Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN phương pháp tổ chức giờ học phụ đạo vật lí 11 tạo hứng thú học tập cho học viên trung tâm GDTX mường khương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.72 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang
Phần I: Đặt vấn đề.
3
Phần II: Giải quyết vấn đề
3
1.Cơ sở lý luận của vấn đề
4
2.Thực trạng của vấn đề
6
3.Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
7
3.1. Nhóm biện pháp giúp học viên nhớ kiến thức
7
3.1.1. Gắn đơn vị , tên các đại lượng vật lí với chữ cái đầu
7
của tên học viên
3.1.2. Nhớ công thức vật lý qua thơ
7
3.2. Nhóm biện pháp giúp học viên có hứng thú học.
8
3.2.1. Chia nhóm học viên, mỗi nhóm là 1 đoàn tàu
8
3.2.2. Cho học viên chơi trò chơi môn học:
9
3.2.3. Kể chuyện về các nhà Vật lý
9
3.2.4. Gắn vật lý với các hiện tượng thực tế trong cuộc sống
12


4.Hiệu quả của SKKN
Phần III: Kết luận

14
14

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
1


1. Trung tâm giáo dục thường xuyên
2.Phương pháp dạy học
3.Giáo viên
4. Học viên
5.Trung tâm học tập cộng đồng

TT GDTX
PPDH
GV
HV
TT HTCĐ

Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ

2


Các Trung tâm giáo dục thường xuyên (GDTX) nói chung và Trung tâm
GDTX Mường Khương nói riêng với mục tiêu giúp mọi người vừa làm vừa học,
học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng

cao trình độ học tập, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống,
tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội.
Hiện nay học viên trong các Trung tâm GDTX bao gồm nhiều lứa tuổi,
đối tượng khác nhau trong đó có học viên đúng độ tuổi, tuy nhiên do nhiều đặc
điểm về tâm sinh lý, điều kiện của người lớn đi học, họ là những người lao
động, những người đã trưởng thành và có chức năng, vị trí xã hội nhất định, xét
về quá trình học tập thì đa phần họ là những người được học nhưng chưa đầy đủ,
còn bị thiệt thòi do nhiều lý do, nay cần phải học tập để nâng cao hiểu biết
những kiến thức chuyên môn và những kỹ năng mới. Đối với những học viên
đúng độ tuổi đã rỗng kiến thức, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, trình độ nhận
thức ở mức trung bình, yếu.
Do vậy trong quá trình giáo dục đối với học viên TTGDTX đòi hỏi
không chỉ phải tuân theo các nguyên tắc dạy học đối với người lớn mà còn cần
có nhiều phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng, từng cấp học, lớp
học.
Bộ môn Vật lý là môn khoa học không chỉ đơn thuần kiến thức mà còn
kết hợp của nhiều kiến thức toán học như khả năng tính toán, các công thức biến
đổi, cách đổi đơn vị , đây được coi là môn học khó đặc biệt đối với các học viên
tại trung tâm GDTX nói chung và TT GDTX Mường Khương nói riêng. Vì vậy
để góp phần nâng cao kết quả dạy và học môn Vật lý giáo viên không chỉ lựa
chọn kiến thức cơ bản nhất phù hợp với đối tượng theo chuẩn kiến thức kỹ năng
của Bộ giáo dục và đào tạo mà điều quan trọng không kém đó là chọn được cách
truyền đạt giúp các học viên có thể tiếp thu và vận dụng kiến thức đơn giản hơn
mà bớt cảm giác khó đối với bộ môn trước khi học.
Đầu năm giáo viên bộ môn tiến hành khảo sát đầu năm và quan sát tỷ lệ
học viên có hứng thú (tích cực) tham gia tìm hiểu vận dụng kiến thức tại lớp, thu
được kết quả
Sau kết quả khảo sát đầu năm học, nắm bắt được tỷ lệ học viên yếu kém
trung tâm GDTX Mường Khương đã chỉ đạo giáo viên các bộ môn xây dựng kế
hoạch phụ đạo yếu kém cụ thể và tổ chức giảng dạy. Trong các giờ phụ đạo môn

Vật lý 11 để các học viên vận dụng kiến thức hiệu quả hơn, được củng cố nhiều
hơn giáo viên cần giúp các học viên hứng thú, tự giác tìm hiểu kiến thức trong
giờ học làm nền tảng cho học viên thi tốt nghiệp sau này. Muốn vậy phải tìm
hiểu, vận dụng các phương pháp phù hợp để tạo được hứng thú học tập ngay từ
đầu giờ học cho các học viên. Đó là lí do tôi lựa chọn đề tài “Phương pháp tổ
chức giờ học phụ đạo Vật lí 11 tạo hứng thú học tập cho học viên trung tâm
GDTX Mường Khương”
Phần II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
3


1. Cơ sở lý luận của vấn đề
Giờ học phụ đạo là giờ học tổ chức sau giờ dạy chính khóa nhằm củng cố
kiến thức rỗng hoặc kiến thức mà học viên yếu kém, trung bình chưa nắm được,
hoặc chưa vận cụng được hoặc vận dụng chưa tốt.
Kiến thức cần dạy trong giờ phụ đạo vật lý 11 là các phần kiến thức thực
tế, xác định các đại lượng liên quan đến phần điện học , điện từ học , quang học
đặc biệt là phần đổi đơn vị, biến đổi toán học để tìm các đại lượng chưa biết do
học viên đã quên kiến thức liên quan của bộ môn ở các lớp dưới.
Giáo viên cần biết lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp, tích cực để tạo
hứng thú học tập cho học viên. Để đạt được kết quả đó bản thân giáo viên cần
nắm được khái niệm và tầm quan trọng của các phương pháp dạy học nói chung
và vấn đề hứng thú trong hoạt động học, tiếp thu kiến thức đặc biệt là với môn
Vật lý.
Phương pháp dạy học (PPDH) là một hệ thống những hành động có mục
đích của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thưch hành của học
sinh,đảm bảo học sinh lĩnh hội nội dung học vấn. Trong quá trình dạy học,
người giáo viên thường tập trung sự cố gắng của mình vào việc biên soạn nội
dung và PPDH.
Hiện nay đổi mới giáo dục đổi mới về phương pháp dạy học các phương

pháp dạy học hiện nay là phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp
giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học.
Hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của người học đối với đối tượng của hoạt
động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong
đời sống cá nhân.
Tầm quan trọng của hứng thú đối với các hoạt động sống và hoạt động
học thể hiện rất rõ trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của chủ thể
hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm của con người, nó là động cơ thúc
đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Trong bất cứ công việc gì,
nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt động, nó là
động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực và sáng tạo hơn vào hành động
đó. Ngược lại nếu không có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ không đem lại
kết quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động học tập, khi
không có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học tập sẽ không cao,
thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.
Trong giờ học phụ đạo yếu kém học viên tập trung vào vận dụng, ghi
nhớ kiến thức nếu tạo được hứng thú ngay từ đầu tiết học sẽ tạo không khí thoải
mái, đơn giản và thúc đẩy học viên tự giác thực hiện các hoạt động tìm hiểu kiến
thức đem lại kết quả mong muốn.
Đối tượng người học của GDTX là đa dạng, đủ mọi lứa tuổi, thành phần
từ các em nhỏ, thanh thiếu niên đến người lao động. Đối tượng đó có sự khác
nhau về tuổi đời, nghề nghiệp, điều kiện sống, điều kiện lao động và cả khả năng
học tập. Số người lớn theo học các hình thức, nội dung của GDTX ngày càng
đông đảo. Vấn đề đặt ra là cán bộ quản lý, giáo viên của các nhà trường trong
GDTX phải có hiểu biết sâu sắc về phương pháp dạy học người lớn. Có như thế
4


mới làm tốt được công việc của mình. Trong thời gian vừa qua việc đổi mới

phương pháp dạy học đã được đẩy mạnh ở tất cả các ngành học, cấp học và
bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân, việc đổi mới phương pháp dạy học còn chậm, nhất là trong GDTX.
Phương pháp dạy học người lớn ở các TT HTCĐ còn ít được đổi mới. Giáo viên
chủ yếu thuyết trình, dạy chay, độc thoại, phương pháp dạy học còn chưa phù
hợp với người lớn. Nếu mục đích của học là chiếm lĩnh khái niệm, thì mục đích
của dạy lại là điều khiển tối ưu quá trình chiếm lĩnh. Mỗi người giáo viên cần
nắm vững được mục đích trên mới thực hiện đầy đủ vai trò của người dạy học.
Trước hết chúng ta hãy bàn đến những đặc điểm tâm sinh lý, điều kiện
của người lớn đi học, họ là những người lao động, những người đã trưởng thành
và có chức năng, vị trí xã hội nhất định, xét về quá trình học tập thì đa phần họ
là những người được học nhưng chưa đầy đủ, còn bị thiệt thòi do nhiều lý do,
nay cần phải học tập để nâng cao hiểu biết những kiến thức chuyên môn và
những kỹ năng mới. Đặc điểm lớn nhất của người lớn đi học là những người
trưởng thành về mặt xã hội, có gia đình. Họ có những quan niệm, cách làm, nếp
sống được hình thành tương đối vững chắc, là những người có đủ tư cách giải
quyết những việc thuộc chức năng của mình, có tư duy, có nhận thức, có nhân
cách, họ có thể xác định thái độ đúng trong học tập, có ý chí nỗ lực học tập và
khả năng tập trung lâu bền. Song người lớn đi học cũng có những hạn chế về
khả năng nhận thức. Người lớn đi học không có nhiều thời gian dành cho việc
học tập.
Trên đây là những yếu tố tác động đến quá trình đi học của người lớn.
Trong quá trình giảng dạy cho đối tượng người lớn chúng ta cần nắm chắc
nguyên tắc dạy học sau đây: Giáo viên cần tập trung vào các vấn đề thiết thực,
chú ý nhấn mạnh nội dung đang học có thể vận dụng vào đâu, để làm gì; Luôn
liên hệ bài giảng và các tài liệu sẵn có với các kinh nghiệm sẵn có của người
học; Chú trọng liên hệ việc học, dạy với mục tiêu của giáo dục thường xuyên;
Động viên những suy nghĩ, thắc mắc và tìm ra sự thách thức của nội dung, hình
thức và các quan điểm; Giáo viên cần lắng nghe, tôn trọng các quan điểm của
người học để cùng họ bàn luận, tìm cách khắc phục những chỗ khó trong quá

trình dạy và học; Cần khuyến khích các học viên trao đổi với nhau trong tổ,
nhóm, lớp và tự nghiên cứu tìm tòi các tài liệu; Các thầy giáo, cô giáo cần đối
xử bình đẳng, trân trọng đối với các học viên vì bản thân họ là những người giàu
kinh nghiệm sống.
Phương pháp dạy học người lớn đã được thể hiện ở khoản 4, điều 45 Luật
giáo dục năm 2005 nêu rõ: “Phương pháp giáo dục thường xuyên phải phát huy
vai trò chủ động, khai thác kinh nghiệm của người học, coi trọng việc bồi dưỡng
năng lực tự học, sử dụng phương tiện hiện đại và công nghệ thông tin để nâng
cao chất lượng, hiệu quả dạy và học”. Gần đây, tại Nghị quyết Đại hội Đảng X
(2006) một lần nữa khẳng định chủ trương “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
pháp giáo dục, phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học, khắc phục lối
truyền thụ một chiều”. Các phương pháp dạy học người lớn cần được chú ý, đó
là phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp động não kích thích mọi người
5


nói được ý nghĩ trước một nội dung; phương pháp tình huống, nghiên cứu điển
hình; phương pháp tranh luận; phương pháp dùng phiếu thăm dò.
2. Thực trạng của vấn đề:
2.1. Thuận lợi:
Đa số các học viên tham gia đầy đủ các giờ học phụ đạo môn Vật lý, một
số ít HV đã hỏi giáo viên khi chưa hiểu vấn đế kiến thức.
Đa số HV thật thà dám thể hiện rõ vấn đề mình chưa nắm được.
HV đã nhiều tuổi hoặc trên độ tuổi phổ thông nên ý thức tự giác tương đối
tốt.
2.2. Khó khăn:
Học viên học yếu môn Vật lý tập trung ở một số vấn đề: Đổi đơn vị chưa
chính xác; Nhiều học viên không biến đổi toán học được đề suy ra biểu thức tìm
các đại lượng còn thiếu; Học viên không nắm được hiện tượng nên không giải
thích được kiến thức liên quan

Một số HV đi học theo nguyện vọng của gia đình nên động lực để cố gắng
trong học tập còn chưa cao.
Nhiều gia đình học viên chưa thực sự quan tâm đến việc học của HV,
chưa thường xuyên động viên nhắc nhở HV nên thời gian, hiệu quả học không
nhiều.
2.3. Nguyên nhân:
Do các học viên đã quên kiến thức đổi đơn vị, công thức biến đổi toán học
từ các lớp dưới, một phân là do đầu vào của các em thấp. Ngoài ra do sự tự ti từ
đầu là kiến thức khó, biến đổi dài dòng, môn học khó…. Một số học viên chưa
tích cực trong việc học hỏi bạn bè thầy cô, còn giấu dốt nên càng ngày kiến thức
bị hổng càng nhiều.
Đa số các học viên là lao động chính trong gia đình phải gánh vác việc gia
đình, hoặc tham gia công tác xã ( học viên cán bộ nhiều tuổi) nên không có thời
gian giành cho việc học và ôn tập, hoặc có thời gian nhưng không đủ do nhiều
tuổi, nghỉ học lâu nên khả năng nhận thức chậm.
Nhiều HV có hoàn cảnh gia đình thuận lợi nên chưa thực sự cố gắng.
Cũng có học viên cho rằng giờ phụ đạo là cho học viên học dốt nên không
tích cực trong giờ.
Khi bản thân HV có mặt bằng kiến thức đầu vào thấp, hổng kiến thức từ
lớp dưới sẽ gặp khó khăn khi tiếp thu kiến thức cấp học mới, đặc biệt không
được sự quan tâm khích lệ từ phía phụ huynh, không hiểu được tầm quan trọng
của việc học thì sẽ không có được thái độ tích cực cũng như hứng thú trong tiết
học nói chung cũng như tiết học Vật lý nói riêng.
Vì vậy vấn đề đặt ra ở đây không chỉ là phối kết hợp cùng các môn học
khác, các đoàn thể trong trung tâm, phụ huynh học viên mà mỗi môn đặc biệt là
môn Vật lý cần phải tìm được các phương pháp phù hợp hiệu quả để lôi cuốn
được HV trong giờ học góp phần nâng cao kết quả dạy học nói chung.

6



3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
Để học viên có hứng thú trong giờ học, giáo viên cần tìm một số cách để
học viên cảm thấy kiến thức đơn giản, dễ nhớ hơn. Vì vậy trước tiên cần phải
hướng dẫn học viên một số biện pháp giúp học viên nhớ kiến thức dễ hơn.
3.1. Nhóm biện pháp giúp học viên nhớ kiến thức.
* Nội dung các biện pháp:
3.1.1. Gắn đơn vị , tên các đại lượng vật lí với chữ cái đầu của tên học
viên
Giáo viên quy định cho học viên nhớ tên, ký hiệu đại lượng, đơn vị của
đại lượng vật lý theo tên chữ cái đầu của tên học viên.
Các học viên trong lớp ghi nhớ chéo nhau
Học viên Ao - Đơn vị cường độ dòng điện A ( Am pe)
Học viên Tủa, Tẩn, Thênh, Thương - Đơn vị cảm ứng từ T ( Tesla )
Học viên Chẩn, Cháng, Chử - Đơn vị điện tích C ( Cu lông)
Học viên Ngân, Nga - Đơn vị lực N ( Niutơn)
Học viên Hoa, Hường – Đơn vị độ tự cảm của cuộn dây H ( Hen ri)
3.1.2. Nhớ công thức vật lý qua thơ:
- Cung cấp cho học viên một số câu thơ gắn với công thức vật lý, hoặc
cho học viên tự tìm thêm từ để nhớ theo ý hiểu của bản thân.
Ví dụ một số công thức trong chương trình vật lý 11 có thể gắn vào các
công thức sau:
Công thức tính điện tích: q = I.t: Quậy ít thôi
Định luật khúc xạ ánh sáng:
n1.Sin i = n2.sin r : Anh 1 sợ ai, anh 2 sợ rắn
Công thức tính từ thông: Φ = S .N .BCos(n.B ) : Phi sang nhật bản cùng
nhỏ bạn
Công thức tính điện năng tiêu thụ của đoạn mạch: A = U.I.t: Anh uống ít
thôi
* Tác dụng, hiệu quả của nhóm biện pháp:

- Việc nhớ các câu thơ gắn với các công thức vật lý , nhớ đơn vị hoặc tên
các đại lượng vật lý theo chữ cái tên của HV là cách HV thường xuyên sử dụng
đến và qua đó giúp học viên nhớ kiến thức nhanh và dễ dàng hơn mà không
phải nhớ một cách máy móc.
- Cách nhớ kiến thức này còn giúp HV giảm bớt cảm giác khó, công thức
phức tạp khi học môn học
- Đa số HV đều tích cực, thoải mái khi sử dụng các câu thơ và gọi tên
HV, đơn vị chéo nhau trong lớp.

7


3.2. Nhóm biện pháp giúp học viên có hứng thú học.
3.2.1. Chia nhóm học viên, mỗi nhóm là 1 đoàn tàu
* Nội dung biện pháp:
Phân công trưởng nhóm, thư ký nhóm là trưởng tàu và phó tàu. Các thành
viên còn lại của nhóm là các toa tàu. Trưởng tàu là những học viên có ý thức tự
giác trong học tập, có khả năng nhận thức kiến thức bộ môn trung bình khá hoặc
khá trở lên
Trong giờ phụ đạo hướng dẫn các học viên là trưởng tàu phân công nhiệm
vụ cụ thể về kiến thức phải vận dụng cho từng thành viên trong nhóm.
Giáo viên theo dõi hoạt động của từng nhóm và trưởng nhóm trong học
kỳ, năm học. Thay đổi trưởng nhóm giữa các nhóm cho nhau.
Lớp 11A: 4 đoàn tàu:
Đoàn tàu 1: Chấu Seo Sèng ( trưởng tàu);Vàng Seo Páo; Cò Thị Cháng;
Sùng Khái Sinh; Trần Thị Nhật Lệ;
Đoàn tàu 2: Vàng Xuân Ao ( trưởng tàu) ;Cư Chẩn; Sùng Seo Tủa; Vàng
Tỉn Chử;
Đoàn tàu 3: Hồ Chẩn Tuấn ( trưởng tàu); Sùng Mang; Lù Thị Mây; Vàng
Diu Thương;

Đoàn tàu 4: Vùi Thị Lan ( trưởng tàu); Phu Văn Sứn; Tráng Văn Tẩn;
Nguyễn Hữu Thắng; Thào Seo Pao; Vàng Seo Thênh.
Lớp 11B: chia làm 3 đoàn tàu:
Đoàn tàu 1: Tráng Củi Thanh ( trưởng tàu);Sùng Seo Chẩn; Vàng Khái
Diu; Tẩn Thị Lan; Lù Văn Trường
Đoàn tàu 2: Hoàng Tỏa( trưởng tàu); Lục Thị Hường; Thào Chỉ Hoa;
Lèng Văn Lợi; Thào Thị Mú; Thền Nề Tủ
Đoàn tàu 3: Nùng Thiên Nga (trưởng tàu);Lưu Văn Dũng; Phàn Khái Pao;
Lồ Dìn Sửu; Lù Cồ Tiến
*Tác dụng, hiệu quả biện pháp:
- Rèn kỹ năng hoạt động nhóm, tập thể cho HV. Tạo cho HV cách làm
nhóm trưởng, điều hành hướng dẫn các thành viên trong nhóm làm việc hiệu quả
theo nhóm.
- Đặt tên các nhóm là doàn tàu giúp HV hoạt động theo nhóm tìm hiểu
vận dụng kiến thức thoải mái hơn, không gây áp lực cho HV từ đó tạo hứng thú
làm việc cho HV.
- HV trong các nhóm thi đua, hoàn thiện nhiệm vụ được giao trong giờ
học, tạo hiệu quả trong giờ.
- HV yếu có cơ hội học hỏi HV khá hơn, phù hợp với khả năng của HV
( bạn giúp bạn)

3.2.2. Cho học viên chơi trò chơi môn học:
8


* Nội dung biện pháp:
Sử dụng Violet, powerpoint thiết kế các bài tập : trắc nghiệm, kéo thả ô
chữ, bài tập ô chữ. Có cài đặt hiệu ứng vỗ tay( học viên trả lời đúng), mặt lạ
( học viên trả lời sai)… tạo khí thế, hứng thú cho HV trong giờ học.
Bài tập 1: Bài tập trắc nghiệm chọn một phương án đúng (sử dụng phần mềm

violet ):
1. Thông số đặc trưng của nguồn điện là:
A. Suất điện động
B. Suất điện động và điện trở trong
C. Khả năng thực hiện công
D. Lượng điện tích chứa trong nguồn điện.
2. Công suất điện được đo bằng đơn vị nào sau đây
A. Jun (J)
B. Oát (W)
C. Niutơn(N)

D. Culông(C)

Bài tập 2: Các đoàn tàu cùng hoàn thành một bài tập trên bảng, mỗi đoàn tàu
cử lần lượt từng thành viên lên điền từng câu hỏi trong bài. Đoàn tàu nào hoàn
thành trong thời gian ngắn hơn được điểm cao hơn.
Nối các ý của cột A với các ý tương ứng của cột B để được kiến thức
đúng:
Cột A
1. Biểu thức định luật khúc xạ ánh sáng

Cột B
a. Cường độ dòng điện

2. Đơn vị của công lực điện

b. B = 2.10-7.

3. Tên nhà Bác học Anđrê-Mari Ampe
được đặt làm đơn vị của

4. Cảm ứng từ tại một điểm trong
từ trường được xác định:
5. Hạt tải điện trong môi trường chất khí là

c. Jun(J)

I
r

d. ion âm, ion dương, electron
e. n1.sin i = n2.sin r

* Tác dụng, hiệu quả của biện pháp:
- Làm giảm bớt suy nghĩ về môn học khó, phức tạp của HV đối với môn
Vật lý.
- HV đỡ mặc cảm về khả năng nhận thức kém của bản thân và giờ phụ
đạo yếu kém.
- HV được tìm hiểu, vận dụng kiến thức một cách tự giác và sáng tạo.
- Khi HV trả lời đúng bài tập có tiếng vỗ tay động viên khích lệ hoặc biểu
tượng mặt lạ khóc khi trả lời sai sé làm các HV thích thú hơn, muốn làm thêm
bài tập hơn.
3.2.3. Kể chuyện về các nhà Vật lý :
* Nội dung biện pháp:
- GV sưu tầm các câu truyện kể trực tiếp cho HV nghe, hoặc chiếu cho
HV xem tư liệu về các nhà vật lý có kiến thức nằm trong chương trình lớp 11
như:

9



Anđrê-Mari Ampe:
Nhà bác học vĩ đại Pháp Anđrê-Mari Ampe, có biệt danh là “Niu tơn của
điện học”, sinh năm 1775 trong một làng gần Liông. Với một trí nhớ đặc biệt kỳ
diệu, năm 13 tuổi Ampe đã đọc hết 20 cuốn của bộ Bách khoa từ điển của
Điđơrô, và đến khi 50 tuổi vẫn có thể nhắc lại thuộc lòng những trích dẫn lớn.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên nhất là những năng khiếu của ông trong lĩnh vực
toán học
Năm 1793 cha ông phải lên đoạn đầu đài vì bị tố cáo có thiện cảm với
giới quý tộc. Tất cả tài sản bị sung công và gia đình không còn nguồn sống nào
cả.
Cậu con trai rất khốn khổ, suốt một năm trời không hoạt động gì. Tuy
vậy, cuộc sống vẫn đặt ra cho ông những yêu cầu. Ông còn phải nuôi mẹ và hai
em gái, nên đã cố gắng tìm được một chỗ dạy lớp đặc biệt ở Liông.
Một ngày kia, khi đi dạo trở về băng qua một con suối nhỏ, Ampe gặp
một cô gái trẻ đẹp, đó là Giuli Carôn, chàng yêu ngay cô gái ấy. Nhưng người
thiếu nữ trẻ cũng nghèo quá nên đám cưới của họ mãi ba năm sau mới tổ chức
được, đó là năm 1799, khi Anđrê thành công, chiếm được một ghế giáo sư ở
Bua (Bourg), một thành phố cách Liông 20km.
Vợ và con (nhà văn sĩ tương lai Giăn-Giăc Ampe) ở lại Liông. Ampe đã
khổ tâm rất nhiều vì sự chia cách này. Thường thường ông phải đi bộ đoạn
đường Bua-Liông để thăm gia đình, mà vì hoàn cảnh khó khăn ông không thể
chu tất được.
Chính tại Bua, ông đã viết công trình đầu tiên của mình về phép tính xác
suất. Tác phẩm đã tạo nên nhiều sự bàn luận. Ampe nhận được một ghế dạy ở
Liông. Hạnh phúc tưởng như đón chào Ampe: Ông về lại với vợ con. Nhưng,
hỡi ôi! Vợ ông lâm bệnh và mất năm 1803. Ampe kiệt sức và chán nản, ông đi
Pari. Tại đây ông được phong làm giáo sư Đại học bách khoa. Năm 1808, ông
làm tổng thanh tra đại học. Tình trạng vật chất của ông bây giờ đảm bảo hơn và
ông lao cả thể xác và tâm hồn vào những khảo cứu khoa học
Ở tuổi 45 thiên hướng thật sự của ông phát triển trong lĩnh vực vật lý,

điện học và từ học. Ông nghiên cứu tác dụng của dòng điện đối với kim nam
châm, đạt kết quả nêu lên những định luật về điện động lực học, một phát minh
đã làm cho tên tuổi ông trở thành bất tử. Ông đã sáng chế điện kế, máy điện báo
10


đầu tiên và nam châm điện; ông đã thực hiện những thí nghiệm chủ yếu trong
căn nhà nhỏ nơi ông ở với em gái và các con.
Nhà bác học đã làm giàu thuật ngữ điện học khi tạo ra một số từ, ngày nay
trong vật lí, courant (dòng điện) (lúc ấy người ta nói conflit- xung đột), tension
(điện thế, hiệu điện thế)…
Sức khỏe nhà bác học yếu dần. Luôn luôn bận rộn nghiên cứu khoa học,
ông không còn thời giờ để tự săn sóc. Năm 1836, ông đi thanh tra một trường
học ở Macxây và mất bất ngờ tại đây, thọ 61 tuổi. Một con người rụt rè, vô tư
với tính đãng trí đã trở thành đặc điểm riêng, nhưng lại có lòng tốt hiếm có, đã
qua đời trong nửa quên lãng, nhưng tên ông sẽ còn mãi mãi với khoa học
Bạn đã biết từ Ampe, tên gọi đơn vị đo cường độ dòng điện, nói lên sự
biết ơn của đời sau đối với ông.
Ampe được an táng ở Macxây. Năm 1869, hài cốt được đưa về Pari và đặt
bên cạnh ngôi mộ của Giăn-Giăc, con trai của ông. Năm 1888 một đài tưởng
niệm lớn được xây dựng ở Liông để tôn vinh ông.

Michael Faraday (1791–1867) – Thiên tài tự học là chính
Tên tuổi của Michael Faraday vô cùng nổi danh trên toàn thế giới và được
đánh giá là một trong những nhà khoa học có tầm ảnh hưởng lớn nhất mọi thời
đại. Nhưng ít ai biết ông không được học hành hay qua trường lớp đào tạo nào
cả mà hầu hết kiến thức ông có được đều là do tự tìm tòi khám phá.
Michael Faraday sinh trưởng trong một gia đinh nghèo tại thành phố
London vì thế không có điều kiện để được đi học. Thay vào đó, khi mới tròn 14
tuổi, Faraday đã phải đi làm công việc phụ đóng sách tại một tiệm sách trong

hơn 7 năm trời. Trong thời gian tại đây, ông bắt đầu đọc những cuốn sách được
giao để đóng và tìm thấy sự say mê thích thú dành cho môn khoa học. Ông đã
xin làm phụ tá cho một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất London thời
bấy giờ, Humphrey Davy, nhưng bị từ chối vì không có một bằng cấp chính quy
hay bất kỳ kinh nghiệm thực tế nào.
Tuy nhiên, bằng nỗ lực và cố gắng, ông đã giành được công việc này sau
đó và đã thể hiện khả năng xuất sắc của mình với hàng loạt những phát minh
được ra đời như động cơ điện, máy phát điện, lò đốt Bunsen cùng những phát
hiện quan trọng khác, tạo nên một cuộc cách mạng trong khoa học và ghi danh
ông như là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất trong lịch sử

11


- Cho học viên chơi trò chơi hoặc trả lời các câu hỏi có nội dung về các
nhà bác học:
Ví dụ 1. Tên của nhà bác học Anđrê-Mari Ampe được đặt làm đơn vị của
đại lượng vật lý nào sau đây:
A. Hiệu điện thế
B. Cường độ dòng điện
C. Công suất
D. Lực
Ví dụ 2: Nhà bác học nào sau đây là người đầu tiên khám phá ra hiện
tượng cảm ứng điện từ.
A. Niutơn
B. Fara đây
C. Ampe
D. Acsimet.
* Tác dụng, hiệu quả giải pháp:
- Giúp HV nắm được thêm về quá trình, lịch sử phát minh ra một định

luật, đại lượng Vật lý cũng như tiểu sử của nhà bác học liên quan.
- Là nội dung kiến thức thực tế một phần là tấm gương nêu lên cho HV
học tập, một phần là nội dung giúp HV nhớ sâu khái niệm, đại lương, đơn vị ,
hiện tượng vật lý hơn.
3.2.4. Gắn vật lý với các hiện tượng thực tế trong cuộc sống
* Nội dung biện pháp:
- GV sưu tầm các hiện tượng trong cuộc sống thực tế thường gặp, dùng
kiến thức Vật lý giải thích được.
- GV có thể định hướng cho HV cách giải thích, hoặc dùng lời giải thích
hiện tượng làm nội dung kích thích trí tò mò của HV đối với giờ học.
- Hướng dẫn HV vận dụng kiến thức vào thực tế để khắc phục một số vấn
đề thường gặp hiệu quả.
Ví dụ 1: Sét – nguyên nhân gây ra sét, cách tránh sét trong cuộc sống:

Nguyên nhân: Trong cơn mưa dông do có gió mạnh xáo trộn các đám
mây, làm cho các đám mây tích điện. Khi hai đám mây tích điện trái dấu lại gần
nhau, hiệu điện thế giữa chúng có thể lên tới hàng trăm triệu von. Dòng điện
cũng đạt tới vài vạn ampe, nhiệt độ ở giữa nơi phóng điện cũng đạt tới vài vạn
độC. Người ta đã từng ví, cơn dông như một nhà máy điện có công suất khoảng
vài trăm MW với điện thế lên tới hàng tỷ V, nguồn điện của một tia sét xuất hiện
trong cơn dông có thể dùng để thắp sáng bóng đèn 100W trong vòng 3 tháng.
Giữa hai đám mây có hiện tượng phóng tia lửa điện và ta trông thấy một tia
chớp. Vài giây sau ta mới nghe thấy tiếng nổ, đó là “sấm” (vận tốc của ánh sáng
nhanh hơn vận tốc của tiếng động nên ta trông thấy tia chớp trước). Nếu có đám
mây dông tích điện đi gần mặt đất tới những khu vực trống trải, gặp một vật có
12


độ cao như cây cối, người cầm cuốc xẻng… thì sẽ có hiện tượng phóng tia lửa
điện giữa đám mây và mặt đất. Đó là hiện tượng sét đánh. Với cường độ mạnh

như vậy, dông sét là một trong số những hiểm họa thiên tai vô cùng nguy hiểm
đối với tính mạng con người và gây ra những thiệt hại rất lớn về tài sản vật chất.
Cách tránh sét: Nghe bản tin dự báo thời tiết để lên kế hoạch làm việc dự
phòng. Khi đi làm ở khu vực nào đó, để ý trước các nơi có thể trú mưa và tránh
sét an toàn. Phải tính được thời gian từ chỗ làm việc đến nơi an toàn để chủ
động đi về nơi đó khi thấy có tín hiệu dông.
Thường thì cơn dông kéo đến rất nhanh trong vòng 15 phút và di chuyển
với vận tốc 40km/giờ. Khi đang ở nơi không an toàn thì cần phải để ý đến các
dấu hiệu của dông như mây đen, không khí lạnh, gió.
Thực hiện nguyên tắc nhìn – nghe: Khi sét xảy ra, thường thấy tia chớp
lóe lên ở điểm nào đó trên bầu trời, sau đó là tiếng sấm kèm theo. Nếu khoảng
thời gian giữa lúc có chớp đến lúc nghe thấy sấm càng ngắn, thì sét sẽ xuất hiện
ở vị trí càng gần ta, tức là mức độ nguy hiểm tăng. Khi đó cần nhanh chóng tìm
cách tránh sét.
Khi ở trong nhà nên đứng xa cửa sổ, cửa ra vào, các đồ dùng điện, tránh
các chỗ ẩm ướt như buồng tắm, bể nước, vòi nước, không nên dùng điện thoại
trừ trường hợp rất cần thiết. Nên rút phích cắm các thiết bị điện khi dông tố bắt
đầu.
Các đường dây điện thoại hay dây điện, vì nối với lưới bên ngoài, nên rất
có thể bị ảnh hưởng sét đánh lan truyền. Nên tránh xa các dây này và các vật
dùng điện, giữ khoảng cách ít nhất là 1m. Cần rút ăng-ten ra khỏi ti vi khi có
dông.
Ví dụ 2: Tại sao vào những hôm nắng to, chúng ta tưởng vũng nước
trước mặt nhưng lại gần thì không thấy.
Mặt đường nhựa nóng, không khí tại gần mặt đất có nhiệt độ cao hơn
không khí trên cao, dẫn đến chiết suất không khí tăng theo độ cao, các tia sáng
từ bầu trời xanh có thể được khúc xạ toàn phần đến mắt người quan sát. Do
không khí luôn có các dòng đối lưu gây nhiễu loạn chiết suất, hình ảnh thu được
luôn dao động như khi nhìn hình ảnh bầu trời phản xạ từ mặt nước vậy nên ta có
thể nhìn như thấy vũng nước trên đường.

Khi ánh nắng mặt trời chiếu vào nền đường (đặc biệt là đường nhựa) hiện
tượng hấp thụ ánh sáng rất mạnh vì ánh sáng trắng nền đường đen. nhiệt độ
chênh lệch giữa phần trên nền đường và không khí là rất cao . không khí sẽ
loãng ra nhanh chóng và gây ra hiện tượng khúc xạ ánh sáng. Khi trời nắng mặt
đất hấp thụ nhiệt mạnh hơn không khí. Lớp không khí gần mặt đất sẽ có nhiệt độ
cao hơn bên trên, do vậy sẽ nhẹ hơn và đối lưu lên, đồng thời làm cho chiết suất
của không khí gần mặt đất thay đổi (giảm). Vì thế, những hôm nắng to, chúng ta
tưởng vũng nước trước mặt nhưng lại gần thì không thấy.
Lý giải đơn giản là vì những phần mặt đường có độ phẳng, nhẵn lớn do
quá trình lu khi thi công và lớp nhựa no trong bê tông nhựa nó sẽ bị nhiệt độ cao
của thời tiết và độ mài mòn của lốp các phương tiện giao thông tạo ra độ phẳng
13


bóng phản xạ ánh sáng tương đối. Vì chỉ xuất hiện trên đường nhựa,những vũng
đường lõm và rỗ thì không có hiện tượng này.
* Tác dụng, hiệu quả của biện pháp:
- Giúp HV viên nắm thêm được ứng dụng của môn khoa học thực nghiệm
vào thực tế cuộc sống. HV hiểu được thêm kiến thức Vật lý không chỉ để đi thi
mà có rất nhiều trong cuộc sống thường ngày, hoàn toàn có thể giải thích được
bằng kiến thức vật lý. Từ đó làm cho HV đỡ cảm thấy môn học khó và yêu thích
môn học hơn, muốn học hơn và có hứng thú học hơn.
- Đưa hiện tượng thực tế vào giúp HV nhớ kiến thức dễ hơn, đỡ phải máy
móc hơn do vậy hiệu quả vận dụng kiến thức cao hơn.
4. Hiệu quả của SKKN
- Sáng kiến “Phương pháp tổ chức giờ học phụ đạo Vật lí 11 tạo hứng
thú học tập cho học viên trung tâm GDTX Mường Khương” được GV thực
hiện từ thực tế học viên học bộ môn Vật lý tại TT GDTX Mường Khương đặc
biệt là trong giờ phụ đạo yếu kém Vật lý khối 11. Các biện pháp trong sáng kiến
được vận dụng tại 2 lớp 11A, 11B - Trung tâm GDTX Mường Khương năm học

2013 - 2014.
- Khi áp dụng các biện pháp trong sáng kiến HV nhớ được lượng kiến
thức nhiều hơn, thái độ trong giờ học phụ đạo tích cực chủ động hơn. HV tham
gia vào hoạt động tìm hiểu, vận dụng kiến thức nhiều hơn, hứng thú hơn khi
chưa áp dụng các biện pháp trên. Đa số HV đều tích cực đưa ra các ý kiến của
bản thân, nhóm nhằm hoàn thiện nhiệm vụ và hướng dẫn của GV trong giờ học.
Hiệu quả giờ dạy nhờ đó cũng tăng lên khi HV đã hưng thú hơn trong giờ học,
nhận thấy kiến thức đỡ khó hơn.
* Kết quả sau khi áp dụng sáng kiến so với khi chưa áp dụng tại khối
11 - Trung tâm GDTX Mường Khương cụ thể như sau:
+ Tỷ lệ HV tham gia tích cực trong giờ phụ đạo:
Lớp Trước khi áp dụng sáng kiến
Sau khi áp dụng sáng kiến
11A
17%
75%
11B
20%
80%
+ Kết quả học tập bộ môn của HV:
Lớp Trước khi áp dụng sáng kiến
Sau khi áp dụng sáng kiến
Khá
TB
Yếu
Kém
Khá
TB
Yếu
Kém

20%
52
28
11A
0%
10%
60%
30%
0
0%
22,7
77,3
11B
0%
17,6% 70,6% 11,8%
0
Phần III. KẾT LUẬN
Thực hiện sáng kiến này không chỉ nâng cao hứng thú học tập trong giờ
phụ đạo môn Vật lý, một số giờ dạy chính khóa cho HV mà đối với bản thân GV
cũng có nhiều cơ hội để tiếp tục suy nghĩ , được vận dụng các giải pháp phù hợp
với HV đặc biệt là môn khoa học thực nghiệm Vật lý được cho là khô khan từ
14


trước đến nay. Bên cạnh đó các biện pháp trên còn tạo được không khí thoải
mái thân thiện giữa HV và GV. Là cơ hội để GV thường xuyên tích cực khai
thác các nguồn tài liệu để nâng cao kiến thức cho bản thân về chuyên môn cũng
như tìm hiểu, lựa chọn, rèn luyện các phương pháp giảng dạy phù hợp đối
tượng, bộ môn và thực tế tại Trung tâm GDTX Mường Khương.
Nội dung SKKN trên được áp dụng không chỉ phù hợp cho giờ phụ

đạo, chính khóa khi dạy môn Vật lý tại Trung tâm GDTX Mường Khương mà
còn có thể áp dụng cho một số môn học khác tại Trung tâm GDTX Mường
Khương hoặc các Trung tâm GDTX khác. Có thể bổ sung một số nội dung để
xây dựng nên SKKN áp dụng cho một số khối lớp THPT.
Các môn khoa học thực nghiệm, khoa học tự nhiên là những môn học
khó đối với HV khối TTGDTX bởi vì đòi hỏi nhớ nhiều kiến thức, vận dụng
kiến thức toán học nhiều mà HV đã rỗng từ các lớp dưới. Do đó yêu cầu nâng
cao hứng thú học tập của HV đối với môn Vật lý nói riêng và đối với các môn
khoa học tự nhiên nói chung đòi hỏi GV phải không ngừng trau dồi kỹ năng,
phẩm chất đạo đức, nghề nghiệp, phương pháp giảng dạy, để truyền thụ kiến
thức một cách ngắn gọn, dễ hiểu gần với thực tế cuộc sống và đặc biệt là hấp
dẫn, thu hút sự chú ý đối với người học. Không chỉ vậy thông qua giờ học GV
còn cần cho HV thấy được ý nghĩa và vai trò của các kiến thức môn học đối với
cuộc sống, vận dụng các kiến thức đó vào giải thích vấn đề, hiện tượng thường
gặp hàng ngày. Muốn đạt được điều đó GV Cần có những bài giảng, trò chơi
mang tính chất giáo dục để kích thích hứng thú học tập cho HV. Quá trình đó
không chỉ thực hiện ở một tiết học, một lớp hay một cấp học mà phải thực hiện
thường xuyên bằng nhiều hình thức khác nhau để HV nhìn nhận kiến thức đơn
giản hơn từ đó sẽ yêu thích môn học hơn, hứng thú tìm hiểu kiến thức hơn, kết
quả cuối cùng là đem lại hiệu quả giáo dục cao hơn cho khối GDTX nói riêng
và ngành giáo dục nói chung, góp phần đáp ứng yêu cầu trong thời đại mới của
người học, thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước hiện nay./.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quyết định số 01/2007/QĐ-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo
về Quy chế tổ chức và hoạt động của trung tâm giáo dục thường xuyên
2. Tài liệu lịch sử vật lý, Vật lý vui

3. Phương pháp dạy học tại trung tâm GDTX

16



×