Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Cơ chế tác động của thuốc bảo vệ thực vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.82 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
BỘ MÔN CÔNG NGHỆ HÓA HỌC



SEMINAR:
CƠ CHẾ TÁC ĐỘNG
CỦA THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT
Giáo viên hướng dẫn:

Nhóm 3

PGS. TS. Phan Phước Hiền

Ngành: Công Nghệ Hóa Học
Niên khóa: 2010 - 2014

Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 12/2013


MỤC LỤC

2


LỜI MỞ ĐẦU
Từ thập niên 70 của thế kỉ 20, cùng với sự phát triển vũ bão của các ngành khoa
học khác, lĩnh vực hóa học và kỹ thuật sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (TBVTV) đã có
sự thay đổi rất mạnh mẽ: Sự hiểu biết về phương thức tác động của TBVTV đã cho


phép phát hiện ra nhiều hoạt chất mới có phương thức tác động khác trước, có hiệu lực
cao với dịch hại, dùng ở liều thấp, nhưng lại an toàn với các sinh vật khác không phải
đối tượng phòng trừ.
Nhóm đã nghiên cứu về “Cơ chế tác động của thuốc bảo vệ thực vật” nhằm hiểu rõ
hơn các cơ chế tác động của TBVTV lên các đối tượng cần phòng trừ (sâu bệnh, cỏ,
côn trùng, gặm nhấm, …) cũng như tác động của chúng lên hệ sinh thái và đặc biệt là
sức khỏe của người sử dụng TBVTV. Do thời gian có hạn nên bài báo cáo của nhóm
chưa được hoàn chỉnh, rất mong được sự góp ý của thầy.

3


CHƯƠNG 1 CƠ CHẾ TÁC ĐỘNG CỦA TBVTV
TỚI CƠ THỂ SINH VẬT
1.1. Sự biến đổi của chất độc trong cơ thể sinh vật
Trong quá trình xâm nhập vào cơ thể sinh vật, chất độc có thể bị biến đổi do các
quá trình thủy phân, oxy hoá khử, liên hợp, phản ứng trao đổi v.v.. Ngoài ra sự biến
đổi của chất độc còn có thể xảy ra do hoạt động của các men, do tác động của nước
bọt, tác động của thức ăn, tác động của huyết dịch v.v..
Sự biến đổi có thể xảy ra theo 2 hướng:


Độ độc giảm:
Các alkaloid thực vật + tanin trong thức ăn => các chất hòa tan => giảm độ độc

Thông qua các phản ứng tự bảo vệ bằng các enzyme phân giải


Độc tố tăng: thuốc trừ nấm lưu huỳnh -----khử-- hydrosunfua: độ độc cao
O


S
C 2H5O
C 2H5O

C 2H5O
P

O

NO2

C 2H5O

P

O

Paraoxon

Thiophos ( Ethyl Parathion )

1.2. Tác động của chất độc đến cơ thể sinh vật
Cách thức thuốc bảo vệ thực vật (TBVTV) tiêu diệt hoặc khống chế các sinh vật
gây hại được gọi là cách tác động. Có rất nhiều cách tác động khác nhau. Hiểu biết rõ
cách tác động của thuốc sẽ giúp người sử dụng chọn đúng thuốc và tiên đoán được kết
quả sử dụng thuốc trong một môi trường cụ thể nào đó, chẳng hạn, nếu gặp một loại
côn trùng đã kháng một loại thuốc A, ta có thể chọn một thuốc khác có cách tác động
dị biệt với thuốc A để đạt được kết quả phòng trừ tốt hơn.
Thông thường, các thuốc TBVTV trong cùng một nhóm có cách tác động điển hình

giống nhau do chúng có thể có một số đồng điểm về cấu trúc hóa học, tính bền vững
trong môi trường. TBVTV có thể gây ra tác động cục bộ, lưu dẫn hoặc cả hai. Khi
thuốc tiếp xúc với lá và gây hư hại lá, ta có tác động cục bộ. Khi thuốc được dẫn đến
các vị trí khác trong cây ta có tác động lưu dẫn, chẳng hạn một số thuốc diệt cỏ phun
4


trên lá được dẫn đến đỉnh sinh trưởng rễ và thân. Thuốc chống đông máu được dẫn từ
hệ tiêu hóa bọn gặm nhấm vào trong máu và cản trở tiến trình đông máu bình thường.
Các thuốc thuộc nhóm Lân hữu cơ và Carbamate cản trở sự vận chuyển luồng thần
kinh tại một số vị trí trong hệ thần kinh trung ương của côn trùng.
Thuốc TBVTV có thể được phun vào cây ký chủ để bảo vệ toàn cây khỏi sự hủy
hoại của dịch hại, chẳng hạn khi phun các thuốc diệt côn trùng lưu dẫn vào đất, nó sẽ
được dẫn lên lá và gây ngộ độc cho các sâu ăn lá.
Đối với thuốc diệt cỏ, một số có cách tác động hủy diệt trực tiếp trên bộ lá bị phun
thuốc và gây héo, một số khác cản trở sự hút dinh dưỡng và khả năng sinh trưởng và
quang hợp của cây. Cách thức tác động sẽ là cơ sở quy định cách sử dụng thuốc diệt
cỏ. Loại thuốc ức chế sự nẩy mầm và tăng trưởng cây mới mọc được gọi là thuốc tiền
nẩy mầm. Thuốc được đưa vào đất để khống chế cây con cỏ dại trước khi chúng trồi
lên mặt đất. Các loại khác có tác dụng sau nẩy mầm được phun vào bộ lá hoặc đất
đang có cỏ mọc. Một số thuốc sau nẩy mầm cũng có tác dụng tiếp xúc.
Thuốc diệt côn trùng có nhiều loại tác dụng:
1. Độc thần kinh,
2. Độc cơ,
3. Gây rụng lá,
4. Kích thích tăng trưởng thực vật,
5. Triệt sinh sản, hoặc chỉ có
6. Tác dụng bít nghẹt các lỗ khí.
Thông thường thuốc sát trùng có nhiều cách tác dụng khác nhau. Một số thuốc diệt
nấm có tác dụng hủy diệt vì chúng có khả năng tiêu diệt nấm đã xâm nhiễm vào mô và

gây bệnh. Cách tác động của thuốc này là ức chế các hoạt động biến dưỡng của các
nấm đang sinh trưởng. Các loại khác có tác dụng phòng ngừa sự xâm nhiễm của nấm.
Nói tóm lại khi TBVTV xâm nhập vào cơ thể dịch hại sẽ:



Tạo ra các biến đổi lý hóa học.
Tác động đến sự phân hủy các acid amin trong tế bào sinh vật.

5


O
HC

NH2
+

RC H

H
Formaline


R-CH-COOH + H2O
N

COOH

CH2


Methyl amine

Acid amine

Kết hợp với những kim loại và các thành phần khác của tế bào gây cản trở cho

sự phát triển.
− Làm tê liệt hoạt động của các men hoặc ức chế hoạt tính của các men.
− Tác động đến sự hình thành của các vitamin trong cơ thể hoặc làm mất tác dụng
của chúng.
Khi đã xảy ra những biến đổi về lý hoá học nói trên thì tế bào không hoàn thành
chức năng sinh lý của chúng được nữa. Trong một số điều kiện nào đó, sự phá hủy
trạng thái keo bình thường của tế bào có thể dẫn đến sự chết của chúng.
1.3. Các hình thức tác động của chất độc
Có hai hình thức tác động của chất độc lên sinh vật là: (1) toàn bộ và, (2) cục bộ.
Khi chất độc xâm nhập vào cơ thể nhiều lần thì sẽ có hai hiện tượng tích lũy:
* Tích lũy hoá học
* Tích lũy chức năng: hay tích lũy hiệu ứng.
Trong trường hợp tích lũy chức năng, chất độc có thể được bài tiết hoàn toàn ra
ngoài, song hiệu ứng của nó vẫn tác động đến các chức năng của cơ thể và được tăng
cường thêm do hiệu quả của liều chất độc thâm nhập vào cơ thể lần sau.
Các dạng trúng độc của cơ thể gồm có:
* Cấp tính
* Mãn tính
* Dị hậu.
Khi sử dụng cùng một lúc hai hay nhiều chất độc khác nhau thì có thể có hai dạng tác
động:
* Hợp lực
Tác động:

* Đối kháng

Hiện tượng tích lũy sinh học, khuếch đại sinh học
6


Tích lũy sinh học là hiện tượng các chất độc trong môi trường được hấp thụ
vào trong cơ thể sinh vật, nhưng không được đào thải ra trong quà trình tiêu
hóa, bài tiết mà tích tụ lại trong các cơ quan, bộ phận của sinh vật.
Hiện tượng gia tăng nhanh nồng độ chất độc từ nồng độ sử dụng nhỏ đến
nồng độ cao và rất cao được tích luỹ trong chuỗi thức ăn các cơ thể sống được
gọi là "khuếch đại sinh học - biomagnification".
1.4. Con đường xâm nhập của thuốc vào cơ thể sinh vật
Có 5 cách tác động chủ yếu sau:
1.4.1. Tiếp xúc
Thuốc trừ sâu tiếp xúc xâm nhập vào cơ thể sâu qua biểu bì da để tiêu diệt.
Thuốc trừ bệnh tiếp xúc khi phun lên cây chỉ bám dính trên bề mặt lá cây hoặc vỏ thân
cây và chỉ diệt những vi sinh vật có tiếp xúc với thuốc ở bề mặt cây. Thuốc trừ cỏ tiếp
xúc chỉ gây cháy ở những nơi cây có tiếp xúc với giọt thuốc.
1.4.2. Vị độc
Là tác động của thuốc khi xâm nhập vào con đường tiêu hoá của động vật (côn
trùng, chuột, chim ...). Chất độc ăn qua đường miệng vào trong ruột, hoà tan trong dịch
vị ở dạ dày và ruột giữa, thấm qua thành ruột và di chuyển đến các cơ quan trong cơ
thể để gây hại.
1.4.3. Xông hơi
Thuốc có thể sinh khí, khói, mùi có tác dụng diệt côn trùng, nấm, vi khuẩn, chuột.
Thuốc tác động xông hơi có thể dùng phun lên cây, xông hơi trong nhà ở, kho tàng,
nhà kính, hàng hoá hoặc trong đất để dễ tiêu diệt các sinh vật gây hại. Hơi thuốc độc
xâm nhập qua lỗ thở hoặc trực tiếp tiêu diệt dịch hại.
1.4.4. Nội hấp (lưu dẫn)

Là khả năng của thuốc có thể xâm nhập và di chuyển trong cây để tiêu diệt dịch hại
bằng cách tiếp xúc hay vị độc. Trong cây, thuốc có thể di chuyển theo 2 chiều là
hướng ngọn (chỉ di chuyển lên các lá, chồi ở phía ngọn) và hướng rễ (thuốc xâm nhập
vào lá rồi di chuyển xuống phía gốc, rễ).
7


1.4.5. Thấm sâu
Thuốc có khả năng thấm qua các lớp tế bào biểu bì cây để giết dịch hại nằm dưới
lớp biểu bì, mà không có khả năng di chuyển trong cây. Ngoài 5 cách tác động chủ yếu
trên, một số thuốc trừ sâu còn có khả năng xua đuổi hoặc làm sâu ngán ăn mà không
phá hại nữa.
1.5. Phổ tác dụng – phổ tác động
Là số lượng các loài dịch hại mà thuốc có thể tác động tiêu diệt được. Tuỳ theo số
lượng các loài dịch hại tiêu diệt được nhiều hay ít mà gọi là thuốc có phổ tác dụng
rộng hay phổ tác dụng hẹp. Thuốc có phổ tác dụng hẹp cũng cịn được gọi là thuốc có
tính chọn lọc, phổ tác dụng càng hẹp thì tính chọn lọc càng cao.
1.6. Tính chọn lọc của thuốc trừ cỏ
Thuốc trừ cỏ chọn lọc là thuốc khi phun lên ruộng có cả cây trồng và cỏ dại thì
thuốc chỉ diệt cỏ mà không hại cây trồng (ví dụ như : Quinix 32wp, Acenidax 17wp,
Natos 15wp, Butanix 60EC ...)
Thuốc trừ cỏ không chọn lọc là thuốc diệt được cỏ và cũng hại cả cây trồng do vậy
chỉ sử dụng trên đất không có cây trồng hoặc khi phun không để thuốc bay vào lá cây
trồng (ví dụ như: Niphosate 480SL, Paraquat ...)
Có 3 cơ chế chính tạo nên tính chọn lọc của thuốc trừ cỏ là:
1.6.1. Chọn lọc sinh lý
Khi phun lên ruộng, thuốc được cả cây trồng và cây cỏ hút vào nhưng đối với cây
trồng, thuốc sau khi xâm nhập vào sẽ bị phân giải trước khi gây độc hại hoặc bị cô lập
tại một điểm mà không vận chuyển được trong cây để gây hại. Trong cây trồng có thể
sinh ra các chất phân giải hoặc cô lập thuốc trước khi xâm nhập vào. Ngược lại, trong

cây cỏ thuốc phân giải chậm và vận chuyển tới điểm sinh trưởng làm cây cỏ bị hại và
chết.
1.6.2. Chọn lọc sinh thái
Một số loài cỏ có lớp sáp trên mặt lá ít, phiến lá rộng hoặc mọc xoè ra nên lượng
thuốc xâm nhập nhiều và dễ bị hại. Cây lúa có lớp sáp trên lá dày, lá lại hẹp và mọc
đứng nên ít bị thuốc xâm nhập hơn nên không bị hại.
8


1.6.3. Chọn lọc không gian
Sau khi phun thuốc lên ruộng, thuốc cỏ thường tập trung nhiều ở tầng trên mặt đất,
khoảng 1 – 2 cm. Phần lớn hạt cỏ lại ở tầng này nên bị thuốc tác động. Rễ cây trồng,
nhất là với lúa cấy, mọc ở lớp đất sâu hơn nên không bị hoặc ít bị tác động bởi thuốc.
1.7. Thời gian tác động của thuốc trừ cỏ
Những loại thuốc trừ cỏ chỉ tác động lên hạt cỏ khi nảy mầm và phải sử dụng khi
hạt cỏ sắp hoặc đang nảy mầm, gọi là thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm. Những thuốc này
xâm nhập vào cây cỏ qua rễ và mầm cỏ mới mọc. Khi sử dụng đất phải đủ ẩm để hạt
cỏ nảy mầm thì hiệu quả trừ cỏ mới cao. (ví dụ như: Butanix 60EC, Sofit
(pretilachlor)...)
Những loại thuốc trừ cỏ chỉ có tác động diệt cỏ khi đã mọc thành cây gọi là thuốc
tác động hậu nảy mầm. Những thuốc này xâm nhập chủ yếu vào cây cỏ qua lá, một ít
qua rễ. (ví dụ như: Whip (Fenoxaprop-P-Etyl), Ally ...)
Có thể chia thuốc trừ cỏ ra làm 3 loại:


Thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm: Sử dụng thuốc ở giai đoạn từ (0 – 5) ngày sau sạ

khi hạt cỏ sắp hoặc đang nảy mầm.
− Thuốc trừ cỏ hậu nảy mầm sớm: Sử dụng thuốc ở giai đoạn từ (5 – 10) ngày sau



khi cỏ mọc được từ (1 – 2) lá.
Thuốc trừ cỏ hậu nảy mầm muộn: Sử dụng thuốc ở giai đoạn từ (10 – 25) ngày
sau khi cây cỏ mọc từ 3 lá trở lên.

1.8. Cơ chế tác động của thuốc BVTV
1.8.1. Thuốc trừ sâu
Thuốc trừ sâu sau khi xâm nhập vào cơ thể sâu có thể diệt sâu bằng nhiều cách:
a. Tác động lên hệ thần kinh
Là cơ chế tác động của các thuốc trừ sâu nhóm clo hữu cơ, lân hữu cơ, carbamate
và pyrethroid.
 Nhóm thuốc gốc Clo hữu cơ: (CHC)

Các thuốc CHC dùng để trừ côn trùng, hiện nay phần lớn thuốc nhóm này đã bị cấm
do tính tồn lưu quá lâu trong môi trường mà điển hình là DDT, Chlordane, Toxaphene,
Dieldrin, Aldrin, Endrin .v.v. Một số vẫn còn dùng rất giới hạn như Difocol và
9


Methoxychlor. Phần lớn các CHC khó phân hủy trong môi trường và tích lũy trong mô
mỡ của động vật. Tính tồn lưu cũng có ích trong trường hợp cần duy trì tính độc của
thuốc lâu dài.
Các CHC gồm những hợp chất aryl, carbocyclic, heterocyclic có khối lượng phân tử
khoảng 291 - 545. CHC có thể được chia ra làm 5 nhóm: (1) DDT và các chất tương
tự; (2) BHC; (3) Cyclodiens các hợp chất tương tự; (4) Toxaphene và các chất tương
tự; và (5) cấu trúc khép kín của Mirex và Chlordecone. Xu hướng kháng chéo của côn
trùng đối với các thuốc trong cùng một nhóm và thuốc thuộc các nhóm khác nhau là
gia tăng mạnh, mặc dù cơ chế tác động giữa các nhóm có sự khác biệt. CHC gây độc
thần kinh, tuy nhiên cũng có một số khác biệt về triệu chứng giữa hai nhóm: một phía
là DDT và những chất tương tự với nó và phía kia là những chất còn lại. DDT gây ra

sự run rẫy (tremor, hoặc ataxia = mất đều hòa), khởi sựở mức nhẹ lúc mới bắt đầu bị
trúng độc và ngày càng tăng cho đến khi có triệuchứng co giật (convulsion).
Trái lại lindane, aldrin, dieldrin, endrin, toxaphene, và nhiều hợp chất có liên quan
gây ra triệu chứng co giật ngay từ đầu.
Mức kích thích thần kinh quan hệ trực tiếp với nồng độc của thuốc trong mô thần
kinh. Thông thường các hậu quả có thể phục hồi sau khi hấp thu một hay nhiều liều
thuốc. Sự phục hồi này chỉ có thể xảy ra khi nồng độc ủa CHC trong mô thần kinh
không vượt quá một ngưỡng tới hạn (critical level). Hầu hết các CHC có thể đi xuyên
qua da cũng như qua hệ hô hấp và hệ tiêu hóa. Mức hấp thu qua da khác biệt tùy theo
chất, chẳng hạn DDT hấp thu qua da kém còn Dieldrin lại hấp thu qua da rất mạnh.
Thông thường, vì có áp suất hơi thấp nên ít khi CHC có nồng độ trong không khí cao
qua mức cho phép.
CHC làm thay đổi các tính chất điện cơ thể và của các men có liên quan đến màng
tế bào thần kinh, gây ra biến đổi trong động thái di chuyển của ion Na+ và K+ qua
màng tế bào. Có thể có cả sự nhiễu loạn vận chuyển chất vôi và hoạt tính của men
Ca2+-ATP và men phosphokinase. Cuối cùng CHC gây chết do sự dừng hô hấp.
 Cơ chế tác động của DDT lên hệ thần kinh.

Tất cả các tế bào, bao gồm cả tế bào thần kinh, có một màng huyết tương (cái mà
giới hạn tế bào với bên ngoài, như vỏ trứng). Màng huyết tương cho những chất đặc
10


biệt đi vào và đi ra khỏi cơ thể (thức ăn, oxigen, nước…). Màng huyết tương được tạo
nên bởi hầu hết các mô mỡ và đặc biệt DDT là một chất hoà tan mỡ và vì vậy nĩ sẽ hồ
tan một cch dễ dng khi đi vào màng huyết tương. Khi DDT đi vào màng huyết tương
thì lm cho ci mng đó bi thủng. Chỉ có 2 chất sẽ đi qua lổ thủng đó là Na + v K+. Đối với
tế bào thần kinh, nồng độ Na+ v K+ bên trong và bên ngoài là rất quan trọng , chúng
giúp cho việc định hướng khi các tế bào thần kinh phát ra tín hiệu. Khi DDT đi vào
trong màng huyết tương, tín hiệu thấn kinh không cịn pht ra nữa . Vì vậy, khi chủ thể

bị nhiễm DDT thì sẽ bị co giật hoặc t liệt v dẫn đến cái chết.
 Các thuốc nhóm lân hữu cơ và carbamate

Nhóm lân hữu cơ và carbamate: ức chế hoạt tính của men ChE, làm tê liệt quá trình
dẫn truyền kích thích thần kinh. Với lân hữu cơ là quá trình Phosphorin hố, với
carbamat l quá trình cabamil hố men ChE. Khi dẫn chuyền kích thích thần kinh, ở đầu
mút dây thần kinh sản sinh ra chất acetin cholin để dẫn truyền kích thích. Sau khi làm
xong nhiệm vụ dẫn truyền qua các đầu mút thần kinh, acetin cholin được phân thuỷ
phân nhờ men ChE. Men này lại dễ bị ức chế bởi thuốc lân hữu cơ và carbamate. Khi
ChE bị ức chế, acetin cholin không bị thuỷ phân sẽ tích luỹ lại với lượng lớn làm cho
dây thần kinh bị tổn thương và đứt đoạn, sự kích thích thần kinh bị rối loạn và tê liệt,
côn trùng sẽ chết. Đối với người và động vật khác thuốc lân hữu cơ và carbamate cũng
tác động theo cơ chế này.

11


 Các thuốc nhóm Pyrethroids

Các đặc tính sát trùng của hoa thúy cúc (Chrysanthemum spp., thường gặp nhất là
C. cineraraefolium) đã được phát hiện rộng rãi vào giữa thế kỷ 19. Cùng với tính diệt
côn trùng mạnh mẽ, pyrethrin có ưu điểm là ít tồn lưu trong môi trường. Trước khi có
DDT, Pyrethrin là chất diệt côn trùng chính dùng trong nông nghiệp và gia đình mặc
dù chúng có yếu điểm là bị ánh sáng phân hủy nhanh chóng. Từ những năm 1950, khi
dùng chất piperonyl butoxide và một số hợp chất khác để tăng hiệu lực của pyrethrin,
làm giảm chi phí thuốc trên đơn vị diện tích. Giá đắt và tính kém bền dưới ánh sáng là
hai trở ngại chính trước khi tổng hợp được các pyrethroids bền hơn và tính diệt trùng
cao hơn. Chẳng hạn, Dr. Elliot đã phát hiện ra Deltamethrin, có tính bền ánh sáng cao,
phân hủy sinh học nhanh chóng và cực độc đối với côn trùng. Ngày nay pyrethrin
thiên nhiên chỉ dùng trong gia đình, pyrethrin tổng hợp được dùng rộng rãi và chiếm

25% thuốc diệt côn trùng phun trên lá của thế giới trong năm 1983. Có hàng ngàn chất
tương tự đã được tổng hợp, một số đã khác nhiều so với các pyrethrin nguyên thủy.
một số chất thiếu hẳn cả vòng cyclopropane trong acid chrysanthemic. Pyrethrin và
các chất cúc tổng hợp là những chất gây độc kênh muối (sodium channel) của màng
thần kinh. Các pyrethroid có ái lực rất cao đối với các kênh muối, tạo ra những thay
đổi nhỏ chức năng của kênh. Các pyrethroids thực chất là những chất gây độc chức
năng, hậu quả xấu của thuốc mang tính thứ cấp, là hậu quả của sự kích thích quá độ hệ
thần kinh. Điều này thể hiện rõ ở chỗ không tìm thấy các dấu hiệu bệnh lý trong hệ
thần kinh trung ương, ngay cả khi gây độc nặng nhiều lần cũng như sự chỉ tạo thành
các đốm hoại tử không đặc trưng và có thể phục hồi trên các thần kinh ngoại vi của
động vật bị co giật và thể hiện các triệu chứng rối loạn vận động nghiêm trọng. Sau
khi bị pyrethroid làm cho biến đổi kênh muối vẫn tiếp tục hoạt động bình thường, vẫn
duy trì được chức năng chọn lựa các ion muối và nối với điện thế màng.
b. Ức chế sự chuyển hoá năng lượng trong quá trình trao đổi chất
Sự chuyển hoá năng lượng là cơ sở tạo nên quá trình trao đổi chất trong cơ thể sống.
Không có chuyển hoá năng lượng thì không có trao đổi chất, cơ thể sẽ chết. Năng
lượng bị tiêu hao trong các hoạt động sẽ được lấy lại từ các chất hữu cơ trong thức ăn
thông qua sự hô hấp dưới nhiều chặng với sự tham gia của các men. Các hợp chất
12


Asen, Rotenone và Cyanua ức chế hoạt tính của các men hô hấp Oxydaza,
Hydrogenaza, Xitocrom làm tích luỹ acid Xetonic, ngăn cản chu trình Kreb trong qu
trình hơ hấp.
c. Ức chế quá trình lột xác của côn trùng
Là cơ chế tác động chính của các chất điều tiết sinh trưởng côn trùng (ĐTSTCT).
Thể tích vỏ cơ thể côn trùng không thay đổi sau khi đã hình thành. Vỏ này lại rất
chắc nên khi côn trùng phát triển lớn lên phải thay vỏ mới lớn hơn. Sự thay vỏ này gọi
là sự lột xác. Chất kitin là thành phần cơ bản của vỏ cơ thể, nên quá trình tổng hợp
kitin quyết định sự lột xác của côn trùng. Không tổng hợp kitin sẽ không hình thành

được lớp vỏ mới, ấu trùng không lột xác được sẽ chết. Quá trình tổng hợp kitin xảy ra
nhờ men kitin - UDPN - Acetyl glycoaminyl transferaze. Các hợp chất ĐTSTCT làm
mất hoạt tính của các men này, do đó ức chế quá trình tổng hợp kitin, do đó không
hình thành được lớp vỏ mới, ấu trùng không lột xác được mà chết.
Một số chất ĐTSTCT lại kích thích hoạt động của các men Phenoloxydaze và
kitinnaze. Các men này được kích thích sẽ ngăn cản quá trình hình thành và tích tụ
chất kitin.
Khi lột xác, trong cở thể côn trùng còn sinh ra hoocmon lột xác. Có 2 loại
hoocmon lột xác chính là Ecdizon và Ecdisteron. Một số chất ĐTSTCT có tác động ức
chế hoạt tính của các hoocmon lột xác làm cho côn trùng không lột xác được mà chết.
Ngược lại có chất ĐTSTCT như Methoxyfenozide lại kích thích hoạt tính của men
Ecdizon làm cho côn trùng lột xác sớm mà chết.
Ngoài ra có người còn cho rằng các chất ĐTSTCT ức chế sinh tổng hợp AND
(Acid deoxyribonucleic) trong tế bào mô non của lớp biểu bì phần bụng cũng làm ấu
trùng không lột xác được mà chết.
d. Hoocmon trẻ
Là các chất có trong cơ thể côn trùng, giữ vai trò điều hoà sinh trưởng và phát triển
của côn trùng cùng với các hoocmon lột xác. Các hoocmon này nếu được tích luỹ
trong cơ thể côn trùng ở nồng độ cao sẽ làm cho trứng không hình thành hoặc không
nở được, sâu non bị chết sau khi nở, không hoá nhộng hoặc không trưởng thành được.
Một số thuốc ĐTSTCT như Fenoxycarb, Prodone, Methoprene, Kinoprene,
13


Hydroprene có tác động như các hoocmon trẻ. Chất Buprofezin (Applaud) ngoài tác
dụng chống lột xác còn có tác động như một hoocmon trẻ.
e. Triệt sản
Là những chất phá huỷ khả năng sinh sản của côn trùng. Cơ chế tác động của những
thuốc này là kìm hãm sự phát triển hoặc diệt trứng, diệt tinh trùng, khống chế sự thụ
tinh, phá vỡ nhiễm sắc thể của trứng hay tinh trùng. Những thuốc này không làm giảm

tuổi thọ và hoạt động giao phối của con trưởng thành mà chỉ làm cho con cái không đẻ
hoặc đẻ ít, trứng không nở hay nở ít. Các thuốc triệt sản có độc tính cao và cũng ảnh
hưởng đến người và động vật máu nóng nên ít được sử dụng trong nơng nghiệp.
f. Cơ chế tác động của thuốc vi sinh trừ sâu
Các thuốc trừ sâu từ vi khuẩn Bacillus thuringiensis gây bệnh cho sâu bởi các độc tố
do vi sinh vật sản sinh ra. Sâu ăn phải thuốc có chứa bào tử vi khuẩn, ở ruột sâu, vi
khuẩn phát triển và sinh ra độc tố.
1.8.2. Thuốc trừ bệnh
Có 2 cơ chế tác động chính
a. Tác động trực tiếp
Ức chế các phản ứng sinh tổng hợp trong tế bào của vi sinh vật gây bệnh. Hầu hết
các thuốc trừ bệnh hiện nay kể cả các chất kháng sinh chủ yếu l tác động theo hướng
này. Các chất như Tricylazole ức chế tổng hợp Melamin làm cho sợi nấm không xâm
nhập hoặc không phát triển được trong tế bào cây ký chủ.
b. Tác động gián tiếp
Thuốc làm tăng sức đề kháng của cây ký chủ đối với ký sinh. Chất Probenazole khi
phun lên cây lúa sẽ kích thích sự hoạt động của các men chống lại sự xâm nhập của sợi
nấm gây bệnh đạo ôn (các men Peroxidaze, Lopoxidaze …). Những chất này làm tăng
khả năng miễn dịch của cây, có tác dụng phịng chống bệnh một cách cơ bản. Đây là
một hướng nghiên cứu nhiều và hy vọng trong tương lai gần sẽ đưa ra thị trường
những thuốc trừ bệnh cây có cơ chế tác động theo hướng này.
1.8.3. Thuốc trừ cỏ
Có thể tóm tắt các cơ chế tác động chính của thuốc trừ cỏ như sau:
a. Hình thành các hoocmon kích thích sinh trưởng giả
14






Nhóm thuốc: Phenoxy, Benzoic acid
Thuốc đặc trưng: 2.4D, Dicamba

b. Ức chế quá trình quang hợp



Nhóm thuốc: Phenyl urea, Triazine, Bipyridium
Thuốc đặc trưng: Diuron, Atrazine, Paraquat

c. Ức chế tổng hợp sắc tố (chlorophyl và carotenoid)



Nhóm thuốc: Diphenyl ether, Imide, Pyridazin, Isoxazolidione
Thuốc đặc trưng: Oxyfuofen, Oxadiazone, Norfluazon, Chlomazon

d. Ức chế phân chia tế bào (phá vỡ quá trình phân bào nguyên nhiễm)



Nhóm thuốc: Dinitroanilines
Thuốc đặc trưng: Trifluralin, Pendimethalin

e. Ức chế tổng hợp vitamin (tổng hợp Folate)


Thuốc đặc trưng: Asulam

f. Ức chế tổng hợp Lipid



Ức chế Accase: Thuốc đặc trưng: Fenoxaprop, Sethoxydim (nhóm thuốc: Fops

and dims)
− Liên kết

Oleate:

Thuốc đặc

trưng:

Metolachlor,

Acetochlor

(nhóm

thuốc: Chloracetamide)
g. Ức chế tổng hợp Aminoacid (Leucin, Valin, Glutamin)



Nhóm thuốc: Sulfonyl urea, Imidazolinone, Sulfonanilide, Pyrimidylbenzoate
Thuốc đặc trưng: Pyrazosulfuron, Bensulfuron Methyl, Pyribenzoxim,
Bispyribac Sodium, Glyphosate, Glufosinate

1.8.4. Thuốc trừ chuột
Có 3 cơ chế chính:

a. Gây chết nhanh
Là những chất phá huỷ hệ thống thần kinh của chuột, điển hình l các chất Stricnin,
kẽm phosphur. Chất Stricnin (có trong cây mã tiền) trực tiếp kích thích và làm rối loạn
hoạt động của hệ thần kinh trung ương. Chất kẽm phosphur ăn vào trong dạ dày, dưới
tác động của dịch vị sinh ra chất PH3, rất độc với thần kinh.
b. Gây chết chậm
15


Là những chất ức chế tổng hợp vitamin K làm máu không đông lại được (gọi là chất
chống đông máu), cơ chế thiếu vitamin K làm máu bị long, khi bị xuất huyết máu sẽ
không đông lại được, con vật bị xuất huyết nội tạng hoặc dưới da và chết dần. Thuốc
chống đông máu thế hệ 1 có nhược điểm là chỉ gây chết cho chuột khi chúng ăn phải
bả nhiều ngày liên tiếp. Thuốc chống đông máu thế hệ 2 có ưu điểm là chỉ cần chuột
ăn 1 lần là có thể chết, điển hình cho cơ chế này là các chất nhóm Coumarine.
c. Gây bệnh cho chuột
Vi khuẩn Salmonella gây bệnh đường tiêu hoá cho chuột.
18.5. Chất điều hoà sinh trưởng cây trồng
Các chất này chủ yếu là kích thích sinh trưởng cây trồng theo cơ chế chính là:



Kích thích tăng trưởng thể tích tế bào ở lá, thân, quả.
Kích thích hình thành tế bào mới, làm tăng cường sự nảy chồi, đâm rễ, ra hoa.
Bổ xung và tăng cường hoạt động của các men trong quá trình sinh tổng hợp

của cây bằng cung cấp thêm các chất vi lượng (Fe, Mn, Cu, Bo, Zn …)
− Ngược lại có những chất ức chế sinh trưởng của cây, làm cho cây phát triển
chậm lại, dùng chống lốp đổ và kích thích cây ra hoa. Những chất này hạn chế
sự hình thành Auxin v Gibberellin trong cây.


CHƯƠNG 2 TÁC ĐỘNG CỦA TBVTV ĐỐI VỚI
CÂY TRỒNG
2.1. Tác hại của chất độc tới cây trồng
− Dùng hoá chất độc ở liều lượng quá cao xử lý giống hay đất thường làm cho tỷ lệ

nảy mầm, sức nảy mầm của giống bị giảm sút, các cây mọc lên được cũng phát
triển kém, rễ ngắn, màu sắc không bình thường.
− Thuốc có tác động trên toàn bộ cây trên mặt đất trồng.
− Thuốc giảm tính chống chịu của cây trồng, ảnh hưởng đến phẩm chất của nông sản

(HCH kỹ nghệ làm cho nông sản có mùi hôi).

16


Theo quy luật chung, tác động của chất độc đến cây trồng phụ thuộc vào thành
phần cấu trúc, đặc điểm của chất đó, phụ thuộc vào đặc điểm của cây trồng và những
điều kiện ngoại cảnh.
Khi cây trồng bị hại có hai hiện tượng:


Hiện tượng bị ngộ độc cấp tính (khô, cháy, thủng, quăn queo, dòn, dễ rách, rụng

hoa trái)
− Hiện tượng bị độc mãn tính (giảm sinh trưởng, giảm tính chống chịu, chất
lượng thay đổi).
Nguyên nhân gây ra các tác hại:




Ảnh hưởng của bản thân thuốc và chất lượng thuốc
Ảnh hưởng của loài cây trồng và các giai đoạn phát triển của chúng cũng như

đặc tính sinh lý của cây trồng.
− Phương pháp sử dụng thuốc.
Do đó trong việc sản xuất thuốc người ta chú ý tới chỉ tiêu hóa trị liệu là một chỉ số
nói lên mức độ an toàn đối với thực vật của một loại thuốc khi sử dụng để trừ dịch hại
trên đồng ruộng.
2.2. Tác dụng kích thích của chất độc


Ở nồng độ thấp, một số thuốc có tác dụng kích thích nhất định đối với sinh







trưởng của cây trồng
Nâng tỷ lệ mọc
Cải thiện sự phát triển của bộ rễ: 666 1% phun lên mạ làm rễ phát triển
Tăng chiều cao cây và diện tích đồng hóa.
Làm cho cây ra hoa sớm, trái chín sớm (trường hợp một số thuốc chlor hữu cơ).
Chống đổ ngã (Kitazin)

Nguyên nhân của các tác động trên gồm có:



Thúc đẩy nhanh tác động trao đổi chất của cây trồng, tăng cường quang hợp và




hô hấp
Sự có mặt của các nguyên tố vi lượng
Tăng cường hoạt động của các vi sinh vật đất.

17


CHƯƠNG 3 TÁC ĐỘNG CỦA TBVTV TRÊN NGƯỜI
Do tính độc của TBVTV nên khi hít thở, nuốt hoặc làm đổ, tóe thuốc BVTV vào
mắt có thể sẽ gây nên một số tổn thương. Các hóa chất độc gây hại hoặc làm chết
người bằng cách ngăn trở các chức năng sinh lý sinh hóa của cơ thể. Đặc điểm và mức
độ tổn thương tùy thuộc vào tính độc của hóa chất và liều lượng xâm nhập vào cơ thể.
Một số TBVTV cực độc gây hại ở liều rất thấp, trái lại có những hóa chất ít độc gây
hại cho sinh vật với liều lượng rất cao. Vì khả năng gây nguy hiểm của các loại
TBVTV, những người làm việc với TBVTV cần phải tránh không để thuốc xâm nhập
vào cơ thể qua da, phổi, hệ tiêu hóa và mắt. Cần phải cẩn thận với mọi loại TBVTV.
Không ai có thể tiên đoán hậu quả của việc tiếp xúc lập lại lâu dài ngay cả với những
loại TBVTV ít nguy hại nhất.

18


3.1. Cách xâm nhập của thuốc vào cơ thể người
Có nhiều cách thuốc xâm nhập vào cơ thể người làm việc với thuốc BVTV nhưng
nhiều nhất là lúc pha trộn phun xịt thuốc hoặc khi đi vào vùng xử lý thuốc ngay sau

khi mới phun thuốc xong. Do đó khi vào vùng mới phun xịt thuốc cần phải có đủ dụng
cụ bảo hộ, cần phải theo đúng quy định trên nhãn hiệu về khoảng thời gian cách ly
trước thu hoạch để bảo đảm sức khoẻ cho người tiêu dùng.
Con người còn có thể tiếp xúc với liều lượng thấp của TBVTV nếu họ sống gần
vùng sử dụng thuốc, ăn phải thực phẩm bị nhiễm TBVTV, sờ vào thuốc mới phun lên
gia súc gia cầm để trừ ký sinh, sờ vào tàn lá, sản phẩm tồn trữ .v.v. có xử lý TBVTV.
TBVTV bị đổ tràn do tai nạn cũng là một mối đe dọa nghiêm trọng cho sức khoẻ con
người. Cách nhiễm độc có thể do hấp thu một lượng thuốc lớn một lần hoặc hấp thu
lâu dài nhiều lần lượng thuốc nhỏ. Con người phản ứng khác nhau với cùng một liều
lượng thuốc. Tuổi tác và thể trọng cũng ảnh hưởng đến sự hấp thu thuốc. Trẻ em và nữ
giới nhạy với thuốc hơn so với người lớn và nam giới.
3.1.1 Tiếp xúc do tai nạn
Thông thường sự tiếp xúc do tai nạn là nguy hại hơn cả, đôi khi còn do sự thiếu cẩn
thận khi tiếp xúc với thuốc. Trong nông nghiệp, số người bị tai nạn do TBVTV cao
nhất và phần lớn xảy ra khi pha chế và phun xịt thuốc. Đổ tràn, nổ hoặc các loại tai
nạn khác xảy ra trong khi chế tạo và đóng gói sẽ gây hại cho những công nhân làm
việc trong nhà máy hoặc nhân dân sống trong vùng phụ cận với nhà máy(ví dụ tai nạn
ở nhà máy Union Carbide ở Bhopal, An Độ làm thoát thuốc hơi thuốc sát trùng làm
chết gần 6000 người). Đổ tràn, cháy nổ nhà kho chứa có thể gây hại nghiêm trọng cho
công nhân, nhân viên cứu cấp và nhiều người khác.
3.1.2 Tiếp xúc do công việc
Mặc dù người phun xịt và vận chuyển bị rủi ro nhiều nhất do TBVTV , những
người khác có liên quan gián tiếp đến sản xuất nông nghiệp cũng có thể bị ảnh hưởng.
Tuân thủ theo quy định thời gian an toàn trước khi vào trở lại vùng phun xịt hóa chất
độc là cách tốt nhất để bảo vệ sức khoẻ của nông dân. Huấn luyện cách sử dụng thuốc
an toàn cho nông dân là một việc làm rất cần thiết. Rửa sạch sẽ các dụng cụ phun xịt
thuốc là biện pháp rất cần thiết để tránh vấy thuốc vào người khi phun xịt lần sau. Bảo
19



đảm thời gian dừng thuốc trước thu hoạch vừa bảo vệ sức khoẻ người tiêu thụ vừa bảo
vệ công nhân trong các xưởng đóng hàng nông sản, trong nhà máy chế biến nông sản.
Nông dân làm việc trong nhà kiếng, vườn ươm tiếp xúc dễ dàng với tàn lá dính thuốc
do trồng cây dày và lối đi lại chật hẹp cũng như không khí ít thông thoáng. Điều kiện
này cũng xảy ra cho những người phun xịt thuốc trong những nơi khép kín như nhà ở,
kho tàng, nhà xưởng, văn phòng. Do vậy những người làm việc trong các điều kiện
này cần phải luôn luôn mang dụng cụ bảo hộ lao động.
3.1.3 Tiếp xúc với thuốc trong nhà ở
Dùng quá nhiều hoặc không đúng cách TBVTV trong nhà ở sẽ gây hại cho con
người. Thường gặp nhất trong các vùng phi nông nghiệp là trường hợp trẻ con tình cờ
nuốt phải TBVTV. Cần phải để thuốc tránh xa tầm tay của trẻ con.
3.1.4 Tiếp xúc qua thực phẩm bị nhiễm thuốc
Dư lượng TBVTV trên thực phẩm thường làm cho người tiêu thụ bị trúng độc. Dư
lượng trong thực phẩm còn nhiều là do nông dân sử dụng sai các loại TBVTV. Một số
loại TBVTV để lại dư lượng trên thực phẩm theo những độ dài thời gian khác nhau tùy
theo loại thuốc và nông sản. Các loại TBVTV tồn lưu trong đất cũng có thể được cây
hút vào và tạo ra dư lượng trong nông sản thực phẩm. Các cơ quan quốc tế như FAO,
WHO đã đề ra những tiêu chuẩn dư lượng trong nông sản thực phẩm, từng quốc gia
cũng đề ra tiêu chuẩn riêng của mình tùy theo điều kiện cụ thể. Trên các nhãn thuốc
thường quy định liều lượng và thời gian dừng thuốc trước thu hoạch, cần phải tuân thủ
theo các hướng dẫn này. Những cơ quan chịu trách nhiệm về an toàn thực phẩm phải
thường xuyên kiểm nghiệm để giám sát dư lượng trong thực phẩm. Thỉnh thoảng, thực
phẩm cũng bị nhiễm TBVTV do sự sử dụng sai TBVTV sau khi thu hoạch. TBVTV
thường được dùng trong việc bảo quản các nông sản trong kho vựa, thường bằng cách
xông hơi. Công nghiệp thực phẩm có thể dùng TBVTV trong khi đóng kiện, chế biến
và đóng gói hộp để tiêu diệt hoặc ngăn ngừa dịch hại bên trong cũng như bên ngoài
nhà máy. Đôi khi TBVTV cũng được dùng ở những nơi tồn trữ và bán lẻ thực phẩm để
phòng diệt các dịch hại xâm nhiễm. Các tiệm ăn cũng có thể dùng TBVTV để diệt bọn
gặm nhấm. Để có thể giám sát dư lượng một cách hiệu quả cần phải có đủ hệ thống
luật lệ cần thiết và nhà nước phải kiểm tra các cơ sở chế biến, tồn trữ và phân phối

20


nông sản thực phẩm. Nếu sử dụng quá nhiều TBVTV để tiêu diệt ký sinh sống trên cơ
thể các loại gia súc, gia cầm có thể dẫn tới sự nhiễm độc các sản phẩm sữa trứng thịt.
Để giải quyết tình trạng này cũng cần phải có luật lệ và sự kiểm soát của nhà nước.
Cần phải có thời gian cách ly sau khi sử dụng TBVTV trên các sản phẩm được dùng
làm thức ăn cho gia súc gia cầm. Nước uống nhiễm TBVTV cũng là một cách đưa
thuốc vào cơ thể con người. Thông thường sự thải bỏ hoặc dùng không đúng cách
TBVTV cũng làm cho nước ngầm hay nước mặt bị nhiễm thuốc sát trùng
3.1.5 Sự tiếp xúc với TBVTV từ các nguồn khác
Các nguồn khác có thể là: (1) thuốc dư lại sau khi xông hơi nhà ở hoặc khu vực làm
việc, (2) thuốc dính trên đồ gỗ, thảm lót nhà được xử lý TBVTV để chống côn trùng,
nấm mốc, (3) thuốc lưu lại trên các động vật nuôi trong nhà được xử lý thuốc để chống
ký sinh trùng.
3.2. Các con đường thuốc đi vào cơ thể
TBVTV có thể đi vào cơ thể qua nhiều con đường. Các con đường hay gặp nhất là:
(1) qua da; (2) qua miệng; (3) qua hệ hô hấp; và (4) qua mắt.
3.2.1 Qua da
Đây là con đường tiếp xúc thông thường nhất. Khi dính vào da, TBVTV thường gây
mẫn đỏ hoặc kích ứng, một số TBVTV khác có thể làm hư da. Nếu lượng thuốc thấm
qua da quá nhiều sẽ dẫn đến nhiễm độc máu và các cơ quan của cơ thể. Sự thấm qua
da tùy thuộc vào loại TBVTV. Các loại thuốc dễ hòa tan trong dầu hoặc các dung môi
dầu lửa thấm sâu vào da dễ dàng hơn những thuốc hòa tan dễ dàng vào trong nước. Để
phòng ngừa sự tiếp xúc qua da cần phải mang đầy đủ dụng cụ bảo hộ khi làm việc với
TBVTV.
3.2.2 Qua đường miệng
Sự xâm nhập TBVTV qua đường miệng xảy ra do việc tình cờ nuốt phải thuốc, do
sự toé thuốc vào miệng khi pha thuốc, ăn uống các thực phẩm thức uống bị nhiễm
TBVTV. Hút thuốc khi sử dụng thuốc cũng đưa TBVTV vào cơ thể. Thuốc được thấm

vào máu qua màng lót của miệng, bao tử và ruột. Cần phải để riêng thực phẩm ra khỏi
các khu vực tồn trữ, pha chế thuốc, giữ tất cả TBVTV trong chai lọ nguyên thủy,
21


không nên chiết tách ra các loại chai lọ vốn dùng để đựng các chất lỏng khác. Không
được dùng dụng cụ nhà bếp để đong đo TBVTV.
3.2.3 Qua đường hô hấp
Những người sử dụng thuốc sát trùng có thể bị tổn hại do bụi hoặc hơi của TBVTV
đi vào phổi. Nếu không mang khẩu trang thì rất khó tránh hít phải thuốc hoặc bụi trong
khi pha trộn TBVTV.
3.2.4 Qua mắt
Thuốc đi vào mắt sẽ gây nên những tổn hại nghiêm trọng và từ đó có thể đi vào cơ
thể qua hệ tuần hoàn. Khi TBVTV vương vào mắt phải dội rửa thật nhiều bằng nước
sạch trong vòng 15 phút, sau đó phải đến bác sĩ để khám điều trị nếu cần.
3.3. Hậu quả của sự tiếp xúc với TBVTV
Hình thức ngộ độc và độ trầm trọng tùy thuộc vào độ độc của thuốc, cách thức tác
động của TBVTV; lượng thuốc thấm vào cơ thể và khả năng phân hủy bài tiết TBVTV
của cơ thể. Độ trầm trọng do ngộ độc có thể giảm đi nếu sơ cứu sớm. Hậu quả của sự
tiếp xúc có thể cục bộ như rát mắt, da, cổ họng hoặc toàn cơ thể nếu TBVTV thấm vào
trong máu và dẫn đến các cơ quan khác. TBVTV có thể ảnh hưởng đến nhiều hệ thống
bên trong cơ thể cùng lúc. Nếu tiếp xúc với TBVTV và có nghi ngờ bị nhiễm độc cần
phải đi kiểm tra sức khoẻ.
3.3.1 Triệu chứng ngộ độc
Triệu chứng ngộ độc là những điều kiện bất thường mà bệnh nhân thấy hoặc cảm
nhận được hoặc thông qua các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng cơ
thể bị tổn hại, tật bệnh hoặc rối loạn. Sự nhiễm độc có thể ở dạng cấp tính thể hiện ra
ngoài lập tức hoặc kinh niên, chỉ thể hiện sau một thời gian dài tiềm ẩn. Một số các
triệu chứng thường gặp:
 Các triệu chứng có thể có do da tiếp xúc với dạng bụi, lỏng và hơi TBVTV

− Da bị nhuốm màu
− Da bị đỏ lên ở vùng tiếp xúc
− Phỏng nhẹ hoặc cảm giác ngứa ngáy
− Cảm giác cháy bỏng đau rát
− Da phồng dộp lên
− Móng tay chân bị nứt và tổn hại

22


 Các triệu chứng có thể xảy ra khi thuốc dạng bột, lỏng hoặc hơi vương vào mắt
− Khó chịu, bao gồm chảy nước mắt và bỏng nhẹ
− Bỏng dộp nặng đau rát (có thể thiệt hại mắt vĩnh viễn)
 Các triệu chứng có thể xảy ra do hít hoặc nuốt TBVTV ở dạng bột, lỏng hoặc hơi
− Nhảy mũi
− Kích thích mũi và cổ họng
− Nghẹt mũi
− Sưng tấy miệng và cổ họng
− Ho
− Khó thở
− Thở ngắn hơi
− Đau ngực

Các triệu chứng nhiễm độc thay đổi tùy theo nhóm thuốc và tùy theo cả các
TBVTV khác nhau trong cùng một nhóm. Triệu chứng tùy theo liều lượng tiếp xúc.
Các triệu chứng thông thường gồm: nổi mẫn da, đau đầu hoặc kích thích mắt, mũi,
họng. Các triệu chứng này có thể biến mất đi sau một thời gian ngắn hoặc đôi khi khó
phân biệt với triệu chứng do dị ứng hoặc cảm cúm. Các triệu chứng khi hấp thu một
lượng lớn thuốc thường là: mờ mắt, chóng mặt, ra mồ hôi, suy yếu, ói mửa, đau bao
tử, tiêu chảy, rất khát nước, bồn chồn, cáu kỉnh, da phòng dộp, co giật, lắc lư và mất

nhận thức. Mặc dù các triệu chứng vừa kể có thể chỉ ra sự trúng độc, vẫn có thể lầm
lẫn với triệu chứng do bệnh tật hoặc rối loạn cơ thể. Thông thường cần phải có xét
nghiệm y khoa cẩn thận.
3.3.2 Loại tổn thương
Các tổn thương có thể sinh ra do cơ thể hấp thu một lượng lớn thuốc một lần hay
hấp thu nhiều lần và lâu dài các lượng nhỏ. Tổn thương có thể xảy ra ở dạng cấp tính,
đột phát và mau dứt hoặc dạng kinh niên kéo dài rất lâu. Các tổn thương gây ra có thể
hồi phục một cách tự nhiên do khả năng cơ thể hay do điều trị bằng y dược hoặc
không thể hồi phục mà để lại các di chứng như đau bệnh kinh niên, mất khả năng và
chết.
3.3.3 Các ảnh hưởng khác trên con người
 Dị ứng

Có một số người bị dị ứng với các loại TBVTV sử dụng ở nơi làm việc hoặc nơi ở.
Chất gây dị ứng có thể là bản thân hoạt chất TBVTV hoặc các phụ liệu có mặt trong
23


chế phẩm. Triệu chứng có thể là khó thở, nhảy mũi, chảy nước mắt và ngứa mắt, da
nổi mẫn, khó chịu trong người .
 Lo âu

Sự lo âu phải tiếp xúc với TBVTV một phần gây ra do sự thiếu thông tin hoặc nhận
thông tin sai lạc về khả năng gây nguy hại của việc sử dụng TBVTV. Các trường hợp
tai nạn, ngộ độc, và dư lượng trong thực phẩm được công bố thường xuyên trên
phương tiện thông tin đại chúng và tiếp tục được công chúng quan tâm. Tuy nhiên
thông tin về sự ích lợi của việc sử dụng đúng đắn TBVTV đến nông dân hãy còn ít ỏi.

CHƯƠNG 4 TÁC ĐỘNG CỦA TBVTV
LÊN HỆ SINH THÁI




Ảnh hưởng tới quần thể sinh vật: tăng loài này và giảm loài kia.
Tiêu diệt số lượng lớn thiên địch: TBVTV nếu không sử dụng đúng cách sẽ có thể

diệt một số các loài thiên địch có lợi.
− Dùng thuốc trừ nấm làm tăng sâu: dùng Bordeaux trừ bệnh loét cam lại làm cho
dân số rệp nhớt tăng lên (Bordeaux tiêu diệt các nấm ký sinh trên rệp nhớt Icerya







purchasi do đó dân số chúng tăng lên).
Diệt côn trùng thụ phấn ảnh hưởng tới năng suất cây trồng.
Ảnh hưởng đến ngành nuôi ong mật.
Ảnh hưởng đến ngành thủy sản.
Ảnh hưởng đến sức sống của chim và thú hoang.
Ảnh hưởng tới hệ vi sinh vật đất.
Cuối cùng là ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

24


CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN
Thuốc bảo vệ thực vật là những hợp chất hoá học (vơ cơ, hữu cơ), những chế phẩm
sinh học, những chất có nguồn gốc thực vật. Được sử dụng để bảo vệ cây trồng và

nông sản, chống lại sự phá hại của những sinh vật hại như: Côn trùng, nấm, vi khuẩn,
cỏ dại, chuột…
Hiểu được các cơ chế cũng như các tác động của TBVTV lên trên các sinh vật kể cả
con người, chúng ta cần có giải pháp và cách sử dụng TBVTV hợp lý theo tiêu chí 4
đúng:





Đúng thuốc,
Đúng lúc,
Đúng nồng độ liệu lượng,
Đúng cách,

Muốn thực hiện tốt các nguyên tác trên, chúng ta phải hiểu thấu đáo mối quan hệ
qua lại giữa chât độc, dịch hại và điều kiện ngoại cảnh. Đồng thời phải kết hợp hài hòa
giữa biện pháp hóa học với các biện pháp BVTV khác trong hệ thống phòng trừ tổng
hợp.
25


×