Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN kinh nghiệm bước đầu trong việc xây dựng môi trường sư phạm dân chủ, công bằng, hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.35 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang
Đặt vấn đề
Giải quyết vấn đề

2

4

Chương I: Cơ sở lí luận của vấn đề.
4
1. Khái niệm.
4
2. Những vấn đề lí luận cơ bản.
4
Chương II
Thực trạng vấn đề xây dựng môi trường dân chủ, công bằng, hiện đại tại
nhà trường trước khi triển khai sáng kiến kinh nghiệm.
6
1. Đặc điểm tình hình chung.
6
2. Một số khó khăn, tồn tại trong việc xây dựng nhà trường theo hướng dân chủ,
Công bằng, hiện đại.
6
Chương III
Các biện pháp xây dựng môi trường dân chủ, công bằng, hiện đại tại nhà trường 8
I. Nguyên tắc.
8
II. Các biện pháp đã và đang triển khai thực hiện.
8
1. Xây dựng môi trường sư phạm dân chủ.


8
1.1. Chủ trương phương châm: Mọi người được biết, được bàn,
được làm, được kiểm tra.
1.2. Bám sát quyền và nhiệm vụ của CBGVNV, học sinh
tại Điều lệ trường học.
1.3. Phát huy quyền tự do, dân chủ, duy trì đối thoại thường xuyên.
1.4. Thực hiện quan điểm: Trường học là của dân, do dân, vì dân.
2. Xây dựng môi trường sư phạm công bằng.
11
2.1. Quan điểm đánh giá đúng mực,không thiên vị, có lí có tình.
2.2. Nhiều lực lượng cùng tham gia phối hợp theo dõi, đánh giá.
2.3. Thực hiện triệt để sự công bằng.
3. Xây dựng môi trường sư phạm hiện đại.
12
3.1. Xây dựng tư tưởng, tác phong hiện đại.
3.2. Một số hoạt động cụ thể:
Chương IV Hiệu quả đạt được khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
15
1. Xây dựng môi trường sư phạm dân chủ.
15
2. Xây dựng môi trường sư phạm công bằng.
16
3. Xây dựng môi trường hiện đại.
16
Kết luận

19

Danh mục tài liệu tham khảo


21
1


PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương
Đảng (Khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” nêu rõ: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ
yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với
giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”. Điều đó cho thấy việc xây dựng môi trường
giáo dục là cực kì quan trọng. Muốn nâng cao đội ngũ, đổi mới giáo dục, thì trước
hết phải tạo dựng được môi trường giáo dục lành mạnh theo hướng dân chủ, công
bằng, hiện đại. Cha ông ta thường nói: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, xã hội nào,
môi trường nào sẽ tạo ra con người ấy, tính cách ấy. Giáo dục miền núi vốn gặp rất
nhiều khó khăn, như thiếu thốn cơ sở vật chất, địa bàn rộng, nhận thức của nhân
dân còn nhiều hạn chế,...Tuy nhiên, một trong những vấn đề nan giải của giáo dục
cả nước hiện nay nói chung và giáo dục miền núi nói riêng là việc xây dựng cho
được một môi trường sư phạm thực sự dân chủ, thực sự công bằng và phát triển
theo hướng hiện đại.
Nếu không xây dựng được môi trường giáo dục dân chủ, công bằng, hiện đại
thì không thể nâng cao được chất lượng đội ngũ, không thể nâng cao được chất
lượng giảng dạy và học tập, không thể nói đến chuyện đổi mới giáo dục. Tìm ra các
giải pháp hiệu quả để từng bước xây dựng môi trường giáo dục ưu việt tại vùng đặc
biệt khó khăn là vấn đề có ý nghĩa hết sức to lớn trong công tác quản lí giáo dục và
hoạt động giảng dạy hiện nay.
Trong sự phát triển và xu hướng đổi mới của sự nghiệp giáo dục và đào tạo
cả nước, việc xây dựng một môi trường sư phạm tích cực, ưu việt là nhu cầu bức
thiết, là nền tảng quan trọng tạo sự đổi mới, bứt phá của các cá nhân nhà giáo, học

sinh, nhận thức xã hội. Trường THPT số 4 Văn Bàn đang nỗ lực thực hiện nhiệm
vụ chính trị với chủ đề năm học: “Tiếp tục đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng
giáo dục”; năm học tiếp tục thực hiện các cuộc vận động lớn: cuộc vận động “Thi
thật, học thật”, đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, “Mỗi thầy cô giáo là
một tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo”, “Dân chủ, kỉ cương, tình thương,
trách nhiệm”,... Là một trường thuộc vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, mới
2


hình thành và phát triển, nhận thức của xã hội còn bất cập nên những vấn đề tồn
hạn, hạn chế trong môi trường giáo dục là không thể tránh khỏi.
Từ những lý do khách quan và chủ quan như trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài:
Kinh nghiệm bước đầu trong việc xây dựng
môi trường sư phạm dân chủ, công bằng, hiện đại.
Đề tài này hướng tới việc nêu ra những thực trạng, lý giải những tồn tại, khó
khăn trong công tác xây dựng môi trường sư phạm dân chủ, công bằng, hiện đại để
nâng cao chất lượng giáo dục, thực hiện công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo theo tinh thần nghị quyết trung ương 8. Từ đó, đề xuất một số biện
pháp để từng bước xây dựng môi trường giáo dục tích cực theo hướng dân chủ, công
bằng, hiện đại để nhà trường thực sự là trường học của dân, do dân, vì dân.
Do điều kiện thời gian không cho phép, do khả năng nghiên cứu của bản thân
có hạn nên chuyên đề sáng kiến kinh nghiệm này tự giới hạn trong phạm vi nghiên
cứu như sau:
- Chỉ ra cơ sở lí luận, cơ sở pháp lí của vấn đề nghiên cứu.
- Tập trung tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng việc thực hiện xây dựng môi
trường sư phạm tại đơn vị.
- Đề xuất những biện pháp đã và đang được áp dụng nhằm từng bước xây
dựng nhà trường thành một môi trường sư phạm dân chủ, công bằng, hiện đại.
- Đưa ra một số kinh nghiệm, một số kết quả bước đầu đạt được khi áp dụng

sáng kiến kinh nghiệm.

3


PHẦN II - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1. KHÁI NIỆM.
1.1. Dân chủ.
Tôn trọng và thực hiện quyền mọi người tham gia bàn bạc và quyết định các công
việc chung. (Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học 1998,
trang 238).
1.2. Công bằng.
Theo đúng lẽ phải, không thiên vị. (Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng,
Trung tâm từ điển học 1998, trang 200).
1.3. Hiện đại.
Sự áp dụng những phát minh, những thành tựu mới nhất của khoa học kĩ thuật
ngày nay, những tư tưởng tân tiến vào cuộc sống. (Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà
Nẵng, Trung tâm từ điển học 1998, trang 422).
1.4. Môi trường giáo dục dân chủ, công bằng, hiện đại.
Là môi trường giáo dục luôn có sự áp dụng những phát minh, những thành tựu mới
nhất của khoa học kĩ thuật, những tư tưởng tân tiến, trong đó mọi người được tôn trọng, được
tham gia bàn bạc và quyết định các công việc chung, được đối xử bình đẳng theo lẽ phải.
2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN.
2.1. Cơ sở lí luận.
Lịch sử loài người đã trải qua nhiều hình thái xã hội: Xã hội cộng sản nguyên thủy, xã
hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Các hình thái xã hội ra đời sau càng thể hiện sự ưu việt của mình. Tính chất dân chủ, công
bằng, hướng tới những yếu tố mới mẻ ngày càng thể hiện rõ rệt ở những xã hội mà nền

văn minh được khẳng định.
Giáo dục là sản phẩm của xã hội. Xã hội nào thì sẽ cần đến một nền giáo dục tương
ứng để phục vụ trở lại xã hội. Xã hội phong kiến với quyền uy tối thượng của nhà vua cần
đến một nền giáo dục tạo ra những con người biết trung thành một cách mù quáng. Xã
hội ta ngày nay coi trọng quyền làm chủ của nhân dân, hướng tới xây dựng một xã hội
công bằng, văn minh nên cũng cần đến một nền giáo dục mà ở đó mọi người được tôn
trọng, được phát huy quyền dân chủ, được đối xử công bằng, được tiếp cận với những
thành tựu khoa học hiện đại, tư tưởng tiên tiến.
Dân chủ
Công bằng
4

Hiện đại


Trong quá trình hình thành và phát triển, bất cứ cơ sở giáo dục nào, môi trường giáo
dục nào cũng đều nảy sinh những khó khăn, thách thức mang tính đặc trưng của địa
phương, vùng miền. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải biết vượt qua những khó khăn thử
thách, vượt khó để hoàn thành mục tiêu giáo dục đề ra. Những khó khăn, thử thách luôn
nảy sinh từ thực tế vô cùng đa dạng, phong phú, đòi hỏi các nhà sư phạm phải tìm ra giải
pháp tháo gỡ, thúc đẩy giáo dục phát triển.
2.2. Cơ sở pháp lý.
Nhà nước ta đã ban hành Luật giáo dục sửa đổi và bổ sung năm 2009, Bộ Giáo dục
- Đào tạo đã ban hành Điều lệ Trường phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số
12/2011/TT-BGD&ĐT ngày 28/3/2011; Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành trung ương
Đảng (Khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Đó chính là cơ sở pháp
lý của đề tài.
- Luật giáo dục.

+ Điều 3 chương I nói rõ tính chất, nguyên lí của giáo dục:
“Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết
hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.
- Điều lệ trường THPT: Điều 3, Chương I: nói về nhiệm vụ, quyền hạn của trường
THPT là "Quản lý giáo viên, nhân viên và học sinh"; "tổ chức giảng dạy, học tập và các
hoạt động giáo dục khác theo chương trình giáo dục trung học do Bộ trưởng Bộ GD-ĐT
ban hành".
- Cương lĩnh Đại hội Đảng XI (2011) chỉ rõ: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và
điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”.
Nghị quyết số 29-NQ/TW (Đại hội XI) nêu rõ: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục
từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục
gia đình và giáo dục xã hội”.

CHƯƠNG II
5


THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG
DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, HIỆN ĐẠI TẠI NHÀ TRƯỜNG
TRƯỚC KHI TRIỂN KHAI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CHUNG.
- Văn Bàn là một huyện miền núi vùng cao của tỉnh Lào Cai vừa bổ sung vào danh
sách 23 huyện của cả nước nằm trong diện đầu tư đặc biệt theo Nghị quyết 30a. Huyện có
19/23 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn hiện đang thụ hưởng chương trình 135 giai đoạn 2
(2014-2015). Nhân dân đa số là đồng bào dân tộc (78 %), trình độ dân trí thấp, tỷ lệ hộ

nghèo cao hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước (51,7 % - theo chuẩn nghèo
mới). Giao thông đi lại khó khăn, nhất là về mùa mưa lũ.
- Trường THPT số 4 Văn Bàn đóng tại xã Khánh Yên Hạ. Đây là một xã thuộc
vùng đặc biệt khó khăn, trình độ dân trí khá thấp, còn tồn tại nhiều tập tục lạc hậu. Học
sinh của trường gồm 05 xã (Khánh Yên Trung, Khánh Yên Hạ, Chiềng Ken, Liêm Phú,
Nậm Tha – Tất cả các xã trên đều thuộc vùng đặc biệt khó khăn). Hệ thống giao thông
đến các thôn bản rất khó khăn, việc tới trường học tập của học sinh các xã vùng cao này
luôn là một thử thách rất lớn với các em, tư duy của các bậc cha mẹ học sinh còn nhiều
hạn chế, …. Tất cả những điều đó đã khiến cho môi trường giáo dục dễ rơi vào trì trệ,
chậm phát triển.
2. MỘT SỐ KHÓ KHĂN, TỒN TẠI TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ TRƯỜNG
THEO HƯỚNG DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, HIỆN ĐẠI.
2.1. Tư tưởng yên thân, dĩ hòa vi quý, ngại va chạm, ngại thay đổi.
Do trình độ hiểu biết, nhận thức hạn chế nên bà con nhân dân tại địa phương
thường có tư tưởng yên thân, ngại va chạm, ngại tham gia vào các công việc của nhà
trường, nhất là các công việc liên quan đến tài chính từ các nguồn xã hội hóa. Một số bà
con không dám thể hiện quyền làm chủ vì có suy nghĩ sợ làm ảnh hưởng không tốt đến
con em mình đang học tập tại nhà trường.
Nhà trường mới thành lập nên đội ngũ khá non trẻ, mới vào nghề. Một số không
nhỏ cũng có tư tưởng “dĩ hòa vi quý”, sợ ảnh hưởng đến bản thân nên không dám phát
biểu, bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình trước tập thể. Nhiều khi quyền lợi bị bỏ
quên hoặc không được thực hiện kịp thời nhưng cũng không dám lên tiếng thắc mắc.
Việc thực hiện quyền dân chủ trong nhà trường của học sinh, cha mẹ học sinh, cán bộ
giáo viên, nhân viên nhiều khi xuất phát từ sự đốc thúc của lãnh đạo nhà trường chứ
chưa phải từ nhu cầu của các tầng lớp, lực lượng trên.
2.2. Cơ chế giám sát, đánh giá, tổ chức thực hiện chưa chặt chẽ.
Từ khi thành lập, hàng năm nhà trường vẫn thường tổ chức các phong trào thi
đua theo tháng, theo đợt chào mừng các ngày lễ lớn song việc tổ chức thực hiện chưa
6



thực sự khoa học, hiệu quả; các đợt thi đua còn hạn chế, tác dụng giáo dục, tuyên
truyền chưa rõ rệt.
Mặt khác, trong quá trình triển khai thực hiện, nhà trường chưa có cơ chế giám sát
chặt chẽ, việc đánh giá chưa thực sự khách quan, khoa học nên còn gây thắc mắc, chưa
thực sự hài lòng đối với cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh thậm chí cả phụ huynh học
sinh nhà trường.
2.3. Cơ sở vật chất thiếu thốn, nguồn ngân sách hạn hẹp.
Trường THPT số 4 Văn Bàn thành lập tháng 7/2007. Trong suốt 4 năm đầu 20072011, nhà trường phải đi học nhờ tại Trường THCS Khánh Yên Hạ. Tháng 9/2011, nhà
trường chuyển ra cơ sở mới nên cơ sở vật chất hết sức thiếu thốn, tạm bợ. Hiện tại, nhà
trường vẫn còn 19 ngôi nhà tạm (nhà gỗ đã cũ lợp broxi măng), trong đó có 10 ngôi nhà
là phòng học cho học sinh khối lớp 10,11.
Nguồn ngân sách nhà nước cấp hàng năm rất hạn hẹp, 90 % dùng để trả lương và
các chế độ, chính sách của cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh. Số còn lại chỉ tạm đủ
chi cho các khoan chi thường xuyên phục vụ hoạt động của nhà trường nên việc mua sắm
trang thiết bị, cơ sở vật chất phục vụ cho việc hiện đại hóa nhà trường rất hạn chế.

CHƯƠNG III
CÁC BIỆN PHÁP XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG
DÂN CHỦ, CÔNG BẰNG, HIỆN ĐẠI TẠI NHÀ TRƯỜNG.
7


I. NGUYÊN TẮC .
1. Thực hiện nghiêm túc chủ trương của Bộ GD-ĐT về công tác phát triển giáo dục
miền núi, giáo dục vùng dân tộc ít người, vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Trên cơ sở đó,
nhà trường vận dụng một cách linh hoạt, khoa học việc xây dựng môi trường sư phạm
theo hướng dân chủ, công bằng, hiện đại vào thực tiễn tại đơn vị.
2. Phát huy tính tích cực, chủ động của mọi lực lượng trong việc tham gia xây
dựng môi trường sư phạm theo hướng dân chủ, công bằng, hiện đại . Yêu cầu mỗi cán bộ,

giáo viên, nhân viên; vận động mỗi học sinh, cha mẹ học sinh tự giác, tích cực, chủ động
cùng nhà trường trong việc thực hiện chuyên đề.
3. Chủ động kết hợp hài hoà giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài. Phối hợp linh
hoạt, khéo léo từng biện pháp, từ đó từng bước nâng dần ý thức dân chủ, mạnh dạn đấu
tranh cho sự công bằng, từng bước xây dựng nhà trường theo hướng hiện đại.
4. Lãnh đạo nhà trường cần có ý thức trách nhiệm rõ ràng trong việc thực hiện
chuyên đề này. Người Hiệu trưởng ở đây đồng thời phải là một thuyền trưởng cầm lái
vững vàng, xuất sắc đưa con thuyền nhà trường tới tầm nhìn đã định. Hiệu trưởng cần làm
tốt công tác tư tưởng để mọi lực lượng trong và ngoài nhà trường có thái độ nghiêm túc,
cầu thị. Cần có sự thống nhất trong việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo điều
hành và kiểm tra, giám sát để đạt hiệu quả mong đợi.
II. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ VÀ ĐANG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN.
1. Xây dựng môi trường sư phạm dân chủ.
1.1. Chủ trương phương châm: “Mọi người được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra”.
Tất cả mọi vấn đề của nhà trường mọi cán bộ, giáo viên, nhân viên cần được biết, như
vấn đề quy hoạch cán bộ, quy định về tăng lương trước thời hạn, thay đổi quy chế nội bộ,…
Những vấn đề thuộc về học sinh, cha mẹ học sinh cũng cần cho học sinh, cha mẹ học sinh biết.
Khi đã biết, mọi người cần được bàn để thông suốt tư tưởng. Trong năm học 20132014, Nhà trường chủ trương thực hiện một số công trình lớn, như lễ đài, sân trung tâm, hệ
thống chiếu sáng tại các lớp … Các công trình này đều được đưa ra để cán bộ, giáo viên, nhân
viên và Ban đại diện cha mẹ học sinh nhà trường trao đổi, đóng góp ý kiến về hình thức, nội
dung công trình, cách làm, giá cả,…
Khi đã thông suốt tư tưởng, quan điểm mới tiến hành làm. Việc thực hiện có thể thuê
mướn hoặc tự làm song điều quan trọng là mọi người phải được tham gia giám sát, đánh giá
chất lượng công trình. Các công trình của nhà trường trong thời gian qua và hiện tại đều được
các cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường tham gia giám sát, có ý kiến điều chỉnh kịp thời.
1.2. Bám sát quyền và nhiệm vụ của cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh tại Điều lệ
trường học.

8



Điều 31, Điều 32 – Điều lệ trường học nói rõ nhiệm vụ và quyền của giáo viên trường
trung học. Qua đó, giáo viên thấy rõ quyền tự do, dân chủ và trách nhiệm của mình trong môi
trường giáo dục.
Điều 38, Điều 39 – Điều lệ trường học nói rõ nhiệm vụ và quyền của học sinh. Qua tuần
lễ sinh hoạt đầu năm, cần cho các em thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với nhà
trường, từ đó giúp các em cùng nhà trường từng bước xây dựng một môi trường học đường
dân chủ, công bằng.
1.3. Phát huy quyền tự do, dân chủ, duy trì đối thoại thường xuyên.
Phát huy quyền tự do, dân chủ trong các cuộc họp: Nhà trường đặc biệt chú trọng
tới hai hội nghị trong năm học: Hội nghị cán bộ, viên chức đầu năm học và Hội nghị
điều chỉnh Quy chế nội bộ đầu năm dương lịch. Trong các hội nghị trên và trong các
cuộc họp toàn trường hàng tháng, nhà trường luôn dành thời gian thích đáng cho cán bộ,
giáo viên, nhân viên đóng góp ý kiến, phát biểu bày tỏ quan điểm và đưa ra các giải
pháp khắc phục khó khăn, góp phần xây dựng nhà trường. Trong các cuộc họp có thể có
những quan điểm trái chiều, mâu thuẫn, song lãnh đạo nhà trường vẫn kiên trì lắng
nghe, đồng thời động viên các cán bộ, giáo viên, nhân viên tích cực phát biểu, thể hiện
rõ quan điểm, suy nghĩ của mình. Tất cả đều nhằm tạo ra bầu không khí thoải mái, cởi
mở, cảm thấy được tôn trọng, được đề cao. Trên cơ sở những ý kiến đề xuất, kiến nghị,
lãnh đạo nhà trường đưa ra hướng giải quyết hợp tình, hợp lí, hiệu quả nhất.
Phát huy quyền tự do, dân chủ trong phân công nhiệm vụ: Trên tinh thần tự do, dân
chủ, trước khi phân công nhiệm vụ, nhà trường thường để cho cán bộ, giáo viên, nhân
viên cùng trao đổi, thảo luận, tự nhận nhiệm vụ dựa trên trình độ năng lực của bản thân.
Sau đó, các nhóm chuyên môn sẽ tổng hợp gửi cho tổ trưởng phụ trách, các tổ trưởng sẽ
căn cứ vào nhiệm vụ của tổ mình và trình độ, năng lực của mỗi tổ viên mà có sự điều
chỉnh cho hợp lí. Các tổ trưởng trình bản dự kiến phân công nhiệm vụ điều chỉnh của tổ
lên Ban giám hiệu. Ban giám hiệu trao đổi, thảo luận và đi kết luận cuối cùng. Trong
quá trình thực hiện, việc phân công nhiệm vụ tiếp tục được điều chỉnh với sự góp ý,
phản hồi của cán bộ, giáo viên, nhân viên theo hướng hợp lí nhất. Với cách làm đó,
người được phân công nhiệm vụ sẽ cảm thấy thoải mái, tự tin vào chính mình và sẽ tìm

mọi cách để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Duy trì đối thoại thường xuyên: Trong năm học 2013-2014, nhà trường đã tổ chức
đối thoại thường xuyên với học sinh. Trong các giờ chào cờ, bên cạnh các hoạt động
tuyên truyền, giáo dục kĩ năng sống, nhà trường thường dành khoảng 7 – 10 phút để tổ
chức đối thoại giữa học sinh và nhà trường. Học sinh được yêu cầu chuẩn bị hệ thống
câu hỏi từ trước; đối tượng trả lời là toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên, từ hiệu
trưởng đến bảo vệ nhà trường. Qua hoạt động này, học sinh cảm thấy phấn khởi hơn vì
được thực hiện quyền của mình; các thầy cô giáo, cán bộ, nhân viên làm việc có trách
nhiệm hơn vì mọi việc làm của mình có thể được học sinh soi xét, đem ra chất vấn.
9


1.4. Thực hiện quan điểm: Trường học là của dân, do dân, vì dân.
Để xây dựng môi trường sư phạm dân chủ, nhà trường thực hiện quan điểm:
“Trường học là của dân, do dân, vì dân”. Quan điểm này đã được công khai thành khẩu
hiệu và đang từng bước hiện thực hóa. Hiện tại, nhà trường đã có phòng tiếp công dân,
đã xây dựng nội quy tiếp dân và tổ chức tiếp công dân trong tất cả các ngày làm việc.
Lãnh đạo nhà trường thường xuyên yêu cầu cán bộ, giáo viên, nhân viên khi tiếp công
dân phải đảm bảo giải quyết công việc đơn giản, nhanh gọn, người dân không phải chờ
đợi lâu, không phải đi lại nhiều lần. Quan điểm tiếp dân được niêm yết công khai tại
phòng tiếp dân, thể hiện rõ tư tưởng hiếu khách gồm 4 điểm như sau: Khách đến: Tiếp
đón chu đáo; Khách cần: Hướng dẫn tận tình; Khách hỏi: Giải đáp kịp thời; Khách đi:
Tạo sự thiện cảm.
Lắng nghe nhân dân: Trong quan điểm của nhà trường, nhân dân ở đây không
phải là lực lượng nào xa xôi. Nhân dân có thể là giáo viên, nhân viên, học sinh nhà
trường; nhân dân có thể là các bậc cha mẹ học sinh, là những người dân địa phương.
Thực hiện tư tưởng dân chủ, cuối năm học nhà trường đã phát ra các phiếu điều tra.
Trong đó, phiếu điều tra giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm được phát cho toàn
bộ học sinh nhà trường; phiếu điều tra nhân viên văn phòng được phát cho các giáo
viên. Qua các phiếu điều tra này, nhà trường đã lắng nghe được tiếng nói từ phía học

sinh về các thầy cô giáo của mình; lắng nghe được tiếng nói của các giáo viên về đội
ngũ văn phòng. Qua đó, lãnh đạo nhà trường đề ra các biện pháp thích hợp, hiệu quả để
điều chỉnh đội ngũ của mình.
Hàng ngày, nhà trường thường xuyên quan tâm đến tâm tư nguyện vọng của
CBGVNV, học sinh. Nhờ đó, đã kịp thời đáp ứng được các nhu cầu bức thiết, tạo môi
trường cởi mở, thông thoáng. Cụ thể, để đáp ứng nhu cầu về nước, nhất là trong mùa
khô, nhà trường đã tiến hành xây dựng ba hệ thống cung cấp nước. Hệ thống nước giếng
sử dụng máy bơm được bảo dưỡng, sửa chữa định kì; hệ thống nước mưa tận dụng nước
mưa từ các nhà cao tầng trong mùa hè; hệ thống nước sạch của xã theo chương trình
nông thôn mới. Với ba hệ thống này, cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh bán trú nhà
trường đều có đủ nước sinh hoạt sử dụng quanh năm, không lo tình trạng thiếu nước về
mùa khô. Đáp ứng nhu cầu học tập, nâng cao trình độ của cán bộ, giáo viên, nhân viên,
nhà trường đã tổ chức xây dựng quỹ tham quan học tập, đã tổ chức cho đội ngũ đi tham
quan thực tế, trao đổi kinh nghiệm ở nhiều nơi, như: THPT số 2 Sa Pa, THCS Bản
Phùng, Thanh Kim (Sa Pa), Tiểu học số 2, 3 Chiềng Ken (Văn Bàn), Trung học cơ sở
Khánh Yên Hạ,…
2. Xây dựng môi trường sư phạm công bằng.
2.1. Quan điểm đánh giá đúng mực, không thiên vị, có lí có tình.
Xây dựng tiêu chí thi đua ngay từ đầu năm học. Trong tiêu chí thi đua định rõ các
mức xếp loại. Tổ chức thi đua và xếp loại theo tháng. Áp dụng quan điểm đánh giá đúng
10


mực, có lí có tình bởi tiêu chí thi đua chính là sản phẩm của tập thể, đã được toàn thể
cán bộ, giáo viên, nhân viên thông qua. Trong việc đánh giá, xếp loại thi đua hàng
tháng, nhà trường lấy tiêu chí thi đua làm chuẩn, không thiên vị, bỏ lọt vi phạm trong
quá trình đánh giá. Kết quả đánh giá chỉ được công nhận sau khi có sự phản hồi và
thông qua của cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường.
2.2. Nhiều lực lượng cùng tham gia phối hợp theo dõi, đánh giá.
Để đảm bảo sự công bằng, quá trình theo dõi, đánh giá được tiến hành bởi nhiều

lực lượng: Tự bản thân theo dõi, đánh giá; Tổ trưởng chuyên môn theo dõi, đánh giá; Tổ
Văn phòng theo dõi, đánh giá; Ban giám hiệu theo dõi, đánh giá; Khối trưởng chủ
nhiệm theo dõi, đánh giá (Đối với giáo viên chủ nhiệm).
Trước hết, bản thân mỗi cá nhân phải tự theo dõi, đánh giá để tự kiểm soát chính
mình. Cuối mỗi tháng, các tổ chuyên môn tổ chức họp, các cá nhân tự đánh giá mức độ
thực hiện của bản thân trong tháng qua việc theo dõi của bản thân và việc đánh giá của tổ
trưởng phụ trách.
Các tổ trưởng tổng hợp kết quả theo dõi trong tháng, dự kiến xếp loại tổ viên và
báo cáo lên Ban giám hiệu. Ban giám hiệu nhà trường căn cứ vào dự kiến xếp loại của các
tổ, căn cứ vào phần theo dõi của tổ Văn phòng (Tổ Văn phòng cử một người thường
xuyên theo dõi việc thực hiện nội quy, nền nếp của cán bộ, giáo viên, nhân viên toàn
trường), căn cứ vào theo dõi, giám sát hàng ngày của chính Ban giám hiệu để đưa ra xếp
loại thi đua hàng tháng của nhà trường. Đối với giáo viên chủ nhiệm, Ban giám hiệu căn
cứ thêm kết quả theo dõi của các khối trưởng chủ nhiệm. Kết quả dự kiến này được đưa
lên mail các tổ và thông qua tại cuộc họp chuyên môn toàn trường đầu mỗi tháng. Kết quả
cuối cùng sẽ được công khai sau khi Ban giám hiệu nhà trường có những điều chỉnh hợp
lí trước những ý kiến phản hồi của cán bộ, giáo viên, nhân viên.
2.3. Thực hiện triệt để sự công bằng.
Để thực hiện triệt để sự công bằng, ngoài việc tổ chức đánh giá, xếp loại thi đua
hàng tháng một cách chặt chẽ, nhà trường còn gắn xếp loại thi đua với quyền lợi vật
chất, với khen thưởng. Từ đầu năm, nhà trường đã quán triệt rõ quan điểm: Ai làm tốt sẽ
được tuyên dương, khen thưởng, vinh danh; ai làm không tốt sẽ bị nhắc nhở, phê bình
kịp thời. Và để tìm ra các nhân tố điển hình tiên tiến trong tập thể, nhà trường đã liên
tục tổ chức các phong trào thi đua trong suốt năm học. Sau mỗi phong trào thi đua, đều
tổ chức sơ kết, khen thưởng. Khen thưởng từ nhiều nguồn: ngân sách nhà nước, nguồn
tự có của nhà trường, nguồn xã hội hóa,…Tổ chức khen thưởng bằng nhiều hình thức:
Tiền mặt, hiện vật, nghỉ tết trước,…
Luôn luôn quán triệt rõ và thực hiện triệt để quan điểm: Ai làm nhiều, làm tốt sẽ
được hưởng nhiều; ai làm ít, không hiệu quả sẽ được hưởng ít. Căn cứ vào hiệu quả
công việc, vào mức độ thi đua đạt được, vào sự cống hiến của từng cá nhân đối với nhà

trường, nhà trường định ra các mức thu nhập tăng thêm chi trả cho cán bộ, giáo viên,
11


nhân viên vào cuối năm. Do vậy mà việc chi trả thu nhập tăng thêm có sự chênh lệch
theo 4 mức: Mức 1 (loại tốt); mức 2 (loại khá); mức 3 (loại trung bình); mức 4 (loại
kém). Riêng mức 4 (loại kém) sẽ không được chi trả thu nhập tăng thêm do không hoàn
thành nhiệm vụ được giao.
Hiệu quả công việc của mỗi cá nhân cũng được coi là căn cứ quan trọng để xét đề
nghị tăng lương trước thời hạn. Hàng năm, nhà trường rất chú trọng đến vấn đề này, coi
đó là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy, động viên cán bộ, giáo viên, nhân
viên tích cực làm việc.
Trong công tác thi đua, để thực hiện sự công bằng một cách thực chất, nhà trường
chủ trương không chú trọng hình thức mà tập trung vào chất lượng, hiệu quả, năng suất
lao động. Cụ thể, đối với lãnh đạo nhà trường, lãnh đạo các tổ chức đoàn thể căn cứ vào
hiệu quả công việc của lĩnh vực cá nhân phụ trách; đối với giáo viên căn cứ vào kết quả
thi giáo viên dạy giỏi cấp trường, cấp tỉnh, kết quả công tác chủ nhiệm, kết quả thi học
sinh giỏi, thi máy tính cầm tay, thi nghiên cứu khoa học, kết quả đỗ tốt nghiệp, đại học,
kết quả tham gia các giải TDTT, văn nghệ, các bài dự thi,…Đối với nhân viên văn phòng,
hiệu quả công việc chính là kết quả thực hiện nhiệm vụ mà cá nhân đó được giao. Chẳng
hạn, với nhân viên thiết bị là hiệu quả công tác quản lí, khai thác, sử dụng thiết bị của nhà
trường; nhân viên thư viện là hiệu quả công tác quản lí, khai thác thư viện trong điều kiện
hiện tại.
3. Xây dựng môi trường sư phạm hiện đại.
3.1. Xây dựng tư tưởng, tác phong hiện đại.
Cha ông ta thường nói: “Tư tưởng không thông, đeo bình tông không nổi”. Vì vậy,
để xây dựng được môi trường sư phạm hiện đại, trước tiên cần xây dựng tư tưởng, tác
phong hiện đại, dám mạnh dạn rũ bỏ cái cũ, lỗi thời, lạc hậu, không phù hợp. Mỗi cán bộ,
giáo viên, nhân viên và cả học sinh luôn có ý thức tìm tòi, học hỏi, đổi mới, sáng tạo.
Tư tưởng, tác phong hiện đại còn thể hiện ở tinh thần sẵn sàng hội nhập thế giới.

Cần hiểu thuật ngữ “Hội nhập thế giới” một cách thông thoáng, cởi mở. Hội nhập với thế
giới không nhất thiết phải đi ra nước ngoài để tìm hiểu, học hỏi, giao lưu, gặp gỡ trao đổi
với các tổ chức, cơ sở giáo dục nước ngoài. Điều qua trọng nhất trong hội nhập thế giới là
học hỏi tinh thần của thời đại, học hỏi tư duy tiên tiến, hiện đại của nhân loại qua internet,
sách báo, phim ảnh,…
Tư tưởng, tác phong hiện đại được thể hiện qua quan điểm giáo dục học sinh. Nhà
trường đề ra phương châm giáo dục học sinh, cụ thể gồm những điểm sau:
1/ Tất cả mọi lực lượng, mọi thành phần cùng vào cuộc.
2/ Biết chia sẻ, biết lắng nghe, biết thấu hiểu, biết quan tâm.
3/ Hãy Sống và giúp người khác Sống có trách nhiệm, có mục đích, có lí tưởng,
tránh sự vô cảm.
4/ Hãy tin tưởng ở sự hướng thiện của con người.
12


5/ Hãy tha thứ, nhân hậu, bao dung, vị tha.
Phương châm này được công khai, biến thành kim chỉ nam cho mọi hành động của
cán bộ, giáo viên, nhân viên trong công tác giáo dục học sinh.
Xây dựng hệ thống các giá trị của nhà trường cũng là một trong những nội dung
được nhà trường chú ý trong việc hướng tới xây dựng môi trường giáo dục hiện đại. Nhà
trường đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống giá trị gồm sứ mạng, giá trị, tầm nhìn, văn
hóa. Trong đó, sứ mệnh của nhà trường ưu tiên tập trung vào việc “Tạo dựng môi trường
học tập nề nếp, kỷ cương; thu hút đông đảo học sinh”; Tầm nhìn của nhà trường trước hết
hướng tới “ Là một trong những trường mà học sinh sẽ lựa chọn để học tập và rèn luyện”;
Hệ thống giá trị cơ bản của nhà trường tập trung vào “Tình đoàn kết” và đặc điểm văn
hóa nhà trường hướng tới “Sự đổi mới”.
3.2. Một số hoạt động cụ thể.
- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học.
+ Xây dựng kế hoạch cụ thể, kịp thời. Tổ chức triển khai nhanh chóng, hiệu quả
các đề tài sáng tạo khoa học kĩ thuật. Chủ động trong việc triển khai lấy ý tưởng sáng tạo

từ học sinh, cán bộ giáo viên, nhân viên.
+ Tích cực động viên cán bộ, giáo viên tham gia nghiên cứu khoa học. Có cơ chế
hỗ trợ tài chính đầu tư thiết bị, vật liệu; có cơ chế khen thưởng kịp thời.
+ Trong năm, cán bộ, giáo viên nhà trường đã tổ chức cho học sinh thực hiện một
số hoạt động nghiên cứu như: Đề tài nghiên cứu xây dựng bếp sưởi đa năng không khói,
đề tài nghiên cứu bếp tận dụng nhiệt, đề tài trồng rau theo phương pháp thủy canh, đề tài
tận dụng ánh sáng tự nhiên qua hệ thống giếng trời, đèn Phi-lip-pin.
- Xây dựng trang Website, phát triển mạng wifi.
+ Mạng wifi được xây dựng từ trước đó được chú ý phát triển. Giáo viên chỉ cần
mang máy tính xách tay lên trường, ngồi bất cứ chỗ nào cũng có thể kết nối internet làm
việc, nhận thư điện tử, kế hoạch hoạt động qua email. Trong các cuộc họp, lãnh đạo nhà
trường, lãnh đạo các tổ chức đoàn thể thường xuyên đôn đốc, động viên cán bộ, giáo viên,
nhân viên tích cực sử dụng mạng wifi khai thác thông tin, kiến thức qua mạng để bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
+ Thực hiện mục tiêu hiện đại hóa nhà trường, trong năm nhà trường đã xây dựng
thành công trang website. Thông qua trang website, nhà trường từng bước quảng bá hình
ảnh của mình. Để cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh tích cực truy cập, nhà trường chủ
trương đưa các kế hoạch tuần tháng, kế hoạch giảng dạy, thời khóa biểu lên trang website;
tích cực đưa các hình ảnh về hoạt động của nhà trường để học sinh, nhân dân nắm bắt.
- Đèn chiếu sáng Phi-lip-pin, giếng trời.
Nhà trường còn rất khó khăn, thiếu thốn: Hiện tại nhà trường vẫn còn 19 ngôi nhà
gỗ ba gian sử dụng làm các lớp học của khối 10, 11 và hệ thống nhà bán trú cho học sinh.
Thực hiện phương châm “cái khó làm ló cái khôn”, hiện đại hóa từ trong khó khăn, thiếu
13


thốn, nhà trường đã tiến hành làm hệ thống giếng trời tăng cường chiếu sáng cho các lớp
học gỗ trong những ngày mùa đông giá lạnh, trời mù, ít ánh sáng. Tại khu vực nhà bán trú
học sinh, cũng do cấu tạo của hệ thống nhà gỗ bịt kín, rất tối, nhà trường đã chủ trương
lắp đặt hệ thống đèn tự sáng Phi-lip-pin, cải thiện đáng kể độ chiếu sáng cho các phòng ở,

tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt của học sinh bán trú.
- Phát triển vườn keo tạo bóng mát.
Tiếp tục duy trì thành quả từ trước đó, nhà trường cho bổ sung, trồng dặm, phát
triển hệ thống cây bóng mát, tận dụng những khoảng đất trống chưa sử dụng để trồng cây,
đặc biệt là trồng keo. Đến hiện tại, nhà trường đã phát triển được hai vườn keo, vườn keo
thứ nhất có khoảng 2.000 cây; vườn keo thứ hai hiện có khoảng 5.000 cây. Hệ thống
vườn keo đã có tác dụng tốt trong việc điều hòa khí hậu, tạo bóng mát và cản gió trong
khu vực sân trường. Đồng thời qua đó, có tác dụng giáo dục học sinh ý thức bảo vệ thiên
nhiên, môi trường sống, sống hài hòa, gắn bó với thiên nhiên.
- Phát triển vườn chè 12-7.
Nhằm phát triển nhà trường theo hướng hiện đại song vẫn giữ được những nét bản
sắc, truyền thống của người Việt, nhà trường chủ trương phát triển vườn chè xanh khoảng
2.000 cây. Giống chè xanh được chọn từ giống chè bản địa Lào Cai của công ty cung ứng
chè giống Bắc Hà. Sau khi hoàn thành vườn chè xanh, nhà trường sẽ xây dựng văn hóa
uống chè xanh trong nhà trường nhằm tạo nét bản sắc riêng, góp phần bảo vệ sức khỏe
cho cán bộ, giáo viên, nhân viên; xây dựng ý thức quý trọng lao động, thành quả lao động
trong mỗi học sinh.

CHƯƠNG IV
HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

I. XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG SƯ PHẠM DÂN CHỦ.
1. Mọi người đã được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra.
Nhà trường đã bước đầu xây dựng được môi trường sư phám khá dân chủ, tạo
không khí bình đẳng, cởi mở, thân thiện giữa cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh. Mọi
người có quyền được biết các thông tin về nhà trường, được bàn về các vấn đề hệ trọng
của nhà trường, được tham gia thực hiện nếu điều kiện cho phép và được kiểm tra theo
14



yêu cầu. Cụ thể, Trong năm học 2013-2014, nhà trường đã tiến hành thực hiện một số
công trình xã hội hóa, trong đó có công trình Lễ đài, sân trung tâm. Nhờ được trao đổi,
bàn bạc, kiểm tra, giám sát của cả tập thể nên công trình đã hoàn thành đúng kế hoạch với
chất lượng tốt (hiện tại, hàng ngày có nhiều xe chở vật liệu phục vụ cho việc xây dựng
công trình nhà bán trú chạy qua nhưng mặt sân không hề biến đổi), với giá thành rất rẻ
(Giá thành chỉ bằng 65 % giá thị trường hiện thời).
Hiện tại, nhà trường đang xúc tiến xây dựng 8 hạng mục công trình, trong đó có các
công trình lớn như nhà lớp học 3 tầng 13 phòng học, nhà bán trú học sinh 11 gian, cổng
trường, tường rào,…Thực hiện phương châm trên, nhà trường đã thông báo cho tất cả cán
bộ, giáo viên, nhân viên biết, nắm rõ các thông tin về đầu tư, xây dựng của nhà trường,
yêu cầu mọi người cùng nhà trường tham gia giám sát, kịp thời báo cáo ngay cho nhà
trường những dấu hiệu bất thường của công trình,…
Thực hiện tốt Quy chế dân chủ trong trường học, Quy chế chi tiêu nội bộ, tiêu chí thi
đua năm học. Kết quả: trong năm học không có khiếu kiện, thắc mắc; mọi cán bộ, giáo
viên, nhân viên yên tâm công tác, tích cực đầu tư chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ.
2. Duy trì đối thoại thường xuyên, liên tục.
Trong năm học 2013-2014, nhà trường thường dành khoảng 7 phút đến 10 phút trong
giờ chào cờ để tổ chức cho học sinh đối thoại với nhà trường. Chương trình đối thoại kéo
dài trong 12 tuần, có sự tham gia của học sinh từ 15 lớp. Có tới 47 vấn đề liên quan đến
nhà trường, thầy cô, học sinh, chế độ chính sách, nội quy, quy định của nhà trường được
học sinh đặt ra. Tham gia trả lời đối thoại có nhiều lực lượng, nhiều thành phần từ Ban
giám hiệu, Đoàn thanh niên đến giáo viên bộ môn, nhân viên văn phòng,…
3. Nhân dân, cha mẹ học sinh, học sinh hài lòng về nhà trường.
Bước đầu nhà trường đã tạo được lòng tin trong nhân dân, được nhân dân ủng hộ
trong các hoạt động giáo dục, hoạt động xã hội hóa. Một số bà con nhân dân gần khu vực
trường đóng thường xuyên cho ý kiến trong việc xây dựng, tạo cảnh quan nhà trường; ông
Nguyễn Thanh Phiến (một người dân không có con học tại trường) đã đem 05 cây lát đến
trường và đích thân đào hố trồng tặng nhà trường. Việc bà con nhân dân cho con em đi
học ngày càng tăng (Tỷ lệ tuyển sinh vào lớp 10 tăng lên hàng năm: Tăng 32,8 % sau 7
năm, đặc biệt tăng 12,7 % sau một năm khi nhà trường bắt đầu triển khai chương trình

này. Không chỉ thầy cô giáo bộ môn tạo được lòng tin trong nhân dân, học sinh mà cả
nhân viên văn phòng cũng tạo được niềm tin trong học sinh và dư luận xã hội.
II. XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG SƯ PHẠM CÔNG BẰNG.
1. Thực hiện thi đua trong suốt 10 tháng của năm học.
Để tạo sự công bằng, tạo cơ hội cho mọi người thể hiện, qua đó đánh giá năng lực
thực chất của từng người, nhà trường tổ chức thi đua trong suốt 10 tháng của năm học với
các phong trào như: Tháng thi đua “Khởi động”: Từ cuối tháng 8 đến hết tháng 9, chào
15


mừng năm học mới, các ngày lễ lớn (cách mạng tháng Tám, Quốc khánh 2-9); Phong trào
thi đua chào mừng ngày Khuyến học Việt Nam, Ngày Bác Hồ gửi thư cho học sinh, ngày
giải phóng Văn Bàn, Ngày Nhà giáo Việt Nam,...Phong trào thi đua khen thưởng theo
tháng (căn cứ vào kết quả học tập hàng tháng trong học kì 1 hoặc tỷ lệ chuyên cần theo
tháng trong học kì 2); Phong trào “Nhóm bạn cùng tiến” trong học kỳ 2. Các phong trào
thi đua chào mừng các ngày lễ lớn: Ngày thành lập Đảng (3/2), Ngày Quốc tế phụ nữ
(8/3), Ngày thành lập Đoàn (26/3); Phong trào thi đua “Tăng tốc” cuối năm học; Tổ chức
thi đua giữa các giáo viên chủ nhiệm.
2. Kết quả theo dõi chính xác, đánh giá đúng năng lực của từng người, không gây
ra sự bức xúc, thắc mắc.
Xây dựng được tiêu chí đánh giá thi đua ngay từ đầu năm học.
Công tác đánh giá, xếp loại thi đua được thực hiện chặt chẽ, chính xác, khách quan,
khoa học, có nhiều lực lượng cùng tham gia đánh giá: Tự theo dõi đánh giá của cá nhân,
theo dõi đánh giá của Ban giám hiệu, tổ trưởng chuyên môn, văn phòng, …
Việc khen thưởng, đánh giá xếp loại hàng năm căn cứ chặt chẽ vào kết quả cụ thể.
Coi hiệu quả công việc là tiêu chí số 1, tiêu chí hàng đầu để phân loại đội ngũ…
3. Thực hiện chi trả thu nhập tăng thêm, tăng lương trước thời hạn theo năng
lực, theo sự cống hiến của mỗi cá nhân.
Việc chi trả thu nhập tăng thêm được phân thành 4 loại theo 4 mức độ đánh giá việc
thực hiện nhiệm vụ đối với cán bộ, viên chức.

Việc tăng lương trước thời hạn được thực hiện nghiêm túc dựa vào năng lực, hiệu quả
công việc, sự cống hiến đối với tập thể của mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên.
III. XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG GIÁO DỤC HIỆN ĐẠI.
1. Bước đầu xây dựng được tư tưởng, tác phong hiện đại.
Thực hiện nghiêm túc quy định về giờ giấc, họp hành, ra vào lớp.
Thành thạo trong việc sử dụng và ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác tiện ích
của các phần mềm.
Luôn có tư tưởng đổi mới, sáng tạo.
2. Hoạt động nghiên cứu sáng tạo KHKT.
Trong năm, cán bộ, giáo viên nhà trường đã tổ chức cho học sinh thực hiện một số
hoạt động nghiên cứu như: Đề tài nghiên cứu xây dựng bếp sưởi đa năng không khói, đề
tài nghiên cứu bếp tận dụng nhiệt, đề tài trồng rau theo phương pháp thủy canh, đề tài tận
dụng ánh sáng tự nhiên qua hệ thống giếng trời, đèn Phi-lip-pin.
Kết quả thi sáng tạo khoa học kĩ thuật cấp tỉnh: 01 giải ba, 01 giải khuyến khích.
3. Quan điểm giáo dục học sinh.
Có quan điểm giáo dục học sinh rõ ràng:
1/ Tất cả mọi lực lượng, mọi thành phần cùng vào cuộc.
16


2/ Biết chia sẻ, biết lắng nghe, biết thấu hiểu, biết quan tâm.
3/ Hãy Sống và giúp người khác Sống có trách nhiệm, có mục đích, có lí tưởng,
tránh sự vô cảm.
4/ Hãy tin tưởng ở sự hướng thiện của con người.
5/ Hãy tha thứ, nhân hậu, bao dung, vị tha.
Quan điểm này đã và đang trở thành kim chỉ nam cho cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà
trường trong quá trình giáo dục học sinh.
4. Xây dựng hệ thống các giá trị của nhà trường.
- Sáng tác được 05 bài hát về nhà trường, thường xuyên tuyên truyền phổ biến những
bài hát này.

- Xây dựng thành công lô gô, đưa lôgô nhà trường vào cuộc sống (trên áo học sinh, trên
các khẩu hiệu, một số sản phẩm của nhà trường, nội dung một số cuộc thi,…)
- Xây dựng và công khai hệ thống các giá trị của nhà trường:
+ Sứ mạng: Tạo dựng môi trường học tập nề nếp, kỷ cương; thu hút đông đảo học
sinh, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục, tiến tới nâng cao nhận thức của nhân dân
địa phương.
+ Tầm nhìn: Là một trong những trường mà học sinh sẽ lựa chọn để học tập và rèn
luyện, nơi giáo viên và học sinh luôn có khát vọng vươn tới xuất sắc.
+ Giá trị cơ bản:
Tình đoàn kết.
Lòng nhân ái
Tinh thần trách nhiệm
Sự hợp tác
Bản sắc dân tộc.
Tính sáng tạo
Tính trung thực
Khát vọng vươn lên
+ Văn hóa nhà trường:
1. Sự đổi mới
5. Tập trung vào kết quả
2. Chấp nhận rủi ro
6. Tập trung vào con người
3. Chia sẻ quyền lực
7. Làm việc nhóm
4. Tất cả cùng tham gia
8. Sự ổn định
5. Xây dựng thành công trang website, phát triển tiện ích của phần mềm smas, mạng wifi.
Hoàn thành việc xây dựng trang website, đưa vào hoạt động hiệu quả trong việc
triển khai các kế hoạch, tuyên truyền quảng bá hình ảnh nhà trường.
Phần mềm Smas được khai thác tối đa: Thông báo gấp tới toàn thể cán bộ, giáo

viên, nhân viên qua hệ thống tin nhắn điện thoại; quản lí điểm; quản lí nhân sự; cung cấp
thông tin về tình hình học tập, rèn luyện của học sinh tới cha mẹ học sinh,…
Khai thác tốt mạng wifi, giáo viên thường xuyên mang máy tính xách tay đến
trường kết nối wifi lấy thông tin trên mạng đầu tư, bồi dưỡng chuyên môn.
6. Hệ thống đèn chiếu sáng phi-lip-pin, giếng trời.

17


Xây dựng hệ thống đèn tự sáng Phi –lip-pin tại 03 phòng (02 phòng bán trú, 01
phòng căn-tin) gồm 12 bóng đèn, góp phần cải thiện đáng kể ánh sáng cho các phòng
trong những ngày mùa đông nhiều mù, tối trời.
Tạo 20 giếng trời tại 10 lớp học tạm, giúp cải thiện ánh sáng tại các lớp học này.
7. Xây dựng Vườn keo, vườn chè.
Hoàn thành việc bổ sung, quy hoạch 02 vườn keo tạo không gian xanh, bóng mát
(tổng cộng khoảng 7.000 cây), hoàn thành giai đoạn 1 việc quy hoạch vườn chè xanh
(khoảng 2.000 cây), tạo tiền đề cho định hướng xây dựng công viên học đường của nhà
trường trong những năm sau.

PHẦN III - KẾT LUẬN

Dựa trên cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý, từ việc phân tích thực trạng công tác xây
dựng môi trường sư phạm dân chủ, công bằng, hiện đại tại Trường THPT số 4 Văn Bàn
trong những năm vừa qua, sáng kiến kinh nghiệm này mạnh dạn đưa ra một số biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả cho hoạt động trên. Những biện pháp trên đã và đang được áp
dụng vào thực tiễn tại cơ sở đơn vị nhà trường và đạt được một số kết quả khả quan.
18


Qua việc triển khai áp dụng các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác

xây dựng môi trường sư phạm theo hướng dân chủ, công bằng, hiện đại tại Trường THPT số
4 Văn Bàn trong thời gian vừa qua, qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, chúng tôi mạnh dạn
đề xuất các biện pháp như sau:
- Xây dựng môi trường sư phạm dân chủ.
+ Chủ trương phương châm: Mọi người được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra.
+ Bám sát quyền và nhiệm vụ của CBGVNV, học sinh tại Điều lệ trường học.
+ Phát huy quyền tự do, dân chủ, duy trì đối thoại thường xuyên.
+ Thực hiện quan điểm: Trường học là của dân, do dân, vì dân.
- Xây dựng môi trường sư phạm công bằng.
+ Quan điểm đánh giá đúng mực,không thiên vị, có lí có tình.
+ Nhiều lực lượng cùng tham gia phối hợp theo dõi, đánh giá.
+ Thực hiện triệt để sự công bằng.
- Xây dựng môi trường sư phạm hiện đại.
+ Xây dựng tư tưởng, tác phong hiện đại.
+ Một số hoạt động cụ thể: Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học; Xây dựng
trang Website, phát triển mạng wifi; Đèn chiếu sáng Phi-lip-pin, giếng trời; Phát triển
vườn keo tạo không gian xanh, bóng mát; Phát triển vườn chè 12-7,…
Khi thực hiện chuyên đề sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi nhận thấy để nhà
trường thực sự phát triển cần phải: Đề cao và thực hành tư tưởng thân dân, luôn dựa vào
dân; coi trường học là của dân, do dân, vì dân. Coi trọng sự công bằng, coi đó là nền tảng
của một xã hội – Nhà trường chính là một xã hội thu nhỏ. Nhận thức rõ tầm quan trọng
của dân chủ. Và luôn phát triển theo hướng hiện đại, sáng tạo, đổi mới.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, tìm tòi, nghiên cứu song cuộc sống là vô cùng vô tận
nên có lẽ còn nhiều biện pháp khác chưa có điều kiện tìm hiểu và đề cập đến. Điều này
đồng thời cũng mở ra hướng nghiên cứu cho các đồng nghiệp trong những năm tiếp theo.
Dù đã cố gắng hết sức song có lẽ khó tránh khỏi những thiếu sót, những suy nghĩ nông
cạn, những nhận định chưa chín chắn, mong các đồng nghiệp góp ý thêm để góp phần xây
dựng nhà trường Việt Nam thành môi trường giáo dục dân chủ, công bằng, hiện đại.

Văn Bàn, tháng 5 năm 2014

Người thực hiện

19


Nguyễn Minh Tuân

DANH MỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Điều lệ Trường phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số 12/2011/TT-BGD&ĐT
ngày 28/3/2011.
2. Luật giáo dục (Sửa đổi và bổ sung năm 2009) - Nhà xuất bản Lao động – năm 2011.
3. Một số suy nghĩ về định hướng phát triển giáo dục phổ thông – Nguyễn Quang
Kính – Tạp chí Quản lí giáo dục số 15, 16, tháng 8,9 năm 2010.
20


4. Tài liệu hướng dẫn nhiệm vụ năm học 2013-2014 của Bộ giáo dục và đào tạo – NXB
Giáo dục – năm 2013.
5. Các văn bản hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2013-2014 của Sở giáo dục và
đào tạo Lào Cai.
6. Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học 1998

21



×