Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN đọc HIỂU tác PHẨM tự sự VIỆT NAM HIỆN đại SAU 1975 TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.84 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI
TRƯỜNG THPT SỐ 1 VĂN BÀN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM TỰ SỰ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI SAU 1975
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12

Họ và tên: Phạm Xuân Năm
Chức vụ: Giáo viên
Tổ chuyên môn: Ngữ Văn
Đơn vị: THPT Số 1 Văn Bàn

Văn Bàn, tháng 04 năm 2014
1


MỤC LỤC
1
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3

Đặt vấn đề
Giải quyết vấn đề
Cơ sở lí luận của vấn đề
Thực trạng của vấn đề
Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu
Hiệu quả của áp dụng đề tài


Kết luận
Tài liệu tham khảo

2

Trang 2
Trang 3
Trang 3
Trang 8
Trang 9
Trang 15
Trang 16
Trang 17


1. Đặt vấn đề
Đọc hiểu văn chương hiện nay đang trở thành một trong những trọng tâm
của chương trình SGK Ngữ văn. Trên cơ sở lấy “Quan điểm tích hợp làm nguyên
tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn
các phương pháp giảng dạy, phần đọc- hiểu văn bản được đưa vào thay thế cho
phần “giảng văn” quen thuộc và trở thành đầu mối của vấn đề tích hợp Ngữ văn
cũng như đối với việc đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong
nhà trường.
Hạt nhân của vấn đề đọc- hiểu văn chương chính là nhấn mạnh đề cao hoạt
động học văn tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Có thể nói đây là hoạt động
duy nhất mà người đọc có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với thế giới nghệ thuật trong tác
phẩm văn chương “sống cùng” với nó để cảm nhận, thưởng thức và lý giải những
giá trị sáng tạo thẩm mĩ độc đáo. Mục đích của việc dạy học văn chính là dạy cách
đọc cho người học, đọc để hiểu được văn chương và trưởng thành từng ngày dưới
tác động lành mạnh của tác phẩm văn chương.

Cấu trúc nội dung SGK được sắp xếp theo thể loại và các thời kì văn học đã
làm nổi bật vai trò và đặc trưng thể loại. Chính vì vậy, hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại là một hướng đi có nhiều ưu thế
để rèn luyện kĩ năng đọc, cảm thụ, phân tích, lí giải và đánh giá tác phẩm một cách
hợp lí và sáng tạo.
Trong phân phối chương trình thì tác phẩm tự sự là kiểu văn bản chính, số
lượng lớn, chiếm vị trí quan trọng và thuộc loại văn bản đồ sộ. Bởi tự sự là một loại
tác phẩm tái hiện trực tiếp mọi mặt đời sống xã hội, con người nên đây là loại văn
bản khó đọc, khó tổng hợp nắm bắt... Vậy phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác
phẩm tự sự và cảm thụ nó như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất? Đó là khó khăn
cần tháo gỡ trong quá trình tiếp nhận tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
Trong lộ trình đổi mới thì các tác phẩm văn học sau 1975 đã được đưa vào
khá nhiều trong chương trình như: Nguyễn Minh Châu với “Chiếc thuyền ngoài
xa”, Ma Văn Kháng với “Mùa lá rụng trong vườn”, Nguyễn Khải với “Một người
Hà Nội”, Hoàng Phủ Ngọc Tường với “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, Thanh Thảo
với “Đàn ghi-ta của Lor-ca”....Chiếm số lượng lớn hơn vẫn là những tác phẩm tự
sự. Và trong xu thế đổi mới, phát triển thì những tác phẩm của văn học sau 1975
chắc chắn sẽ còn được lựa chọn và đưa nhiều hơn vào chương trình. Bởi đây là
những tác phẩm gần gũi với đời sống hiện tại của học sinh.
Là một giáo viên dạy văn, chúng ta hiểu rằng dạy các truyện ngắn sau 1975
thì phải dựa vào các đặc trưng của thể loại tự sự hiện đại. Bởi nắm vững đặc trưng
thể loại là nắm vững một công cụ, một phương tiện để khám phá tác phẩm. Biết
vận dụng những lý thuyết đó vào việc hướng dẫn học sinh đọc- hiểu tác phẩm tự sự
Việt Nam hiện đại sau 1975 càng khắc sâu, khẳng định hơn nữa thành tựu nghiên
cứu về thể loại tự sự và khoa học phương pháp.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn vấn đề “Đọc-hiểu tác phẩm tự sự Việt
Nam hiện đại sau 1975 trong chương trình Ngữ văn 12”.
3


2. Giải quyết vấn đề

2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
2.1.1. Những vấn đề chung về thể loại tự sự Việt Nam hiện đại sau năm 1975
2.1.1.1. Khái niệm về tác phẩm tự sự
Theo “ Từ điển tiếng Việt” thì “Tự sự là thể loại văn học phản ánh hiện thực
bằng cách kể lại sự việc, miêu tả tính cách qua cốt truyện tương đối hoàn chỉnh”.
Xét dưới góc độ thuật ngữ, theo tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi trong cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” thì tự sự là “Phương thức tái hiện
đời sống bên cạnh hai phương diện khác là trữ tình và kịch được dùng làm cơ sở để
phân loại tác phẩm văn học”
Vậy tự sự là thể loại văn học phản ánh cụ thể hiện thực đời sống một cách
khách quan, bằng cách kể lại sự việc, sự kiện, miêu tả tính cách nhân vật, chi tiết…
có đầu đuôi thông qua cốt truyện tương đối hoàn chỉnh và được kể lại bởi một
người kể chuyện nào đó.
2.1.1.2. Cách phân chia thể loại tự sự
Nếu xét về hình thức lời văn, tự sự tồn tại dưới dạng là văn xuôi và văn vần.
Xét theo tiến trình lịch sử, người ta chia thành tự sự dân gian, tự sự trung đại và tự
sự hiện đại.
Nếu xét về dung lượng thì tự sự lại phân thành truyện ngắn, truyện vừa và
truyện dài (tiểu thuyết) và nếu phân loại theo phương pháp sáng tác thì thể loại tự
sự bao gồm: tự sự cổ điển, tự sự lãng mạn, tự sự hiện thực và tự sự hiện thực
XHCN.
2.1.2. Đặc trưng của thể loại tự sự Việt Nam hiện đại sau 1975
Tự sự gồm 3 đặc trưng cơ bản: cốt truyện, nhân vật và ngôn ngữ. Đây có thể
là cơ sở lí luận, là lý thuyết chung để soi chiếu vào các tác phẩm tự sự. Căn cứ vào
những đặc trưng của thể loại nói chung được các nhà lí luận đúc kết, thể loại tự sự
Việt Nam hiện đại sau 1975 cũng mang đầy đủ những đặc trưng của tự sự hiện đại
nhưng nó đã có những nét đổi mới, khác biệt.
Với quan niệm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật” bao quát được
những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và số phận con người trong sự vận động
và phát triển đáp ứng sự đòi hỏi bức xúc của công chúng thời đại, văn học sau 1975

đã bước vào thời kì đổi mới trong không khí dân chủ của đời sống văn học. Sự đổi
mới ở tư duy nghệ thuật trong sáng tạo thể loại tự sự nói riêng và văn học nói
chung đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là thay đổi các yếu tố: cốt truyện, nhân vật,
ngôn ngữ. Vì tự sự thời kì đổi mới đã chuyển dần từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu
thuyết. Cảm hứng sáng tạo chuyển từ ca ngợi, khẳng định đến chiêm nghiệm suy tư
thay vì cách nhìn rạch ròi thiện - ác, bạn - thù là cách nhìn đa chiều, phức hợp về
hiện thực và số phận con người. Đề tài chiến tranh và cách mạng, lịch sử và dân tộc
dần nhường chỗ cho đề tài thế sự và đời tư. Cảm hứng thực sự về hiện thực và con
người trở thành cảm hứng bao trùm trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn. Vấn đề
con người, vấn đề cái riêng trở thành mối quan tâm hàng đầu của người viết. Phạm
vi, đối tượng sáng tạo được mở rộng, khai thác đến các tầng vỉa của hiện thực đời
4


sống và con người. Nhưng nhà văn không coi việc miêu tả hiện thực đời sống là
mục đích nghệ thuật mà coi trọng hơn đến hiện thực con người với thân phận, đời
sống của nó.
Nói tóm lại, tự sự Việt Nam thời kì đổi mới đã triển khai và đi sâu vào hiện
thực hàng ngày, cái đời thường của cuộc sống cá nhân. Nhà văn dám nhìn vào
những “mảnh vỡ”, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái nhìn trung
thực, táo bạo.
2.1.2.1. Cốt truyện
Trong cơ cấu nghệ thuật của tác phẩm cũng như các yếu tố khác, cốt truyện
đã phải trải qua những chặng đường khác nhau trong tiến trình lịch sử văn học.
Nghiên cứu sự vận động của cốt truyện sẽ góp phần lý giải sự chuyển đổi của tự sự
trong thời kì đổi mới. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn lịch sử, trong mỗi trào lưu,
khuynh hướng, trong thi pháp sáng tạo của nhà văn và vai trò của cốt truyện trong
thể tự sự cũng có những cách thể hiện khác nhau.
Nếu văn học trước 1975 cốt truyện chủ yếu dựa vào những hành động bên
ngoài trong đó “xung đột được thể hiện trọn vẹn và biến mất trong quá trình các sự

kiện được miêu tả. Nó xuất hiện trở nên gay gắt và được giải quyết dường như
ngay trước mắt người đọc. Đó là những xung đột cục bộ, khép kín, diễn ra trên một
cái nền của tình huống xung đột.
Nhưng từ sau 1975, nhất là trong những năm đổi mới, bên cạnh những cốt
truyện tuân thủ theo cốt truyện truyền thống thì nhiều tác phẩm có cốt truyện dựa
trên thi pháp hiện đại. Đó là loại cốt truyện không có biến cố chủ yếu dựa vào
những hành động bên trong, những thăng trầm trong tư tưởng, tâm lý nhân vật, cảm
xúc, suy nghĩ của con người...Cốt truyện là những câu chuyện bình thường, nhỏ
nhặt. Hay cốt truyện giàu tâm trạng được viết một cách tự nhiên, không theo trật tự
thời gian. Vì vậy cấu trúc sự kiện lỏng lẻo, kết thúc mở-bỏ ngỏ. Trong đó có thể
phân ra các loại sau
2.1.2.1.1 Cốt truyện xây dựng trên những nguyên tắc luận đề- những luận đề về
đạo đức, nhân văn, tâm lý xã hội
Hạt nhân cốt lõi để tạo nên những cốt truyện luận đề thường là những xung
đột đầy nghịch lí, mang tính chất bi kịch, dẫn người đọc tới sự phản tỉnh trong nhận
thức về một quan niệm tư tưởng vốn có.
Trong kiểu cốt truyện không biến cố này, không có những xung đột và đột
biến khép kín, sự việc mà tác giả đề cập chỉ là sự bổ sung cho các mâu thuẫn đã có
sẵn, bất chấp có sự việc đó hay không. Tiêu biểu cho loại cốt truyện này là truyện
ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”.
2.1.2.1.2. Cốt truyện sinh hoạt thế sự
Đây là những truyện được coi như là không có cốt truyện. Thật ra đó là loại
truyện kể về những “sự việc đơn giản, bình thường” được xây dựng như những bức
tranh đời sống, những cốt truyện không có mở đầu hay kết thúc, vắng bóng những
thắt nút hồi hộp chỉ là sự tái hiện những dòng đời đang tự nhiên trôi nổi.
Tiêu biểu cho loại cốt truyện này là “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải.
2.1.2.1.3. Cốt truyện dựa vào những số phận đời tư
5



Đây là dạng cốt truyện chủ yếu tái hiện những bước thăng trầm, uẩn khúc
trong số phận cá nhân. Cốt truyện không dừng lại ở một thời điểm mà thường trải
dài theo lịch sử của cả một số phận, một cuộc đời với những xung đột chồng chéo.
Câu chuyện mở ra trên cái nền của “tình huống xung đột cố hữu” hầu như không có
cao trào, thắt mở nút theo kiểu cốt truyện truyền thống.
Tiêu biểu là “Cỏ lau” của Nguyễn Minh Châu.
2.1.2.1.4. Cốt truyện hồi tuởng và kí ức
Cũng có thể gọi đây là kiểu kết cấu tâm lí do nhà văn dựa phần lớn vào kí ức
của nhân vật hoặc nhấn mạnh vào vai trò của giấc mơ, của hồi ức để tổ chức kết
cấu của tác phẩm. Lối kết cấu này sử dụng hết sức linh hoạt thời gian tự sự trong đó
quá khứ, hiện tại, tương lai đều có khả năng đồng hiện và những giấc mơ có sức ám
ảnh dữ dội đến đường đời của nhân vật chính.
2.1.2.1.5.Cốt truyện lắp ghép
Đây là một đặc điểm của xu hướng lắp ghép liên văn bản. Tác phẩm được
viết ra một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống. Kết cấu
tác phẩm không nhất thiết phải dựa vào sự phát triển theo tiến trình sự kiện, theo
thời gian tuyến tính, theo các bước của cốt truyện mà được lắp ghép bởi từng mảnh
đời, từng tâm trạng nhân vật. Những tình huống, cảnh ngộ, biến cố, sự kiện, số
phận dường như không có quan hệ liên đới nhưng lại xích lại gần nhau, nối kết tạo
nên mạch cốt truyện chặt chẽ hấp dẫn.
2.1.2.2. Nhân vật
Theo từ điển văn học thì nhân vật là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn
học, là tiêu điểm để bộc lộ chủ đề và đến lượt mình thì nó lại được các yếu tố có
tính chất hình thức của tác phẩm tập trung khắc hoạ. Nhân vật do đó là nơi tập
trung giá trị tư tưởng nghệ thuật văn học.
Theo quan niệm của GS. Hà Minh Đức thì “Nhân vật trong văn học là một
hiện tượng nghệ thuật độc đáo mang tính ước lệ đó không phải là sự sao chụp đầy
đủ mọi chi tiết của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm
điển hình về tiểu sử nghề nghiệp tính cách”.
Những quan niệm trên đã khẳng định: nhân vật là đặc điểm quan trọng cốt

lõi của tác phẩm văn học. Nhân vật là hình thức của tự sự, nó là phương diện mà
nhà văn sử dụng phản ánh cuộc sống khách quan. Mỗi nhân vật trong tác phẩm tự
sự bao giờ cũng được đặt vào nhiều mối quan hệ: quan hệ với hoàn cảnh, quan hệ
với môi trường, với cộng đồng (với những nhân vật khác). Quan hệ ấy là căn cứ cơ
sở để nhà văn thể hiện tính cách nhân vật. Ngoài ra tính cách nhân vật còn được
khắc hoạ thông qua ngoại hình, hành động, ngôn ngữ.
Nếu văn học trước 1975 nhìn con người chủ yếu ở tư cách con người công
dân, con người dân tộc, con người giai cấp. Với các kiểu nhân vật cố định như nhân
vật tư tưởng, nhân vật tính cách, nhân vật chức năng....thì sau 1975, số phận con
người đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhà văn. Nhiều truyện đã hướng tới
miêu tả số phận những con người bình thường với những bi kịch của đời họ. Số
phận của cá nhân được giải quyết thỏa đáng trong mối quan hệ mật thiết với cộng
6


đồng, xã hội. Đằng sau mỗi cá thể là những vấn đề mang tính nhân sinh của thời
đại.
Nhà văn nhìn nhận con người như một cá thể bình thường trong những môi
trường đời sống bình thường. Nhân vật là những con người với trăm ngàn mảnh đời
khác nhau “đầy những vết dập xóa trên thân thể trong tâm hồn”. Các nhà văn đã thể
hiện khá thành công bi kịch cá nhân của con người. Đồng thời còn đề cập đến khát
vọng sống, hạnh phúc cá nhân, về tình yêu đôi lứa, những nhu cầu hạnh phúc đời
thường.
Các nhà văn đã phá vỡ cái nhìn đơn phiến, tĩnh tại để tạo ra một cái nhìn
phức tạp hơn, đa diện hơn và vì thế sâu sắc hơn với con người. Đó là con người vừa
đời thường vừa trần thế đẹp đẽ, thánh thiện, mang đậm ý nghĩa nhân văn.
2.1.2.3. Ngôn ngữ
Theo “150 thuật ngữ văn học” thì “Ngôn ngữ là hệ thống các phương tiện
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp giúp cho việc khách thể hoá hoạt động của tư duy và
làm công cụ giao tiếp trao đổi các suy nghĩ hiểu biết lẫn nhau giữa người với người

trong xã hội”.
Theo đại từ điển tiếng Việt thì ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ đã được chuẩn
hoá dùng trong văn học nghệ thuật khoa học hành chính và thông tin đại chúng còn
gọi là ngôn ngữ tiêu chuẩn.
Ngôn ngữ là một đặc trưng quan trọng của thể loại tự sự bởi nó vừa là công
cụ vừa là chất liệu phương tiện để nhà văn thể hiện tác phẩm. Nếu không có ngôn
ngữ thì không có tác phẩm văn học.
Truyện là thể loại văn học dùng lối kể chuyện để phản ánh hiện thực và biểu
hiện tâm tư của con người. Sự tồn tại của cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ trong mối
tương quan khăng khít với nhau là đặc trưng cơ bản của truyện với tư cách là một
thể tài văn học.
Tác phẩm tự sự là tự tổng hợp của nhiều kiểu ngôn ngữ: ngôn ngữ nhân vật
và ngôn ngữ tác giả. Xét về mặt chức năng trần thuật thì nhân vật được coi là hình
tượng người kể chuyện. Ở nhân vật này thường được thể hiện bằng hai đặc điểm là
“quan điểm trần thuật” và “lời trần thuật”. Lời trần thuật xuất hiện ở tác phẩm cổ
điển hầu hết là ngôn ngữ gián tiếp. Nhưng lời trần thuật trong tiến trình phát triển
cũng bắt đầu thay đổi. Bên cạnh lời trần thuật gián tiếp thì xuất hiện lời trần thuật
nửa gián tiếp, tức là kèm theo lời trần thuật là lời nhận xét, đánh giá và biểu thị thái
độ đồng tình, phê phán.
Soi chiếu những đặc điểm ngôn ngữ này vào trong các tác phẩm tự sự hiện
đại sau 1975 thì hoàn toàn đúng. Song cũng có sự đổi mới rõ nét.
Trong những năm tiền đổi mới, ngôn ngữ đối thoại đóng vai trò quan trọng.
Trong bối cảnh lịch sử mới, trong không khí dân chủ hóa của đời sống văn học, dấu
vết của thời đại đã ảnh hưởng và quy định cách nói năng, đối đáp, nhiều lớp từ mới
được hình thành, quan niệm về lời nói cũng được bổ sung những sắc thái biểu cảm
mới. Ngôn ngữ tự sự gần với ngôn ngữ đời thường, giàu khẩu ngữ. Ngôn ngữ biểu
hiện sự cá tính hóa mạnh mẽ. Tính cách nào lời lẽ ấy.
7



Bên cạnh đối thoại, độc thoại nội tâm cũng đóng vai trò chủ yếu trong
phương thức trần thuật của tự sự thời đổi mới. Độc thoại nội tâm trở thành một thủ
pháp nghệ thuật có hiệu quả trong quá trình tự ý thức của nhân vật, đi sâu vào thế
giới nội tâm đầy bí ẩn của nhân vật.
2.1.3. Bản chất của hoạt động đọc - hiểu
Theo đại bách khoa toàn thư cho biết “Đọc là một quá trình hoạt động tâm lí
nhằm tiếp nhận ý nghĩa từ kí hiệu ngôn ngữ việc in hay viết”.
Theo cách hiểu đơn giản nhất “hiểu” là biết được và làm được, nói cách khác
“hiểu” cũng có ý nghĩa là phải thực hiện việc nắm vững và biết vận dụng hiểu biết
của mình.
Còn “hiểu” theo nghĩa gốc trong từ điển tiếng Việt là “nhận ra ý nghĩa, bản
chất, lý lẽ của cái gì, bằng sự vận dụng trí tuệ”. “Hiểu” cũng được xem là một góc
độ trong các kĩ năng tư duy bậc cao được biểu thị như sau: nhớ - hiểu - vận dụng
-phân tích - đánh giá.
Theo M.Bakhtin “hiểu” trong đọc - hiểu bao gồm nhiều hành động gắn liền
nhau. Bản chất tâm lí của sự hiểu là biến cái của người khác thành cái vừa của
mình vừa của người khác. Hiểu là sáng tạo. Đọc luôn gắn với nhiều mức độ của
hiểu.
Đọc hiểu văn bản văn chương là quá trình từ đọc - hiểu từ ngữ, hiểu ý của
câu văn, nắm bắt được từ ngữ có giá trị biểu cảm và biểu hiện tư tưởng, nắm bắt
được câu quan trọng có ý nghĩa then chốt trong bài văn từ đó hiểu được nội dung ý
nghĩa của hình tượng văn học, khái quát được tư tưởng tình cảm trong tác phẩm
văn học, đánh giá về tư tưởng nghệ thuật.
Đọc hiểu văn bản văn chương có thể bỉểu hiện một quá trình ngược lại: từ
hiểu khái quát, đúng đắn, sâu sắc về văn bản tác phẩm, người đọc có thể tiến hành
phân tích, giải thích, bình luận giúp người khác có thể đọc-hiểu văn bản.
Quá trình học văn trong nhà trường cũng vậy. Học sinh đọc - hiểu từng bài,
tập phát hiện các từ ngữ, chi tiết và khái quát về tác phẩm, cuối cùng tập phân tích.
Từ đó hình thành kĩ năng, kinh nghiệm đọc - hiểu văn bản văn học.
2.1. 4. Các cấp độ đọc- hiểu

2.1.4.1. Đọc thông- đọc thuộc
Đối với đọc thông, yêu cầu cần phải rõ ràng, rành mạch, không vấp váp về
ngữ âm, biết ngừng giọng đúng lúc, đúng chỗ. Mục đích của việc đọc thông là giúp
người đọc có thể tri giác toàn bộ văn bản với một cảm nhận đầu tiên về toàn bộ văn
bản toát ra từ các kí hiệu ngôn ngữ nghệ thuật. Đây được xem là yêu cầu thấp nhất
của quá trình đọc - hiểu nhưng lại là bước đầu quan trọng không thể bỏ qua.
Đọc thuộc là nhớ văn bản, có thể đọc lại khi không cần văn bản in hoặc viết.
Đối với văn xuôi, đọc thuộc có nghĩa là nhớ được những nội dung chủ yếu, những
chi tiết, tình tiết tiêu biểu và có khả năng tóm tắt văn bản đó một cách ngắn gọn
nhưng đầy đủ những nội dung chủ yếu. Đây là yêu cầu bắt buộc khi dạy đọc-hiểu
văn bản văn xuôi vì thời gian trong tiết dạy trên lớp không đủ để đọc toàn bộ văn
bản. Nếu bắt buộc cả người dạy và người học phải đọc trước và thuộc văn bản ấy ở
mức độ có thể tóm tắt được, chúng ta thực hiện qua các bước sau:
8


Bước 1: Biết cốt truyện tập hợp các biến cố, sự kiện được nhà văn sắp xếp
theo một trình tự nào đó.
Bước 2: Biết tác phẩm có bao nhiêu nhân vật.
Bước 3: Xác định trong tất cả sự kiện của tác phẩm đâu là sự kiện đóng vai
trò quan trọng nhất và trong các nhân vật thì nhân vật nào là nhân vật chính, nhân
vật trung tâm và nhân vật phụ.
Bước 4: Tiến hành tóm tắt.
2.1.4.2. Đọc kĩ - đọc sâu
Đọc kĩ có thể hiểu là đọc nhiều lần, đọc với tần số cao. Đọc kĩ nghĩa là phải
phát hiện được bố cục, kết cấu của văn bản tức là chỉ ra các hình thức tổ chức sắp
xếp văn bản. Và ý thức được nội dung chủ yếu được đề cập trong văn bản để có
một cái nhìn bao quát toàn bộ văn bản trên hai phương diện nội dung và hình thức.
Đọc sâu là đọc tập trung vào một chi tiết, hình ảnh, nhân vật có vai trò quan
trọng trong tác phẩm để hiểu được cấu trúc logic bên trong sự vận động tất yếu của

các sự kiện, hình tượng ...
2.1.4.3. Đọc hiểu - đọc sáng tạo
Đọc là một hoạt động tiếp cận và khám phá văn bản, còn hiểu là mục đích.
Đọc - hiểu với nghĩa là một yêu cầu trong tiếp cận và khám phá các văn bản nên
bắt buộc chủ thể phải huy động kiến thức của nhiểu lĩnh vực đã được tích luỹ và có
liên quan đến văn bản tác phẩm cần tìm hiểu. Đồng thời phải sử dụng các phương
pháp tổng hợp để tìm hiểu nội dung ý nghĩa của văn bản. Đọc hiểu vừa là mức độ
yêu cầu vừa là mục tiêu chứ không đơn thuần là một bước trong phương pháp.
Đọc sáng tạo được áp dụng chủ yếu khi đọc các văn bản nghệ thuật vì tác
phẩm nghệ thuật là sản phẩm của tưởng tượng hư cấu. Bất kì tác phẩm văn chương
nào cũng luôn tồn tại những khoảng trống để hiểu tác phẩm, người đọc buộc phải
tưởng tưởng, liên tưởng để lấp đầy những khoảng trống ấy. Trong nghiên cứu và
giảng dạy người ta gọi là quá trình đồng sáng tạo. Tức người đọc cũng là người
sáng tạo và nhờ sự sáng tạo ấy người đọc có thể hiểu được tác phẩm.
2.1.4.4. Đọc ứng dụng- đọc đánh giá
Yêu cầu của xã hội hiện đại cũng là mục tiêu của người học bởi học là để
làm việc, để sống và để chung sống với mọi người. Vậy một bài đọc - hiểu phải đáp
ứng ba yêu cầu:
Thứ nhất: Ở mức độ thấp là có khả năng tạo lập văn bản tương ứng.
Thứ hai: Tất cả các tác phẩm văn học đều chứa đựng trong nó những ý nghĩa
tư tưởng, nhiều bài học nhân sinh, hiểu và cảm nhận các tác phẩm sẽ làm cho mỗi
người hiểu đúng hơn về bản thân, biết cách hoàn thiện nhân cách để có một cuộc
sống tốt đẹp hơn.
Thứ ba: Các văn bản không phải là văn bản nghệ thuật bao giờ cũng chứa
đựng ở trong đó những thông tin liên quan chặt chẽ đến đời sống. Những thông tin
ấy khi được tiếp nhận sẽ làm phong phú thêm hiểu biết của mình. Nó sẽ giúp mỗi
người làm việc và sống tốt hơn.
2.2. Thực trạng của vấn đề
9



Trong quá trình giảng dạy và qua dự giờ, tôi thấy rằng vẫn còn đôi lúc giáo
viên tiến hành hướng dẫn học sinh đọc- hiểu văn bản chưa bám sát theo đặc trưng
của thể loại. Hoặc nếu có theo đặc trưng thì lại làm tắt các bước. Một lí do chung là
bởi dung lượng các văn bản tự sự khá dài (hơn nhiều so với văn bản thơ), thời gian
của từ hai đến ba tiết học để tìm hiểu một tác phẩm là ít, trong khi dung lượng kiến
thức nhiều. Giáo viên đã vô hình chung trở thành người thuyết giảng mà học sinh
đôi khi lại không được tiếp cận trực tiếp, tham gia trực tiếp vào quá trình khám phá
tác phẩm. Học sinh trở thành người thụ động. Chính vì vậy với mong muốn tháo gỡ
một phần khó khăn với giáo viên, học sinh trong quá trình giảng dạy văn bản tự sự,
nhất là văn bản văn học Việt Nam.
Trong quá trình tìm hiểu để viết đề tài, tôi còn gặp nhiều khó khăn bởi tài
liệu về phần văn học này chưa thật phong phú, các văn bản học trong chương trình
Ngữ văn 12 chưa nhiều. Tuy nhiên điều thuận lợi là các văn bản tự sự của văn học
Việt Nam sau 1975 lại phản ánh những vấn đề, đề tài khá gần gũi vói cuộc sống
thường nhật của các em học sinh. Các em có thể tìm thấy trong tác phẩm những
vấn đề khá quen thuộc trong cuộc đời này.
Tiếp cận và tìm hiểu văn bản tự sự theo hướng đặc trưng thể loại và các thao
tác, các bước của quá trình đọc- hiểu sẽ góp phần giúp giáo viên và học sinh giải
quyết phần nào những khó khăn, vướng mắc trong quá trình dạy và học.
2.3. Hướng dẫn học sinh đọc- hiểu tác phẩm tự sự hiện đại sau 1975 trong
chương trình Ngữ văn 12
Ở THPT chương trình Ngữ văn quy định việc giảng dạy hầu như đủ các loại
truyện: truyện dân gian, truyện cổ điển, truyện hiện đại. Về khuôn khổ, mức độ có
truyện cần dạy trọn vẹn (truyện thần thoại, cổ tích, truyền thuyết …), có truyện dạy
theo lối thuyết giảng (truyện Kiều, Tắt đèn ...). Tuy nhiên do cùng một thể loại
truyện, các tác phẩm đó có thể có những nét chung về mặt cấu tạo hình tượng. Cho
nên ta có thể rút ra được một số điểm chung về phương pháp cơ bản có tính chất
hướng dẫn nhằm vận dụng một cách sáng tạo vào từng trường hợp cụ thể.
2.3.1. Giúp học sinh nắm được cốt truyện

Cốt truyện chưa phải là toàn truyện. Nhưng nắm được cốt truyện có điều
kiện tốt để hiểu toàn truyện. Có nhiều cách làm cho học sinh nắm được cốt truyện:
Với truyện dân gian yêu cầu học sinh nắm cốt truyện bằng cách kể lại. Tuy nhiên
không phải tác phẩm nào cũng kể lại một cách đầy đủ. Vậy điều quan trọng để nắm
vững các tình tiết biến cố là phân tích các chặng đường phát triển chủ yếu của nó.
Đây phải là phần chủ yếu của phân tích bố cục. Để hướng dẫn học sinh nắm vững
tác phẩm thì:
Thứ nhất: Đọc và chọn ra các biến cố, các sự kiện trong tác phẩm và sắp xếp
các biến cố các sự kiện đó theo trật tự lôgic mà tác giả sắp xếp.
Biến cố ở đây có thể là các biến cố trong đời sống, có thể là các biến cố trong
tâm trạng. Cho nên biến cố là những biến động trong đời sống xã hội trong đời
sống tư tưởng, tâm trạng, tình cảm của con người. Cốt truyện là tập hợp những biến
cố ấy được sắp xếp theo một trình tự logic nào đó, có thể là logic thời gian, logic
tâm trạng. Khi khảo sát cốt truyện, phải đọc để chọn ra các biến cố, các sự kiện và
10


sắp xếp theo trình tự logic mà tác giả sắp xếp. Đây có thể coi là việc đầu tiên khi
khảo sát cốt truyện.
Khi đọc “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu thì học sinh trước
hết phải đọc và tìm được những sự kiện lớn xảy ra trước mắt họa sĩ Phùng. Điều đó
có nghĩa là học sinh phải phát hiện ra hai biến cố lớn nhất từ hai xung đột đầy
nghịch lý trong con mắt, tâm trạng người nghệ sĩ. Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng là phát hiện trong đôi mắt nhà nghề một vẻ đẹp “trời cho” trên
mặt biển mù sương. Niềm hạnh phúc của anh chính là hạnh phúc của sáng tạo, của
sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu, tuyệt mĩ đến mức thánh thiện. Dường như trong
cánh buồm ngư phủ huyền ảo giữa đất trời mênh mông ấy, anh đã bắt gặp cái tận
thiện, tận mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trong trẻo tinh khôi bởi cái đẹp
hài hòa, lãng mạn của cuộc đời. Nhưng sự phát hiện thứ hai thật bất ngờ, trớ trêu,
nó như một trò đùa quái ác của cuộc sống. Từ trong chiếc thuyền ngư phủ đẹp như

mơ bước ra là cảnh phi thẩm mĩ, phi nhân tính. Người đàn bà xấu xí, mệt mỏi, lão
đàn ông to lớn dữ dằn, cảnh người chồng đánh đập vợ tàn bạo. Người đàn bà nhẫn
nhục cam chịu không bỏ chạy, không chống trả. Thằng con lao đến bảo vệ mẹ,
đánh lại cha. Lần thứ hai sự việc diễn ra như cũ, xuất hiện thêm đứa con gái vật lộn
lấy con dao không để em giết bố. Nhân vật tôi cũng lao vào cuộc bằng nắm đấm
của người lính đòi lại sự công bằng. Sau sự việc, chánh án Đẩu có ý định khuyên
chị ta bỏ chồng. Tại tòa án, người đàn bà đưa ra những lí do để không bỏ lão chồng
vũ phu.
Như vậy chỉ đơn thuần qua hai phát hiện, hai sự việc đã tác động mạnh mẽ
đến suy nghĩ, tâm trạng của người nghệ sĩ nhiếp ảnh: từ cái nhìn thơ mộng, lãng
mạn phi thực tế phát hiện ra ngay cuộc sống trần trụi, thô giáp, đau đớn trong đó.
Rõ ràng là đọc và lựa chọn các biến cố, các sự kiện rồi sắp xếp theo trình tự
mà tác giả đã sắp xếp, tưởng chừng đơn giản nhưng không hoàn toàn đơn giản chút
nào. Nó đòi hỏi người đọc, người học phải phát hiện tinh tế, nhạy bén.
Thứ hai: Chỉ ra các mối liên hệ giữa các biến cố sự kiện ấy (các biến cố, sự
kiện có mối quan hệ như thế nào, tác động và ảnh hưởng chi phối lẫn nhau ra sao).
Đây là bước thứ hai khi khảo sát truyện ngắn để tìm ra cốt truyện. Sau khi
đọc và chọn các biến cố, các sự kiện, học sinh phải chỉ ra được quan hệ giữa các
biến cố, các sự kiện ấy.
Trở lại tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, sau khi sự việc thứ hai xảy ra
hoàn toàn bất ngờ. Nó không phủ nhận hay bác bỏ sự việc thứ nhất mà nó bổ sung
để chúng ta nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn. Nghệ thuật không chỉ hướng tới cái
đẹp bề ngoài, lãng mạn, thơ mộng mà còn phải phát hiện ra cái đẹp ẩn sâu trong
bản chất cuộc sống, con người. Nghĩa là nghệ thuật chỉ phát hiện được vẻ đẹp bên
ngoài của đời sống thì dù cái đẹp đó có tuyệt đối đến đâu đi chăng nữa thì vẫn chưa
đủ. Cuộc sống không chỉ có hạnh phúc, yêu thương mà còn có cả khổ đau, nước
mắt, chân lý cuộc sống chính là sự luôn tồn tại những nghịch lý, éo le. Vẻ đẹp tâm
hồn con người trong cuộc sống hàng ngày luôn được ẩn dấu sau vẻ đẹp lam lũ,
nhọc nhằn. Không để tâm tìm hiểu, chúng ta khó lòng thấy được vẻ đẹp dung dị
nhưng đáng khâm phục của biết bao con người vẫn sống quanh ta.

11


Như vậy, khi hướng dẫn học sinh tìm ra các biến cố, các sự kiện từ đó chỉ ra
mối quan hệ giữa các biến cố, các sự kiện là một việc làm cần thiết, mang tính biện
chứng. Tuy nhiên khi hướng dẫn học sinh cũng phải chú ý tới các kiểu cốt truyện.
Nếu những truyện ngắn có cốt truyện tương đối đơn giản, học sinh chưa gặp khó
khăn trở ngại các em có thể làm được. Nhưng nhiều truyện, cốt truyện rối rắm,
phức tạp do có nhiều sự kiện, nhiều biến cố chồng chéo, đan xen nhau. Hay có
những truyện vừa quan tâm đến cốt truyện vừa không quan tâm đến cốt truyện, chỉ
dựa vào những biến cố, những sự kiện rồi sau đó triển khai ra, hay nhiều cốt truyện
sinh hoạt thế sự, đời tư cũng vậy- không có cốt truyện. Nếu vậy thì giáo viên phải
hướng dẫn học sinh khi tiếp nhận tác phẩm phải có sự phân tích một cách tổng thể,
toàn diện, đồng thời phát hiện ra đâu là biến cố quan trọng đối với cuộc đời nhân
vật trung tâm và có tác động tới những biến cố đó.
Thứ ba: Các biến cố, các sự kiện được sắp xếp theo chiều như thế nào?
Nếu như các tác phẩm tự sự mẫu mực, cách sắp xếp các biến cố gần như
giống kịch, nghĩa là các biến cố thường có sự phát triển thành các mâu thuẫn, các
xung đột kịch tính rồi sau đó giải quyết các xung đột thì ở các tác phẩm tự sự hiện
đại sau 1975 biến cố được sắp xếp theo chiều hướng đa dạng và phong phú hơn
nhiều.
Trong truyện ngắn “Một người Hà Nội”, cốt truyện là những sự kiện đơn
giản kể về những con người mang trong mình cái nền gốc tâm lý tư tưởng văn hóa
truyền thống, lại thông minh sắc xảo, lại có bản lĩnh và có “một tiềm lực tinh thần”
đủ mạnh để vượt qua hoàn cảnh, biết nhìn xa trông rộng, biết sống vì mình cũng
biết sống vì người, nên họ chiến thắng. Thắng chính bản thân mình và thắng trong
cuộc đời. Truyện dường như không có biến cố quan trọng nhưng khi đọc xong
nghiền ngẫm thì chính những biến cố sự kiện tưởng chừng như đơn giản ấy lại sống
dậy, thôi thúc người đọc phải chiêm nghiệm suy nghĩ quanh những lời nói, nếp
sống, cách nghĩ của các nhân vật.

Nhưng trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu lại khác. “Chiếc
thuyền ngoài ra”, hay “Bến quê”, xuất hiện rõ ràng các biến cố, sự kiện và vẫn
được giải quyết xoay quanh những sự kiện, biến cố đó. Xung đột bên ngoài không
gay gắt mà nhẹ nhàng như cuộc sống yên bình đang trôi chảy nhưng bên trong lại
là những cuộc tra tấn tinh thần là sự tự vấn, tự hỏi, tự phán xét chính mình. Kết cấu
truyện thường là “truyện trong truyện” nên mâu thuẫn xung đột xảy ra ngay trong
lòng tác phẩm.
Rõ ràng khi tách cốt truyện ra khỏi tác phẩm, tưởng là điều đơn giản nhưng
không hoàn toàn như vậy. Người ta có thể tách ra nhiều biến cố, sự kiện nhưng
người ta không tìm ra được nguyên nhân dẫn đến những biến cố, sự kiện ấy. Khi
dạy các truyện hiện đại sau 1975, việc yêu cầu học sinh đọc, kể, tóm tắt cũng chính
là yêu cầu học sinh tìm ra cốt truyện. Nếu học sinh nắm được cốt truyện thì có thể
theo dõi được diễn biến toàn bộ câu chuyện, hình dung ra chiều hướng của tác
phẩm, mặc dù thực tế cốt truyện không đóng vai trò quan trọng quyết định đến chất
lượng tác phẩm.
12


2.3.2. Giúp học sinh nhận diện, cảm thụ được sâu sắc, đánh giá được đúng đắn
nhân vật trong tác phẩm
Từ trước đến nay trong việc giảng dạy truyện, không phải chúng ta chưa hề
biết lấy việc phân tích nhân vật làm trọng tâm. Tuy nhiên có nhiều người e ngại bởi
vì phân tích nhân vật rất dễ xa vào tình trạng bình giá chung chung, trừu tượng. Sự
phân tích nhân vật không thành công có nhiều nguyên nhân về nội dung và phương
pháp. Về nội dung, nguyên nhân là ở chỗ nhiều khi chúng ta chưa thật cảm sâu.
Hiểu kĩ ý nghĩa nhiều mặt của nhân vật. Về phương pháp, nguyên nhân thường là ở
chỗ trong khi phân tích chúng ta tách rời, cô lập nhân vật với cốt truyện, chưa biết
lấy việc phân tích cốt truyện để chuẩn bị cho việc phân tích nhân vật. Cần hiểu rằng
khi tìm hiểu tác phẩm tự sự nói chung và truyện ngắn hiện đại sau năm 1975 nói
riêng buộc phải khảo sát nhân vật, bởi toàn bộ nội dung tác phẩm được phản ánh

thông qua nhân vật. Muốn vậy, khi dạy truyện ngắn hiện đại, giáo viên cần phải
thực hiện các bước sau:
* Phát hiện, thống kê, nhận diện nhân vật.
Nhân vật trong tác phẩm văn học nói chung và nhân vật trong tác phẩm tự sự
nói riêng là vô cùng phong phú và đa dạng. Mỗi nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật
đều xây dựng cho mình một thế giới nhân vật riêng, thậm chí không có nhân vật
nào giống nhân vật nào. Những nhân vật điển hình thường là những nhân vật độc
đáo của nhà văn, không có sự lặp lại. Cho nên khi tiếp cận một tác phẩm tự sự thì
việc đầu tiên khi khảo sát nhân vật là phải yêu cầu học sinh phát hiện, thống kê,
nhận diện nhân vật.
Khi đọc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu,
chúng ta thấy xuất hiện một loạt những nhân vật, có nhân vật xuất hiện một cách
trực tiếp, có nhân vật chỉ được nhắc tên như: những nhân vật trong gia đình làng
chài; người đàn bà, người đàn ông, thằng Phác, đứa con gái, một đàn con nhỏ được
nhắc đến, nghệ sĩ nhiếp ảnh, người trưởng phòng, cán bộ tòa án Đẩu, cô y tá...
Nhân vật trong truyện có nhiều mức độ. Đó là những nhân vật bình thường,
chỉ là những con người được nhắc đến, kể ra trong truyện. Nhưng có khi là những
nhân vật trung tâm, nhân vật chính hay có nhân vật tính cách hoặc ý nghĩa điển
hình, tức đã có chiều sâu tâm lý và tính phổ biến xã hội nào đó.
Rõ ràng việc phát hiện, thống kê và nhận diện nhân vật như vậy sẽ là bước
khởi đầu để chuẩn bị cho việc phân tích nhân vật một cách chi tiết ở các bước tiếp
theo khi khảo sát về nhân vật trong bất kỳ truyện ngắn nào.
* Phân loại và lựa chọn nhân vật.
Để chiếm lĩnh thế giới nhân vật đa dạng, phức tạp cần phải tìm hiểu phương
diện loại hình của chúng. Dựa trên phương diện kết cấu và ý thức có thể chia nhân
vật thành các loại như sau: Nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm, nhân
vật chính diện, nhân vật phản diện. Khi xây dựng thế giới nhân vật các nhà văn đều
có ý đồ của mình. Bất kỳ nhân vật nào cũng mang một ý nghĩa nhất định, dù ít hay
nhiều cũng đều góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề và nội dung của tư tưởng tác
phẩm.

13


Đương nhiên trong một giờ đọc – hiểu, do thời gian có hạn, số lượng nhân
vật trong mỗi tác phẩm lại nhiều cho nên chúng ta không đủ thời gian để hướng dẫn
các em tìm hiểu, phân tích tất cả các nhân vật. Hơn nữa, vai trò của nhân vật trong
tác phẩm cũng không đồng nhất và đóng góp của các nhân vật cũng có sự đậm nhạt
khác nhau. Muốn cho học sinh hiểu sâu, hiểu kỹ hình tượng nhân vật buộc giáo
viên phải yêu cầu học sinh lựa chọn nhân vật để phân tích. Vậy công việc lựa chọn
và phân tích nhân vật như thế nào?
Trước tiên chúng ta phải xác định hệ thống nhân vật của tác phẩm đâu là
nhân vật chính, đâu là nhân vật phụ, đâu là nhân vật trung tâm. Nhân vật chính là
nhân vật đóng vai trò chủ đạo xuất hiện nhiều, giữ vị trí then chốt của cốt truyện
hoặc tuyến cốt truyện. Đó là con người có liên quan đến sự kiện của tác phẩm, là cơ
sở để tác giả triển khai đề tài, nội dung tư tưởng của mình. Nhân vật phụ là nhân
vật xuất hiện trong một số biến cố, tình tiết của tác phẩm, có tính chất bổ sung tính
cách cho nhân vật chính (bản thân nó không có tính cách). Còn nhân vật trung tâm
là nhân vật có quan hệ với tất cả nhân vật trong tác phẩm. Đó là nơi quy tụ mọi mối
mâu thuẫn, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm. Trong nhiều tác phẩm có
thể phân loại nhân vật thành nhân vật chính diện và phản diện.
Sau khi xác định được đâu là nhân vật chính, đâu là nhân vật phụ, đâu là
nhân vật trung tâm, công việc tiếp theo là chúng ta phải lựa chọn nhân vật nào để
phân tích, làm nổi bật nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Trong truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu xuất hiện nhiều nhân
vật như: Chị Liên, anh Nhĩ, bọn trẻ hàng xóm, ông cụ giáo Khuyến, con trai anh
Nhĩ... Thế nhưng anh Nhĩ là nhân vật xuất hiện trong tất cả các sự việc và tình tiết.
Anh Nhĩ được coi là nhân vật chính đang nhận thức về đường đời và cuộc sống.
Nhưng cái oái oăm thay, nhân vật đau đớn trong một giới hạn mang tính bi kịch:
Đã thấy chân lý mà không còn điều kiện để thực hiện. Đó là “sự bất lực trước thực
tiễn” trước khát vọng đẹp đẽ lành mạnh như một “yêu cầu tất yếu”.

Hay trong truyện ngắn “Một người Hà Nội” của Nguyễn Khải cũng xuất hiện
hàng loạt những nhân vật: cô Hiền, bạn bè của cô Hiền... Nhưng cô Hiền lại là nhân
vật trung tâm thể hiện toàn bộ nội dung tư tưởng của tác phẩm. Khi phân tích nhân
vật trong “Một người Hà Nội” thì không thể không phân tích nhân vật cô Hiền. Cô
Hiền là lớp người “Hà Nội vang bóng một thời”, thông minh, sắc sảo, trang trọng
và biết thích ứng, tính toán việc nước, việc nhà, vừa khôn khéo vừa tự trọng. Nhờ
thế cô đã xây dựng được nếp nhà vững vàng “không hề lung lay trước những trận
gió lạ” giữa lúc gia thất của nhiều danh gia vọng tộc ở Hà Nội đang gặp thời khủng
hoảng.
Như vậy việc lựa chọn nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm
trong tác phẩm và việc phân tích các nhân vật ấy sẽ là căn cứ để lý giải toàn bộ nội
dung tác phẩm. Và nội dung tư tưởng tác phẩm được lý giải như thế nào còn tùy
thuộc vào việc phân loại nhân vật.
* Giúp học sinh phát hiện và lựa chọn chi tiết tiêu biểu, sắp xếp, phân chúng
theo trình tự hợp lý làm sáng tỏ tính cách nhân vật.
14


Phân tích nhân vật là chỉ ra các đặc điểm tính cách của nhân vật.Thể nhưng
có một điều kiện cần lưu ý là không phải nhân vật nào trong tác phẩm cũng có tính
cách. Vậy để phân tích được tính cách nhân vật trong tác phẩm tự sự có thể dựa vào
những yếu tố sau:
Dựa vào việc miêu tả của tác giả về nhân vật ấy: miêu tả ngoại hình, miêu tả
đời sống tâm lý nhân vật. Dựa vào hành động của nhân vật như: cử chỉ, lời nói,
điệu bộ. Dựa vào các mối quan hệ của nhân vật, giữa nhân vật với nhân vật, nhân
vật với hoàn cảnh.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu có nhân vật
chính là người đàn bà hàng chài và nhân vật tôi. Họ là nhân vật thể hiện tư tưởng,
nội dung tác phẩm. Nhân vật chính là người đàn bà hàng chài không tên được tác
giả gọi một cái tên chung chung là người đàn bà. Khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu

tức là phân tích phải chỉ ra đặc điểm và tính cách nhân vật người đàn bà phải chú ý
đến cách miêu tả ngoại hình với những chi tiết chân thực: chạc ngoài bốn mươi,
thân hình cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ mệt mỏi, tấm lưng áo bạc
phếch rách rưới. Ngoài ra cần phân tích hành động của cử chỉ và ngôn ngữ người
đàn bà. Chị tự nguyện cam chịu rời chiếc thuyền, đến bãi xe tăng hỏng đứng lại
nhìn ra phía trước đưa cánh tay lên rồi lại buông thõng xuống cặp mắt nhìn xuống
chân. Chi tiết người đàn bà ôm chầm lấy thằng con rồi chứng tỏ đó là một người
mẹ yêu thương con vô cùng. Nhưng lại có chi tiết người đàn bà buông đứa con đuổi
theo người đàn ông vừa đánh mình chứng tỏ người mẹ thương con nhưng không bỏ
được chồng. Người đàn bà thật khó hiểu. Những câu đối đáp đầy tự tin, cứng cỏi
,sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời của chị ở tòa án huyện cho thấy chị là người thẳng thắn
yêu chồng con và giàu đức hy sinh.
2.3.3. Làm cho học sinh hiểu và cảm được cái hay trong ngôn ngữ của nhân vật và
cái ý vị trong lời kể của tác giả
Đây là yêu cầu quan trọng thứ ba trong việc đọc hiểu theo đặc trưng thể loại.
Ngôn ngữ của nhân vật và lời kể của tác giả chính là ngôn ngữ nghệ thuật của
truyện. Phân tích ngôn ngữ trước hết cần phải đọc để phát hiện ra đâu là ngôn ngữ
nhân vật, đâu là ngôn ngữ người kể chuyện. Sau đó khảo sát ngôn ngữ của người kể
chuyện. Đây là bước cần thiết và quan trọng khi khảo sát ngôn ngữ của truyện
ngắn.
Đối với ngôn ngữ của người kể chuyện, nếu dựa vào chức năng thì chia
thành ba loại là ngôn ngữ miêu tả, ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ dẫn truyện.
Nhưng cả ba kiểu ngôn ngữ ấy trong tác phẩm tự sự là gián tiếp nghĩa là miêu tả
người trần thuật đứng ở bên ngoài. Nhân vật kể chuyện là nhân vật trực tiếp tham
gia vào các biến cố với tư cách là nhân vật của tác phẩm. Loại nhân vật này chỉ sử
dụng hai loại ngôn ngữ là ngôn ngữ trực tiếp và ngôn ngữ gián tiếp. Cũng có
trường hợp nhân vật kể chuyện sử dụng ngôn ngữ nửa gián tiếp. Người ta có thể
căn cứ vào ngôn ngữ của người kể chuyện để xác định vị trí điểm nhìn của nhân vật
kể chuyện từ đó có thể biết được thái độ của nhân vật kể chuyện đối với các biến cố
các sự kiện trong tác phẩm giúp người ta nhận ra chiều hướng tư tưởng trong tác

phẩm.
15


Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, nhân
vật người đàn bà hàng chài không chỉ hiện lên thông qua lời kể và cách miêu tả của
tác giả mà còn hiện lên rõ nét qua lời kể của nhân vật tôi “ngay lúc ấy chiếc thuyền
đâm thẳng vào chúng tôi. Một người đàn ông và một người đàn bà rời khỏi chiếc
thuyền... như trong câu chuyện cổ đầy quoái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến
mất”.
Như vậy nhân vật tôi với tư cách là nhân vật kể chuyện là người tham gia
trực tiếp vào các biến cố, các sự kiện của tác phẩm đã kể lại, miêu tả lại sự việc đau
lòng. Một cảnh đánh vợ của người đàn ông độc ác vũ phu làm cho sự việc nhân vật
người đàn bà hiện lên khách quan bất ngờ dưới con mắt của độc giả. Từ việc khảo
sát ngôn ngữ của người kể chuyện ta dễ dàng đọc và phát hiện ra ngôn ngữ của
nhân vật trong truyện ngắn. Trong ngôn ngữ của nhân vật, chúng ta lại phải xác
định xem đâu là lời đối thoại và đâu là lời độc thoại nội tâm.
Nói tóm lại giảng dạy truyện thì phải phân tích ngôn ngữ của truyện. Ngôn
ngữ là những sợi dây tơ dệt nên cốt truyện và nhân vật dệt nên toàn bộ hình tượng
tác phẩm. Sự phân tích ngôn ngữ đó gắn chặt với việc phân tích nhân vật và cốt
truyện cùng làm nên cái đặc sắc của việc dạy truyện như là một tác phẩm có một
phương thức kết cấu đặc biệt theo loại thể.
2.4. Hiệu quả của áp dụng đề tài
Thực tế trong quá trình dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT, có số lượng
lớn tác phẩm tự sự ở cả chương trình lớp 10,11 và 12. Vì vậy, tôi đã áp dụng linh
hoạt đề tài này vào quá trình dạy học. Đặc biệt sử dụng triệt để khi hướng dẫn học
sinh đọc- hiểu văn bản tự sự của văn học Việt Nam sau 1975. Đây là những nội
dung trực tiếp mà các em lớp 12 đang tiếp cận. Tôi nhận thấy, đa số các em không
còn ngại khi học tác phẩm tự sự dài nữa, đã có chuyển biến trong hứng thú học tập,
tích cực đọc bài, chuẩn bị bài và tham gia vào hoạt động đọc- hiểu trên lớp. Bởi khi

áp dụng đề tài vào thực tế, tôi không chỉ thực hiện theo các bước, quy trình trên mà
còn linh hoạt ứng dụng, kết hợp với các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới như
thảo luận nhóm, sử dụng sơ đồ tư duy, sử dụng hệ thống câu hỏi mở, kết hợp các
hình ảnh video minh họa...Và chính sự kết hợp ấy đã khiến chất lượng của các bài
kiểm tra về phần văn bản tự sự đã có chuyển biến rõ rệt.
* Làm bài kiểm tra khảo sát từ 7 đến 10 phút tại lớp 12A2.
Câu hỏi: Nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu được khắc họa với những phẩm chất, tính cách
gì nổi bật? Qua nhân vật, nhà văn muốn gửi gắm tư tưởng gì?
Yêu cầu:
a) Phẩm chất, tính cách
* Một người đàn bà cam chịu nhẫn nhục.
- Khi sắp bị chồng đánh, đưa mắt nhìn xuống chân.
- Khi bị chồng đánh, không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không
tìm cách chạy trốn.
- Lời nói khẩn thiết van xin quý tòa “Đừng bắt con bỏ nó”.
16


Từ ánh mắt, đến thái độ, cử chỉ, lời nói đều biểu hiện sự cam chịu, nhẫn nhục
đến đáng thương..
* Một người mẹ thương con và giàu đức hi sinh.
- Gửi con lên ông ngoại vì muốn bảo vệ con.
- Đau đớn, xót xa khi làm tổn thương con.
- Lời giãi bày: sống vì con, vui nhất là lúc nhìn đàn con được ăn no”...
* Một người phụ nữ tự trọng, sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời:
- Xấu hổ khi biết nghệ sĩ Phùng và con trai đã chứng kiến cảnh mình bị đánh.
- Thấu hiểu, độ lượng với chồng.
- Biết chắt chiu hạnh phúc bình dị; không bỏ chồng vì người đàn ông là chỗ
dựa...

* Nghệ thuật: tình huống truyện độc đáo, ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù
hợp với tích cách, miêu tả tâm lí nhân vật chân thật, đối lập...
b) Tư tưởng
Qua nhân vật người đàn bà, nhà văn gủi đến thông điệp: đừng nhìn cuộc đời,
con người một cách đơn giản, phiến diện, phải đánh giá sự vật, hiện tượng trong
mối quan hệ đa diện, nhiều chiều.
* Kết quả (%)
Giỏi
Khá
TB
Yếu
30%
48%
22%
0%

17


3. Kết luận
Đọc hiểu văn chương là cơ hội tiếp xúc trực tiếp với thế giới nghệ thuật
trong tác phẩm “sống cùng” với nó để cảm nhận, thưởng thức và lí giải những sáng
tạo thẩm mĩ độc đáo của nhà văn. Đó cũng là con đường để những tiềm năng nhân
văn, tình cảm thẩm mĩ của tác phẩm có thể chuyển vào trong cảm xúc và tâm trí
của mỗi học sinh, làm biến đổi chủ thể tạo nên sự phát triển tâm lí, nhận thức, nhân
cách. Chính vì vậy giúp học sinh có cách tìm hiểu tác phẩm văn chương một cách
đúng đắn là nhiệm vụ và trách nhiệm của mỗi giáo viên. Đề tài của tôi trên cơ sở lí
luận và thực tiễn giảng dạy mà đúc rút nên, hi vọng có thể giúp ích phần nào cho
mỗi giáo viên trong quá trình giảng dạy văn, đặc biệt là phần văn bản tự sự nói
chung và văn bản tự sự của văn học Việt Nam sau 1975 nói riêng.


18


Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Bình, Văn học Việt Nam sau 1975, NXB Đại học sư phạm Hà
Nội, 2012.
2. Nhiều tác giả, SGK Ngữ văn 12, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2010.
3. Nhiều tác giả, Tiếp cận tác phẩm văn học từ góc độ thể loại, NXB Giáo dục,
Hà Nội, 2012.
4. Phan Trọng Luận, Phương pháp dạy học văn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2009.
5. Phan Trọng Luận, Thiết kế bài học Ngữ văn 12, NXB Giáo dục, Hà Nội,
2012.

19


20



×