Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Nghiên cứu các bản dịch khoá hư lục chữ nôm và tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.75 MB, 115 trang )

4

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Ờ giai đoạn tiếng Việt cồ (thế kỉ XIII- XVI), tiếng Việt đã trở thành một ngôn
ngữ có văn học và có vãn tự (chữ Nôm). Đây là mốc dấu quan trọng chứng tỏ vai ừò
cùa tiếng Việt ngày càng chiếm ưu thế trong đòi sống xã hội. Mặc dù tiếng Việt và
chữ Nôm không được coi là ngôn ngữ/ văn tự chính thức dùng ở công văn, giấy tờ,
học hành, thi cử; song môi trường hành chức cùa nó không ngừng được mở rộng.
Chữ Nôm và tiếng Việt được dùng để sáng tác văn học, như bốn bài phú Nôm đời
Trần, tương truyền Chu An cũng có tập thơ Nôm. Nó còn được dùng để dịch kinh
điển Nho giáo, đặc biệt là Phật giáo. Từ văn xuôi tôn giáo như bản dịch kinh Phật
thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kỉnh đến văn xuôi văn học như Tân biên truyền kì

mạn lục tâng bo giải âm tập chú là một bước tiến đáng kể.
Vấn đề diễn biến cấu trúc chữ Nôm trước nay đã thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước. Một số công trình mang tính lý thuyết chung về cấu
trúc chữ Nôm đã lần lượt xuất hiện, như: Chữ Nôm- nguồn gốc- cấu tạo- diễn biến của
Đào Duy Anh, Một so vấn đề về chữ Nôm cùa GS.Nguyễn Tài cẩn, Các mô thức cấu
trúc chữ Nôm & Lý thuyết chữ Nôm văn Nôm của GS.Nguyễn Ngọc San. Một số công
trình đi sâu nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm trong từng văn bàn cụ thề như Chi Nam ngọc
âm giải nghĩa của TS.Trần Xuân Ngọc Lan, Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm
Phật thuyết đại bảo phụ mẫu ân trọng kỉnh của TS. Hoàng Thị Ngọ, Tân biên truyền kì
mạn lục nghiên cứu văn bản và vắn đề dịch Nôm của TS. Hoàng Thị Hồng cẩm... Một
số khóa luận tốt nghiệp đại học về vấn đề này cũng đã được thực hiện.
Vấn đề tiếng Việt lịch sử cũng là một mảng quan trọng được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm. Đầu tiên, phải kể đến những nghiên cứu về tiếng Việt của các giáo sĩ
phương Tây. A. de. Rhodes viết Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng Đông


Kinh năm 1651. Onofre Borges viết Dần luận về tiếng Bắc kì trong khoảng từ năm
1645 đến 1658, sau đó là những nghiên cứu về tiếng Việt của Lê Quý Đôn (thế ki
XVIII). Đến cuối thế ki XIX, cỏ các nghiên cứu của Trương Vĩnh Ký và một số nhà
nghiên cứu người Pháp...


5

MÔ tả và nghiên cứu diện mạo tiếng Việt từ thế ki XIX trờ về trước thông qua
các văn bàn Hán Nôm nói chung là một công việc có nhiều ý nghĩa nhưng khó khăn.
Khó khăn ở chỗ các tư liệu chủ yếu được viết bằng Chữ Nôm, đa số là các văn bản
cùa thế kỉ XIX, còn các văn bàn từ thế kỉ XVII về trước thì khá hiếm hoi. Các tác
phẩm chữ Nôm cùa thế ki XV đa số không còn văn bàn gốc, chủ yếu là in/ chép lại từ
thế kỉ XIX. Một số cuốn từ điển Hán- Nôm, từ điển Việt- La tinh, một số ít kinh Phật
bằng chữ Nôm...cũng đã được khai thác, nghiên cứu. Đây là những cố gắng nghiên
cứu về chữ Nôm và lịch sừ tiếng Việt qua các tư liệu thành văn.
Cũng đi theo hướng này, luận văn sẽ tiến hành nghiên cứu về tình hình cấu trúc
chữ Nôm và lịch sừ tiếng Việt qua hai bản dịch Nôm củanguyên tác Hánvăn Khóa
hư lục. Khóa hư lục là một tác phẩm Phật học của vua Trần Thái Tông (1281- 1277).
Vì tầm quan ừọng của nó, Khỏa hư lục đã hai lần được phiên chuyển sang tiếng Việt.
Đầu tiên là bàn giái nghĩa của Tuệ Tĩnh. Sau đó là bản giải âm của Phúc Điền được
thực hiện vào năm 1861.
Luận văn tiến hành nghiên cứu so sánh cấu trúc chữ Nôm và tiếng Việt qua hai
văn bản dịch. Mục đích là tìm hiểu sự vận động của cấu trúc chữ Nôm và sự phát
triển của tiếng Việt trong lịch sử. So sánh Khỏa hư lục giải nghĩa của Tuệ Tĩnh với
Khóa hư lục giải âm của Phúc Điền, thực chất là so sánh hai bản dịch của cùng một
nguyên tác Hán văn ở hai thời điểm khác nhau. Sự khác biệt giữa hai bên thề hiện sự
khác nhau về ngôn ngữ / văn tự giữa hai thời kì.
2.


Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Vãn bản Khóa hư lục giải nghĩa của Tuệ Tĩnh là một tư liệu quý về chữ Nôm và
tiếng Việt lịch sử, nhưng mãi đến đầu thập kỉ 70 của thế kỉ XX, vãn bản này mới
được chú ý. Trước đó, trong các tài liệu nghiên cứu về Tuệ Tĩnh (và cả Trần Thái
Tông) chưa thấy nhắc đến văn bản này; ví dụ như từ Thư mục Việt Nam (Gaspadone,
1912, 1913); Truyện Tuệ Tĩnh (Phạm Xuân Dương, Đôrỉgy tùng báo, 1939); Đi thâm
đền thờ Tuệ Tĩnh (Hồng Sơn, Nhân thuật tạp chí, 1957), Tuệ Tĩnh- người xây dựng
nền móng cho y học dân tộc Việt Nam (Lê Huy Phách, 1957), ...cho đến bài Sự
nghiệp của Tuệ Tĩnh (Lê Trần Đức, Nghiên cừu lịch sử.No 100. 1967) tồng kết các
nghiên cứu trước đó về Tuệ Tĩnh. Sự chú ý có lẽ bắt đầu với các công trình thư mục
của Thư viện Khoa học Xã hội (Thư mục Hán Nôm 9 tập, 1969- 1972), Lược truyện


6

các tác gia Việt Nam (1962- 1971) và Tim hiểu kho sách Hán Nôm (1972-1973) của
Trần Văn Giáp. Nhưng những tài liệu này mới chỉ là những giới thiệu vắn tắt có tính
chi dẫn. Đến bài Chữ Nôm thòi Lý Trần (1974), Đào Duy Anh mới thực sự bắt tay
vào nghiên cứu tác phẩm: “Cứ cách viết chừ Nôm (có thể là đã bị sửa nhiều trong khi
chép lại) và sự dùng từ, do có một số chữ và từ thông dụng trong khoảng Lê sơ đến
Mạc, chúng ta mới chi có thể đoán rằng sách này có khả năng thuộc thời Lê sơ. Tuy
nhiên, thời gian gần nhau, thời Trần mạt và Lê sơ cách viết chữ Nôm và sự dùng từ
không phải khác nhau nhiều lắm, cũng khó có thề khẳng định dứt khoát rằng sách này
thuộc thời Lê sơ chứ không phải là thời Trần mạt, cho nên việc nhận đó là sách của
Tuệ Tĩnh ở cuối thời Trần cũng không sai nhiều lắm” [3, 46]. Trong cuốn Chữ Nômnguồn gốc, cẩu tạo, diễn biến (1975), Đào Duy Anh đã đi sâu vào việc chứng minh
những nhận định ữên. Một số công ừình nghiên cứu của Lê Trần Đức (Tuệ Tình và
nềny dược cổ trityển Việt Nam, 1976 và Tuệ Tình toàn tập, 1977; ...) cũng đã đề cập
đến bản giải nghĩa. Trong Tổng tập văn học Việt Nam tập 3B (1993), ông giới thiệu
một số đoạn phiên âm bản giải nghĩa. Kết luận của ông cũng giống vói Đào Duy Anh.

Nguyễn Huệ Chi trong phần kháo luận văn bản cuốn Thơ văn Lý Trần cũng đề cập
đến văn bản này như một bàn Hán văn Khóa hư lục cổ nhất còn lại đến nay, nhưng
ông không nhắc đến phần chữ Nôm và dịch giả của nó. Trong Việt Nam Phật giáo sử
luận (1978, tập 2), Nguyễn Lang cũng giới thiệu đôi chút về văn bàn này. Căn cứ vào
niên đại viết bài tựa, ông cho rằng Tuệ Tĩnh sống vào thế kỉ XVI- XVII. Mai Hồng
cũng đặt lại đề Tim hiểu tư liệu về Tuệ Tình (1985) và khẳng định: Tuệ Tĩnh sống đời
Trần mạt, giải nghĩa sách Khóa hư lục. Ngoài ra, trong một sách nghiên cứu chữ Nôm
của Lê Văn Quán, Nguyễn Ngọc San, Trần Xuân Ngọc Lan, Hoàng Thị Ngọ...cũng
nhắc đến tài liệu này. Năm 2001, trong báo cáo khoa học, Nguyễn Thanh Tùng đã
tiến hành nghiên cứu khá toàn diện về văn bản, tác giả; phiên âm, nghiên cứu chữ
Nôm và tiếng Việt của bản AB.268.
Văn bản Khóa hư lục giải âm của Phúc Điền là một văn bản có niên đại tuyệt
đối về thời gian sáng tác và khắc in (1861). Năm 1984, Đào Duy Anh đã tiến hành
phiên âm và chú thích. Như lời đánh giá của ông, ngôn ngữ trong bản giải âm là ngôn
ngữ văn xuôi: “theo cách xếp đặt của sách và cách giải âm chữ Hán thì thấy, người
giải âm đã làm việc phiên dịch, mà lời phiên dịch đã là lời văn xuôi rồi.” [3,6]. Năm
1983, N.v. Stankêvic đã tiến hành nghiên cứu sự giao thoa từ ngữ pháp Hán sang ngữ


7

pháp Việt qua tư liệu trong vãn bản này, bà cũng tiến hành thống kê/ nghiên cứu hư
từ, hư từ chiếm 17-18%. Năm 1999, Hoàng Thị Hồng cẩm đã so sánh phong cách
dịch cùa Khóa hư lục giải âm với Tân biên truyền kì mạn lục: “đây là bản dịch chậm
so với Tân biên hơn hai thế kỉ nhưng là bản dịch rất đúng tinh thần của truyền thống:
không những dịch sát với nội dung nguyên bàn mà còn bảo đảm sát về số lượng từ
ừong câu, sự nhịp nhàng đăng đối của thể văn biền ngẫu...” [7, 134]. Nguyễn Thanh
Tùng cũng bước đầu so sánh hai phong cách dịch giải nghĩa và giải âm trong báo cáo
của mình: “nguyên bản Hán văn (quyển thượng) có 3.155 chữ Hán, Phúc Điền dùng
3.193 chữ Nôm để dịch, tỉ lệ gần như 1/1. Cách dịch như vậy giữ được nhịp điệu, hơi

văn, nhưng khó hiểu cứng nhắc”. Còn văn phong của bản Tuệ Tĩnh “giản dị, gần với
ngôn ngữ thường ngày, do đó giàu chất văn xuôi hơn, phản ánh trung thực lời ăn
tiếng nói của người Việt xưa. Đó chính là giá trị của vãn bản. Cũng với 3.153 chữ
Hán (quyển thượng), dịch già đã diễn nghĩa bằng 4.665 chữ Nôm, tỉ lệ đối dịch xấp
xỉ 1.5/1. Toàn bộ văn bản Hán vãn Khóa hư lục với 8.234 chữ Hán được dịch bằng
12.135 chữ Nôm tỉ lệ cũng gần 1.5/1. Chúng tôi lại thừ thống kê 200 chữ Hán trong
Nam Xương nữ tử truyện (Tân biên truyền kì mạn lục) thì thấy được dịch bàng 240
chữ Nôm, ti lệ 1,2/1. Như vậy càng thấy tính chất giải nghĩa của văn bản này.”
Nguyễn Thanh Tùng cũng đã tiến hành so sánh số lượng hư từ giữa hai bản đề thấy
được sự khác biệt giữa phong cách giải nghĩa và giải âm (lượng hư từ của bản giải
nghĩa là 21-22%, so với tỉ lệ lượng hư từ của bản giải âm 17-18%)[50].
Như vậy, so sánh diễn biến cấu trúc chữ Nôm và sự phát triển tiếng Việt qua hai
bản dịch Khóa hư lục là một vấn đề cần được nghiên cứu kĩ càng và toàn diện.
3.

3.1.

Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
a. Toàn bộ chữ Nôm xuất hiện trong văn bản Khóa hư lục giải nghĩa AB.268

và văn bản Khóa hư lục giải âm AB.367 tại thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm.
b. Tiếng Việt (ngữ âm, từ vựng cồ, ngữ pháp) trong 2 văn bản .
3.2.

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn xoay quanh:



8

a. Khía cạnh văn tự học của chữ Nôm qua hai văn bàn giải nghĩa AB.268 và
bàn giải âm AB.367;
b. Khía cạnh ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) của tiếng Việt qua hai văn
bàn này.
c. Sự vận động ừong cấu trúc chữ Nôm và sự phát triển của tiếng Việt qua hai
vãn bản.
3.3.

Phương pháp nghiên cửu
Luận vãn thực hiện những phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp văn bản học: so sánh phần Hán vãn giữa 2 văn bản, rà soát lại

toàn bộ hệ thống chữ Nôm ừong bản AB.268, đính chính các sai lầm về tự dạng (có
lập bảng thống kê).
Phương pháp thống kê số liệu: tiến hành thống kê định lượng, lập bảng
thống kê về số chữ và tần số xuất hiện đối với mỗi kiều loại chữ Nôm/ và từ ngữ
tiếng Việt theo tiêu chí phân loại riêng. Từ những số liệu thống kê cụ thể, chúng tôi
đưa ra một số nhận xét về đặc điềm ngôn ngữ văn tự qua hai văn bàn.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: lấy các kết quả nghiên cứu về cấu trúc chữ
Nôm và ngữ âm tiếng Việt để so sánh và nêu ra sự khác biệt và quá trình vận động
ngôn ngữ/ vãn tự qua hai băn bản.
4.

4.1.

Nguồn tư liệu sử dụng


Tư liệu lý thuyết về cấu trúc chữ Nôm, luận văn sừ dụng phương pháp phân

loại theo tiêu chí âm đọc của GS Nguyễn Ngọc San có điều chỉnh đôi chút cho phù
họp với tình hình thực tế của văn tự trong hai vãn bản và mục đích của luận văn. Tư
liệu lý thuyết về tiếng Việt, luận văn kế thừa các thành tựu nghiên cứu về ngữ âm lịch
sử (của M.Ferlus, Nguyễn Tài cẩn, Nguyễn Ngọc San, Vương Lộc, Hoàng Thị
Ngọ...); luận văn cũng kế thừa cách phân kì lịch sử tiếng Việt của GS Nguyễn Tài
Cẩn, kế thừa và phát triển những mô hình phân loại từ cổ của các nhà nghiên cứu đi
trước như Vương Lộc, Nguyễn Ngọc San, Trần Xuân Ngọc Lan...
4.2.

Tư liệu văn bản Khóa hư lục

4.2.1.

Chúng tôi sử dụng các bàn Nôm sau:


9

a. Khóa hư lục giải nghĩa (còn có tên Thiền tông khỏa hư ngữ lục) kí hiệu
AB.268 tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
b.

Khóa hư lục giải âm (trong Kim cương Bát nhã Khỏa hư quốc âm) kí hiệu

AB.367 tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Ngoài ra, luận văn sử dụng một số bàn Hán văn Khóa hư lục khác để tham
khảo, đối chiếu. Luận văn cũng sử dụng các vàn bản Nôm cổ để so sánh như Phật
thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Thiền Tông bản hạnh, Quốc ảm thi tập, Hồng

Đức quốc âm thi tập, Chỉ nam ngọc âm, Tân biên truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm
tập chú, Truyện Kiều bản Liễu Văn Đường 1871...
4.2.2.

Luận văn sừ dụng các bàn quốc ngữ Khóa hư lục sau:

a. Bàn phiên âm, dịch nghĩa, chú thích bản giải âm của Đào Duy Anh [3].
b. Bản phiên âm, chú thích bàn giải nghĩa của Nguyễn Thanh Tùng[50].
c. Bàn phiên âm, dịch nghĩa, chú thích Khóa hư lục của PGS.TS. Trần Thị
Băng Thanh [53].
d. Bản phiên âm Khóa hư lục giải nghĩa AB.268 của chúng tôi (xin xem phụ
lục 5 trong luận văn).
5.

Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm ba phần chính:
1. Phần mở đầu
Giới thuyết chung tình hình nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt lịch sử. Tình
hình nghiên cứu chữ Nôm và tiếng Việt qua các bản dịch Khóa hư lục. vấn đề khoa
học cần được giải quyết.
2. Phần nội dung
Phần này bao gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề vãn bản học của Khóa hư lục giải nghĩa và Khóa hư
lục giải âm.
Chương này đề cập đến: 1- vấn đề tác giả Khóa hư lục, các truyền bản cùa
Khóa hư lục, phân loại các văn bản theo nội dung và theo hình thức chữ viết; 2- Vân


10


đề văn bàn Khóa hư lục giải nghĩa', lai lịch, hiện trạng văn bàn, vấn đề dịch giá của
Khóa hư lục, vấn đề xác định thời gian sáng tác của bàn giải nghĩa thông qua các
thông tin trong vãn bản, qua chứng tích ngôn ngữ văn tự, và vấn đề thời gian hình
thành văn bản AB.268; 3- vấn đề văn bản Khỏa hư lục giải âm AB.367: lai lịch và
hiện ừạng văn bản, vấn đề dịch giả.
Chương II: Tình hình cấu trúc chữ Nôm qua vãn bản Khóa hư lục giải nghĩa và
Khóa hư lục giải âm.
Chương này đưa ra mô hình cấu trúc phân loại chữ Nôm dựa theo tiêu chí âm
đọc. Gồm 13 loại chữ Nôm.
Chương này đưa ra bảng thống kê tỉ lệ các loại cấu trúc chữ Nôm qua hai văn
bàn. Tiến hành so sánh các loại cấu trúc qua các số liệu đã thống kê được. Nhận xét
sự vận động, thay đồi cùa các loại cấu trúc.
Chương III: Tiếng Việt qua văn bản Khỏa hư lục giải nghĩa và Khóa hư lục
giải ấm.
về ngữ âm tiếng Việt: luận văn tiến hành mô tà ngữ âm tiếng Việt cổ qua các cứ
liệu chữ Nôm trong bàn giải nghĩa (gồm các tồ hợp phụ âm đầu BL, KR, KL và các
xu hướng xát hóa, xu hướng hữu thanh hóa), mô tả hệ thống thủy âm tiếng Việt cận
đại qua chữ Nôm trong bản giải âm.
về từ vựng: luận văn tiến hành nghiên cứu khối từ vựng cồ qua hai bàn giải
nghĩa và giải âm. Tiến hành phân loại các từ cổ theo nguồn gốc. Đưa ra các số liệu
thống kê để thấy được sự thay đổi hệ thống từ vựng tiếng Việt qua hai giai đoạn.
về ngữ pháp: luận văn tiến hành thống kê (lập bảng thống kê) về số lượng và
tần số các hư từ, từ đó nhận định về sự khác biệt giữa phong cách giải nghĩa và phong
cách giải âm; luận văn khảo sát các cụm danh từ chịu ảnh hưởng của văn ngôn chữ
Hán để tìm sự thống nhất trong cấu trúc tiếng Việt trong hai giai đoạn; luận văn tiến
hành khảo sát các câu bị động qua hai văn bản nhằm đi đến cái nhìn có tính lịch sử vê
phạm trù bị động trong tiếng Việt.
3. Phần kết luận
Tồng kết lại các vấn đề về cấu trúc chữ Nôm từ cái nhìn lịch đại. Vị trí của chữ

Nôm trong hai văn bàn trong tiến trình lịch sử chừ Nôm.


11

Nhận thức về sự vận động ngữ âm tiếng Việt qua hai giai đoạn: xu hướng đơn
tiết hóa triệt để của âm tiết, sự ồn định của hệ thống thủy âm tiếng Việt từ giai đoạn
cận đại đến nay.
Tổng kết các xu hướng vận động ừong từ vựng và ngữ pháp tiếng Việt qua hai
văn bàn.
Ngoài 3 phần chính, luận văn còn có 2 phần phụ:
1. Danh mục tài liệu tham khảo

2. Phu luc:




Phụ lục 1: Bảng đối chiếu cấu trúc phần Hán văn AB.268 và AB.367
Phụ lục 2: Bảng đính chính Hán văn bàn AB.268
Phụ lục 3: Bảng đính chính chữ Nôm văn bàn AB.268
Phụ lục 4: Bàng các đoạn bỏ dịch trong văn bàn AB.268
Phụ lục 5: Phiên âm, chú thích Khóa hư lục giải nghĩa AB.268
Phụ lục 6: Bảng ừa chữ Nôm ữong Khóa hư lục giải nghĩa AB.268
Phụ lục 7: Bảng tra chữ Nôm trong Khóa hư lục giải âm AB.367
Phụ lục 8: Bảng tra từ cổ trong Khóa hư lục giải nghĩa AB.268
Phụ lục 9: Bàng tra từ cổ trong Khóa hư lục giải âm AB.367
Phụ lục 10: Bảng đính chính phần phiên âm bản AB.367
Phụ lục 11: Bảng đối chiếu thủy âm Việt Hán qua loại chữ Nôm đọcchệchâm
(Loại C) trong Khóa hư lục giải nghĩa AB.268

Phụ lục 12: Bảng đối chiếu thủy âm Việt Hán qua loại chữ Nôm đọcchệchâm
(Loại C) trong Khóa hư lục giải âm AB.367
Phụ lục 13: Bảng tra hư từ trong Khóa hư lục giải nghĩa AB.268
Phụ lục 14: Bảng tra hư từ trong Khóa hư lục giải âm AB.367


12

Chương I
M ỘT SÓ VẤN ĐÈ VĂN BẢN HỌC CỦA

KHOẢ H ư LỤC GIẢI NGHĨA VÀ KHOẢ H ư LỤC GIẢI ÂM

1.

Khoá hư lục và các truyền bản Khoá hư lục1

1.1.

Tác giả Khoá hư lục

1.1.1.

Thuyết thử nhất:

Thuyết này cho ràng Khoả hư lục là do vua Trần Nhân Tông soạn (12581308). Tiêu biểu cho thuyết này có ý kiến của Thiều Chừu Nguyễn Hữu Kha, Trần
Văn Giáp [23], Nguyễn Tài cẩn...Thiều Chửu cho rằng: “Nguyên văn chữ Hán
chép là của vua Trần Thái Tông soạn, nhưng căn cứ vào sử và xét đến bài Thăm cụ
Huyền Quang ở Yên Tử và mấy lời đức Trần Hưng Đạo (1232- 1300) mời về thì
sách này là của vua Trần Nhân Tông. Dịch giả đem ba bàn ra xét để tìm lấy sự thực

thì dám cả .quyết rằng những bản chép là của vua Trần Nhân Tông là sai. [Dần theo
Trần Văn Giáp, 24]. Kết luận này đã bị nhiều học già nghi vấn, bác bỏ (Trần Văn
Giáp [24], Nguyễn Huệ Chi [53]).
1.1.2.

Thuyết thứ hai:

Đa số các học giả đều khẳng định đây là tác phẩm của Trần Thái Tông, căn cứ
vào lý do sau:
1. Nội dung và văn phong của Khoá hư lục, thể hiện tư tưởng của Trần Thái
Tông (so sánh với Thiển tông chỉ nam tự và Toàn thư).
2. Thư tịch cồ hiện còn có xác nhận thông tin này, ví như Thánh đăng ngữ
lục được trùng san năm 1750 do nhà sư Chân Nguyên (1646- 1780);
Việt sử tiêu án, Đại Việt sử kí tiền biên của Ngô Thì Sĩ (1726- 1784); Lịch
triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840) cho biết: Thái Tông soạn
sách này sau khi nhường ngôi vào núi tu hành. Đại Việt thông sử. Nghệ văn chí của


13

Lê Quý Đôn (1726- 1784); Lịch triều hiến chưcmg loại chí. Văn tịch chí của Phan
Huy Chú cũng ghi: “Khoả hư lục, 1 quyền, Trần Thái Tông soạn, ý văn là thích
cành rừng núi, coi bàng lẽ sống chết, chí thú khoáng đạt, sau khi truyền ngôi, Thái
Tông nghiên cứu đạo Phật mà làm” [14, 116]. Và ngay trong cuốn Đại Nam thiền
ưyển kế đăng lược lục (1734) (VHv.9, tờ 5a-b) cũng khẳng định như Kế đãng lược
lục. Ta biết rằng Kế đăng lược lục vốn là sách của Như Sơn (đời Lê mạt) gồm 3
quyển, được Phúc Điền tập hợp vào bộ sách của mình, cho nên mới dẫn đến sự mâu
thuẫn với chính Phúc Điền viết về Nhân Tông.
Bàn thân các văn bản Khoá hư lục từ trước đến nay, từ bàn in đến đến bản


3.

chép tay đều ghi rõ tác giả của nó là Thái Tông. Như bản AB.268 chép: Ẳ. & í 'ặ'
M iặ. ỂL ỉặ- Thái Tông hoàng đế ngự chế Khoả hư lục hoặc PẬ

3l ịÍL ố M M

ẺL iẶ Trần triều Thảnh Tổ tự soạn Khoả hư lục.
Chúng tôi nghiêng về thuyết thứ 2 cho rằng: vua Trần Thái Tồng là tác giả của
Khoả hư lục.
1.2.

Các truyền bản Khoá hư lục
Bản có niên đại sớm nhất hiện còn, theo niên đại chép trong sách (mà sau

đây chúng tôi chứng minh là khá tin cậy), là bàn chép tay mang kí hiệu AB.268 (tựa
viết năm 1631). Các bản in trước đó chắc chắn đã thất truyền. Đây chỉ là bản chép
lại của bàn in đó. Trong các thế kỉ XVIII, XIX, XX, Khoá hư lục đều được in lại.
Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn các bản A.1531 (in năm 1841), A.1426
(in năm 1856); bản của Tồng hội Phật giáo Bắc kì in năm 1943. Thư viện Quốc gia
và một số thư viện khác cũng có các bản tương tự.
1.2.1.
a.

Căn cứ vào nội dung (cơ cấu) sách, Khoá hư lục có thể chia làm 2 loại:
Loại thứ nhất: Gồm các bản AB.268. A.1531, A.1426, AB.367 đều gồm 3

quyển: Quyển thượng: gồm các bài Phố thuyết (trình bày tồng quát về quan niệm
nhân sinh, vũ trụ và sự cần thiết phải “hư tâm kiến tính” gồm: Phổ thuyết tứ sơn,
Phổ thuyết sắc thân, Phổ khuyến phát Bồ Đề tâm. Quyển trung và Quyển hạ dạy về


1 Phần này chúng tôi tiếp thu từ Nguyễn Thanh Tùng [50]


14

khoá lễ của sáu thì (sáng, tnra, chiều, tối, nửa đêm, mờ sáng), gồm các bài kệ, văn
tụng niệm, cúng lễ, đầu quyển trung có bài tựa Lục thì sám hối khoa nghi.
b.

Loại thứ hai: có bản in A.2013 và văn bàn trùng san của Tổng hội Phật

giáo Bắc kì. Sách chỉ có hai quyền thượng và hạ. Nhưng, ngoài các bài đã có ở loại
thứ nhất còn có các bài khác như: Giới sát sinh vãn, Giới định tuệ luận, Phổ thuyết
hướng thượng nhất lộ, ngữ lục môn hạ vấn đáp.
1.2.2.

Căn cứ vào chữ viết, Khoả hư lục có thể phân làm hai loại:

a. Loại thứ nhất'. Loại chi có chữ Hán (không có chữ Nôm), loại này gồm
các bàn A.1351, A.1426, A.2053, và bản trùng san năm 1943.
b. Loại thứ hai: loại có phần giải âm, giải nghĩa bàng chữ Nôm: gồm các bàn
AB.268 và AB.367 (còn có tên là Kim cương phát nguyện Khoả hư quốc âm. Bàn
giải âm do Phúc Điền hoà thượng thực hiện khắc in năm 1861 và đã được học giả
Đào Duy Anh phiên âm. [1975, 4].
Có thể nói, quá ữình truyền bản Khoá hư lục là quá trình bồ sung các di văn
khác nhau của Trần Thái Tông, từ 1 quyển (có lẽ là quyển thượng- Nguyễn Huệ
Chi) như Phan Huy Chú nhắc đến, tới 3 quyển, rồi 2 quyển lớn mà số lượng các bài
theo đó không ngừng tăng lên. Khoả hư lục do đó, chắc chắn không còn nguyên
dạng như ban đầu nữa. Đặc biệt, trong lịch sử, Khoá hư lục đã hai lần được giải

Nôm với hai phong cách khác nhau: giải nghĩa và giải âm.


15

2.

vấ n đề văn bản Khoá hư lục giải nghĩa

2.1.

Lai lịch và hiện trạng văn bản

Thiển tông khoá hư ngữ lục AB.268 thư viện Viện Nghiên cứu Hán
N ôm .Sách chép tay, có 77 tờ gồm 154 ừang, khổ 17 X 28,5 cm, giấy dó m òng, ngà

vàng, bìa cậy quét sơn (có dấu nhập của BEFEO, có lẽ là sách do BEFEO thuê chép
lại từ đầu thế kỉ XX). Chữ viết theo lối khải, đôi ba chữ viết đá hành thào, nhiều tục
tự và chữ viết tắt. Mỗi tờ có 6 cột chữ Hán lớn, kèm theo phần giải Nôm dịch đuổi
ở phía dưới theo hình thức lưỡng cước.
Sách mở đầu ghi Thiền tông khoá hư ngữ lục, dưới chú “Tào Động thiền
tông”. Sách có một bài tựa, do Huệ Duyên soạn, nội dung nêu sự nhiệm màu của
Phật pháp và hoàn cảnh cho in sách, tiếp đến là phần mục lục; phần chính văn song
ngữ Hán- Việt (chữ Hán- chữ Nôm) như đã mô tả ở trên, cộng thêm bài thơ của Lý
Ngọc Kiều, tức Diệu Nhân (1041- 1113) chép lẫn vào cuối sách cùng một bài Bạt
hậu văn không rõ người soạn, bài bạt này ngoài việc nêu cảm nghĩ về Phật pháp thì
không có nội dung gì thật đặc biệt.
về phần giải nghĩa bằng chữ Nôm: sách Khóa hư lục giải nghĩa dịch hầu
như toàn bộ nguyên tác chữ Hán, tuy có một số đoạn trong các bài bị lược bỏ (xem
phụ lục IV) Việc bò dở này là do người chép, càng về sau càng bỏ nhiều. Nhiều chỗ

chép sai, chép lầm, chép thừa. Có thể nói văn bản bộc lộ những nhược điểm của
một bản chép tay. Nhưng, ngoài giá trị như là một “dị bàn” cổ cùa Hán văn, văn bàn
còn lưu giữ được phần giải nghĩa bằng chữ Nồm duy nhất hiện còn.
2.2.

Vấn để dịch giả và niên đại của bản Khoá hư lục giải nghĩa

2.2.1.

V ấn đề dịch giả

Sách chép: Thiền tử Thận Trai pháp hiệu Huệ Tình tự Vô Dật giải nghĩa ịụ


# ỉầ

ầ #■ Ý &

t# Â nghĩa là: “Phật từ chốn thiền lâm là Thận Trai,

pháp hiệu Huệ Tĩnh, tự là Vô Dật giải nghĩa.” (ba lần ờ cả 3 quyển Thượng- Trung Hạ tờ 5b, 31b, 77b). Tên tuổi này chúng ta đã biết chính là Tuệ Tĩnh. Các sách
Hồng nghĩa giác tư y thư, Nam dược thần hiệu, Thập tam phương gia giảm, Nguyên
tiên sinh bảo y thư.. .đều cỏ ghi tên ông. Trong bài Nam dược quốc ngữ phú, tác giả


16

tự giới thiệu: “Sách này Tráng Từ còn hơi vụng, Vô Dật hoạ khi rồi, luận nam dược
chép lại một phú...”.
Tuy nhiên, lai lịch của Tuệ Tĩnh thế nào và việc giải nghĩa sách Khoá hư lục

có phải do Tuệ Tĩnh thực hiện hay không là điều luận văn cần tìm hiểu.
Các thư tịch cồ có ghi chép về nhân vật lịch sừ này. Hải Dưcmg phong vật
chí A.882 năm Gia Long 10 (1812) ghi: “Thầy thuốc Tuệ Tĩnh tiên sinh, người xã
Nghĩa Phú, huyện cẩm Giàng (Hải Dương) chuyên dùng thuốc Nam cứu người rất
công hiệu, trứ tác có các tập Dược tỉnh chỉ nam và Thập tam phương gia giảm lưu
hành ờ đời.” Bài tựa sách Hồng nghĩa giác tưy thư (in năm Vĩnh Thịnh 13- 1717):
“Từng có bậc danh sư hiệu Tuệ Tĩnh, người làng Nghĩa Phú, huyện cẩm Giàng,
phủ Thượng Hồng, ông là nhà sư hằng nghiên cứu rộng lẽ âm dương huyền bí, tìm
hiểu sâu về đạo Kì, Biển tinh truyền, đã soạn Bản thảo bàng quốc âm...Sau lại đem
13 phương thuốc chữa tạp bệnh và 37 phép chữa thương hàn kinh nghiệm của ông
dịch ra ca Nôm.” Lịch triều hiến chưcmg loại chí. Văn tịch chỉ ghi: “sách Nam dược
thần hiệu, 6 quyển, Tuệ Tĩnh tiên sinh ở cẩm Giàng soạn.” [14, 28]. Một tấm bia cổ
(văn chi) ở Hài Dương có ghi chép về Tuệ Tĩnh thì không còn nguyên vẹn (bị đục
thời Minh Mệnh, bị dờ năm 1960). Các sách khoa mục hiện còn cũng không thấy ghi

chép về ông. Song truyền thuyết ở địa phương vẫn cho rằng: Tuệ Tĩnh là một nhà
sư đời Trần, rất giỏi y học, sau bị đem cống cho Trung Quốc, và câu chuyện về
Nguyễn Danh Nho đi sứ sang Trung Quốc (tk XVII), viếng mộ Tuệ Tĩnh và đã ghi
vào văn chỉ như sau: “Trần triều Tân Mão đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, hiệu Tuệ
Tĩnh tiên sinh.” [Dan theo Mai Hồng, 28].
Các sách từ đầu thế kỉ trở lại đây hầu hết nhất trí với truyền thuyết trên.
E.Gaspardone trong [19], Nguyễn Xuân Dương trong Đôngy tùng bảo (N°1.1939),
Lê Huy Phách, Hồng Sơn trong Nhân thuật tạp chỉ (N°.4,5.1957), Ban Hán- Nôm
trong Thư mục Hán Nôm (1969- 1977), Trần Văn Giáp trong Lược truyện tác gia
Việt Nam (1970-1971), Đào Duy Anh trong Chữ Nôm: nguồn gốc- cấu tạo- diễn
biến (1974)[1], Lê Trần Đức 1975 [17, 18], Mai Hồng (1985) [28], Trần Nghĩa
(1993) [91]. Theo kết quà nghiên cứu của Lê Trần Đức và Mai Hồng,ta có chi tiết
về tiểu sử Tuệ Tĩnh như sau:
-


Gia đình: nhà nông, cha là Nguyễn Công Vĩ, mẹ là Hoàng Thị Ngọc ở xã

Nghĩa Du, huyện Dạ cẩm, phủ Hồng Châu; mô côi năm 6 tuôi.


17

- Thời đại: sống vào thời hậu Trần.
- Cuộc đời: 10 tuôi được sư chùa Giao Thuý trấn Sơn Nam đưa về cho ăn
học, lấy tên Tiểu Huệ, sau đi tu đặt pháp hiệu Tuệ Tĩnh.
- Khoa bàng: đỗ thi hương năm 22 tuồi (1351), đỗ Hoàng giáp năm 55 tuồi
(1385).

- Năm 55 tuôi bị công cho Trung Quôc, được nhà Minh giữ lại ở Thái y viện,
rồi mất, mộ ở Giang Nam [17, 9].
Một thuyết khác cho rằng: Tuệ Tĩnh sống vào thời Lê Trung hưng (tk XVIXVII), như Trần Văn Giáp trong Tìm

hiểu

kho sách Hán Nôm (1972- 1988),

Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận (1977). Trần VănGiáp cho ràng:
Tuệ Tĩnh sống vào thời Lê Thần Tông (1732- 1735) có lẽ là Nguyễn Quốc Tĩnh (đi
thi, đỗ và làm quan đến hết đời)1. Nguyễn Lang cho rằng: “Thiền sư Tuệ Tĩnh sinh
vào cuối thế ki XVI...Bài tựa sách Khoá hư lục được viết năm 1631 cho nên ta biết
ông sinh vào cuối thế kỉ XVI.” [34, 153]. Ý kiến này đều dựa vào bài tựa viết năm
1631 (bị viết nhầm là 1734). Nhưng, bài tựa này là do người khác-Huệ Duyên viết,
năm 1631 chỉ là năm viết của bài tựa, cho nên chưa thuyết phục.
Việc giải nghĩa sách Khoá hư lục khồng thấy đề cập trong các thư tịch cồ, trừ
cuốn AB.268. Các sách báo từ trước năm 1960 cũng không biết đến bản sách này.

Đến thập kỉ 70 của thế kỉ XX, cuốn sách này mới được Đào Duy Anh chú ý đến.
Mặc dù vậy ta vẫn có thể nhận định ràng: bản giải nghĩa có thề do chính Tuệ
Tĩnh thực hiện, bởi:
- Tuệ Tĩnh là một người theo học Phật. Việc Tuệ Tĩnh đọc và giải nghĩa
Khoá hư lục- một tác phẩm Phật học nổi tiếng là việc có thể xảy ra.

1 “Theo tục truyền Tuệ Tĩnh thiền sư tên thực là Nguyễn Bá Tĩnh, đậu Thái học sinh đời
Trần Dụ Tông (1341-1369). Nhưng tìm trong các sách Đăng khoa lục, không thây chép tên
các Thái học sinh đời Trần Dụ Tông và cũng không thấy tên Nguyễn Bá Tĩnh P/L tà
đậu
Thái học sinh đời Trần. Khảo đời Lê Dụ Tông (1705-1731) thì chi thấy có tên Nguỵễn
Quốc Tĩnh R, B
người làng ồ n g Mặc, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc, đậu đồng
Tiến sĩ khoa Vĩnh Thịnh thứ 6(1710), tức là năm thứ 6 đời Lê Dụ Tông mà không thấy có
tên Nguyễn Bá Tĩnh. Vậy có thể, truyền thu vết sai từ Lê Du Tỏng sang Trần Dụ Tồng và
từ Nguyễn Quốc Tịnh Sang ĩ ^ g e y ễ h h Ê á ơ ĩM iố P ^ I^ ^ mậy nỊiiên, giả thuyết này còn
chưa thuyết phục.
T
P1JNQ T
ÂM T

ON
G TIM
IÊN •
TRUNG
TAM
TH
NG
TIN TMI
THƯr V

VIỆN

V- LS/ể>69


18

Tuệ Tĩnh đã từng diên Nôm các sách y học (Thập tam phương gia giảm,

-

Nam dược quốc ngữ phủ..

vì vậy không thể phủ nhận khả năng ông đã diễn nghĩa

sách Khoá hư lục.
■ Những chứng tích ngôn ngữ, văn tự trong vãn bàn cho phép chúng ta tin
rằng bản AB.268 là bàn chép lại từ một bán in cồ, ít ra là từ thế ki XVII. Đặc biệt
quan ừọng là ngôn ngữ của Khóa hư lục giải nghĩa thuộc về tiếng Việt cổ (Tk XIIIXVI) như chúng tôi chứng minh trong chương ni cùa luận văn.
2.2.2.

Vấn đề niên đạì của dịch bản

2.2.2.L Thông tin trong văn bản

AB.268 là một bản chép tay, chép lại từ một bàn khắc in xưa (khoảng thêếkỷ
x v n ), nhưng nay đã thất truyền. Chúng tôi cho ràng: có thể sách được chép vào
đầu thế kỉ XX do BEFEO. Văn bản chỉ có một lần kị huý: chữ thì ữị được ghi bằng
chữ thần Jệi trong câu: i'Si n. ® pặ Ạ.


Trích nghiêm sương thuỷ giảng chi

thời.lồbS. Chữ này được đặt ra ở thời Tự Đức (1847-1883). Có hai khả năng đặt ra:
thứ nhất, lúc đầu, người chép có ý thức về sự kiêng huý nên viết thế, sau lại không
để ý đến nữa và cứ chép nguyên theo bản chính; thứ hai, người chép chép lại từ một
bản có kị huý, nhưng kị huý không triệt đề. Chúng tôi nghiêng về thuyết thứ hai.
Theo lời bài tựa, một người có tên là Huệ Duyên ở Từ Quán chùa Sùng Quang,
huyện Giao Thuỷ, lộ Thiên Trường, “tìm thây lời vàng quảng tại” mà sinh lòng cảm
ngộ, bèn “kêu gọi mọi người, cùng xuất của nhà, sai thợ khắc in (Ệh /51 ỷ K
Ệ. jff

tb

X. ìSi # Khuyến cập đa nhân, cộng xuất gia tư, mệnh công tầm tử). Như

vậy, đã từng tồn tại một văn bản Thiền tông khoá hư ngữ lục từ trước,và Huệ Duyên
là người cho đem in khắc. Cuối bài tựa có ghi niên đại: % §ĩ\ ĨỀ í t ậ- -%- 1st
1+ 4- % 0



-ỈU Lè triều Long Đức tam niên tuế thứ Tân Mùi trọng đông vọng nhật

bái soạn [3a5] nghĩa là: “Kính soạn vào ngày rằm tháng trọng đông (tháng 11 âm),
năm Tân Mùi, niên hiệu Long Đức thứ 3 triều Lê”. Năm ĨỀ í t Long Đức 3 là năm
1734 triều Lê Thuần Tông (1732- 1735), nhưng năm can chi là Giáp Dần. Thực ra,
người chép đã chép nhầm chữ Đức Long. Năm í t i í Đức Long 3 là năm Tân Mùi,
năm 1631 triều Lê Thần Tông (1629- 1634) [Trần Văn Giáp, Lê Trần Đức, Nguyễn
Huệ Chi... cải chính]. Nay khẳng định lại lần nữa vì đến Di sán Hán Nôm thư mục



19

đề yếu (1993) vẫn ghi năm Long Đức (1734)[91]. Tuy nhiên, ữong bài tựa, Huệ
Duyên không hề nhắc đến việc giải Nôm. Vậy thì phải chăng việc giải nghĩa đã
được xem là một phần của văn bản, khồng cần phải nhắc lại nữa, và chứng tò nó
xưa hơn thời điểm viết bài tựa này? Ngược lại, chúng ta cũng không loại trừ khả
năng: bàn giài Nôm được viết sau, còn bài tựa được viết vào năm 1631, về sau bài
tựa vẫn được giữ lại ữong các lần in và chép khác, nghĩa là Huệ Duyên không hề
biết đến bản giải nghĩa này. Chúng tôi nghiêng về giả thuyết thứ nhất hơn vì chứng
tích ngôn ngữ, văn tự của bàn giải nghĩa là thuộc về tiếng Việt cồ (Tk XIII- XVI),
cô hơn cả Tân biên Truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú của Nguyễn Thế
Nghi và gần với Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (xem chương II, chương III của luận
văn này, Đào Duy Anh cũng đã chứng minh).
Cũng không thể phủ nhận khả năng đây là một ngụy thư, do người khác thác tên
Tuệ Tĩnh. Nhưng trong tình hình tư liệu hiện có, khả năng này sẽ khó xảy ra.
2.2.22. Tinh hình chữ Nôm trong văn bản
Toàn văn bản có khoảng 12.244 lượt chữ Nôm. Theo thống kê của chúng tôi,
loại chữ sẵn có (mượn nguyên hình thể chữ Hán) chiếm 76,73% độ dài văn bản, chữ
tự tạo chi chiếm 23,27%. Theo các nhà nghiên cứu chữ Nôm, loại A càng nhiều thì
niên đại của văn bản càng xa vì nó phản ánh sự phát triển của chữ Nôm từ già tá sang
hình thanh. Chúng tôi đã lập bàng thống kê ở chương II mục 4. Bảng thống kê cho
thấy: mặc dù bản Khóa hư lục giải nghĩa là vãn bản chép vào đời Nguyễn, nhưng tỉ lệ
chữ Nôm sẵn có cho phép chúng tôi nhận định rằng đây là một văn bản chép lại một
bản in vào thế kỉ xvn, bản in này có thể cũng đã tiếp thu từ một bàn cổ hơn nữa.
Cũng tính theo tỉ lệ các loại chữ giả tá như vậy, học giả Đào Duy Anh cũng đã đi đến
kết luận: “Đối chiếu tỉ lệ phép viết chữ Nôm như thế (xem chương bốn) thì thấy rằng
bản Nôm này sớm hơn các bản từ Truyền kì mạn lục giải âm về sau là những sách
dùng tỉ lệ chữ hình thanh nhiều hơn, và muộn hơn các bài phú Nôm đời Trần là
những tài liệu dùng nhiều cách giả tả thứ nhất hơn.” [1, 37- 38].

Chúng tôi cũng chú ý đến cách viết một số chữ Nôm cổ có mặt trong bản
AB.268. Các chữ cổ được xác định niên đại tuyệt đối trong các văn bản văn bia, ván
in so với các văn bản mới [xem Nguyễn Tài cẩn, 10, 205-215]. Cụ thể như sau:


20

STT

Âm đọc

Cách viết cũ

Tần số

Cách viết mới

Tần số

1.

Một

*

4



2


2.

Buồn

&

1

3.

Đêm

&

16

%

4.

Vẻ

2

m

5.

Xưa


&
ìn

9

%

6.

Đến



5

Ss

7.

Mặt



11

8.

Chân




6

A

9.

Con

£

40

ft

10.

Mũi

2

11.

Thấy

■ặ:
%

31


%

3

12.

Ra

33



36

13.

Dặm

V *
ĨẰ

5

n.

14.

Trong


X

3

¥

15.

Trồng

6

tt

16.

Sa

1

iỷ

17.

Trả

te

1


*

18.

Trái



1

m

19.

Trọn

iềĩ

8

*

2

Như vậy, tình hình bản giải nghĩa này cũng giống như các văn bản của Quốc
âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thỉ tập: đều là các văn bản đời sau in/ chép lại.
Qua các số liệu thống kê trên, chúng ta có thề hình dung phần nào vị trí của bản giải
nghĩa AB.268 trong lịch sử ngôn ngữ, văn tự. Điều này chứng minh: già thuyết bản
giải nghĩa có trước thời điểm viết bài tựa của Huệ Duyên (1631) là có thể chấp nhận
được. Trong 20 ví dụ chúng tôi nêu trên, có các ví dụ 2, 3, 4, 5, 7, 8, 9, 10, 11, 12,

13 là phản ánh cách ghi chuyền từ giả tá sang hình thanh, có ví dụ 1 phản ánh cách
ghi từ giả tá c chuyển sang già B, các ví dụ 14, 15, 16, 17, 18, 19, 10 là các chữ
Nôm cồ phản ánh ngữ âm tiếng Việt của thế kỉ XV- XVII.
2.2.23. Chữ Nôm phản ảnh ngữ âm tiếng Việt cỗ trong bản Khóa hư lục giải
nghĩa AB.268

Một số chữ Nôm trong văn bàn là những chữ Nôm phản ánh ngữ âm tiêng
Việt cổ. Gồm hai loại: a.Loại chữ Nôm ghi tồ hợp phụ âm đầu; b.Loại chữ Nôm thê
hiện một số phụ âm đơn của tiếng Việt cồ.


21

a. Loại chữ Nôm ghi tổ hợp phụ âm đầu:
a. 1. Loại chừ Nôm dùng hai mã chữ để ghi tổ hợp phụ âm đầu: gồm hai trường
hợp là bà cắt và la đả, xuất hiện 3 lần (cụ thể xin xem chương n, loại El)
a.2. Loại chữ Nôm dùng một mã để ghi tổ hợp phụ âm đầu:
a.2.1. Loại ghi đầy đủ tổ hợp phụ âm đầu: như H Klống ghi TRỐNG [67b3,
75b3, 43b6], ệg. Klước ghi TRƯỚC [7a4, 8b5, 13a4],

Krang ghi SA NG [15b2,

40b3, 70a6], ÌÍK ra ghi SA [49al], ệpKro ghi s o [7a4].
a.2.2. Loại ghi không đầy đủ tồ hợp phụ âm đầu:
- Loại ghi phụ âm trước trong tổ hợp phụ âm đầu: như -te Bả ghi Bỉầ (Trả)
[15al], XẠ£Cơ/7gghi Kỉong (Trong) [12b3,22b4]
- Loại ghi phụ âm lỏng trong tồ hợp phụ âm đầu: như

Luận ghi Blọn {trọn)


[12al, 25bl, 70b3, 70b4,...], s Lã ghi Tlở(Trở) [17a2, 44a5...], *ế-Lược ghi Tlước
(Trước) [35b5, 42a6...].
Thực chất loại chữ Nôm này phản ánh quá trình đom tiết hóa đang diễn ra mạnh
vào thế kỉ XV- x v n . Như H.Maspero [46] dự kiến các khà năng biến đồi của các tồ
hợp phụ âm như BL, TL, KL, ML, PL...CÓ thể là: a. Hòa đúc thành một âm mới: TL
> TR; b. Rụng yếu tố đầu, để lại yếu tố sau: TL > L; Rụng yếu tố sau để lại yếu tố
đầu: TL > T...[Chuyển dẫn theo Vũ Đức Nghiêu, 37]. Trong từ điển A de Rhodes
vẫn còn thấy cả ba nhóm phụ âm BL, TL, ML; trong đó, BL, TL tồn tại song song
với TR (7 trường hợp BL tồn tại song song với TR, 7 trường họp BL tồn tại song
song với TL. Như GS.Nguyễn Ngọc San cho biết: “Ở thế ki XVII trong tiếng Việt
vẫn còn tồn tại các nhóm phụ âm đầu có L như BL, TL, ML và vào cuối thế kỉ này nó
sẽ được rút gọn thành các phụ âm đơn. [44, 213]. M. Ferlus giải thích sự chuyển biến
này là do sự rung âm nồ đứng trước giống như số phận cùa các tiền âm tiết. Trong
Chỉ nam ngọc âm, âm đầu TR còn được ghi bằng cả hai hình thức TR và KL, ví dụ:
:rk

^ :cẻ Ỳ thanh thủy là nước trong, 'í’
b.



/a

X i\đ ế vương lên trị kỉong đời.

Loại chữ Nôm thể hiện một số phụ âm đơn của tk XV - XVII.

b.l. Loại chữ nôm dùng [S’] ghi [t’]: như dùng

Sài ghi THAY [10b...], dùng


ỉj| Suối ghi Thoái (trong Thoái lui) [50b2, 74b2], dùng

Súc ghi THÚC [13b6];


22

cũng có một số trường hợp ngược lại như dùng [t’] ghi [S’] như: dùng # Thượng ghi
SẢNG [41b2, 41b2], dùng ĩtyThế ghi XẾ [40b2, 44bl]
Hiện tượng này được nhiêu nhà nghiên cứu (Vương Lộc, Nguyễn Ngọc
San...) khăng định là đã hoàn thành ở thê ki XVI như là hệ quả của quá trình s > t
[36].

b.2. Loại chữ Nôm dùng [t] để ghi [r]: như dùng ỉề Táo ghi RÁO (Khô ráo)
[35a4, 64bl], dùng

Tạc ghi RẠC (rời rạc) [9a3], dùng

Tốt ghi RÓT [69b3,

72b3]. Như ta biết s là tiền thân của T. Lại có sự tương ứng s > r (Mường sang
Việt)
Từ những chứng cứ trên, chúng tôi bước đầu nhận định rằng: bản AB.268 tuy
là một bàn chép tay, nhưng nó vẫn còn giữ được những chữ Nôm ghi tiếng Việt cổ.
2.2.2.4. Từ vựng tiếng Việt cỗ
Từ ngữ cô là những từ ngữ xuất hiện trong các văn bàn cồ mà ngày nay
không còn được sử dụng nữa, hoặc sử dụng hết sức hạn chế, hoặc chỉ còn tồn tại
trong một số vùng phương ngữ. Từ cồ là những yếu tố mờ nghĩa đối với người đọc
hiện đại. Theo nguồn gốc ngôn ngữ, từ cồ trong bản Khóa hư lục giải nghĩa AB.268

được phân làm ba loại: l.Các từ Việt cổ; 2. Các từ ngữ Hán văn được sừ dụng như
là một yếu tố của tiếng Việt trong bán giải nghĩa; 3.Các từ ngữ văn Nôm phiên
chuyển từ các từ ngữ hay thuật ngữ Hán vãn (cụ thề xin xem mục 2.1 và 2.2 chương
ni). Trong đó, từ Việt cổ có ý nghĩa trong việc xác định niên đại tương đối một văn

bàn Nôm.
về số lượng: Từ Việt cồ có 185 đơn vị (/ 2169 đv, chiếm 8,60%), với 1.191
lần xuất hiện (/12.244 lần, chiếm 9,73 %). Tỉ lệ số lượng từ Việt cổ trong bàn giải
nghĩa thấp hơn Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (25,21 %), cao hơn Đắc
thú lâm tuyền (6,9%), Cư trần lạc đạo (8,32%) và Ouổc âm thi tập (8,75%). Như
vậy, về mặt lượng của từ cổ, ta có thể nhận định rằng tiếng Việt trong bản giải nghĩa
Khoá hư lục thuộc về giai đoạn tiếng Việt cổ (Tk XIII- XVI), bản giải nghĩa có thề
được viết vào cuối thế ki XIV, trước cả Quốc âm thỉ tập (cụ thể xin xem mục 2.1 và
2.2 chương III).


23

Ve chat lượng của từ cô: chúng tôi thây Khỏa hư lục giải nghĩa còn một số
từ cô thuộc lóp từ vựng của tiếng Việt thế kỉ XVI trở về trước. Để xác định được
các từ cô thuộc giai đoạn này, chúng tôi tiến hành fra cứu, so sánh qua một số bộ từ
điên cô như: A de Rhodes, Bỉ Nhu, Béhaine... Đồng thời so sánh với một số văn
bàn Nôm sớm của giai đoạn thế kỉ XV- x v m như: Phật thuyết, Quốc âm thi tập,
Hông Đức quôc âm thi tập, Chi nam ngọc âm, Tân biên truyền kì mạn lục tăng bố
giải âm tập chủ. Ví dụ: từ cổ THƠ Rơ xuất hiện hai lần trong bản AB.268, cả hai
lan đeu được dùng đê dịch từ y hy trong nguyên vãn chữ Hán: Thơ rơ mặt nước
sang rỡ rỡ đóm nháng $ Ịễị

ỉ ị Jg Jg £ & . 5 5 a 4 [nv.fc


it, nghĩa

là: lơ thơ mặt nước mây con đom đóm đang bay qua]; Thơ rơ mà rừng trúc rây
vàng, thấp thoáng trong sân hoa mà chơi ngọc i f ỉ ị
M S.62a5 [nv.#i # Ễ;

^ iậ &

BU

ị ị fir ễặ $ M & Ỳ # ÍÊ
^ s. ]. Chúng tôi đã lập bàng

thống kê việc xuất hiện của từ THƠ Rơ và các từ tương tự của nó (các từ phái sinh
cùa nó từ cuối thế kỉ XIX về sau qua các bộ từ điền cổ và hiện đại). Đồng thời có so
sánh với từ Lơ THƠ, MỈA MAI, BẺ BAI đề làm bằng chứng.
Sự tồn tại và diễn biến của L ơ THƠ, THƠ R ơ,
MỈA MAI, BẺ BAI trong một số từ điển
T ừ điền

N ăm

De Rhodes

1651

L ơ THƠ

M IA
MAI


THƠ R ơ

L ơ thơ, lơ xơ. ốm

T hơ rơ. Cây không có lá,

yếu, lử thử, lừ thừ

trụi lá[223]

BẺ BAI

V

V

Mỉa mai.

Bẻ bai. Chê trách
[36]

(?) [138, 223]
P.Beshaine

Taberd

T h ơ rơ. Cây trụi lá. [470]

1772-


L ơ thơ.Sự vật bên

1773

ngoài chi đáng chê.

2Ìống như

[259] L ơ láo [ 259]

[292]

1838

Miả mai.

Bẻ bai. Vafer

tantùm contemneuda

giống như

[21]

[269]. Lơ láo [269]

[646]

L ơ thơ. res specie


T h ơ rơ. [499]

Huình Tịnh

1895

L ơ láo. [546, 573]

Xơ rơ .T h ơ rơ. L ơ thơ.

Mỉa mai.

Bẻ bai. Chê bai,

Paulus Của

1896

X ơ lơ xáo láo [573]

(cây cối) [573, 874, 1018,

giống nhau

nhiều tiếng nói

1198]

[452]


[44]

L ơ láo. Insolent,

Lơ thơ. hở hửng [415], Xơ

Mỉa mai.

Bẻ bai [30]

negligent, dégouté

rơ (cỏ cây) [978],T h ơ rơ

giống

Mỉa mai [452]

[415]

[845]

[452]

Génibrel

1898



24

T ừ điền
Khai trí

N ăm
1931

tiến đức

L ơ THƠ

MIA
MAI

THƠ R ơ

BẺ BAI

L ơ láo [317] Lua

Lơ thơ. [317]. Lira thưa.

láu [ 320]

[325]. Xơ rơ. Trơ trụi

[42]. Mỉa mai.

(làng) [658] Thơi roi [576]


Nói cạnh như

V

Bè bai. Chê bai

mỉa [342]
Gustave

1937

Hue

Thanh

1951

L ua láu.

T h ơ rơ [1016]

Mỉa mai.

M ỉa mai. Nói

Inconvennant,

giống như


mỉa mai [566].

incorrect [524]

[566]

Bẻ bai. [37]

V

Bẻ bai. Chê bai

L ơ láo [368]

Lơ thơ [762]. Lưa thưa

Nghị

[776], xơ rơ.(làng) [1479]

[83]. Mỉa mai
[817]

Đào

1951

Lơ láo [368]

Lơ thơ. [368]


Văn Tập

V

Bẻ bai [44], Mỉa

Lưa thưa [374]

mai. [392]

Xơ rơ. Trơ trụi (làng)[718]
Viện Ngôn

1994

L ơ láo [564]

Lơ thơ. ít và rất thưa [564].

Ngừ học

V

Bè bai [52]

Lưa thưa. [576]. X ơ rơ

Mỉa mai [609]


(ph.) [1118]
1995

V

Xơ lơ. Lơ láo [575].

Lơ thơ [305]. Xơ rơ .[575],

(Viện Ngôn

Xơ lơ xáo láo.(Ph),

Lira thư a [326] Lua tua

Mỉa mai [339]

ngữ học)

Lơ láo [304], Láo lơ

[313]. T hơ th ớ t [514]

Bẻ bai [38]

TĐ từ láy

Mai mỉa[331]

[229]


D ưới đây, chúng tôi lập bàng thống kê, so sánh một số từ cổ khác trong Khóa

hư lục giải nghĩa với từ điển của A de Rhodes và một số tác phẩm N ôm cồ đã nêu
trên. Chúng tôi kí hiệu cho tên tác phẩm: PT = Phật thuyết,

xv= Chỉ nam ngọc âm,

Quốc âm thỉ tập và Hồng Đức quốc âm thi tập , Khỏa hư lục giải nghĩa = KHLGN.
Tân biên truyền kì mạn lục viết tắt là X V I1, 1651 = A de Rhodes.
KHLGN

PT

XV

XVI

1651

NGHĨA

Bà cắt

1

0

2


0

0

Chim cắt

La đả

2

1

4

0

2

Đá

Mưa

17

1

32

4


1

Chớ

Thơ rơ

2

0

1

0

1

Lưa thưa

TỪ

1 Số liệu trong Phật thuyết đại báo tiếp thu Ts. Hoàng Thị Ngọ, trong Tân biên trưyên kì
mạn lục tiếp thu từ Ts.Hoàng Hồng cẩm , trong Quốc ám thi tập tiếp thu từ Phùng Minh
Hiếu. Còn lại là số liệu thống kê cá nhân.


25

TỪ

KHLGN


PT

XV

XVI

1651

Phô

8

3

1

0

1

Nhiều

Át

1

3

0


0

1

Ướt

Mùi

2

4

0/13

0

1

Màu

Thức

10

0

11/12

4


1

Màu

Bở ngỡ

1

0

0

0

0

Sửng sốt

Cạy cạy

1

0

1

5

1


Đau đáu

Biêu

2

1

1

2

1

Nêu

NGHĨA

Từ những cứ liệu trên, chúng tôi nhận định ràng: bản Khóa hư lục giải nghĩa
có những

chứng tích ngôn

ngữ của

tiếng V iệt cồ (thế ki XIII- XVI) .

2.2.2.5. Ngữ pháp tiếng Việt cỗ.
Trong tiểu m ục này, chúng tôi chỉ tiến hành điềm mục và đưa ra các số liệu


thống kê về hư từ tiếng Việt nhàm chứng minh tính chất cổ của bản dịch. Bản Khóa
hư lục giải nghĩa có hệ thống hư từ cổ dày đặc, gồm 100 từ cổ(/l 85 hư từ), xuất
hiện vớ i tần số 1.441 lần (/3.231 lần). Văn bàn này có hiện tượng một hư từ thuần
V iệt dùng để dịch m ột hư từ Hán có nhiều chức năng, ý nghĩa khác nhau. Cũng có

khi, một từ thuần Việt được dùng đề dịch nhiều hư từ Hán khác nhau. Điều đáng ghi
nhận là m ột số hư từ đã được sử dụng một cách phổ biến ngay cả khi câu nguyên
văn chữ Hán không có hư từ tương ứng. Chính vì vậy, nhiều khi, chúng được coi
như là những từ thuộc nhóm từ V iệt cổ. Trong phần này, chúng tôi không bàn cụ
thể từng đom vị một m à chỉ đưa ra một số hiện tượng làm ví dụ.

Như: ắt dịch từ diệc # (cũng)/ bằng lại chẳng có bệnh ắt cũng không
thân.\\?LĨ)\ ấy dịch từ thị Ẵ (đó), giả % (hư từ) nhĩ ^ (hư từ ngữ khí, vậy) giải ra
rằng: một núi ấy là tướng sảy vậy.ldẢÍ nghiệp tà dâm ấy lòng đam chưng sự thanh
sắc. 65a3; bèn dịch từ nãi 73 (bèn) triếp ậm (bèn), tiện i i (bèn), khước

(lại) ki H;

(mấy)/ bèn trái nghĩa vô sinh mà chịu nghĩa hữu sình. 8bl/ rừng mau cây rạm xanh
một trận gió may thổi đến mới căm bèn nên xơ xác. 1 la l; chỉn dịch từ chỉ K , thù
/ chỉn dại lòng vọng niệm mà quên mất chốn chân như.Któl chin chãng phải pham

hạ dễ biết thừa được mùi hương ạy.68b3; chịu dịch từ thụ

/ chịu cho rối thưa tọi

nghiệp lại vào chốn đường quanh quất là lục đ!ợơ.23al; chưng dịch từ chi

(hư tư


kết cấu, của) khước -Ẳp (lại)/ sinh ra còn sống phải chưng nghiệp mô căt.23a4; hâu


26

dịch từ tương

(sắp) dục

(muốn), sơ ỳ) (mới), phương 77 (mới), tạm % (dần),

tăc lĩ'](thì)/ mặt trời đã hâu gác về chưng núi đoài. 9a3/ bóng nắng dấy cây tang đã
hầu về muộn.9b4; hợp dịch từ ứng )& (nên) đáng t (nên)/ hỡi ôi, thân mình thực
chưng rất trọng mà còn tiếc hợp bỏ dường ợy.20b2/ hợp sinh lòng tín thực dùng,
dẫy chưng lòng nhiều /7gở.40b5; xả dịch từ thả SL (vả lại), quản f (ví như) tiên
(trước hãy)/ xá nói bèn nay cỏi làm cả chi.26b\\ xảy dịch từ tài ^ (mới), tưỳ fíẳ
(tíieo), thích iẫ (gặp, bị) trên mây biên má đỏ xảy ra làm tóc bạc da răn. 8b6;...
Cũng có khi một hư từ song tiết dùng để dịch một hư từ Hán đơn tiết, như:
đã hầu dịch từ kỉ %, tương ị^lxày vậy bóng hoa phép lại đã hầu xếA ìbì/ tây nghe:
mây đò đã hầu suốt núi, mặt trời vừa khi gác rtơrt.46a6; chi vậy dịch từ tai Sịỉ ví
cũng người tham danh lợi, quên về thân mình nào có khác chi vậy.20a2; vậy ôi dịch
từ hồl há chẳng làm quý vậy ôi\. 19b4.

về số lượng: ứong bản Khỏa hư lục giải nghĩa, từ Ấy xuất hiện 117 lần, từ
bằng xuất hiện 64 lần, từ bèn xuất hiện 69 lần, chỉn xuất hiện 48 lần, từ dường xuất
hiện 12 lần, từ luống xuất hiện 16 lần, từ vậy xuất hiện 32 lần, từ chưng xuất hiện
226 lần, từ thửa xuất hiện 107 lần, từ nghĩ xuất hiện 12 lần, từ lấy xuất hiện 47 lằn,
từ mặc xuất hiện 17 lần, từ tua xuất hiện 10 lần, từ xảy xuất hiện 11 lần... (Cụ thề
XÚI xem phụ lục 13 Bảng hư từ Khóa hư lục giải nghĩa.AB.268).

Mặc dù, bản AB.268 chỉ là một bản chép tay từ thời Nguyễn, lại được sao
chép không được cẩn thận, với nhiều lỗi sai về vãn tự, sự bỏ quãng một số đoạn.
Nhưng, bàn chép vẫn lưu lại được những yếu tố ngôn ngữ, văn tự quan trọng của
bản in được dùng để chép. Qua việc khảo sát các chứng tích ngôn ngữ, văn tự trong
bản Khóa hư lục giải nghĩa, chúng tôi bước đầu nhận định rằng: bản giải nghĩa của
Khóa hư lục cỏ nhiều yếu tố văn tự của thế kỉ XVII nhưng vẫn còn dấu vết ngôn
ngữ cùa Tiếng Việt cồ (thế ki XIII- XVI). Như vậy, có thể chấp nhận giả thuyết cho
rằng bàn dịch nghĩa sách Khóa hư lục được thực hiện từ cuối thế kỉ XIV và Tuệ
Tình là người giải nghĩa.


27

3.

Vấn đề văn bản Khóa hư lục giải âm

3.1.

Lai lịch và hiện trạng văn bản

Khóa hư lục giải âm ịẬ JÉ ỉặ.

% còn gọi là Khóa hư quốc âm ÍẬ Ế. @ iẵ".

Đây là một bản sách năm trong bộ Kim cương, Phát nguyện, Khóa hư quốc âm Ìl
S'J &

1% Ểk 0 ’ễ' , sách này mang kí hiệu AB.367 lưu trữ tại thư viện Viện


Nghiên cứu Hán Nôm, 1 cuốn, do Phúc Điền Hòa thượng Sa Môn An Thiền ìắ
ỳỷ n

# dịch ra quốc âm. Sách in ván gỗ, giấy bản xơ 28 X 17 cm, 96 tờ, tờ

2 trang, ừang 10 dòng, dòng 20 chữ, khắc đẹp rõ ràng.
T ên sách đê ừ ê n chỉ là tên gọi gộp lại của ba bộ sách: Kim cương kỉnh diễn

âm & S'] M i h Phật thuyết A Di Đà kỉnh diễn nghĩa 'íậi&P5!*Ỉ3i Pè
nguyện văn

Phát

X, Khóa hư quốc âm iẬ JỀ s ĩq'. Đầu sách có bài tiều dẫn, đề là

Quốc âm tiểu dẫn @ ■§-

?| (từ 2a-3b); trong đó trình bày nguyên ủy dịch ba bộ

sách ừên và một phụ bản danh sách các kinh sách đã khắc in, tổng cộng có 33 bộ,
gồm 183 quyển, ván in lưu tại chùa Liên Phái ở Hà Nội, và chùa Bồ Sơn ở Bắc Ninh.
Những sách này do Phúc Điền hòa thượng và các học trò khắc in từ năm Canh Tí
niên hiệu Minh Mạng (1840) đến năm Tân Dậu niên hiệu Tự Đức thứ 14 (1861). Tiếp
đến là hai bài tựa kinh Kim cương: bài thứ nhất tên là San khắc Kim cương Bát nhã tự
f'J ề'Ị 'Ế: S'J i&Lĩẻ

(từ ừang 4a-4b), nói về việc khắc lại năm 1861 và một bài tựa cũ

(từ trang 5a-7b) nói về những người đã nghiên cứu kinh này.
Cuối trang 7b là bắt đầu vào phần giải âm cùa Kim cương bát nhã ba la mật

kinh. Kết thúc là trang 29b. Bản này viết xong vào ngày 16 tháng 4 năm Quý Hợi
năm Tự Đức 16 (1863) (Tự Đức thập lục niên tuế thứ Quý Hợi tứ nguyệt thập lục
nhật biên kỉ)
Đầu trang 3Oa bắt đầu phần Phật thuyết A di đà kỉnh diễn nghĩa, đến trang
40b là hết.
Từ trang 4la đến trang 44b là Vân Thê đại sư sự tíchỆ ịẾ ^ Éí ^ ĩề, Đỉnh
Hồ Sơn Khánh Sơn- Hoằng Tán đại sư sự tích
này không thấy có chữ Nôm.

J-I Ẽi 'S

*k ^ Éí ^

Phân


28

Từ các tờ sau là phân diễn âm của Khóa hư quốc âm (từ trang 45a đến 96b
riêng phần này chúng tôi tách ra đánh số trang riêng thành la- 50b để tiện theo dõi
thống kê). Bắt đầu là bài tựa mới Khóa hư lục tân tự iẬ Ề ỉặ.

Pt (từ trang la đến

3a) của Nguyễn Đăng Giai (Nguyễn Thận Hiên) làm năm Canh Tí niên hiệu Minh
Mạng (1840), nói vê đâu duôi sách Khỏa hư lục, không nói đến việc dịch ra tiếng
Việt Jl m

♦ XX*


-i- HJ



XIH
Tiếp đến là phần mục lục

của Khóa hư tập (từ trang 3a-4a). Rồi đến tên sách cùng tác giả và tên người dịch:
Trân triều Thái Tông Hoàng đế ngự chế Khóa hư lục (vua Trần Thái Tông ngự chế
sách Khóa hư lục), giải âm là An Thiền: Đại Giác thiền tự Độ Điệp Phúc Điền hòa
thượng sa môn An Thiền Khỏa hư lục giải âm qicyển thượng qityển trung quyển hạ ỷi
# Ỷ /Ề.

íẵ E7 í*

ỳỳ H



i . ậ t ễ T (Quyển thượng,

quyển ừnng, quyển hạ sách Khỏa hư giải âm do Sa Môn An Thiền hòa thượng Phúc
Điền, Độ Điệp chùa Đại Giác). Từ trang 4a đến đầu trang 43b là phần giải âm của
chính văn (cụ thể xin xem phụ lục). Từ đầu trang 43b đến 50b là phần âm thích của
Khỏa hư lục quyển thượng đến quyển hạ (ịẬ JỀ iặ. Ạ T JL Ạ Jl Ịậ ■§■), nhưng ứiực
ra phần này bao gồm cả thích âm và chua điển tích, các danh từ Phật học trong sách.
3.2.

Vấn đề dịch giả Khóa hư lục giải âm1


Hòa thượng Phúc Điền họ Vũ sinh tháng 7 năm Giáp Thìn (1784), tại thôn
Trung Thịnh, xã Bạch Sam, huyện Sơn Minh, phủ ứng Hòa, tỉnh Hà Nội (nay là xã
Trường Thịnh, huyện ứng Hòa, tỉnh Hà Tây). Cha ngài họ Vũ, mẹ họ Lê. Bản tính
thông minh ham học, lúc nhỏ thường theo bà đi lễ chùa làng, Ngài sớm ngộ đạo
Phật, năm 12 tuổi, xuất gia đầu Phật theo học hòa thượng Viên Quang Hải Tiềm tại
chùa Đại Bi xã Thịnh Liệt, Huyện Thanh Trì, Hà Nội. Năm 15 tuổi, Ngài y theo tồ
Từ Phong Hải Quýnh ở chùa Phúc Xuân xã Nam Phiên, được thụ giới Sa Di, pháp
danh là Tịch Tịch. Năm 20 tuồi, ngài đến chùa Đại Thiền (xã Phù Ninh, huyện
Đông Ngàn, phủ Từ Sơn) y theo hòa thượng Tịch Giảng Vô Tư. Sau đó, ngài được
thụ Tì khưu Bồ Tát giới do tổ sư Tịch Chiếu chùa Hoa Lâm (xã Khê Hồi, huyện
Thường Tín) làm thầy Yết Ma, và thầy Tịch Tính chùa Song Phúc làm thầy Giáo

1 Phần này chúng tôi tiếp thu từ Phạm Văn Tuấn, Nguyễn Văn Thanh.


×