND ngày 24/10/2006 của UBND Tỉnh Ninh Bình về việc chuyển đổi loại hình
trường THPT Bán công Thị xã Tam Điệp thành trường THPT Ngô Thì Nhậm. Do
mới chuyển đổi loại hình các điều kiện dạy và học của nhà trường gặp rất nhiều
khó khăn. Đặc biệt là chất lượng đầu vào, mặc dù nhà trường đã được tự tổ chức
thi tuyển đầu vào tuy nhiên với định kiến của người dân và chưa có niềm tin của
nhân dân vì vậy hầu như số học sinh nộp đơn thi vào trường đều có học lực Trung
bình và Trung bình khá.
1.1 Kết quả thi HSG cấp tỉnh của nhà trường trong một số năm gần đây:
Năm
học
Môn
2009-2010
Nhất
Nhì
Ba
2010-2011
KK
Nhất
Nhì
Ba
2011-2012
KK
Nhất
Nhì
Ba
2012-2013
KK
Nhất
Nhì
Ba
KK
Toán
0
Lí
1
1
Hóa
1
1
Sinh
1
1
2
Sử
1
2
1
1
2
1
2
2
1
2
1
1
1
3
2
1
2
1
1
Anh
Tổng
dọc
3
2
Văn
Địa
2
1
1
1
14
1
1
10
1
1
12
2
3
5
46
1
1
1
3
6
2
4
5
3
1
3
2
5
0
2
3
Bảng thống kê số giải HSG cấp tỉnh lớp 12 các môn văn hóa
từ năm 2009 đến năm 2013
Năm học
Các môn
Quy ra điểm
2009-2010
2010-2011
2011-2012
2012-2013
Tự
Xã
Tự
Xã
Tự
Tự
Xã
nhiên
hội
nhiên
hội
nhiên hội
nhiên
hội
0
17
3
12
6
27
4
Xã
18
2
Bảng so sánh chất lượng học sinh giỏi cấp tỉnh giữa các môn Tự nhiên và Xã
hội hội từ năm 2009 đến năm 2013
Điểm
30
24
18
Xã hội
12
6
Tự nhiên
0
2009-2010
2010-2011
2011-2012
2012-2013
Năm học
học
Đồ thị so sánh chất lượng học sinh giỏi cấp tỉnh lớp 12 giữa các môn Tự
nhiên và Xã hội từ năm 2009 đến năm 2013
1.2 Đánh giá về kết quả HSG cấp tỉnh một số năm gần đây:
Dựa vào đồ thị trên cho thấy giải HSG cấp tỉnh các môn tự nhiên kém rất
nhiều cả vế số lượng giải lẫn chất lượng giải so với xã hội. Qua nghiên cứu thực
tiễn và lí luận tôi cho rằng lí do dẫn đến thực trạng trên là như sau:
- Chất lượng tuyển sinh lớp 10.
Điểm trung bình của mỗi môn thi trên một học sinh nằm trong khoảng từ 5-6
điểm ở mức trung bình. Số lượng học sinh tạo nguồn của chất lượng mũi nhọn (có
tổng điểm trên 40 điểm và đạt điểm 9 của mỗi môn) là quá ít. Những học sinh nằm
trong các đội tuyển HSG THCS các môn Toán, Văn, Lí, Hóa, Sinh 1-2 học sinh
trong các đội dự tuyển thuộc các môn Sử, Địa, Anh.
3
Điểm bình
quân tổng
số học sinh
tuyển
Toán Văn
2010-2011 270
27.8(5.6)
0
0
2011-2012 210
29.5(5.9)
1
1
2012-2013 200
32.4(6.5)
1
0
2013-2014 178
31.4(6.3)
0
0
Năm học
Tổng
số HS
tuyển
vào
Tổng điểm
Điểm ≥ 9
≥ 40
Anh Lí
Hóa
SL
%
3
3
1.1
1
0.5
1
11
5.5
11
3
1.7
1
Bảng phân tích chất lượng tuyển sinh lớp 10 từ năm 2010 đến năm 2014
- Đặc thù bộ môn các môn khoa học tự nhiên và các môn khoa học xã hội.
Với các môn khoa học tự nhiên: Sự logic giữa kiến thức giữa các phần trong
một cấp học và giữa các cấp học là rất chặt chẽ. Đòi hỏi học sinh phải nắm chắc
kiến thức cấp dưới thì mới lĩnh hội dước kiến thức mới ở cấp trên. Cứ cho rằng
người thầy ở cấp THPT bằng phương pháp sư phạm của mình làm cho học sinh có
lực học trung bình hoặc TB khá ở cấp THCS bắt đầu hứng thú với môn học tự
nhiên khi học lớp 10, để học giỏi được môn học này học sinh đó phải tự ôn lại rất
nhiều kiến thức bị hổng ở cấp dưới. Điều này khó khăn hơn rất nhiều so với các
môn xã hội. Hơn nữa với các bài toán trong đề thi học sinh giỏi đòi hỏi học sinh
phải có trình độ tư duy cao hay nói cách khác là phải có tố chất bẩm sinh về trí tuệ
để phát hiện mấu chốt về cách giải của bài toán. Hay như ngôn ngữ của giáo viên
thường hay nói với nhau đó là HS đó phải có “tầm”. Mà với mức độ đề thi HSG thì
điểm mấu chốt của các bài toán không bài nào giống bài nào, không có dạng cụ
thể. Cho dù một giáo viên có giỏi đến mấy và nhiệt tình bao nhiêu đi chăng nữa
cũng không bao giờ khái quát hết được cho học sinh. Do vậy nếu HS không có
“tầm” thì cho dù có cần cù chăm chỉ thế nào chăng nữa thi cũng chỉ đạt được một
4
“ngưỡng” nhất định. Đó chính là những sự khác biệt cơ bản giữa môn tự nhiên và
môn xã hội dẫn tới nguyên nhân tại sao việc bồi dưỡng HSG những môn xã hội có
giải cao thuận lợi hơn những môn tự nhiên.
- Đội ngũ giáo viên những môn xã hội có kinh nghiệm và có trình độ chuyên
môn vững vàng.
Từ khi chuyển đổi loại hình tự Bán công sang công lập trường được phép
tuyển dụng thêm giáo viên biên chế theo quy định. Đa phần là giáo viên chuyển
công tác ở đơn vị khác chuyển về, số còn lại là tuyển mới đối tượng là sinh viên
vừa tốt nghiệp ra trường. Ở các nhóm Văn, Sử , Địa đa số GV có thâm niên công
tác trên dưới 10 năm và hầu hết đạt danh hiệu GV giỏi cấp tỉnh tróng đó có cả giải
Nhất, Nhì…
Môn
Văn
Tổng số
Nhất
1
2
67
1
3
100
Anh
6
1
2
3
Toán
6
1
1
2
Lí
3
1
Hóa
3
0
Sinh
2
1
1
Bảng thống kê chất lượng đội ngũ giáo viên các môn văn hóa cơ bản
50
33
33
3
1
3
1
1
%
43
Địa
2
SL
3
Sử
7
Giáo viên giỏi cấp tỉnh
Nhì
Ba
KK
1
0
50
Mặc dù đã có những thành tích đáng kể về công tác bồi dưỡng HSG tuy
nhiên thế vẫn là chưa đủ để khẳng định niềm tin đối với phụ huynh học sinh trên
địa bàn thị xã. Bằng chững là chất lượng tuyển sinh chưa có sụ chuyển biến
nhiều.Đứng trước tình hình đó thầy và trò nhà trường luôn chăn chở đặt ra câu hỏi
đó là làm thế nào để tận dụng được thời cơ phát huy thế mạnh và khắc phục điểm
yếu để vượt qua các nguy cơ tại thời điểm hiện nay. Nguy cơ lớn nhất cuả nhà
trường chính là vấn đề thương hiệu chỉ có những bước đột phá trong chất lượng
5
dạy và học nhất là chất lượng học sinh Giỏi của nhà trường mới làm thay đổi định
kiến của người dân, khẳng định thương hiệu, tạo được niềm tin và nâng cao uy tín
đối với nhân dân trên địa bàn Thị xã. Căn cứ tình hình thực tế đội ngũ, cơ sở vật
chất và truyền thống về bồi dưỡng HSG các môn xã hội của nhà trường tôi cho
rằng nhiệm vụ tiên quyết cần phải làm bây giờ đó là làm thế nào để đưa chất
lượng HSG những môn khoa học xã hội lên một tầm cao hơn đó là: CÓ HỌC
SINH ĐẠT GIẢI HSG QUỐC GIA. Bằng việc nghiên cứu lí luận và quan sát
tình hình thực tế hiện nay của nhà trường tôi cho rằng để đạt được điều này thì vấn
đề then chốt trong thời điểm này đó là khâu quản lí của BGH đặc biệt là bộ phận
chuyên môn phải đưa ra được các giải pháp phù hợp.
Từ những lý do nêu trên, nên tôi đã chọn vấn đề nghiên cứu đó là: “Những
giải pháp quản lý để nâng cao kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi những môn xã
hội ở trường THPT Ngô Thì Nhậm”.
2. Giải pháp cũ thường làm:
Đầu năm lớp 10 BGH nhà trường giao đội tuyển HSG cho một giáo viên phụ
trách. Giáo viên phụ trách chủ động lựa chọn nhân sự ở những lớp được phân công
giảng dạy, nội dung chương trình, KH giảng dạy, phương pháp giảng dạy. Sau
mỗi học kỳ giáo viên trực tiếp phụ trách đội tuyển tự ra đề thi nộp về nhà trường,
nhà trường tổ chức kiểm tra tập chung toàn trường sau đó giao bài cho giáo viên
dạy đội tuyển đó chấm và nộp kết quả về nhà trường.
2.1 Ưu điểm:
Phát huy được tính tích cực, tự chịu trách nhiệm của cá nhân. Giáo viên chủ
động trong việc thực hiện kế hoạch.
2.2 Nhựơc điểm:
- Nhà trường không quản lí được việc thực hiện kế hoạch của giáo viên. Dẫn
đến tình trạng giáo viên không thực hiện đúng tiến độ: Lúc thì không dạy, lúc lại
dạy dồn nén ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giảng dạy, làm học sinh không tập
trung say mê, hứng thú…
6
- Nội dung chương trình mang tính chủ quan của cá nhân nên không phát huy
được sức mạnh tập thể và thế mạnh của mỗi cá nhân trong nhóm chuyên môn.
- Việc kiểm tra đánh giá thiếu tính khách quan nên rất khó trong việc phát
hiện những mặt mạnh, yếu của học sinh để khắc phục và phát huy kịp thời.
3. Giải pháp mới cải tiến:
3.1 Phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi.
Thực tế cho thấy, việc phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi là thao tác vừa khó
khăn vừa vô cùng quan trọng là công việc bắt buộc trong công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi. Bởi đây là không chỉ việc phát hiện được những học sinh có năng khiếu
thực sự, đi tìm được những “hạt giống” đang cần được “ươm mầm” mà còn là yếu
tố quyết định độ “mạnh” của đội tuyển học sinh giỏi của một nhà trường.
Để tìm được những học sinh có đủ những phẩm chất không phải là dễ dàng,
không phải một sớm một chiểu là có thể phát hiện ngay được. Bởi năng khiếu của
một học sinh không phải lúc nào cũng được biểu hiện rõ ràng ngay khi các em mới
bước vào trường hay qua những bài học đầu tiên. Mà ngược lại người dạy phải trải
qua một cuộc kiếm tìm vừa khoa học vừa tinh tế mới có thể thấy “hạt cát vàng”
đang tiềm ẩn đâu đó. Mà nhiều khi người dạy chưa để ý dẫn đến việc nhiều khi
những “hạt cát vàng” sẽ mãi không tìm thấy, như vậy đồng nghĩa với việc chúng ta
đã lãng phí những nhân tài mà không được bồi dưỡng và khẳng định mình. Chính
vì vậy, việc phát hiện và tuyển chọn đòi hỏi không chỉ là có kế hoạch mà việc thực
hiện kế hoạch đó không thể một cách qua loa, chiếu lệ, thậm chí tệ hại hơn là “làm
cho có” hay là “nhặt” vài em sao cho danh sách là điều vô cùng nguy hại … Công
việc này cần có sự “vào cuộc” của các tổ chức đoàn thể, giáo viên đặc biệt là giáo
viên dạy bộ môn bồi dưỡng, việc cùng nhau phát hiện này sẽ giúp cho việc lựa
chọn và phát hiện chính xác và tìm được đúng học sinh có năng lực và đang cần
được bồi dưỡng. Bởi dưới nhiều góc nhìn sẽ giúp cho việc tìm thấy được những
học sinh xứng đáng trong đội tuyển bồi dưỡng học sinh giỏi của từng môn học. Để
lựa chọn được đội tuyển tốt, thiết nghĩ cần tiến hành qua các bước như sau:
B1 Kiểm tra khảo sát:
7
Trên cơ sở điểm thi tuyển sinh nhà trường tư vấn để học sinh biết được thế
mạnh của mình từ đó đăng ký thi khảo sát và các khối A, C, D…Căn cứ vào kết
quả khảo sát xếp thành các lớp khối. Công tác này giúp cho nhà trường phát hiện
và phân loại được các đối tượng học sinh theo khối tự nhiên và xã hội và các học
sinh trong cùng một khối . Từ đó tạo thuận lợi cho việc thành lập các đội tuyển.
Trong việc tổ chức kiểm tra khảo sát tôi chú trọng đến các khâu sau:
- Phân công giáo viên ra đề: BGH chỉ đạo phân công cho những giáo viên có
chuyên môn và kinh nghiệm trong ôn luyện, bồi dưỡng học sinh giỏi ra đề thi khảo
sát nhằm đảm bảo cho đề thi có độ chính xác tuyệt đối và đạt được mục đích tìm
kiếm học sinh giỏi.
- Quán triệt các yêu cầu đối với đề thi: Đề thi phải phù hợp với đối tượng và
có thể phân loại được khả năng nhận thức, tư duy sáng tạo của người học. Đồng
thời các câu trong đề thi cần được phân chia theo các mức tư duy: Nhận biết –
Vận dụng – Thông hiểu. Hay nói cách khác là làm sao đề kiểm tra cần tạo ra
“khoảng trống” trong đó, tạo cơ hội cho học sinh được khai thác và khám phá, qua
đó người học bộc lộ tối đa khả năng của mình. Tức là đề thi làm sao đảm bảo được
mục đích là phát hiện, lựa chọn được những học sinh có năng khiếu cho bộ môn
yêu cầu.
- Chỉ đạo các khâu chấm bài nghiêm túc đánh giá khách quan kết quả làm bài
thi của học sinh:
Các thao tác này cần đảm bảo tính trung thực, công bằng, khách quan của
giáo viên chấm, tránh việc chấm bài đại khái, hoặc tình cảm cá nhân vào đánh giá
học sinh nói chung. Nếu làm như vậy thì việc xây dựng kế hoạch và quá trình tổ
chức thực hiện đến đây đã “phá sản” . Vì khi việc đó xảy ra đồng nghĩa với việc
người chúng ta cần tìm thi lại không thấy, chúng ta lại tập hợp một lớp học với
nhiều “tầng lớp” với nhau, hoàn toàn không hiệu quả . Khi được phân công giáo
viên chấm bài cần chú ý đến điều này là trong quá trình phát hiện học sinh giỏi,
đồng thời cần thống nhất đáp án và phân công chấm chéo các bài của học sinh.
Bước 2: Thành lập đội tuyển.
8
Sau khi đã thống nhất được kết quả và đánh giá bài thi cần được công bố
danh sách đội tuyển học sinh giỏi theo từng môn tới học sinh và toàn thể nhà
trường. Qua đó thành lập được đội tuyển học sinh giỏi của từng bộ môn.
Như vậy là đã hoàn thiện được khâu có ý nghĩa quan trọng trong công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi đó là phát hiện, tuyển chon học sinh giỏi.
Song việc phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi không phải chỉ dừng lại ở đó,
không phải lạ danh sách đó đã niêm yết, không thay đổi cho đến khi học sinh được
tham gia thi học sinh các cấp. Mà đội tuyển này có thể được sàng lọc thường xuyên
trong suốt quá trình ôn luyện sau này. Nhằm một mặt loại những học sinh có biểu
hiện hạn chế về năng lực và không theo kịp, mặt khác vừa củng cố, bổ sung số học
sinh trong đội tuyển khi phát hiện được những nhân tố mới cho bộ môn. Số học
sinh mới được phát hiện và bổ sung này không phải trải qua kì thi khảo sát lần nữa
mà chủ yếu được tuyển chọn qua sự nỗ lực của bản thân học sinh và cảm quan tinh
tế của chính các giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy ở các lớp có học viên đó.
3.2 Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng:
BGH chỉ đạo các nhóm chuyên môn căn cứ vào quy định khung chương trình
ôn luyện, hình thức và cấu trúc đề thi HSG của SGD và BGD xây dựng kế hoạch
giảng dạy của bộ môn đó cụ thể theo từng tuần, tháng, năm từ lớp 10 cho đến thời
điểm dự thi cấp tỉnh. Sau đó nhóm trưởng sẽ trực tiếp duyệt kế hoạch với Phó hiệu
trưởng phụ trách chuyên môn.
3.3 Nội dung chương trình bồi dưỡng:
Nhà trường yêu cầu mỗi nhóm chuyên môn phải biên soạn nội dung chương
trình bồi dưỡng liên thông trong suốt 3 năm liền (từ lớp10 đến lớp 12). Chương
trình phải đáp ứng một số yêu cầu sau:
- Biên soạn chương trình, nội dung bồi dưỡng rõ ràng, cụ thể, chi tiết cho từng
môn, về từng mảng kiến thức rèn luyện các kỹ năng theo số tiết quy định nhất định
và nhất thiết phải bồi dưỡng theo quy trình từ thấp đến cao, từ dễ đến khó để các
em học sinh bắt nhịp dần.
- Xác định rõ trọng tâm kiến thức giảng dạy cho từng môn để tránh trùng lặp.
9
- GV Sưu tầm các bộ đề thi các cấp trong tỉnh nhà và các tỉnh khác thông qua
công nghệ thông tin nhằm giúp các em tiếp xúc làm quen với các dạng đề , luôn
tìm đọc, tham khảo các tài liệu hay để hướng cho học sinh.
Ngoài ra yêu cầu giáo viên hướng dẫn học sinh các tài liệu tin cậy, phù hợp
với trình độ của các em để tự rèn luyện thêm ở nhà. Đồng thời cung cấp hoặc giới
thiệu các địa chỉ trên mạng để học sinh có thể tự học, tự nghiên cứu, bổ sung kiến
thức.
3.4 Phân công bồi dưỡng:
Phân công giảng dạy là việc làm được cụ thể trong cuộc trao đổi chuyên môn
này. Khi đã thống nhất được nội dung kiến thức, kĩ năng ôn luyện. BGH phân công
giáo viên chịu trách nhiệm chính bồi dưỡng đội tuyển. Ở khâu này cần lựa chọn tín
nhiệm một giáo viên có chuyên môn vững vàng và có nhiều kinh nghiệm nhất.
Sau. Và ngay sau đó chỉ đạo nhóm chuyên môn họp và thống nhất phân công
nhiệm vụ bồi dưỡng trong nhóm trên cơ sở nguyên tắc sau:
- Giáo viên nào có “sở trường ” về phần nào thì sẽ ôn luyện về mảng đó cho
học sinh.
- Cần đảm bảo cân đối về nội dung công việc với từng giáo viên tham gia dạy,
tránh tình trạng có giáo viên thì dạy ít, giáo viên lại quá tải về công việc hoặc có
người thì dạy toàn phần có ưu thế có người lại toàn phần khó…. Vì thế cân đối,
đồng đều là chúng ta cần tính đến trong phân công giảng dạy cho giáo viên bồi
dưỡng học sinh giỏi.
3.5. Đổi mới phương pháp dạy học:
- Tổ chức tập huấn, phổ biến các phương pháp dạy học tích cực theo hướng
tạo hứng thú phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Đặt tiêu chí hứng thú
của học sinh lên hàng đầu trong việc đánh giá giờ dạy của giáo viên thông qua các
tiết dự giờ báo trước và không báo trước của BGH. Chiều thứ 2 hàng tuần lần lượt
mỗi nhóm chuyên môn vận dụng các phương pháp dạy học tích cực đã được tập
huấn vào tiết thao giảng sau đó tổ chức rút kinh nghiệm. Qua đó tạo thành phong
trào và GV chủ động, tích cực hơn trong đổi mới phương pháp dạy học.
10
Một số phương pháp dạy học tích cực hiện đại:
- Phương pháp dạy học theo nhóm.
- Phương pháp dạy học nêu vấn đề.
- Phương pháp dạy học dự án
Ví dụ: Dự án “ Tìm hiểu địa lí tỉnh nơi các em đang sống” ; “Tìm hiểu văn
hóa dân gian địa phương”; “Tìm hiểu về phòng tuyến Tam Điệp-Biện Sơn’…
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Ví dụ: trường hợp “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”
- Phương pháp thiết kế bài tập nhận thức.
Đặc biệt là phương pháp : WebQuest(Khám phá trên mạng) trên cơ sở ứng
dụng CNTT và Internet. Đây là 1 phương pháp dạy học trong đó HS tự lực thực
hiện trong nhóm 1 nhiệm vụ về 1 chủ đề phức hợp, gắn với tình huống thực tiễn.
Những thông tin cơ bản về chủ đề được truy cập từ những trang liên kết do GV
chọn lọc từ trước. Việc học tập theo định hướng nghiên cứu và khám phá, kết quả
học tập được học sinh trình bày và đánh giá.
- Mua sắm trang thiết bị, đồ dùng dạy học, đổi mới phương pháp theo hướng
hiện đại. Nhà trường trang bị 4 phòng máy chiếu để giảng dạy giáo án điện tử, 1
máy chiếu vật thể để giáo viên dạy học theo nhóm, phương pháp đóng vai... Phòng
tổ chuyên môn, phòng tin học được nối mạng internet để giáo viên và học sinh
khai thác, sử dụng. Chính nhờ được trang bị phương tiện đầy đủ như thế, giáo viên
rất tích cực dùng phòng máy chiếu sử dụng công nghệ thông tin giảng dạy giáo án
điện tử. Qua dự giờ thăm lớp và điều tra bằng phiếu cho thấy học sinh rất hứng thú
với giờ học có sử dụng công nghệ thông tin. Những hình ảnh, những thước phim
được trình chiếu giúp chúng em nhớ lâu hơn nhân vật, sự kiện lịch sử.
Như vậy, việc đầu tư mua sắm trang thiết bị, đồ dùng dạy học, khai thác sử
dụng công nghệ thông tin giảng dạy giáo án điện tử, đổi mới phương pháp giảng
dạy theo hướng hiện đại là 1 trong những giải pháp quan trọng nhất nhằm nâng cao
chất lượng học sinh giỏi ở trường THPT Ngô Thì Nhậm.
3.6. Tổ chức các hoạt động phụ trợ cho việc dạy và học các môn xã hội:
11
Hiện nay, sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học nói chung, dạy học
các môn xã hội nói riêng là một nguyên tắc dạy học đã được nhiều giáo viên coi
là “nguyên tắc vàng”. Việc sử dụng nguồn tư liệu, hiện vật quan sát ngoài thực tế
khi sử dụng trong dạy học các môn khoa học xã hội không chỉ là phương tiện trực
quan giảng dạy có giá trị, mà còn là một nguồn kiến thức phong phú cung cấp
cho học sinh. Chính vì vậy nhà trường đã có kế hoạch chỉ đạo:
- Tổ chức cho học sinh được đi tham quan học tập tại các di tích lịch sử, danh
lam thắng cảnh của địa phương, các công trình kiến trúc, hang động, nhà bảo tàng,
nhà truyền thống, các làng nghề ở địa phương... nhằm củng cố, khắc sâu hơn kiến
thức đã học. Các năm trở lại đây, hoạt động ngoại khóa tham quan bảo tàng Quân
đoàn 1 và bảo tàng Hồ Chí Minh là hoạt động thường niên được tổ chức vào dịp
22.12 của nhóm Sử Trường THPT Ngô Thì Nhậm.
- Liên hệ với phòng văn hóa thị xã trình chiếu các phim tài liệu, phim truyện
lịch sử như “Cuộc chiến 10.000 ngày”, “Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông”, “ Đừng
đốt”, “ Những người viết huyền thoại” , “Miền cỏ cháy”…
3.7 Tăng cường chỉ đạo việc lồng ghép giáo dục địa phương vào các bài
giảng:
Khi giảng dạy các nội dung này, giáo viên cung cấp cho học sinh những kiến
thức về địa lý, kinh tế, văn hoá, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, văn học dân
gian, danh nhân địa phương... Trong quá trình dạy, giáo viên cần gắn các nét đặc
thù của địa phương xã, huyện nơi các em sinh sống, nhất là các di tích lịch sử, di
tích cách mạng, công trình kiến trúc, các lễ hội truyền thống ...vào bài giảng một
cách cụ thể, sinh động thông qua các câu chuyện, các bài báo trên các ấn phẩm địa
phương để bài giảng sinh động, tránh khô cứng, máy móc.
Do ưu thế của giáo dục địa phương là những địa điểm, sự kiện, rất quen
thuộc, đễ tiếp xúc ngay tại địa phương. Ở một mức độ nào đó, có khi học sinh đã
biết, đã nghe, đã nhìn thấy. Vì vậy, giáo viên phải tận dụng tối đa các hình thức
dạy học, phát huy hết khả năng của học sinh đối với việc thu nhận kiến thức thông
qua các kênh khác nhau như: hỏi người lớn trong gia đình, sưu tầm tài liệu đã được
in ấn trên địa bàn qua sách báo, tranh ảnh, điền dã tại các địa phương gần nơi sinh
12
sống, gặp các nhân chứng lịch sử, gặp gỡ các nghệ nhân, danh nhân địa phương,
trao đổi trong nhóm, thảo luận cả lớp, tổ chức cho các em thực hiện một dự án nhỏ
về nội dung bài học... tránh việc các em phải ngồi nghe các thông tin cứng nhắc,
khô khan và thiếu tính hấp dẫn, cụ thể, sinh động là điều mỗi giáo viên đều có thể
làm được.
Như vậy, việc lồng ghép giáo dục địa phương trong các nhà trường có tác
dụng trực tiếp và quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học
xã hội. Nó làm cho bài giảng sinh động hơn, có sức truyền cảm, gây thêm hứng thú
cho học sinh, giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn các khái niệm, các hiện tượng, ác sụ
kiện trong bài học. Tri thức giáo dục địa phương còn có ý nghĩa sâu sắc trong việc
giáo dục cho người học lòng tự hào chân chính về những truyền thống tốt đẹp của
quê hương, địa phương nơi cư trú, khơi dậy tình yêu quê hương xứ sở của các em.
3.8 Kiểm tra đánh giá:
- Để đề kiểm tra được khách quan nhà trường yêu câu mỗi giáo viên của các
nhóm chuyên môn xây dựng ngân hàng câu hỏi đề thi ở các mức độ khác nhau đối
với từng chương, từng chuyên đề.
- Sau mỗi học kỳ nhà trường tổ chức kiểm tra khảo sát, lựa chọn một giáo
viên không phải là GV chịu trách chính đội tuyển năm đó căn cứ vào kế hoạch và
trên cơ sở ngân hàng đề thi của nhà trường để ra đề. Như vậy đề thi rất khách quan
và đảm bảo bí mật là tiền đề cho việc đánh giá chính xác năng lực học sinh.
- Tổ chức các khâu chấm thi đúng quy trình đảm bảo khách quan như: mã hóa
phách bài thi, GV ra đề chấm chi tiết đúng theo biểu điểm. Tuy nhiên nhà trường
yêu cầu GV không ghi điểm vào bài thi.
- Bài thi cho học sinh tự chấm chéo bài của nhau theo từng cặp: Hoạt động
này đem lại hiệu quả rất tích cực. Bởi trong qúa trình đọc bài của bạn, bản thân
từng em học sinh có thể vừa sửa lỗi cho bạn vừa tự rút kinh nghiệm cho mình. Hơn
thế nữa các em lại có thể học tập ở bạn của mình cách trình bày, phân tích, lời
giải…Và một điều quan trọng là các em được đánh giá người khác điều này tạo
động cơ, thúc đẩy các em tự học vươn lên để khẳng định vị trí của mình trong đội
tuyển. Trong hoạt động này GV đóng vai trò là trọng tài ngồi quan sát . Khi tranh
13
luận học sinh sẽ bộc lộ cái tôi của mình điều này rất quan trọng trong khâu lựa
chọn đội tuyển chính thức:
+ Thứ nhất các em sẽ bộc lộ bản lĩnh của mình. Đối với những kỳ thi cấp
tỉnh chở lên thì bản lĩnh “ thi đấu” cực kỳ quan trọng Kinh nghiệm cho thấy có
những học sinh mặc dù kiến thức vững hơn nhưng nếu bản lĩnh “ thi đấu” kém thì
kết quả cũng không cao được điều này thể hiện rõ giưa học sinh nam và học sinh
nữ.
+ Thứ 2 là GV có thể đánh giá mức độ “nắm chắc” kiến thức của học sinh.
Chỉ có những học sinh nắm chắc kiến thức mới quyết đoán trong đánh giá.
- Giáo viên nhận xét, kết luận kiến thức: Trong qúa trình chấm bài cho bạn,
học sinh có thể xảy ra tranh luận “nảy lửa” thậm chí có cả hiện tượng “cãi thầy”
về những đơn vị kiến thức chưa được giải đáp và chưa đi đến thống nhất. Lúc này
cần sự vào “vào cuộc ” của giáo viên với bản lĩnh và trình độ chuyên môn vững
vàng với cách lí giải thuyết phục. Điều này rất tốt cho thấy rằng học sinh đã thực
sự kiến thức sâu, phong phú mà chỉ nhờ vào qúa trình tìm tòi học sinh mới có thể
có được.
- Khâu cuối cùng đó là sử lí kết quả:
+ Kết quả kiểm tra của các em được theo dõi và phân tích trong 3 năm. Qua
mỗi đợt kiểm tra nhà trường yêu cầu giáo viên phân tích nguyên nhân đối với cả 2
đối tượng: học sinh tiến bộ và học sinh giả sút để kịp thời rút kinh nghiệm. Nếu là
dấu hiệu tích cực thì điều đó khẳng định cách làm và hướng đi của chúng ta là
đúng tiếp tục phát huy và ngược lại. Những mặt hạn chế đặc biệt là về phía học
sinh như khó khăn về điều kiện kinh tế hoặc các điều kiện khác để động viên kịp
thời.
+ Kết quả thi được đánh giá so sánh giữa các học sinh, giữa các đội tuyển và
là cơ sở để xếp giải trao thưởng qua đó góp phần động viên, thúc đẩy cả giáo viên
và học sinh nỗ lực cố gắng hơn.
+ Căn cứ kết quả kiểm tra GV phát hiện những học sinh có tố chất đặc biệt từ
đó có kế hoạch bồi dưỡng riêng : thay đổi cả về phương pháp bồi dưỡng và nội
dung chương trình, đề thi ở mức độ cao hơn.
14
3.9 Cơ chế khuyến khích động viên:
Theo khoa học quản lí thì trong tất cả các phương pháp quản lí thì nhà quản lí
cần chú trọng đến phương pháp kinh tế nó tác động vào nhu cầu cơ bản không thể
thiếu của con người. Ý thức được điều đó nên ngoài việc hỗ trợ giáo viên 9000.000
trên một đội tuyển con số mà số ít nhà trường trong và ngoài tỉnh có thể đạt được.
Nhà trường thành lập quỹ khuyến học khuyến tài với sự tham gia đóng góp của các
bậc phụ huynh toàn trường và cán bộ giáo viên nhà trường nhằm động viên khuyến
khích những giáo viên và học sinh có thành tích cao trong dạy và học. Bên cạnh
việc đổi mới về các khâu quản lí và dạy học đã nói ở trên thì thông qua việc trao
tặng giải thưởng, tạo các cơ chế khuyến khích giáo viên và học sinh cũng rất cần
thiết.
4. Hiệu quả kinh tế và xã hội dự kiến đạt được:
4.1 Hiệu quả xã hội:
Trong năm học 2013-2014 cùng với những cải tiến trong giải pháp quản lí bồi
dưỡng học sinh giỏi và sự nỗ lực cố gắng của thầy và trò nhà trường chất lượng
HSG của nhà trường đã có bước đột phá:
- Lần đầu tiên trong lịch sử nhà trường có học sinh đạt giải Nhì trong kỳ thi
HSG cấp Quốc gia môn Lịch sử với điểm bài thi đúng thứ nhất toàn đội và đây là
học sinh duy nhất còn lại trong 12 học sinh trong các đội dự tuyển thuộc các
trường không chuyên trong toàn tỉnh sau vòng thi chọn đội tuyển chính thức. Với
kết quả đó thầy và trò nhà trường đã được vinh danh tại Lễ vinh danh các học sinh
đạt giải cao môn lịch sử trong kỳ thi chọn HSG Quốc gia năm 2014 do Hội Khoa
học lịch sử phối hợp với Quỹ phát triển sử học tổ chức vào ngày 23/4/2014 tại Văn
Miếu Quốc Tử Giám- Hà Nội .
- Đây cũng là lần đầu tiên đội tuyển Địa lí của nhà trường có 1 học sinh lọt
vào đội dự tuyển quốc gia sau khi dự thi kỳ thi HSG vòng 1 và đạt giải Nhì. Vì em
chỉ đứng thứ 7 trên 12 học sinh trong vòng thi chọn đội tuyển chính thức(6 học
sinh) nên em không được chọn vào đội tuyển chính thức tham dự kỳ thi cấp Quốc
15
gia. Ngoài ra 6 học sinh đội tuyển Địa lí dự kỳ thi cấp tỉnh thì cả 6 em đều đạt giải
trong đó có : 1 giải Nhất, 2 giải Nhì, 3 giải Ba và xếp thứ nhất toàn Tỉnh.
Với những thành tích đã đạt được như trên lần đầu tiên nhà trường được SGD
tặng cờ thi đua giải Ba trong phong trào bồi dưỡng học sinh Giỏi. Đứng thứ 8 trên
24 trường THPT trong toàn tỉnh vượt 9 bậc so với năm học trước. Và thành tích
này cũng góp phần cho nhà trường hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học được
SGD tặng danh hiệu trường tiên tiến xếp thứ 6 trên 27 trường và nhận cờ hạng Ba.
Còn hiệu quả nữa mà không gì có thể mua được đó là bộ mặt nhà trường đã
được thay đổi. Phụ huynh và học sinh trên địa bàn thị xã đã có cái nhìn khác đi về
nhà trường và đây cũng là mục tiêu chính của thầy và trò nhà trường nói chung và
của tác giải đề tài nói riêng.
4.1 Hiệu quả kinh tế:
Đây là đề tài trong lĩnh vực giáo dục vì vậy hiệu quả kinh tế trực tiếp thì
chúng ta không nhìn thấy được nhưng gián tiếp thì không thể đánh giá hết được
hiệu quả của nó.
Ví dụ như: Trên cơ sở cải tiến về phương pháp quản lí cũng như dạy và học
nhà trường đã góp phần đào tạo cho đất nước những nhân tài rồi đây các em sẽ
bước chân vào các trường Đại học tiếp tục học tập tu dưỡng và trở thành lực lượng
lao động chất lượng cao tạo ra nhiều của cải vất chất cho xã hội. Hay như HS
Phạm Thị Mai với thành tích Giải Nhì Quốc gia chắc chắn em đã đặt được một
chân vào ngưỡng cửa Học viện an ninh nhân dân đó là niềm mơ ước của biết bao
thế hệ học sinh và các bậc phụ huynh, dù có nhiều tiền đến đâu cũng khó mà có
được.
Bất kì một công việc nào cũng vậy, có lao động thực sự sẽ có được kết quả xứng
đáng với mồ hôi, công sức bỏ ra cho công việc đó. Hoạt động bồi dưỡng học sinh
giỏi cũng không ngoại lệ, có được sức mạnh, sự đồng thuận của tập thể nhà trường,
có được sự cố gắng nỗ lực của giáo viên dạy và học sinh tham gia bồi dưỡng
được tổ chức một cách chính xác, khoa học có chắc chắn sẽ đạt được kết quả như
mong muốn. Đội tuyển học sinh giỏi nhà trường sẽ “gióng lên những hồi chuông
16
ngân dài vang xa”, khẳng định vị thế của nhà trường trong công tác “mũi nhọn” –
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT, KIÊN NGHỊ.
1. Ý nghĩa:
Có thể khẳng định rằng, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là hoạt động có ý
nghĩa vô cùng lớn lao trong hoạt động chuyên môn nói riêng và trong giáo dục
nhân cách con người nói chung. Đó cũng chính là nhiệm vụ của giáo dục là
không chỉ dạy chữ mà còn phải chú trọng dạy làm người. Nếu như công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi được tổ chức khoa học, theo một quy trình phù hợp thì
chắc chắn sẽ đạt hiệu quả tốt. Hơn thế nữa khi có được kết quả tốt chắc chắn sẽ
thúc đẩy giáo dục đại trà tại các nhà trường.
2. Kiến nghị, đề xuất:
2.1 Đối với Sở giáo dục:
- Cần có các đợt tập huấn về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cho cả cán
bộ quản lí và cho giáo viên.
- Cần cử đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi biên soạn tài liệu tham khảo, hướng dẫn công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi cho các trường khác học tập.
2.2 Đối với nhà trường:
- Cần tăng cường công tác xây dựng sao cho sát thực với điều kiện thực tế
của từng nhà trường.
- Việc chỉ đạo, phân công giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi cần chú ý đến
giáo viên kế cận.
- Tiếp tục đổi mới quản lí và có những giải pháp phù hợp để nâng cao chất
lượng HSG những môn khoa học tự nhiên trong các năm học tiếp theo.
2.3 Đối với giáo viên:
17
Mỗi giáo viên trong nhà trường không chỉ riêng GV những môn xã hội cần
tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao tinh thần tự học tự
nghiên cứu, học hỏi trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để luôn có tâm
thể sẵn sàng tham gia công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Hơn thể nữa là đáp ứng
những yêu cầu cao của hoạt động chuyên môn này.
Xác nhận của nhà trường
NGƯỜI VIẾT
NGUYỄN THÀNH CHUNG
18