SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÀO CAI
TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số kinh nghiệm dạy tiết Trả bài trong phân
môn Làm văn- chương trình Ngữ văn bậc THPT
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hạnh
Chức vụ:
Giáo viên
Tổ chuyên môn: Ngữ văn
Đơn vị công tác: Trường THPT Chuyên Lào Cai
Lào Cai, ngày 10 tháng 04 năm 2014
1
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………….
I.Lí do chọn đề tài....................................................................................
II.Phạm vi đề tài .....................................................................................
III. Cấu trúc đề tài…………………………………………………......
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ………………………………………..........
I. Cơ sở lý luận của vấn đề………………………………......................
II. Thực trạng của vấn đề..............………………………....................
5
5
6
7
8
8
9
III. Một số biện pháp dạy tiết Trả bài………………………….......
10
1. Ra đề…………………………………………………………......
10
2. Chuẩn bị đáp án……………………………………………….....
12
3. Chấm bài…………………………………………………….......
14
4. Trả bài………………………………………………………........
5.Thực nghiệm.....................................................................................
IV. Hiệu quả của SKNN .........................................................
C. KẾT LUẬN.......................................................................................
TƯ LIỆU THAM KHẢO.......................................................................
15
17
22
23
24
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lí luận dạy học hiện nay coi học sinh là trung tâm của hoạt động dạy học.
Luật giáo dục của nước CHXHCN Việt Nam trong điều 4 (yêu cầu về nội dung
phương pháp giáo dục) cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích
cực tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo ở người học, bồi dưỡng năng lực tự học,
lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” (Luật Giáo dục - trang 9 - 1998). Trong dạy
học nói chung và dạy Văn nói riêng, làm thế nào để kích thích được khả năng chủ
động, sáng tạo của học sinh là một vấn đề then chốt, góp phần quyết định chất
lượng của hoạt động dạy và học.
Làm văn là một phân môn trong chương trình Ngữ văn ở bậc THPT. Đây là
môn học có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục, bồi dưỡng cũng như phát triến
năng lực và nhân cách học sinh trong nhà trường. Tiết Trả bài là tiết học có ý
nghĩa thực hành cao, trong đó làm thế nào để khơi dậy hứng thú cho học sinh và
mang lại hiệu quả tốt là vấn đề không đơn giản.
Phân môn Làm văn nói chung và tiết Trả bài nói riêng thường được coi là tiết
khô khan, khó dạy với giáo viên và tiết nặng nề với học sinh. Trong thực tế, có
người coi đây là tiết đệm, nên rút ngắn thời gian để đầu tư cho các tiết học hấp dẫn
hơn như Đọc văn, Tiếng Việt.
Trong thực tế hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy Văn trong nhà trường
đã chứng tỏ được hiệu quả của nó. Tuy nhiên, các phân môn khác như Đọc văn,
Tiếng Việt được đầu tư, chú ý nhiều hơn. Trong khi đó, đổi mới việc dạy môn Làm
văn, nhất là những tiết Trả bài chưa được quan tâm nhiều lắm.
3
Từ thực tế gần 20 năm giảng dạy môn Văn ở bậc THPT, chúng tôi thấy rất rõ
tầm quan trọng của tiết Trả bài. Đây là một quá trình âm thầm mà công phu, vất vả
và đòi hỏi nhiều khả năng sáng tạo của người giáo viên. Đồng thời nếu được đầu tư
thích đáng, nó sẽ mang lại những kết quả thiết thực với việc dạy Văn.
II. PHẠM VI ĐỀ TÀI, ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Phạm vi đề tài
Môn Văn ở cấp THPT có nhiều phân môn nhỏ: Đọc văn, Tiếng Việt, Làm
văn… Thật ra ở phân môn nào, việc đầu tư công sức, chuẩn bị giáo án cũng hết sức
cần thiết. Nhưng trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm người viết chỉ giới
hạn đề tài của mình trong phạm vi : Một số kinh nghiệm dạy tiết Trả bài trong
phân môn Làm văn- chương trình Ngữ văn bậc THPT
2. Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 11
3. Phương pháp nghiên cứu:
Để triển khai đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
1. Phương pháp hệ thống
2 . Phương pháp thống kê, khảo sát
3 . Phương pháp phân tích- tổng hợp
4 . Phương pháp thực nghiệm
III. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài gồm 3 phần:
A. Đặt vấn đề
B. Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lý luận
4
II. Thực trạng khó khăn khi dạy tiết Trả bài
III. Các biện pháp đã tiến hành khi dạy tiết Trả bài
IV. Hiệu quả của SKKN
C. Kết luận
5
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận:
Tiết Trả bài về bản chất là tiết học mang nhiều ý nghĩa. Trong cuốn Phương
pháp dạy học văn, giáo sư Phan Trọng Luận cho rằng: “Giờ trả bài là một giờ
học sinh động và có tác dụng nhiều mặt. Đây là giờ học được xây dựng thực sự từ
lao động trực tiếp của học sinh, từ vốn liếng nhiều mặt của học sinh. Và cũng qua
giờ học này, học sinh dễ nhận ra những mặt mạnh và yếu, nhất là những mặt yếu
của mình”.
Trước hết, đó là tiết học sinh được thực hành. Các em không còn bơi trong
thế giới văn chương nữa mà đã thể hiện sự tiếp nhận kiến thức qua một bài làm cụ
thể. Có nghĩa là tiết học mang tính thực hành cao, kiến thức được tiếp nhận, sàng
lọc rồi thể hiện. Đây cũng là tiết học mang tính tổng hợp cao. Cả lí thuyết và kĩ
năng viết bài sẽ cùng thể hiện trong bài làm. Kiến thức học được trong sánh vở và
hiểu biết về nhiều lĩnh vực của cuộc sống cũng có cơ hội để các em bộc lộ. Hơn
nữa, khả năng sáng tạo của học sinh cũng có cơ hội để bộc lộ.
Trả bài cũng là tiết học để giáo viên có cơ sở đánh giá trình độ của học sinh
và hiệu quả giảng dạy của chính mình. Giờ Trả bài tuy một năm học chỉ có khoảng
8 tiết nhưng nó là sự tổng hợp kết quả của các phân môn khác như Đọc văn, Tiếng
Việt. Trước hết, nó thể hiện sự tiếp nhận kiến thức của học sinh. Qua bài viết, giáo
viên có thể đánh giá được học sinh lĩnh hội bài giảng ở mức độ nào. Hơn thế nữa,
nó thể hiện cụ thể năng lực tạo lập văn bản của các em. Cách diễn đạt, cách trình
bày, cách lập ý sẽ được các em bộc lộ cụ thể trong bài viết của mình. Đó là cơ sở
tốt để giáo viên đánh giá đúng năng lực học tập của từng học sinh. Nhưng qua đó,
giáo viên cũng tự đánh giá được trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm. Từ đó,
phát huy những mặt mạnh và điều chỉnh những mặt yếu của mình.
6
Tiết Trả bài giúp các em nhận ra và chữa lỗi. Học văn là cả một quá trình rèn
luyện từ thấy đến cao. Làm văn cũng là quá trình giúp học sinh từ viết đúng đến
viết hay. Trong bài viết, học sinh sẽ buộc phải thể hiện những nhược điểm của
mình. Tiết Trả bài sẽ giúp các em nhận ra sai sót để sửa chữa và khắc phục, vươn
lên ở những bài sau.
Sau mỗi tiết Trả bài, các em nhận ra cách giải quyết trước một vấn đề. Mọi
vấn đề trong cuộc sống đều có thể có nhiều đáp án. Đề kiểm tra văn lại càng có
nhiều hướng giải quyết. Tuy nhiên, sau giờ Trả bài, học sinh sẽ nhận ra cách giải
quyết vấn đề tốt nhất.
Đây cũng là tiết học mang ý nghĩa giao tiếp, giúp học sinh hoàn thiện nhân
cách. Giờ Trả bài là một hoạt động giao tiếp trực tiếp giữa giáo viên và học sinh.
Học sinh học được ở người thầy không chỉ kiến thức mà còn học cách ứng xử, vẻ
đẹp nhân cách. Người ta nói, văn là người. Vậy qua bài viết, giáo viên có thể hiểu
phần nào tính cách, thậm chí tâm tư tình cảm, mong ước của học sinh. Có nghĩa là
sau mỗi giờ học, các em có thể lớn lên một chút.
II. Thực trạng khi dạy tiết Trả bài
Giáo viên ngại dạy tiết Trả bài vì nhiều lí do, trong đó có lí do mất nhiều công
phu chuẩn bị. Một năm chỉ có khoảng 8 bài viết và chừng ấy tiết trả bài. Tuy nhiên,
việc chuẩn bị cho một giờ Trả bài lại hết sức công phu và mất nhiều thời gian. Giáo
viên sẽ phải ra đề, soạn đáp án, chấm bài chi tiết sau đó mới có thể tiến hành tiết
Trả bài.
Hơn nữa, thường xảy ra tình trạng có nhiều đáp án cho một đề văn. Đề Văn
hiện nay ra theo hướng mở. Điều này sẽ tạo hứng thú cho học sinh, nhưng đồng
thời cũng là một thách thức với giáo viên. Bởi việc xây dựng một đáp án tối ưu
giữa nhiều đáp án không phải là điều đơn giản. Nhiều khi, đề đã có mà đáp án chưa
hoàn thiện. Cũng có khi giáo viên vừa chấm vừa bổ sung đáp án.
7
Với tiết Trả bài, có nhiều học sinh không hứng thú. Nhiều học sinh quan niệm
giờ Trả bài như một giờ xét xử. Giáo viên là quan toà nghiêm minh mà học sinh trở
thành người “có tội”. Có em bị thày cô chỉ trích nặng nề, thậm chí trở thành trò
cười cho những bạn cùng lớp. Điểm số của bài làm văn thường không cao như bài
kiểm tra các môn khoa học tự nhiên- có thể đây là một vấn đề thuộc về thói quen,
về tâm lí mà giáo viên cần xem lại.Vì vậy, tâm lí các em sợ giờ trả bài không phải
là hiếm.
III. Một số kinh nghiệm dạy tiết Trả bài
1.Ra đề
Ra đề là khâu đầu tiên nhưng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tiết Trả
bài. Bởi nếu giáo viên cẩu thả, dễ dãi trong việc soạn đề thì khó có thể có một tiết
Trả bài tốt.
Đề trước tiên phải Đúng. Đúng nghĩa là sát với chương trình các em đã
học. không thể học một đằng, ra đề một nẻo theo kiểu đánh đố. Nhưng đúng còn là
sự chuẩn xác trong câu chữ của đề bài. Không nên ra những vấn đề không xuất xứ,
không giới hạn. Đã có những câu chuyện hài hước về kiểu ra đề tắc trách này.
Trước đây, khi còn học tác phẩm Hòn Đất của Anh Đức, có giáo viên đã ra đề vỏn
vẹn như sau: Phân tích nhân vật chị Sứ. Có người cảm thương thay cho thí sinh đã
viết :
Chị Sứ là chị Sứ nào
Cớ sao thầy lại vận vào văn chương
Em đi tìm khắp bốn phương
Hay là chị Sứ ở phường Lò Chum ?
Với những tác phẩm chỉ học trích đoạn, càng cần có giới hạn vấn đề rõ ràng.
Ví dụ khi ra đề về đoạn trích tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, nếu đề là
« Em hãy phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng
8
A Phủ của Tô Hoài » thì rõ ràng đề không chặt chẽ. Bởi tác phẩm có hai phần :
phần một ( được trích học trong SGK) kể về Mị và APhủ khi ở Hồng Ngài, phần
hai kể chuyện Mị và A Phủ đến Phiềng Sa. Vậy phải đưa cả phần giới hạn là :« Em
hãy phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A
Phủ của Tô Hoài, kể từ khi cô bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà Pá Tra đến khi cô trốn
khỏi Hồng Ngài »
Đề không chỉ đúng mà còn phải hay. Vấn đề cảm hứng khi viết bài rất quan
trọng với môn Văn Một đề văn hay bao giờ cũng kích thích được khả năng sáng tạo
của học sinh. Trong việc đổi mới cách ra đề, giáo viên cũng cần hết sức chú ý tới
việc xây dựng những kiểu đề tạo được hứng thú cho học sinh. Đó là những đề văn
mới lạ cả ở hình thức lẫn vấn đề được đặt ra. Nếu một đề đơn thuần là : ‘‘Tình mẫu
tử’’, chắc các em vẫn viết được. Nhưng các em sẽ hứng thú hơn với đề văn cũng
yêu cầu bàn về tình mẫu tử qua một câu danh ngôn hoặc một câu chuyện. Ví dụ :
Đề bài :
“Vì Thượng Đế không thể xuất hiện ở tất cả mọi nơi nên Người đã tạo ra các bà
mẹ”
Hãy phát biểu suy nghĩ về ý kiến trên.
Cũng tương tự như vậy, nếu học về bài thơ Vội vàng mà sau đó giáo viên ra đề là
« Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu » thì khó lòng làm cho học sinh thích
thú, cũng khó khăn trong việc phân loại học sinh. Những kiểu đề như thế chỉ có thể
kiểm tra khả năng học thuộc lòng của các em mà thôi. Vậy, có thể ra những dạng
đề sau về bài Vội vàng :
- Đề 1 : Phân tích những quan niệm thẩm mĩ và nhân sinh tích cực mà Xuân Diệu
thể hiện trong bài thơ Vội vàng.
- Đề 1 : Nhà phê bình văn học Hoài Thanh cho rằng «Xuân Diệu mới nhất trong
các nhà thơ mới »
Qua bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, anh/ chị hãy bày tỏ ý kiến của mình.
2. Chuẩn bị đáp án
9
Chuẩn bị đáp án phải được hình thành từ khi mới chuẩn bị ra đề. Không nên đưa
những vấn đề mà bản thân người dạy cũng chưa tìm ra cách giải quyết. Tuy nhiên,
bên cạnh đáp án đã chuẩn bị, có thể bổ sung thêm sau khi chấm bài của học sinh.
Trong đáp án nên để những phần mở để các em có cơ hội sáng tạo.
Chúng tôi xin giới thiệu đề và đáp án bài kiểm tra văn phần nghị luận xã hội lớp
11
1. Đề bài
Đây là một câu chuyện được một cảnh sát người Nhật gốc Việt ghi lại sau trận
động đất ở Nhật ngày 11/3/2011:
“Tối hôm qua tôi được phái tới một trường tiểu học phụ giúp hội tự trị ở đó
phân phát thực phẩm cho những người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những
người xếp hàng tôi chú ý đến một em nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc áo
thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến lượt của
em thì chắc chẳng còn thức ăn nên mới lại hỏi thăm.
Em kể khi đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần đến, cha
của em làm việc gần đó đã chạy đến trường, từ ban công lầu 3 của trường em nhìn
thấy chiếc xe và cha bị nước cuốn trôi, nhiều khả năng đã chết.
Hỏi mẹ đâu, em nói nhà em nằm ngay bờ biển, mẹ và em em chắc cũng không
chạy kịp. Thằng nhỏ quay người lau vội dòng nước mắt khi nghe hỏi đến thân
nhân.
Nhìn thấy em nhỏ lạnh, tôi mới cởi cái áo khoác cảnh sát trùm lên người em nhỏ.
Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của tôi bị rơi ra ngoài, tôi nhặt lên đưa
cho em và nói: "Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú
ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói". Cậu bé nhận túi lương khô của tôi, khom người cảm
ơn. Tôi tưởng em sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó nhưng không phải, cậu bé ôm bao
lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô
vào thùng thực phẩm đang phân phát rồi lại quay lại xếp hàng.
10
Ngạc nhiên vô cùng, tôi hỏi tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Cậu bé
trả lời: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát
chung cho công bằng chú ạ".
Phát biểu suy nghĩ của anh/ chị về câu chuyện trên.
2. Đáp án
1. Giải thích ý nghĩa câu chuyện
- Câu chuyện nói về thảm hoạ kinh hoàng ở Nhật ngày 11.3.2011: động đất và
sóng thần đã làm khoảng 20.000 người chết và người mất tích.
- Người dân Nhật đã phải đối mặt với thảm hoạ kinh hoàng đó. Một em nhỏ mới 9
tuổi trở thành nạn nhân của trận động đất khủng khiếp ấy. Em đã mất tất cả người
thân, bản thân đang đói rét. Bản năng thông thường của con người trong hoàn cảnh
bất hạnh ấy là sợ hãi, hoảng loạn, tìm cách tự bảo vệ mình và cầu cứu sự giúp đỡ
của người khác.Cậu bé ở đây đã từ chối khẩu phần ăn quí báu trong lúc chính cậu
cũng đang rất đói, chỉ vì một lí do đơn giản : còn nhiều người khác đói hơn mình
- Đó là một công dân nhỏ bé của nước Nhật vĩ đại, với những phẩm chất quí giá
cảu dân tộc này : sự kiên trì nhẫn nại chịu đựng gian khổ, có ý thức kỉ luật, giàu
đức hi sinh, lòng vị tha… Với những công dân như thế, nước Nhật chắc chắn sẽ hồi
sinh nhanh chóng.
2. Bàn bạc mở rộng
- Trong cuộc sống, bên cạnh những may mắn, hạnh phúc, con người có lúc còn
phải đối mặt với bất hạnh, rủi ro. Điều quan trọng là con người cần có lòng dũng
cảm, bản lĩnh kiên cường, lối sống nhân ái, vị tha … để vượt qua thử thách.
- Những phẩm chất ấy phải được rèn luyện từ nhỏ, để khi lớn lên, con người trở
thành những công dân có ích cho đất nước mình.
- Một dân tộc chỉ thực sự lớn mạnh khi có những công dân tự ý thức được trách
nhiệm của mình trước tập thể, dám đứng ra chung tay góp sức, gánh vác khó khăn
cùng cộng đồng.
3. Chấm bài
11
Chấm bài là một công việc thường ngày của giáo viên. Do đặc thù của môn
Văn, bài làm của học sinh thường khá dài, việc chấm mất nhiều thời gian. Trước
khi chấm, nên đọc một số bài của những học sinh ở các trình độ giỏi, kha, trung
bình và kém trong lớp để có đánh giá sơ bộ. Sau đó mới tiến hành chấm cụ thể.
Hãy ghi nhớ, bài viết là công sức, tâm huyết, thậm chí là tâm sự của các em. Ở góc
độ nào đó, nó còn là một công trình sáng tạo nho nhỏ.Vậy người thầy cần đối xử
với nó thật trân trọng. Nên đọc kĩ để không bỏ sót cái ưu điểm và nhược điểm cảu
bài làm.
Sau đó, vấn đề cần cân nhắc là cho điểm. Điểm số phải phản ánh chính xác khả
năng của các em. Nhưng cũng đừng nên cho điểm quá chặt chẽ. Có giáo viên quan
niệm, bài văn hay lắm cũng chỉ cho đến 8, mà 8 điểm Văn bằng 10 điểm Toán.
Như vậy, sẽ làm cho khung điểm chật chội, khó có thể động viên khuyến khích các
em. Chúng tôi cho rằng nên mạnh dạn hơn trong việc chấm bài Làm văn của học
sinh. Có thể còn vài sơ suất nhỏ, nhưng bài làm nếu đáp ứng tốt yêu cầu về nội
dung, và đặc biệt là có ý sáng tạo thì vẫn có thể cho điểm cao.
Lời phê là một khâu cần hết sức lưu ý. Bởi với lời phê, giáo viên không chỉ nhận
xét, đánh giá mà còn có thể khích lệ học sinh. Những lời phê chung chung như:
Được, Tốt, Chưa hiểu đề…dễ làm các em chán nản, thậm chí thất vọng về năng lực
bản thân. Một nhà giáo tâm huyết với nghề là Đặng Thiêm cũng đã từng thẳng thắn
phát biểu về vấn đề này: “Khi chấm văn, trả bài, đó là cơ hội tốt để chúng ta động
viên, khuyến khích những mạnh dạn sáng tạo của học trò. Tiếc thay, công việc này
ít giaó viên là quá. Chúng ta chỉ phê những ý hỏng, câu sai, tù không đúng, lỗi
chính tả và phê “ Bài sơ sài, ý nhạt nhẽo” hoặc “Tạm được”, “Khá”. Những ý
kiến nhận xét ấy không có tác dụng cổ xuý và vạch hướng khắc phục cho trẻ. Nó
chỉ làm cho trẻ chấp nhận và buồn phiền mà không tự gỡ được những “cái tóc
vướng vào đôi chân gà bé bỏng của mình”. Lời phê cần chỉ rõ ưu và nhược điểm
của bài viết, nhưng quan trọng hơn là cần có một thái độ trân trọng, nâng niu công
12
sức của học sinh. Nếu là nhược điểm, sau khi chỉ ra, nên phê “ Nếu em khắc phục
được nhược điểm này, kết quả bài viết sẽ khá hơn”. Nếu học sinh có tiến bộ so với
bài viết trước, hãy khuyến khích các em bằng lời phê như “ Có nhiều cố gắng.
Mong em tiếp tục phát huy !” Nhìn chung lời phê cần thể hiện cả trí tuệ lẫn tình
cảm của giáo viên.
4.Trả bài
Tiết Trả bài có rất nhiều bước. Chúng tôi xin mạnh dạn giới thiệu những bước đã
làm trong một tiết Trả bài kiểm tra 90 phút.
4.1. Tìm hiểu đề :
Công việc đầu tiên của giờ Trả bài là cho học sinh tiếp xúc lại với đề bài.
Cần yêu cầu các em đọc kĩ lại đề, gạch chân những từ ngữ quan trọng, phân tích
yêu cầu đề và lập dàn ý.
4.2. Công bố đáp án:
Tất nhiên, giáo viên phải chuẩn bị trước đáp án cho thật kĩ lưỡng và chuẩn xác.
Các ý phải được trình bày một cách mạch lạc, lôgíc. Cũng cần lưu ý tới những ý
kiến mới của học sinh nếu hợp lí. Giáo viên có thể bổ sung ngay vào đáp án. Đừng
quá cứng nhắc, chỉ chấp nhận một đáp án duy nhất mà mình đã chuẩn bị. Bởi thực
ra, dạy cũng là học lần hai. Trong học sinh, sẽ có những em xuất sắc, nổi trội, có
thể có những kiến giải độc đáo.
4.3.Nhận xét chung :
Trước khi trả bài cho từng học sinh, nên có một nhận xét tổng thể về tình hình
chung. Nhận xét này nhằm đánh giá mặt bằng của cả lớp, những ưu điểm và những
tồn tại phổ biến. Từ đó, giáo viên cũng cần rút kinh nghiệm nên chú trọng hơn ở
những phần kiến thức hoặc kĩ năng nào ở những bài dạy sau.
13
4.4. Sửa lỗi cho HS
Giáo viên cần phân loại lỗi của học sinh. Có những lỗi thuộc về chính tả, có lỗi
diễn đạt, lại có lỗi liên kết nhưng nặng nhất là lỗi về ý. Phần này, cần sự công phu
và tinh tế của người thầy. Khi sửa lỗi cho các em, tránh sự căng thẳng hoặc hời hợt,
nếu không sẽ phản tác dụng. Nhất thiết không tạo không khí căng thẳng, nặng nề
khi học sinh mắc lỗi nhưng cũng phải tận tình chỉ ra cái sai để lần sau các em tránh
được.
+ Lỗi chính tả: học sinh hay nhầm lẫn n-l, s-x, ch-tr, ng-ngh…
+ Lỗi diễn đạt: đó có thể là những cách dùng từ không chính xác, diễn đạt tối nghĩa,
viết câu nhiều ý dẫn đến ý không mạch lạc
+ Lỗi về ý : thường gặp ở những học sinh hổng kiến thức, xác định sai vấn đề. Bài
làm của các em sẽ xa đề, lạc đề hoặc ý không chuẩn xác
4.5. Đọc bài làm tốt
Giờ Trả bài bên cạnh việc chỉ ra và giúp học sinh tự sửa lỗi, thì một mục đich
khác không kém phần quan trọng là khẳng định ưu điểm, khích lệ các em. Bởi vậy,
nên dành thời gian đọc những bài viết tốt để các em cùng lắng nghe và học tập.
Thậm chí, nếu có thể, nên khuyến khích những em khác mượn bài của bạn để học
hỏi. Bản thân giáo viên cũng nên phôtô giữ lại những bài tốt để bổ sung vào tư liệu
giảng dạy của mình.
4.6.Yêu cầu học sinh chữa lỗi và kiểm tra lại
Công việc này không đơn giản và mất thời gian, nhưng nếu làm được sẽ rất hiệu
quả. Để thực hiện được giáo viên cần hướng dẫn học sinh. Sau khi cho các em thời
gian ở nhà để suy nghĩ và sửa lỗi, nhất định cần có sự kiểm tra và đánh giá của giáo
viên.
IV. Thực nghiệm
14
1. Những vấn đề chung
1.1. Mục đích của việc thực nghiệm
- Xác định tính khả thi của những kinh nghiệm dạy tiết Trả bài trong phân
môn Làm văn ở bậc THPT
- Bước đầu đánh giá được hiệu quả của việc tiến hành các thao tác trong tiết
Trả bài
- Tự rút kinh nghiệm cho bản thân và tiếp tục rèn luyện kĩ năng dạy tiết Trả
bài để đạt hiệu quả cao hơn.
1.2. Thời gian và đối tượng thực nghiệm
- Thời gian : năm học 2013-2014
- Đối tượng : học sinh lớp 11
2. Thiết kế bài soạn thực nghiệm
Tiết 97 - Lớp 11
TRẢ BÀI SỐ 5
A. Mục tiêu, nhiệm vụ bài học:
1. Nhận thức
- Kiểm tra kiến thức và kĩ năng của HS về phân tích một vấn đề văn học, cụ thể là
về quan điểm sáng tác của Vũ Trọng Phụng qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang
gia.
- Đánh giá, sửa lỗi cho HS
2. Kĩ năng
- Rèn kĩ năng viết bài.
3. Giáo dục:
- Có thái độ đúng với những biểu hiện phi đạo đức trong xã hội
B. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
- Bài làm của HS, thiết kế giáo án của GV.
C. Cách thức tiến hành
- GV nêu câu hỏi gợi mở, HS thảo luận, trả lời.
D. Tiến trình dạy-học
1.Ổn định trật tự lớp
2. Bài mới
15
Hoạt động của thày và trò
Nội dung cần đạt
Thao tác 1: Tìm hiểu đề
1. Chép đề
Giáo viên chép lại đề bài lên -Đề bài :
(Thời gian làm bài 90 phút)
bảng.
Vũ Trọng Phụng từng tuyên bố với các nhà
văn lãng mạn :
“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Đối
với tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi,
Yêu cầu học sinh đọc và
tiểu thuyết là sự thực ở đời .”
Giải thích ý kiến trên. Những “sự thực ở đời” đã
phân tích đề
được Vũ Trọng Phụng phản ánh như thế nào
Thao tác 2: Trình bày đáp
án
Theo em, đề yêu cầu phải
vận dụng những thao tác
nào?
Em hiểu thế nào về khái
niệm tiểu thuyết mà Vũ
Trọng Phụng dùng trong
đoạn văn?
trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
( trích tiểu thuyết “Số đỏ” ).
2. Đáp án
I.Yêu cầu về kĩ năng
- Giải thích được ý kiến của Vũ Trọng Phụng.
- Biết vận dụng vào việc phân tích đoạn trích
Hạnh phúc của một tang gia
- Bố cục bài viết rõ ràng, mạch lạc, dẫn chứng
chính xác, tiêu biểu.
II. Yêu cầu về kiến thức
1. Giải thích :( 3 điểm)
- Tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết : văn chương là thế
giới của tưởng tượng, của những mơ ước chủ
quan ở người nghệ sĩ. Thế giới ấy thường thi vị,
đẹp đẽ nhưng nhiều khi xa rời, thậm chí hoàn
toàn đối lập với thực tế cuộc sống.
- Tiểu thuyết là sự thực ở đời : văn chương phải
phản ánh trung thực bản chất đời sống, không
được lừa dối độc giả.
- Vũ Trọng Phụng đã phát biểu một quan điểm
Vũ Trọng Phụng đã phát
biểu quan niệm nghệ thuật
nghệ thuật chân chính của các nhà văn hiện thực.
Nhà văn phê phán thứ văn chương thi vị hoá, tô
như thế nào?
16
hồng cuộc sống, mang lại cho người đọc những
ảo tưởng có hại. Những người cầm bút có lương
tâm và bản lĩnh cần nhận ra trách nhiệm xã hội
của mình, phải phản ánh đúng thực tế xã hội, dù
thực tế ấy có đen tối, cay đắng, lầm than, nhơ
Sự thực ở đời đã được nhà
bẩn.Từ đó, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp
Hạnh phúc của một tang
hơn.
2. Chứng minh ( 5 điểm)
2.1. Sự thực ở đời được phản ánh trong đoạn
gia bằng những yếu tố nghệ
trích Hạnh phúc của một tang gia thông qua
thuật nào?
một nghệ thuật trào phúng đặc sắc (4điểm)
+ Tình huống trào phúng : cái chết của cụ cố Tổ
văn phản ánh qua đoạn trích
đã làm cho nhiều người sung sướng, nhất là đám
con cháu bất hiếu trong nhà.
+ Chân dung trào phúng : cố Hồng, Văn Minh, tú
Tân, Tuyết, Phán mọc sừng, Min Đơ, Min Toa,
các quan khách đến dự đám tang... mỗi người
một vẻ nhưng đều sung sướng hả hê vì thoả mãn
nguyện vọng của mình, đều là những kẻ mất
nhân tính. Ngay đám tang cụ cố Tổ cũng là một
Chỉ ra và phân tích hành vi
hình tượng trào phúng vì nó lố bịch, kệch cỡm và
trào phúng đặc sắc nhất trong giả dối.(Cần phân tích cụ thể từng hình tượng
đoạn trích ?
Qua những yếu tố trào
phúng ấy, nhà văn muốn nói
với chúng ta điều gì?
nhân vật ).
+ Hành vi trào phúng : hành vi đặc sắc nhất
chương truyện này là hành vi Phán mọc sừng
thanh toán tiền công( 5 đồng) cho Xuân Tóc Đỏ
ngay trong phút hạ huyệt. Nó chứng tỏ sức mạnh
ghê gớm của đồng tiền trong xã hội tư sản thành
thị đương thời: vì tiền, người ta sẵn sàng chà đạp
lên tình nghĩa, danh dự, nhân phẩm.
17
+Ngôn ngữ và giọng điệu trào phúng : ngôn ngữ
sắc nhọn, nhiều hàm ý với các thủ pháp như : đối
lập, cường điệu, nói ngược...Giọng văn mỉa mai,
Giáo viên công bố biểu điểm
chua chát, đằng sau là một niềm căm uất khôn
nguôi.
2.2.Bản chất của xã hội đằng sau những sự thực
ở đời ấy ( 2 điểm)
- Qua đám tang cụ cố Tổ, Vũ Trọng Phụng
muốn tố cáo xã hội tư sản thành thị đương thời :
bề ngoài khoác áo Văn minh, Âu hoá, nhưng bản
chất thì hết sức thối nát, đồi bại, vì đồng tiền và
những dục vọng xấu xa, sẵn sàng chà đạp lên tất
Thao tác 3: Nhận xét bài
của học sinh
cả.
- Qua đoạn trích, có thể thấy được tài năng, bản
lĩnh cũng như nhân cách của Vũ Trọng Phụng
Biểu điểm:
*Điểm 9-10 : Đáp ứng tốt các yêu cầu của đề,
văn viết sáng rõ, có hình ảnh, có cảm xúc, dẫn
chứng tiêu biểu, xác đáng. Khuyến khích những
bài làm sáng tạo.
*Điểm 7-8: Đáp ứng phần lớn những yêu cầu của
Thao tác 4: Chữa lỗi
Hưóng dẫn HS phát hiện chỗ
sai và chữa
đề, phân tích chưa thật sâu, còn mắc lỗi diễn đạt.
*Điểm 5-6: Bài viết có ý nhưng sơ lược, chưa
làm nổi bật vấn đề, còn mắc lỗi diễn đạt.
*Điểm 3-4: Chưa hiểu đề, viết lan man, diễn đạt
yếu.
* Điểm 1-2: Lạc đề.
*Điểm 0: Bỏ giấy trắng.
3.Nhận xét chung về bài làm của HS
-Ưu điểm :
+ Nắm được kiến thức cơ bản về tác phẩm, về
nhân vật
+ Hiểu đề, dàn ý tương đối rõ
18
+ Một số bài viết phân tích kĩ lưỡng, chi tiết
-Nhược điểm
+ Chưa giải thích thấu đáo nhận định
+ Dàn ý chưa phù hợp
+ Bố cục không cân đối
+ Lỗi chính tả, lỗi diễn đạt còn nhiều
4. Chữa lỗi
4.1. Lỗi chính tả
- di trúc- phải chữa là di chúc
- ruột già- phải chữa là ruột rà
- sắc xảo- phải chữa là sắc sảo
4.2. Lỗi diễn đạt
4.2.1. Ý rối :
- VD : « Khoảng những năm 1930, khi thi đàn
Việt Nam đã ngập tràn hương sắc từ những
tác phẩm của Tự Lực văn đoàn, ngòi bút của
Vũ Trọng Phụng xuất hiện như một ánh sao
Thao tác 5: Đọc bài tốt
(Chọn 1,2 bài làm tốt nhất để
đọc)
Thao tác 6: Yêu cầu học
sinh chữa lỗi và kiểm tra
lại
băng »
- Các lỗi :
+ Dùng từ ngữ hình ảnh không thích hợp
+ Chữa lại : Vào những năm 30 của thế kỉ XX,
khi độc giả Việt Nam còn đang say sưa với
những câu chuyện tình thi vị của Tự lực Văn
đoàn thì Vũ Trọng Phụng lại tìm cho mình
một lối đi riêng.
4.2.2.Dùng từ không chính xác
- VD : « Đến cuối đoạn trích, Vũ Trọng Phụng
đã xây dựng Phán Mọc sừng với tiếng khóc
« Hứt !..Hứt !...Hứt !... »
- Lỗi : dùng từ xây dựng không chuẩn.
- Chữa lại : Cuối đoạn trích, Vũ Trọng Phụng đã
miêu tả nhân vật Phán Mọc sừng với tiếng khóc
có một không hai :« Hứt !...Hứt !...Hứt !... »
4.3. Lỗi về lập ý :
- Có HS bỏ qua phần giải thích
- Một số HS không phân tích đầy đủ những yếu
19
tố nghệ thuật trào phúng của đoạn trích, cá biệt
còn có HS bỏ qua ý hành vi trào phúng có ý
nghĩa quan trọng nhất trong đoạn trích (hành vi
thanh toán tiền công của Phán mọc sừng)
- Một số bài sắp xếp ý và dẫn chứng lộn xộn
5. Đọc bài tốt
6. Học sinh về nhà chữa lỗi
Củng cố : Yêu cầu HS về xem lại bài đã chấm
Kết quả thực nghiệm
Trong giờ Trả bài, học sinh chăm chú nghe giảng. Nhiều học sinh hăng hái
phát biểu.
Điều quan trọng là chúng tôi thấy giờ Trả bài đã bớt đi không khí căng
thẳng. Giao tiếp giữa thầy và trò thân thiện hơn. đặc biệt là nhiều học sinh nhận ra
điểm yếu cua mình và tích cực sửa chữa.
Sau giờ học, giáo viên phát phiếu điều tra để đánh giá kết quả học tập
Kết quả:
Hiểu bài
sâu, có
thể khắc
phục lỗi ở
lần sau
Hiểu bài,
chưa biết
cách khắc
phục lỗi
91%
9%
Không
Rất hứng thú
hiểu bài,
trong giờ
không
học, tích cực
khắc phục
suy nghĩ,
được lỗi
phát biểu
0%
82 %
20
Có hứng
thú
Không có
hứng thú
18%
0%
IV. HIỆU QUẢ SKKN
Việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào trong các tiết trả bài đã đem lại những
hiệu quả tích cực. Những hiệu quả tích cực được thể hiện trong bảng so sánh kết
quả học tập cũng như kết quả bộ môn Văn trong các kỳ thi.
Năm học
2012-2013
2013-2014
Kết quả học tập
môn Ngu văn
Giỏi ( >=8.0)
10/34 (29.4 %)
15/34 (44.1%)
Khá (6.5 – 7.9)
24/34 (70.6%)
19/34 (55.9%)
Tb (5.0 – 6.4)
0
0
Yếu ( 5.0 >)
0
0
Tổng
34 (100%)
34 (100%)
21
KẾT LUẬN
Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi đã áp dựng những kinh nghiệm dạy tiết Trả
bài ở nhiều khối lớp và thấy hiệu quả rõ rệt. Học sinh thích học môn Làm văn hơn,
giờ học sôi nổi và hiệu quả hơn. Ngay cả những học sinh yếu cũng không còn cảm
giác ngại và sợ giờ học này nữa. Ở những bài viết sau, các em có tiến bộ rõ rệt.
Chúng tôi cho rằng đề tài này có tính khả thi cao, có thể áp dụng cho cả giờ Trả
bài ở phân môn Tập làm văn bậc THCS.
Để có thể mang lại một kết quả tốt đẹp như mong muốn, chúng tôi xin có
một vài khuyến nghị sau:
1. Với giáo viên, cần thấy rõ tầm quan trọng và hiệu quả thiết thực của giờ
Trả bài để có sự đầu tư thời gian và công sức xứng đáng để có những giờ Trả bài có
chất lượng cao. Hãy coi việc chấm bài và Trả bài như một cuộc giao tiếp với học
sinh, cần trân trọng những cố gắng của các em.
2. Với học sinh, cần giúp các em hiểu rằng, việc nhận ra điểm mạnh, điểm
yếu của mình qua mỗi bài văn là cần thiết. Các em sẽ trưởng thành hơn sau mỗi bài
văn và cũng là bài học của cuộc sống.
3. Với Tổ chuyên môn và nhà trường: nên có những giờ Trả bài mẫu mực để
giáo viên thảo luận, học tập. Cần ghi nhận và khuyến khích công việc lao động vất
vả và thầm lặng này của giáo viên. Chúng tôi cũng mong muốn sách giáo khoa
soạn được nhiều dạng đề hay hơn nữa để gây hứng thú cho học sinh.
Nghiên cứu đề tài Một số kinh nghiệm dạy tiết Trả bài trong phân môn
Làm văn- chương trình Ngữ văn bậc THPT, chúng tôi mong muốn tìm thêm một
biện pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Văn trong nhà trường phổ
thông.Tuy nhiên, đây là một vấn đề còn mới mẻ, khả năng cá nhân của người thực
hiện còn hạn chế, chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi mong đề tài này
sẽ có dịp được triển khai kĩ lưỡng và hiệu quả hơn nữa.
22
TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. M.Arnauđôp- Tâm lí học sáng tạo văn học, NXB Văn học, Hà nội, 1978
2. Phạm Văn Đồng- Dạy Văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Tạp chí Nghiên
cứu Giáo dục số 2, 1973
3. Đỗ Kim Hồi- Về điểm số Tập làm văn- Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 2/ 1985
4. Phan Trọng Luận- Phương pháp dạy học văn, NXB ĐHQGHN, 2003
5. Nguyễn Đăng Mạnh- Kinh nghiệm viết một bài văn hay, NXB Giáo dục, 2005
6. Đặng Thiêm- Cùng học sinh qua mỗi giờ văn, NXB Giáo dục, 2005
7. Sách giáo khoa Ngữ văn 10,11, 12 tập 1 và 2, NXB Giáo dục, 2006
8. Sách giáo khoa Làm văn 10,11,12 ( Sách chỉnh lí năm 2000), NXB Giáo dục,
2004
23