Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao tỷ lệ chuyên cần cho học viên THPT hệ GDTX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.08 KB, 11 trang )

A.PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Về mặt lí luận
Một trong những tư tưởng đổi mới GD & ĐT hiện nay la tăng cường giáo dục
đạo đức cho học sinh và giảm nguy cơ bỏ học của học sinh được thể hiệ trong
nghị quyêt của Đảng , luật giáo dục và các văn bản của BGD & ĐT. Luật GD đã
xác định " Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản hình thành nhân
cách con người..."
1.2 Về mặt thực tiễn
Gần đây, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hìnhđã lên tiếng khá
nhiều về hiện tượng học sinh bỏ học tụ tập băng nhóm, gây gổ đánh nhau, có vụ
dẫn đến tử vong. Vấn đề này đã trở thành " Chủ đề nóng hổi" của dư luận xã
hội, nhất là đối với gia đình và nhà trường.
Trong đó việc giáo dục, quản lí học sinh và ngăn chặn nguy cơ bỏ học của học
sinh là vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và
đang trở thành một thách thức rất lớn không chỉ riêng ngành giáo dục.
Hiện nay một số bộ phận thanh thiếu niên có dấu hiệu sa sút nghiêm trọng về
đạo đức, nhu cầu cá nhân phát triển lệch lạc, kém ý thức trong quan hệ cộng
đồng, thiếu niềm tin trong cuộc sống, ý trí kém phát triển, không có tính tự chủ
dễ bị lôi cuốn vào những việc xấu.
Đối với Trung tâm GDTX Bảo Yên nói riêng và nhà trường phổ thông nói
chung số học sinh vi phạm đạo đức, có dấu hiệu bỏ học có chiều hướng tăng,
tình trạng học sinh kết thành băng nhóm đầu xanh đầu đỏ, đi xe máy chở số
người quá quy định không đội mũ bảo hiểm lạng lách đánh võng gây nguy hiểm
cho người tham gia giao thông và bạo hành trong trường học đáng được báo
động. Một số cán bộ quản lí, giáo viên còn thờ ơ không chú ý đến việc giáo dục
tình cảm đạo đức cho học sinh.
1.3. Về cá nhân
Xuất phát từ lí luận và thực tiễn ở trên, qua thực tế việc nắm dõ nguyên nhân
dẫn đến tình trạng bỏ học của học sinh và đề ra các biện pháp về ngăn chặn tình


trạng bỏ học của học sinh khối lớp 10 và 11 ở trung tâm GDTX Bảo Yên là một
nhiệm vụ hết sức cần thiết của người cán bộ quản lí giáo dục. Đó là lí do chọn
đề tài: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP LÀM GIẢM TỈ LỆ HỌC SINH BỎ
HỌC Ở KHỐI LỚP 10 VÀ LỚP 11 TRUNG TÂM GDTX BẢO YÊN
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá được đúng thực trạng của tình hình bỏ học của học sinh ở khối lớp
10 và lớp 11 trung tâm GDTX Bảo Yên, thông qua đó tìm ra các biện pháp giáo
dục nâng cao hiệu quả giúp cho học sinh có ý định bỏ học từng bước hoàn thiện
nhân cách để trở thành những người tốt trong xã hội.
3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh ở khối lớp 10 và lớp 11 ở trung tâm GDTX Bảo Yên
4. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu
1


Nghiên cứu về nguyên nhân bỏ học và hiệu quả của các biện pháp giáo dục đã
thực hiện đối với học sinh khối lớp 10 và 11 ở trung tâm GDTX Bảo Yên trong
một số năm học gần đây. Trên cơ sở đó " Đề xuất một số biện pháp làm giảm tỉ
lệ học sinh bỏ học ở khối lớp 10 và lớp 11 ở trung tâm GDTX Bảo Yên".
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tiến hành điều tra tình trạng bỏ học của học sinh, phân tích nguyên nhân, tìm
ra những yếu tố liên quan đến công tác giáo dục để từ đó" Đề xuất một số biện
pháp làm giảm tỉ lệ học sinh bỏ học ở khối lớp 10 và lớp 11 ở trung tâm GDTX
Bảo Yên".
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp tiếp cận lí luận khoa học
Trên cơ sở tiếp cận những kiến thức về tâm lí, giáo dục học và những quan
điểm đường lối của Đảng, các văn bản của BGD và ĐT về đánh giá xếp loại,
khen thưởng và kỷ luật học sinh để làm cơ sở khoa học cho việc triển khai nội
dung của đề tài.

6.2. Phương pháp quan sát thực tế
Khảo sát thực tế công tác giáo dục học sinh cá biệt và làm giảm tỉ lệ nguy
cơ bỏ học của học sinh khối lớp 10 và lớp 11 Trung tâm GDTX Bảo Yên trong
năm hoc qua. Để có số liệu, chất lượng thực tế nhằm đưa ra các giải pháp về
việc thực hiện công tác giáo dục.

2


PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
I. Cơ sở lí luận
1.1. Các khái niệm
Học sinh: là những người đang đi học (học văn hóa và học nghề)
Bỏ học: Là hiện tượng xảy ra trong phạm vi nhà trường. Đó là hiện tượng học
sinh rời khỏi ghế nhà trường khi đang ở giai đoạn được giáo dục thuộc cấp học
mà học sinh đó được tuyển sinh.
Học sinh bỏ học trước hết là ảnh hưởng đến bản thân, sau đó ảnh hưởng đến gia
đình và xã hội. Đối với bản thân học sinh: sẽ làm cho học sinh không đủ những
kiến thức cơ bản để đi vào cuộc sống lao động sản suất hoặc tiếp tục học lên
nữa. Hiện nay, trong lao động sản xuất đòi hỏi người lao động phải có một trình
độ về văn hóa phổ thông và trình độ về kỹ năng nghề nghiệp. Bỏ học ở cấp bậc
THPT còn là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Gia đình phải tốn kém hơn về
kinh tế, phải bỏ ra một khoản tiền đầu tư thêm cho con em mình học lại, xã hội
phải tốn kém hơn về công sức và tiền của trong việc đầu tư sức lực, kinh phí để
giải quyết việc nâng cao dân trí. Mặt khác học sinh bỏ học sẽ làm ảnh hưởng
đến quá trình thực hiện mục tiêu giáo dục, sẽ không hoàn thành chỉ tiêu của
nghành mà Đảng và nhà nước đã giao. (Nghị quyết TW 2- Khóa VIII)
Biện pháp: Là cách làm cách giải quyết cụ thể.
Giảm tỷ lệ: là làm cho cái xấu cái không hay đang có khả năng xảy ra nhiều sẽ

bớt đi.
Biện pháp làm giảm tỷ lệ học sinh bỏ học: Là cách làm của người quản lý bằng
những công việc cụ thể có quan hệ chặt chẽ và thống nhất nhằm tác động đến
các đối tượng có nguy cơ bỏ học làm cho tỷ lệ bỏ học của học sinh giảm trong
phạm vi của Trung tâm.
1.2. Vị trí ,vai trò hoạt động dạy học và nhiệm vụ giáo duc.
Mục tiêu giáo dục của GDTX là:
Cung cấp cho học sinh những học vấn phổ thông và những hiểu biết về kỷ luật,
hướng nghiệp để thực hiện phân luồng sau THPT tạo điều kiện cho học sinh tiếp
tục học tập hoặc đi vào cuộc sống lao động theo định hướng chiến lược phát
triển giáo dục của Đảng.
Giáo dục là Quốc sách hàng đầu.
Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, khoa học hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa lấy chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội cho ai cũng được học
hành. Luật giáo dục đã xác định “mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp cho
học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người xã hội chủ nghĩa xây dựng tư
cách và trách nhiệm công dân…(Điều 23 – luật giáo dục)
Phát triển giáo dục phải gắn liền với nhu cầu phát triển của kinh tế xã hội, tiến
bộ kinh tế xã hội, tiến bộ khoa học – công nghệ, củng cố Quốc phòng an ninh.
3


Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, nhà nước của toàn dân, xây dựng xã hội học
tập, tạo điều kiện cho mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình độ học thường xuyên,
học suốt đời.
Tuy nhiên, hiện nay việc thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về giáo dục
đang gặp nhiều khó khăn, bất cập (Nhất vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn)

Trong những năm qua, giáo dục của nước ta đang gặp nhiều khó khăn: nhu cầu
học tập ngày càng tăng do dân số và trình độ dân trí phát triển song lao động dư
thừa nhiều, khả năng đầu tư cho giáo dục còn hạn hẹp.
Những chậm trễ trong việc cải cách hành chính, đổi mới quản lý kinh tế ,tài
chính, sử dụng lao động, chính sách tiền lương… Là những yếu tố cản trở việc
giải quyết những vướng mắc của ngành giáo dục.
Ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn nguồn tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị và
đầu tư cho giao dục còn nhiều thiếu thốn, trong lúc nhu cầu của xã hội đối với
giáo dục tăng mạnh.
Từ những nguyên nhân trên đã có tác động không nhỏ đến phụ huynh và học
sinh. Một số em không xác định được động cơ học tập, các em không hứng thú
khi đến trường, đến lớp. Từ đó các em chán học rồi bỏ học, trong khi đó cha mẹ
các em luôn bận bịu với cuộc sống hàng ngày không quan tâm đến việc học
hành của con em mình, không quản lý được các em. Bên cạnh đó nhiều phụ
huynh, không xác định được động cơ cho con ăn học.
Từ cơ sở trên việc đưa ra biện pháp làm giảm tỷ lệ bỏ học của học sinh ở Trung
tâm GDTX còn nói chung và học sinh lớp 10, 11 nói riêng là vấn đề vô cùng
thiết thực và cấp bách, góp phần thực hiện mục tiêu nhiệm vụ giáo dục của Đảng
và nhà nước đề ra.
2. Cơ sở thực tiễn.
Học sinh của Trung tâm GDTX Bảo Yên đa số là con nhà nông ở các xã vùng
sâu, đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp, ý thức học
tập của các em còn yếu. Đặc biệt là có nhiều gia đình học sinh có cha mẹ đi làm
ăn xa hoặc cha mẹ bỏ nhau không quản lý được các em dẫn đến nhiều em hư
hỏng, chán học, học yếu rồi bỏ học.
Hầu hết các em vừa học vừa lao động giúp gia đình, nhiều em còn là lao động
chính trong gia đình, ít được cha mẹ quan tâm giúp đỡ trong học tập.
Một số em có vợ, chồng sớm bận rộn với cuộc sống gia đình, con cái dẫn đến
bỏ học.
Một số gia đình sống bằng nghề buôn bán, kinh doanh… nên đời sống kinh tế

khá chăm lo, có điều kiện chăm lo cho con cái học tập khá hơn. Nhưng một số
em sống trong môi trường phức tạp dẫn đến hư hỏng rồi bỏ học.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1 Tình trạng học sinh bỏ học trên cả nước
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, để hội nhập vào nền kinh
tế chung của thế giới thì vấn đề "đào tạo con người" là một trong những yếu tố
then chốt, luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Tuy nhiên, bên
4


cạnh những thành quả đạt được của ngành giáo dục thì vẫn còn đó không ít vấn
đề nan giản đang tìm hướng giải quyết. Một trong số đó là vấn đề bỏ học của
học sinh hiện nay.
Theo số liệu thống kê đến hết học kì I năm học 2007 – 2008, cả nước có
114.000 học sinh bỏ học ở cấp trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông
(THPT). Trong những năm gần đây, được sự quan tâm hỗ trợ đặc biệt của Đảng,
Nhà nước và các ban ngành, tỉ lệ học sinh bỏ học có giảm nhưng số lượng học
sinh bỏ học vẫn còn nhiều và vẫn đáng báo động. Tính đến tháng 12 năm 2007,
số lượng học sinh bỏ học ở cấp THPT là 50.309 học sinh (chiếm 1,66%). Các
tỉnh có số lượng học sinh bỏ học nhiều như: An Giang, Trà Vinh, Kiên Giang,…
Còn đối với Lào Cai tỉ lệ học sinh bỏ học tuy không nhức nhối như một số tỉnh
thành khác nhưng cũng rất đáng quan tâm.
Tình trạng bỏ học của học sinh đã đến mức báo động, nó không chỉ tồn tại ở
những vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn mà còn diễn ra ở các tỉnh
thành phố có nền kinh tế phát triển. Từ những năm trước, ngành giáo dục và đào
tạo đã có nhiều giải pháp để ngăn chặn tình trạng bỏ học của học sinh nhưng
hiệu quả chưa cao.
Ngày 13 tháng 3 năm 2008, tâm điểm cuộc giao ban tháng 3 của Bộ giáo dục và
Đào tạo, dưới sự chủ trì của Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo

Nguyễn Thiện Nhân đã nêu ra: "tâm điểm của giáo dục và đào tạo năm nay
không phải là tuyển sinh, thi tốt nghiệp hay học phí… mà là tình trạng bỏ học
của học sinh từ cấp tiểu học lên đến cấp THPT trên toàn quốc". Mặc dù nhìn vào
bảng thống kê số học sinh bỏ học qua từng năm có giảm nhưng số lượng bỏ học
vẫn ở mức cao, đó là chưa kể trên thực tế số lượng học sinh bỏ học còn cao hơn
nhiều so với những số liệu được thồng kê.
Tổ tự nhiên chúng tôi thực hiện đề tài này với mong muốn đưa ra được cái nhìn
khái quát về tình trạng bỏ học của học sinh trong cả nước cũng như tại Trung
tâm GDTX Bảo Yên, tỉnh Lào Cai.
1.2 Tình trạng bỏ học của học viên tại Trung tâm GDTX Bảo Yên
Tỉnh Lào Cai nói chung, cũng như Trung tâm GDTX Bảo Yên là một tỉnh miền
núi, vùng sâu vùng xa biên cương của tổ quốc. Về mặt xã hội, kinh tế, văn
hóa…còn gặp rất nhiều khó khăn và đang được tháo gỡ dần. Hiện nay toàn tỉnh
có trường THPT và 11 trung tâm giáo dục thường xuyên. Qua số liệu khảo sát
học sinh bỏ học cấp THPT của tỉnh Lào Cai năm 2011 – 2012 như sau: Nhìn
chung, học sinh bỏ học do nhiều nguyên nhân khác nhau như học sinh bị kỉ luật
buộc thôi học, do hoàn cảnh kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn, do học lực quá
yếu…
Học sinh bỏ học tập trung ở các huyện có kinh tế phát triển chậm, đặc biệt nơi
có con em đồng bào dân tộc chiếm đa số.
2. Nguyên nhân bỏ học của học viên Trung tâm GDTX Bảo Yên
Nâng cao chất lượng giáo dục là một nhu cầu cấp thiết của thời đại và là chỉ tiêu
phát triển của mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, giáo dục luôn được coi là quốc
sách hàng đầu. Vì vậy, trước thực trạng bỏ học của học sinh hiện nay đòi hỏi các
cấp ban ngành và tổ chức có liên quan phải tìm mọi cách để ngăn chặn và khắc
phục. Tuy nhiên, trước hết phải tìm hiểu và xác định được nguyên nhân của tình
5


trạng này là do đâu. Qua quá trình nghiên cứu và thu thập thông tin, tổ tự nhiên

chúng tôi nhận thấy có một sô nguyên nhân chính đưa đến tình trạng bỏ học đối
với học viên lớp 10 và lớp 11 tại Trung tâm GDTX bảo Yên như sau:
Thứ nhất, do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ không đủ điều kiện
cho con đến trường buộc các em phải bỏ học. Một phần vì bố mẹ phải lo kiếm
kế sinh nhai, không có thời gian quan tâm chăm sóc, nhắc nhở các em học hành
dẫn đến tình trạng lười học, không muốn đến lớp. Có trường hợp gia đình khó
khăn, các em phải bỏ học để ở nhà phụ việc hoặc lao động sớm để phụ bố mẹ
trang trải cuộc sống, như học viên Đỗ Văn An lớp 11A (khóa học 2010-2011),
em chuyển từ trường THPT số I Bảo Yên sang Trung tâm để có thời gian sáng
đi học, chiều đi khuôn vác thuê ngoài chợ để lấy tiền ăn học, tuy nhiên sau một
thời gian em vẫn buộc phải nghỉ học do gia đình quá khó khăn. Tuy nhiên, đây
không hẳn là nguyên nhân tuyệt đối vì có những gia đình khó khăn nhưng con
em họ vẫn đến trường và còn học rất tốt, nó còn phụ thuộc vào thái độ của bố
mẹ và cá tính của các em. Điều này giải thích tại sao có những gia đình có điều
kiện cho con đi học thậm chí là giàu có nhưng con em họ vẫn không chịu đến
lớp mà chỉ thích đi chơi.
Thứ hai, do gia đình chuyển nơi ở, đi làm ăn xa nên việc học của các em không
được đảm bảo. Đây là một nguyên nhân cũng dễ hiểu vì điều kiện kinh tế ở đây
còn khó khăn nên bố mẹ phải chuyển nơi làm ăn. Trong khi đó con cái còn nhỏ,
buộc bố mẹ phải cho con đi theo và điều đó làm ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề
học tập ở các em. Nhiều hộ gia đình sau khi chuyển đi cũng tìm cách cho con đi
học ở một trường khác nhưng các em vẫn bỏ học vì nhiều lí do: không làm quen
được với môi trường mới, không theo kịp bạn bè do việc học bị phân tán trong
quá trình gia đình chuyển nơi ở…
Thứ ba, do chương trình giảng dạy sách giáo khoa có thể chưa phù hợp với các
em học viên hệ GDTX, dẫn tới tình trạng học viên tiếp thu kém, chán nản và bỏ
học. Nhiều học viên dân tộc chưa thành thạo trong việc nói tiếng Kinh nên tiếp
thu bài chậm, nhiều khi không hiểu khiến cho bản thân học viên cảm thấy không
muốn học.
Thư tư, Trung tâm GDTX Bảo Yên có cơ sở vật chất hết sức nghèo nàn không

đáp ứng đầy đủ nhu cầu dạy và học: khuôn viên trường không có, trường lụp
xụp nhà cấp bốn, không có phòng học chức năng, mùa hè rất nóng, mùa đông lại
lạnh…Ngoài ra còn có nguyên nhân là trường học xa đối với một số em ở các
xã, các em phải đi những quãng đường dài đến lớp (có trường hợp đi đến 1, 2
giờ đồng hồ) đặc biệt nếu điều kiện thời tiết xấu trong một thời gian dài (bão,
lụt, nước dâng…) thì các em buộc phải nghỉ học. Ở đây cũng phải nói thêm
rằng, chính sách hỗ trợ học sinh THPT và học viên bên GDTX là không công
bằng, các em bên THPT được hỗ trợ tiền ăn, đi lại và cũng là em đấy, cùng xã
đấy nhưng ở bên GDTX lại không có gì.
Thứ năm, Bộ giáo dục và Đào tạo đã siết chặt kỷ cương trong thi cử, đánh giá,
nhất là học viên có học lực yếu khiến các em bị áp lực, không học nổi và không
thi được. Vì vậy, từ tâm trạng chán, tự ty và xấu hổ với bạn bè, các em ngại đến
lớp dẫn đến tình trạng bỏ học.
6


Thứ sáu, do bản thân các em không có ý chí vươn lên trong học tập, ngại khó,
ham chơi…Học viên không muốn học vì nhiều lí do, lại không được sự quan
tâm của gia đình nên các em trường bỏ học để đi chơi hoặc chơi game. Bên cạnh
đó sự dụ dỗ lôi kéo của bạn bè đã khiến các em không còn quan tâm đến việc
học, chỉ biết chơi suốt ngày và lâu dần trở thành thói quen. Mặt khác, tâm lý của
các em đang ở lứa tuổi mới lớn, đây là lứa tuổi dễ dao động nhất, nếu như có
biện pháp uốn nắn tốt các em sẽ đi theo hướng tích cực và ngược lại các em sẽ
trở nên hư hỏng.
Nhìn chung có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ học của học sinh và ở
mỗi vùng miền cũng có sự khác nhau. Tuy nhiên, khái quát lại thì có một vài
nguyên nhân như đã nói ở trên và từ ciệc phân tích những nguyên nhân này
chúng ta sẽ tìm ra hướng giải quyết hữu hiệu nhất.
3. Giải pháp đối với vấn đề bỏ học của học viên lớp 10 và lớp 11 Trung tâm
GDTX Bảo Yên

Xuất phát từ nguyên nhân, thực trạng và hậu quả của tình trạng bỏ học ở học
viên, qua quá trình tìm hiểu thực tế kết hợp ý kiến của một số thầy cô trong và
ngoài trường chúng tôi xin được nêu lên một số suyy nghĩ về giải pháp đối với
vấn đề này như sau:
3.1 Giải pháp tức thời
Thứ nhất, cần có ngay một cuộc vận động "Nói không với hiện tượng học viên
bỏ học vì hoàn cảnh khó khăn", không thể để cho các em vì nghèo mà thất học.
Cần rà soát lại những chính sách ưu tiên, hỗ trợ học viên nghèo, bổ sung những
ưu đãi mới, có những giải pháp vận động nguồn tài chính cho học viên nghèo,
thực hành tiết kiệm để dành tiền cho học viên nghèo. Cần có chính sách cho
những gia đình nghèo vay vốn cho con học phổ thông. Đối với những địa
phương khó khăn, cần điều tra khảo sát và xin nhà nước hỗ trợ kinh phí.
Thứ hai, nhà trường cần phối hợp với hợp với các cơ quan như: thị trấn, xã, các
tổ chức đoàn thể đến từng gia đình học viên bỏ học khuyến khích, động viên bản
thân các em và gia đình để các em có thể quay lại trường học. Được sự quan tâm
của nhà trường, chính quyền địa phương cũng như gia đình, các em sẽ có những
quyết định đúng đắn nhất để có một tương lai tốt đẹp, đồng thời các em thấy
được tác hại của việc bỏ học ảnh hưởng như thế nào đến tương lai sau này của
mình. Từ đó các em có cách nhìn, cách nghĩ mới và quyết định trở lại trường
học.
Thứ ba, mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp phải lên danh sách những học viên có
nguy cơ bỏ học (có hoàn cảnh khó khăn, học kém) phân nhóm để có biện pháp
phù hợp giúp đỡ các em.
Thứ tư, với những học viên ở vùng sâu, vùng xa, bỏ học do điều kiện đi lại khó
khăn, trường xa nơi cư trú thì tổ chức lớp bán trú, nội trú để tiện cho các em và
gia đình. Cần động viên cá nhân, tổ chức tài trợ học bổng, giúp các em có đầy
đủ quần áo, sách vở đi học.
Thứ năm, cần có chế tài với những trường hợp buộc học viên bỏ học. Nhiều
gia đình không thực sự khó khăn nhưng bắt con em mình nghỉ học để lao động.
Nhà trường nên phối hợp với chính quyền địa phương kiên trì tuyên truyền, lay

7


chuyển nhận thức của phụ huynh học viên – học chính là con đường chính để
thoát khỏi đói nghèo một cách vững chắc nhất.
3.2 Giải pháp dài hạn
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh siết chặt kỉ cương trong thi cử, đánh giá kiểm tra
để nhằm phát hiện ra những học viên có học lực yếu kém qua các kỳ thi, bài
kiểm tra. Từ đó có những biện pháp bồi dưỡng, phụ đạo thêm các em có một
khối kiến thức vững chắc để có thể học tốt hơn ở các lớp trên.
Thứ hai, thay đổi phương pháp giảng dạy và học tập trong Trung tâm GDTX.
Hiện nay một sô giáo viên về nghiệp vụ sư phạm chưa được tốt, trong quá trình
giảng dạy có thể gây cho học viên có cảm giác nhàm chán. Chính vì vậy, nên
quan tâm để bồi dưỡng, đào tạo thêm về chuyên môn như cách giảng bài, cách
truyền đạt kiến thức ngắn gọn, dễ hiểu và gây được hứng thú học tập cho học
viên, giúp các em biết tư duy sáng tạo và độc lập trong suy nghĩ.
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo các cấp chính quyền trong việc đưa
các em đến trường, ngăn chặn tình trạng bỏ học. Tăng cường công tác tuyên
truyền, vận động, nâng cao ý thức trách nhiệm của từng người dân và của cộng
đồng dân cư trong quá trình triển khai thực hiện công tác phổ cập giáo dục, góp
phần hạn chế tình trạng bỏ học của học sinh. Có chính sách hỗ trợ đặc biệt, đủ
mạnh cho các địa phượng khó khăn. Các công ty đóng trên địa bàn cấp học
bổng, xe đạp cho các học viên thuộc diện xóa đói giảm nghèo hoặc các học viên
có điều kiện khó khăn để tiếp tục có điều kiện học tập.
Cần đầu tư xây dựng trường lớp với đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho quá dạy
và học, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số được tiếp thu như những em
học sinh ở đồng bằng.

8



PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
Để hạn chế học sinh bỏ học, trung tâm cần tiếp tục duy trì phối hợp với
gia đình để quản lý, giáo dục học sinh trong từng tuần, từng tháng, gắn trách
nhiệm của gia đình đối với việc con em tới trung tâm. Thường xuyên thông báo
về cho gia đình quá trình tham gia học tập của học sinh, trường cần có mẫu
“phiếu phối hợp” riêng để gửi cho gia đình học sinh với những nội dung: Điểm
học tập của các môn học văn hoá đã được đánh giá, quá trình rèn luyện, số ngày
nghỉ (có phép, không phép) kể cả các buổi học văn hoá chéo buổi; tham gia học
hướng nghiệp, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, … Sau khi nắm bắt tình
hình, phụ huynh học sinh ký xác nhận và gửi lại cho trung tâm thông qua giáo
viên chủ nhiệm theo thời gian quy định. Giám đốc trung tâm tăng cường công
tác chủ nhiệm, đi sâu, đi sát nắm bắt hoàn cảnh của từng gia đình học sinh, báo
cáo định kỳ với lãnh đạo trung tâm. Thực ra, công việc này đã được nhiều trung
tâm thực hiện, nhưng ở đây muốn nhấn mạnh đó là việc cần duy trì đều đặn để
phát huy tối đa mối liên hệ giữa trung tâm với gia đình.
Mặt khác, tiếp tục thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy
tính tích cực của học sinh, với các yêu cầu: bám sát chương trình theo chuẩn
kiến thức và kĩ năng, dạy học linh hoạt và phù hợp với từng đối tượng học sinh,
quan tâm bồi dưỡng các em học yếu…
Ban giám đốc trung tâm cần có sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức như: Hội
LHPN, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh,… thông qua các tổ chức này nhằm
tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong nhân dân địa phương về sự cần thiết đến
lớp của con em, về công tác xây dựng xã hội học tập. Nếu có học sinh bỏ học,
trung tâm phải liên hệ với các tổ chức để vận động gia đình, khuyên bảo học
sinh tiếp tục đến trường. Trung tâm cùng với địa phương thành lập và duy trì các
quỹ khuyến học, khuyến tài, nhằm giúp đỡ con em địa phương vượt khó học tập.
Dưới sự chỉ đạo của Ban giám đốc, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cần tổ
chức các hoạt động xã hội gắn với cuộc sống văn hoá tinh thần ở các địa
phương, tạo môi trường sinh hoạt bổ ích cho các em; đây cũng là một nội dung

mà toàn ngành Giáo dục đang tích cực hưởng ứng “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”. Tổ chức Đoàn cũng cần xây dựng và nhân rộng mô
hình “đôi bạn cùng tiến”; tổ chức các cuộc thi về kiến thức, kỹ năng phù hợp với
độ tuổi để thu hút học sinh tham gia; thực hiện tốt phương châm “Mỗi ngày đến
trường là một niềm vui”…
Như vậy, việc giảm học sinh bỏ học, lưu ban trong thời gian tới sẽ có hiệu quả
khi vai trò của các tổ chức trong trung tâm, vai trò của giáo viên được phát huy
một cách đồng bộ, có trách nhiêm. Việc duy trì sĩ số, hạn chế học sinh bỏ học,
lưu ban là nhiệm vụ quan trọng, phải được quan tâm thường xuyên của ngành
Giáo dục, của các trung tâm giáo dục thường xuyên; tỷ lệ tốt nghiệp ở các cấp
9


học cao chỉ có giá trị khi tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học thấp. Thiết nghĩ, làm tốt
điều này cũng có nghĩa là chúng ta đang giảm dần sự cách biệt về trình độ dân
trí, chất lượng giáo dục ở các vùng, miền-một vấn đề đang được các cấp quản lý,
các địa phương quan tâm.

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO

11



×