Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

SKKN thiết kế, sử dụng bộ câu hỏi định hướng bài học trong dạy học hóa học ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.94 KB, 37 trang )

Phần một: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, việc sử dụng câu hỏi trong các
giờ học là việc làm thường xuyên của mỗi giáo viên, đó không phải là chuyện ngẫu
nhiên mà bởi người giáo viên ý thức được tầm quan trọng cũng như tác dụng to lớn
của các câu hỏi. Tuy nhiên, trên thực tế rất nhiều giáo viên thiết kế hệ thống câu
hỏi một cách cảm tính, tùy tiện, không có sự chuẩn bị trước, không theo một logic
chặt chẽ hay nói cách khác là không có sự định hướng. Điều đó làm giảm tác dụng
của các câu hỏi đồng thời làm cho học sinh không nắm được trình tự cũng như nội
dung trọng tâm của bài học.
Bộ câu hỏi định hướng bài học gồm câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học và câu
hỏi nội dung sẽ hướng học sinh vào những hoạt động có chủ đích hơn. Từ đó, học
sinh sẽ hứng thú hơn trong quá trình tìm tòi, suy nghĩ để trả lời những câu hỏi và
hứng thú hơn trong học tập bộ môn. Khi yêu thích bộ môn, học sinh sẽ chủ động,
tích cực hơn trong học tập và kết quả học tập sẽ được nâng cao.
Tuy nhiên, làm thế nào để thiết kế được bộ câu hỏi định hướng và bài dạy sử
dụng bộ câu hỏi định hướng có thể kích thích được tư duy của học sinh, lôi cuốn
các em vào từng hoạt động của bài dạy, là điều cần quan tâm hơn cả. Việc sử dụng
hệ thống câu hỏi định hướng bài học, cũng là một trong những hướng đổi mới
phương pháp có tính khả thi cao. Do đó, tôi chọn đề tài “Thiết kế, sử dụng bộ câu
hỏi định hướng bài học trong dạy học Hóa học ở trường trung học phổ thông” với
mong muốn góp phần nhỏ vào việc đổi mới phương pháp, nhằm nâng cao hiệu quả
dạy học ở trường phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận về việc sử dụng câu hỏi và thiết kế bộ câu hỏi định hướng
bài học môn Hoá học trong một số tiết học lớp 11 và 12 nhằm nâng cao kết quả học
tập bộ môn.
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu lý luận về việc sử dụng câu hỏi trong dạy học.
- Tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng các loại câu hỏi ở trường trung học
phổ thông.


- Nghiên cứu cách thiết kế và sử dụng bộ câu hỏi định hướng bài học.
- Vận dụng để thiết kế bộ câu hỏi định hướng bài học và giáo án.
- Đề xuất các biện pháp nâng cao tính khả thi của việc sử dụng bộ câu hỏi
định hướng bài học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và nâng cao chất
lượng dạy học.
1


- Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng tính khả thi và hiệu quả của bộ
câu hỏi định hướng bài học đã được thiết kế.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việc thiết kế và sử dụng bộ câu hỏi định hướng bài
học bài “Cacbon và hợp chất của cacbon” lớp 11 (chương trình co bản); bài “Vị trí
của kim loại trong bảng tuần hoàn và cấu tạo của kim loại” lớp 12 (chương trình cơ
bản)
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn hoá học lớp 11, 12 ở trường
THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung dạy học: Môn Hoá học lớp 11, 12 chương trình cơ bản.
- Địa bàn nghiên cứu: Trường THPT số 1 Bát Xát.
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 8/2013 đến tháng 5/2014.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu thiết kế được bộ câu hỏi định hướng bài học cụ thể, rõ ràng, lôgic, kích
thích được tư duy của học sinh và sử dụng chúng một cách hợp lí trong dạy học sẽ
tạo được hứng thú học tập và phát huy được tính tích cực nhận thức của học sinh
đồng thời nâng cao được chất lượng dạy học hoá học ở trường phổ thông.
7. Phương pháp nghiên cứu
* Các phương pháp nghiên cứu lí luận
- Đọc và nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.

- Phương pháp phân loại và hệ thống hoá.
- Phương pháp xây dựng giả thuyết.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
* Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Quan sát.
- Thực nghiệm sư phạm.
8. Những đóng góp mới của đề tài nghiên cứu
- Xây dựng nguyên tắc thiết kế và sử dụng bộ câu hỏi trong dạy học.
- Đề xuất quy trình thiết kế và các hướng sử dụng bộ câu hỏi định hướng bài
học.
- Thiết kế bộ câu hỏi và xây dựng một số giáo án cụ thể.
2


Phần hai: NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Ngày nay chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin, khoa học phát
triển như vũ bão đã tác động mạnh mẽ và làm thay đổi lớn lao đến các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Trước yêu cầu đổi mới của thời đại, đòi hỏi ngành giáo dục cũng
phải đổi mới mục tiêu, phương pháp dạy học để giải quyết vấn đề cấp bách được
đặt ra. Từ thực tiễn giảng dạy, dự giờ và trao đổi với các đồng nghiệp, tôi nhận thấy
hiện nay giáo viên đã và đang đổi mới phương pháp dạy học thể hiện ở các khâu
soạn bài và lên lớp.
Đổi mới phương pháp dạy học bằng cách đặt câu hỏi hiện là một vấn đề hết
sức quan trọng bởi tính đơn giản, hiệu quả và khả thi.
Việc sử dụng câu hỏi định hướng bài học cũng tương tự như việc sử dụng
những câu hỏi dạy học mà các giáo viên thường sử dụng nhưng có có tính logic,
tính định hướng, tính khái quát cao hơn nhằm phát triển tư duy cho học sinh. Bên
cạnh đó bộ câu hỏi này cũng có những câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho mọi học

sinh tham gia tích cực vào quá trình dạy học. Theo tôi, nghiên cứu để sử dụng tốt
bộ câu hỏi định hướng bài học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở trường
phổ thông.
1.2. Câu hỏi và câu hỏi dạy học
1.2.1. Câu hỏi
Theo Từ điển Tiếng Việt “Hỏi” tức là:
- Nói ra điều người muốn người ta cho mình biết với yêu cầu được trả lời.
- Nói ra điều mình đòi hỏi hoặc mong muốn ở người ta với yêu cầu được đáp
ứng.
Mỗi chúng ta đều không thể quên được Socrate ngày xưa là người thuyết
phục giỏi nhất thế giới. Ông đã bán rất chạy những ý kiến của mình đến nỗi ngày
nay người ta còn học hỏi ông. Bí quyết lớn nhất của ông là “đặt những câu hỏi”.
Như vậy, câu hỏi có một tầm quan trọng lớn trong cuộc sống nói chung và trong
dạy học nói riêng. Sử dụng câu hỏi trong dạy học chỉ là một phần trong quá trình
dạy học, tuy nhiên nó có vị trí cực kì quan trọng. Nó giúp học sinh hiểu bài và hình
thành kĩ năng tư duy ở mức độ cao, từ đó sẽ nâng cao chất lượng dạy học.
1.2.2. Câu hỏi dạy học
Câu hỏi dạy học là những câu hỏi hoặc yêu cầu có tính chất hướng dẫn học
sinh khai thác kiến thức, giúp giáo viên kiểm tra kiến thức của học sinh hoặc tạo ra
những tương tác tâm lý tích cực khác giữa giáo viên và học sinh nhằm hoàn thành
mục tiêu dạy học.
3


Câu hỏi của người giáo viên đặt ra trong quá trình giảng dạy khác với câu
hỏi bình thường trong cuộc sống. Trong cuộc sống khi người ta hỏi ai một điều gì
thường người hỏi chưa biết điều đó hoặc là biết một cách lơ mơ chưa rõ. Nhưng
câu hỏi mà người giáo viên đặt ra trong quá trình giảng dạy là những cái mà giáo
viên đã biết. Vì vậy, câu hỏi đặt ra trong quá trình giảng dạy không phải để đánh đố
học sinh mà là câu hỏi mở. Điều này có nghĩa là đặt câu hỏi cho học sinh về những

vấn đề mà học sinh đã học hoặc là từ những kiến thức đã được học mà suy ra.
1.2.3. Phân loại câu hỏi
1.2.3.1. Phân loại câu hỏi theo chức năng tổ chức quá trình lĩnh hội
* Câu hỏi nhằm củng cố tri thức và các kĩ năng, kĩ xảo
- Tái hiện những điều đã học.
- Hệ thống hóa các sự kiện, khái niệm.
- Rèn luyện các kỹ năng.
Thí dụ: Em hãy viết phương trình phản ứng hóa học chứng minh HNO 3 là
axit mạnh?
* Câu hỏi giúp học sinh nắm vững logic và các phương pháp tư duy, sáng
tạo
- Hệ thống phân tích, tổng hợp (so sánh, khái quát, đánh giá, rút ra kết luận).
- Đào sâu, làm giàu hệ thống tri thức (xác định rõ, cụ thể hóa, phát triển…).
Thí dụ : So sánh tính oxi hóa của các halogen. Viết phương trình phản ứng
minh họa?
* Áp dụng tri thức trong thực tế
- Thực tế các hành động.
- Hình thành công việc.
- Nắm vững các kỹ năng.
Thí dụ : Làm thế nào để tinh chế NaCl có lẫn tạp chất NaBr ?
1.2.3.2. Phân loại câu hỏi về mặt nội dung
* Câu hỏi về chức năng : Thể hiện ở 3 dạng
- Chức năng kiểm tra sự nắm vững kiến thức, kỹ năng, phương pháp của học
sinh.
- Chức năng kiểm tra tính trung thực của học sinh.
- Chức năng tâm lý: giúp giáo viên biết được những điều mà mình muốn tìm
hiểu. Loại câu hỏi này thường tạo ra sự gần gũi, hứng thú, …
4



* Câu hỏi về nội dung: Là những câu hỏi nhằm vào các vấn đề chính mà giáo
viên cần biết, cần kiểm tra (chủ yếu là những câu hỏi về những kiến thức đã học).
* Câu hỏi về sự kiện: Là những câu hỏi đặt ra để hỏi về những vụ việc,
những sự kiện liên quan đến việc học tập, đời sống, gia đình…có ảnh hưởng đến
việc học tập nói chung và bộ môn hoặc từng bài dạy của giáo viên nói riêng. Mục
đích của loại câu hỏi này là bổ sung để kiểm tra chất lượng.
Các loại câu hỏi này được bố trí xen kẽ nhau để làm giảm bớt sự căng thẳng
tâm lí ở học sinh.
1.2.3.3. Phân loại câu hỏi theo hình thức câu hỏi
* Câu hỏi đóng: là những câu hỏi có giới hạn, cho phép trả lời đúng hoặc sai.
Loại câu hỏi này chỉ có một đáp án đúng duy nhất.
Thí dụ: Bạn có thường xuyên sử dụng câu hỏi trong dạy học không?
A. Có.

B. Không.

* Câu hỏi mở: Câu hỏi mở kích thích học sinh đào sâu suy nghĩ và đưa ra
nhiều quan điểm. Không chỉ có một câu trả lời đúng. Đưa ra các câu hỏi mở cho
nhóm học sinh sẽ thu được vô số các ý tưởng và câu trả lời khác nhau.
Câu hỏi mở dùng để cung cấp thông tin, thảo luận thêm hoặc đặt thêm câu
hỏi, thúc ép đối thoại.
1.2.3.4. Phân loại câu hỏi theo cấu trúc
* Câu hỏi đơn giản: Câu hỏi đơn giản nhằm câu trả lời đơn giản, tuy không
hẳn là dễ và ở trình độ thấp, thường câu hỏi đơn giản thì dễ.
Thí dụ : Tính chất hóa học đặc trưng của Oxi là gì? Oxi và Lưu huỳnh có
những điểm gì giống và khác nhau về tính chất hóa học ?
* Câu hỏi phức tạp: Câu hỏi phức tạp cần có câu trả lời phức tạp về cấu trúc
nhưng chưa chắc đã khó về nội dung.
Thí dụ : Khi dạy về đồng vị của một nguyên tố hóa học, giáo viên có thể
dùng câu hỏi: Cho các nguyên tử có kí hiệu sau: 168O , 178O , 188O , 1735Cl , 1737Cl . Hãy cho

biết số lượng các hạt electron, proton, nơtron có trong các nguyên tử của các
nguyên tố đó.
1.2.3.5. Phân loại câu hỏi theo tình huống
* Câu hỏi chốt
- Câu hỏi do giáo viên đặt ra để củng cố và khắc sâu kiến thức trọng tâm bài
học.
- Xuất phát từ giáo viên, nhằm vào vấn đề cốt lõi, quan trọng của bài học.
Giáo viên chuẩn bị trước một cách chủ động.
5


Thí dụ: Các protein có những tính chất chung nào? (Bài protit lớp 12).
* Câu hỏi chồi
- Câu hỏi của học sinh đặt ra với giáo viên trong quá trình học tập trên lớp.
- Xuất phát từ học sinh, nó được nảy sinh trong quá trình dạy học; có tính bất
ngờ, không thể dự kiến trước được.
1.2.3.6. Phân loại theo Bloom
* Câu hỏi Biết
- Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra trí nhớ của học sinh về các dữ
liệu, số liệu, các định nghĩa, tên tuổi, địa điểm,...
- Việc trả lời các câu hỏi này giúp HS ôn lại được những gì đã học, đã đọc
hoặc đã trải qua. Các từ để hỏi thường là: “Cái gì…”, “Bao nhiêu…”, “Hãy định
nghĩa…”, “Cái nào…”, “Em biết những gì về…”, “Khi nào...”, “Bao giờ…”, “Hãy
mô tả...”…
Thí dụ:
+ Hãy phát biểu định nghĩa nguyên tố hóa học ?
+ Hãy liệt kê một số vật liệu polime ?
* Câu hỏi Hiểu
- Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra cách học sinh liên hệ, kết nối
các dữ liệu, số liệu, tên tuổi, địa điểm, các định nghĩa…

- Việc trả lời các câu hỏi này cho thấy học sinh có khả năng diễn tả bằng lời
nói, nêu ra được các yếu tố cơ bản hoặc so sánh các yếu tố cơ bản trong nội dung
đang học. Các cụm từ để hỏi thường là: “Tại sao…”, “Hãy phân tích…”, “Hãy so
sánh…”, “Hãy liên hệ…”,…
Thí dụ: Dựa vào đặc điểm cấu tạo nguyên tử của các nguyên tố trong nhóm
halogen. Hãy dự đoán các halogen có tính chất hóa học cơ bản nào?
* Câu hỏi Vận dụng
- Mục tiêu của loại câu hỏi là để kiểm tra khả năng áp dụng các dữ liệu, các
khái niệm, các quy luật, các phương pháp,… vào hoàn cảnh và điều kiện mới.
- Việc trả lời các câu hỏi áp dụng cho thấy học sinh có khả năng hiểu được
các quy luật, các khái niệm,… có thể lựa chọn tốt các phương án để giải quyết, vận
dụng các phương án vào thực tiễn. Khi đặt câu hỏi cần tạo ra những tình huống mới
khác với điều kiện đã học trong bài học và sử dụng các cụm từ như: “Làm thế
nào…?”, “Hãy tính sự chênh lệch giữa…”, “Em có thể giải quyết khó khăn về…
như thế nào?”,…
* Câu hỏi Phân tích
6


- Mục tiêu của loại câu hỏi này là để kiểm tra khả năng phân tích nội dung
vấn đề, từ đó đi đến kết luận, tìm ra mối quan hệ hoặc chứng minh một luận điểm.
- Việc trả lời câu hỏi này cho thấy học sinh có khả năng tìm ra được mối
quan hệ mới, tự diễn giải hoặc đưa ra kết luận. Việc đặt câu hỏi phân tích đòi hỏi
học sinh phải giải thích được các nguyên nhân từ thực tế: “Tại sao…”, “Em có
nhận xét gì về…”, “Hãy chứng minh…”. Các câu hỏi phân tích thường có nhiều lời
giải (thể hiện sự sáng tạo).
Thí dụ:
+ Từ kết quả thí nghiệm, em hãy nhận xét về sự phụ thuộc của tính chất hóa
học của một chất vào đặc điểm cấu tạo của nó.
+ Hãy chứng minh độ linh động của nguyên tử hiđro trong nhóm -OH của

ancol, phenol, axit tăng dần.
* Câu hỏi Tổng hợp
- Mục tiêu của câu hỏi loại này là để kiểm tra xem học sinh có thể đưa ra
những dự đoán, giải quyết vấn đề, đưa ra câu trả lời hoặc đề xuất có tính sáng tạo.
- Câu hỏi tổng hợp thúc đẩy sự sáng tạo của học sinh, các em phải tìm ra
những nhân tố và ý tưởng mới để có thể bổ sung, cho nội dung. Để trả lời câu hỏi
tổng hợp khiến học sinh phải: dự đoán, giải quyết vấn đề và đưa ra các câu trả lời
sáng tạo. Cần nói cho học sinh biết rõ rằng các em có thể tự do đưa ra những ý
tưởng, giải pháp mang tính sáng tạo, tưởng tượng của riêng mình. Giáo viên cần
lưu ý rằng câu hỏi loại này đòi hỏi một thời gian chuẩn bị khá dài, vì vậy hãy để
cho học sinh có đủ thời gian tìm ra câu trả lời.
Thí dụ: Sau khi học xong chương Oxi. Em hãy đề xuất các biện pháp để bảo
vệ môi trường.
* Câu hỏi Đánh giá
Mục tiêu của loại câu hỏi này là kiểm tra xem học sinh có thể đóng góp ý
kiến và đánh giá các ý tưởng, giải pháp, biện minh, phê bình, rút ra kết luận dựa
vào những tiêu chuẩn đã đề ra.
Thí dụ: Một bạn học sinh lo lắng một ngày nào đó chúng ta sẽ không còn đủ
oxi để thở. Em hãy đánh giá quan điểm của bạn học sinh đó?
1.3. Việc sử dụng câu hỏi trong dạy học
1.3.1. Vai trò của việc sử dụng câu hỏi trong dạy học
1.3.1.1. Đối với học sinh
- Hầu hết mọi người đều đồng ý là phương pháp đặt câu hỏi là một hoạt động
thú vị và sôi nổi đối với học sinh. Các em được chủ động tham gia vào bài giảng
7


chứ không chỉ thụ động ngồi nghe và cách giảng có đặt câu hỏi kích thích được sự
tò mò, gây hứng thú nhận thức cho học sinh.
- Giúp học sinh khám phá tri thức, đây là mục tiêu đòi hỏi học sinh trong quá

trình lĩnh hội kiến thức mới phải trải qua giai đoạn tìm tòi, nghiên cứu, không đơn
thuần là chỉ bị động tiếp thu kiến thức đó.
- Câu hỏi dạy học tạo cơ hội cho giáo viên rèn luyện cho học sinh những
phẩm chất trong giao tiếp như biết lắng nghe, chấp nhận và phê phán ý kiến người
khác,…
- Giúp học sinh phát triển được tư duy, đây cũng là hoạt động mà học sinh
phải tham gia trong suốt cuộc đời của mình, chính vì thế, để đánh giá bộ câu hỏi có
chất lượng hay không người ta quan tâm đến tiêu chuẩn này.
- Cho phép học sinh thực hành, sử dụng những ý tưởng và từ ngữ mà giáo
viên vừa dạy cho học sinh để bày tỏ những ý kiến của bản thân. Điều này giúp cho
học sinh phát triển được kĩ năng lập luận, diễn đạt cũng như là thái độ giao tiếp với
thầy cô, bạn bè.
- Khi nghiên cứu về động cơ học tập, ta biết rằng học sinh muốn biết họ nắm
vấn đề đến mức độ nào. Không có gì có thể động viên các em bằng tâm trạng thỏa
mãn có được khi trả lời đúng một câu hỏi và nhận ngay lời khen nồng nhiệt của
giáo viên, đó là một phần thưởng tức thì rất có giá trị khuyến khích người học. Khi
các em trả lời đúng câu hỏi mà giáo viên đặt ra các em sẽ có được một cảm giác
thành công mà cảm giác này bao giờ cũng khích lệ học sinh giúp các em tham gia
tích cực vào việc hỏi và trả lời. Vì thế mà học sinh cho rằng dạy học bằng cách đặt
câu hỏi không chỉ là một hoạt động thú vị mà còn là một hoạt động mang lại phần
thưởng tức thì cho cố gắng của các em, nó chứng tỏ các em đã thành công trong
việc học.
1.3.1.2. Đối với giáo viên
- Việc sử dụng câu hỏi trong dạy học là một trong những phương pháp chính
làm cho lời giảng của giáo viên sống động hơn.
- Câu hỏi giúp giáo viên khám phá được thái độ học tập của học sinh. Từ đó
có những phương pháp để khuyến khích động viên cũng như nhắc nhở các em chú
ý hơn trong giờ học.
- Câu hỏi dạy học là phương tiện hữu hiệu, độc đáo để giáo viên truyền đạt
tri thức. Giáo viên có thể có nhiều cách khác nhau trong việc giúp học sinh tiếp thu

kiến thức mới nhưng chỉ bằng cách sử dụng câu hỏi, học sinh mới có cơ hội vừa
lĩnh hội tri thức, vừa phát triển tư duy.
- Câu hỏi dạy học là công cụ chủ yếu để kiểm tra tri thức, giúp giáo viên phát
hiện những chỗ mà học sinh hiểu sai, những lỗ hổng kiến thức đồng thời đánh giá
8


được mức độ hiểu bài của học sinh một cách tức thì. Nhờ đó, giáo viên có thể tự đề
ra phương pháp giảng dạy phù hợp.
- Dạy học bằng cách đặt câu hỏi còn đảm bảo tốc độ bài giảng phù hợp với
học sinh, nội dung bài giảng đi đúng trọng tâm.
- Câu hỏi dạy học còn được dùng để khắc sâu, củng cố kiến thức trong quá
trình truyền đạt kiến thức mới.
- Câu hỏi còn là một trong những biện pháp giúp giáo viên gợi động cơ học
tập cho học sinh, đó cũng là biện pháp nhằm thu hút sự chú ý của học sinh.
- Câu hỏi dạy học tạo cơ hội cho giáo viên rèn luyện cho học sinh những
phẩm chất trong giao tiếp như biết lắng nghe, chấp nhận và phê phán ý kiến người
khác…
1.3.2. Yêu cầu đối với câu hỏi dạy học
1.3.2.1. Yêu cầu về nội dung
* Câu hỏi phải phát huy năng lực tư duy, đặc biệt là năng lực tư duy sáng
tạo của học sinh.
Học sinh bằng sự cố gắng của mình, vận động mạnh mẽ về trí tuệ trong việc
phân tích câu hỏi, đấu tranh quyết liệt trong việc so sánh, đối chiếu vấn đề, khái
quát hóa, phát hiện vấn đề, quy luật,…mới có thể tìm ra câu trả lời nhằm chiếm
lĩnh kiến thức cho mình.
Thí dụ: Dựa vào số oxi hoá của lưu huỳnh trong phân tử H 2SO4, hãy dự đoán
tính chất hoá học của axit sunfuric. Viết phương trình phản ứng minh họa.
Để giải đáp câu hỏi trên đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức về
phản ứng oxi hoá khử, lựa chọn các chất hoá học phù hợp để viết phương trình

phản ứng minh hoạ. Như vậy câu hỏi đã tạo điều kiện cho học sinh có cơ hội phát
triển năng lực tư duy. Song, do đã được định hướng trước: dựa vào số oxi hoá của
lưu huỳnh nên câu hỏi hạn chế khả năng tìm tòi sáng tạo của học sinh. Cho nên dù
câu hỏi có đạt yêu cầu về phát triển tư duy cho học sinh nhưng câu hỏi chưa đạt
yêu cầu về phát triển năng lực sáng tạo. Yêu cầu hợp lí hơn có thể là: “Hãy dự đoán
tính chất hóa học của axit H 2SO4. Làm thí nghiệm để so sánh tính chất hóa học của
H2SO4 loãng và H2SO4 đặc”.
* Câu hỏi phải có tính định hướng rõ ràng nhằm đúng bản chất của vấn đề
và trọng tâm bài giảng, phù hợp với đặc điểm của môn học.
Khi xây dựng câu hỏi dạy học phải xác định rõ câu hỏi đặt ra thuộc dạng câu
hỏi nào? Phục vụ cho mục đích gì? Có nhắm đến trọng tâm bài giảng hay không?
* Hệ thống câu hỏi trong một bài phải có sự liên hệ và kế thừa nhau nhằm
phát triển nhận thức của học sinh một cách logic.
9


Thí dụ: Khi dạy bài lưu huỳnh, giáo viên có thể dùng các câu hỏi sau:
- Lưu huỳnh có những trạng thái oxi hóa nào?
- Dựa vào số oxi hóa hãy dự đoán tính chất hóa học của lưu huỳnh.
- Khi nào lưu huỳnh thể hiện tính oxi hóa? Tính khử?
- Lưu huỳnh có khuynh hướng nào khi tác dụng với kim loại, hiđro, phi kim
mạnh hơn?
- Nêu phương pháp loại bỏ Hg khi Hg rơi vào rãnh bàn ghế.
1.3.2.2. Yêu cầu về mặt hình thức
* Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và trong sáng.
Câu hỏi giáo viên đặt ra không nên quá bóng bẩy, khó hiểu, nhiều nghĩa mà
phải ngắn gọn, rõ ràng. Không nên dùng các từ ngữ trừu tượng, ít phổ thông.
Không nên gộp những vấn đề không hoàn toàn đồng nhất với nhau trong một câu
hỏi.
* Độ dài và độ phức tạp cũng như từ ngữ của câu hỏi đặt ra phải phù hợp

với lứa tuổi học sinh.
Không nên dùng những ngôn từ khó hiểu và những câu hỏi rườm rà vì nó đòi
hỏi nhiều câu hỏi phụ mà càng có nhiều câu hỏi phụ bao nhiêu thì càng có nguy cơ
làm cho học sinh khó nắm được ý chính bấy nhiêu và không biết trả lời cái gì.
* Hệ thống câu hỏi sử dụng nên đa dạng về hình thức thể hiện.
Giáo viên nên phối hợp nhiều loại câu hỏi như: câu đúng – sai, câu gép đôi,
câu trả lời ngắn, câu hỏi dạng điền khuyết … được thể hiện trên nhiều phương tiện
dạy học khác nhau như sơ đồ, mô hình, bảng biểu, máy chiếu, thí nghiệm, hình vẽ,
vật thật,…. có liên quan nhằm phát triển óc tổng hợp và hoạt động tư duy khoa học
của học sinh. Đặc biệt, trong hệ thống câu hỏi đặt ra nên tăng cường những câu hỏi
mang tính chất hài hước, “Tính hài hước làm cho cơ chế của trí tuệ hoạt động”
(M.Tulen), những câu hỏi mang tính chất nghiên cứu về các sơ đồ, biểu bảng, hình
vẽ, thí nghiệm… cũng tạo hứng thú, giúp học sinh nhớ bài lâu hơn.
Sử dụng phối hợp nhiều loại câu hỏi có nhiều tác dụng, nó không chỉ tạo
điều kiện để giáo viên đánh giá học sinh một cách toàn diện mà còn là một trong
những biện pháp tạo sự sinh động trong lớp học, thu hút sự chú ý tạo hứng thú cho
học sinh.
1.3.2.3. Yêu cầu về mặt phương pháp
* Yêu cầu xác định rõ câu hỏi trọng tâm, phù hợp với đối tượng đặt câu hỏi,
đảm bảo tính vừa sức và đặc điểm của môn học, mục tiêu của bài học.
* Yêu cầu câu hỏi dạy học phải gây được hứng thú nhận thức, kích thích học
sinh suy nghĩ trả lời. Để kích thích sự tập trung chú ý của học sinh vào bài học,
10


giáo viên thường mở đầu bài giảng bằng cách sử dụng những câu hỏi đặt học sinh
trước tình huống có vấn đề, có thể là sự nghịch lý bế tắc, hoặc câu hỏi về ứng dụng
của các đơn chất, hợp chất có trong bài học, hoặc giáo viên có thể kể một câu
chuyện hóa học với kết thúc mở đặt ra nhiều nghi vấn cho học sinh.
Thí dụ:

+ Các nguyên tử làm thế nào để kết hợp với nhau tạo thành phân tử trong khi
lớp vỏ của chúng là các hạt mang điện âm lẽ ra phải đẩy nhau?
+ Tại sao các nguyên tử khí hiếm không kết hợp lại thành phân tử và trơ về
mặt hóa học?
* Yêu cầu câu hỏi dạy học phải đảm bảo thời lượng tiết học. Phân chia hợp lí
các câu hỏi kể cả số lượng lẫn chất lượng khi giảng bài để tính thời gian cho từng
vấn đề sao cho phù hợp với bản chất, độ rộng, độ sâu của câu hỏi. Nghĩa là giáo
viên phải xác định thời gian cho học sinh suy nghĩ để trả lời cho từng câu hỏi sao
cho hợp lý nhất. Đây là yêu cầu nhằm đảm bảo tiến độ tiết học. Để thực hiện được
yêu cầu này giáo viên cần ước lượng thật cụ thể thời gian mà giáo viên cho học
sinh suy nghĩ để trả lời câu hỏi. Nếu thời gian cho phép học sinh suy nghĩ để trả lời
câu hỏi quá dài thì học sinh sẽ có thời gian rảnh để nói chuyện riêng khi giải quyết
xong câu hỏi và nó cũng rất dễ khiến cho giáo án của giáo viên bị cháy. Nếu thời
gian đó quá ngắn thì học sinh không kịp tìm ra phương án trả lời. Trong tình thế đó,
giáo viên buộc phải sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở. Nhưng việc sử dụng hệ
thống quá nhiều câu hỏi gợi mở sẽ không phát huy được tính tích cực cũng như là
trí thông minh của học sinh.
1.3.3. Các hình thức sử dụng câu hỏi
1.3.3.1. Sử dụng câu hỏi trong kiểm tra miệng hay trả bài đầu tiết học
* Ý nghĩa
- Giúp cho học sinh ôn lại những kiến thức đã học. Từ đó, học sinh sẽ khắc
sâu hơn, nắm rõ hơn kiến thức đó.
- Giúp giáo viên nắm được mức độ lĩnh hội tri thức của học sinh, có phải tất
cả học sinh đều lĩnh hội chính xác điều đã học không? Từ đó giáo viên điều chỉnh
lại những kiến thức thiếu xót, chưa chính xác của học sinh. Điều này giúp cho giáo
viên trong việc truyền thụ kiến thức mới, lựa chọn những kiến thức mới thích hợp
để giảng dạy.
* Câu hỏi sử dụng khi kiểm tra bài cũ
- Nội dung câu hỏi tuỳ thuộc vào nội dung bài đã được học ở tiết học trước
và bài tập cho về nhà.


11


- Thường hỏi những kiến thức trọng tâm của bài trước. Những kiến thức hay
sử dụng khi làm bài tập, những kiến thức có liên quan đến kiến thức mới, dẫn dắt
học sinh đi vào kiến thức mới.
- Câu hỏi ngắn gọn, chính xác, không đánh đố học sinh, ít tốn thời gian.
- Thường sử dụng câu hỏi tái hiện. Đối với học sinh khá có thể sử dụng câu
hỏi yêu cầu cao hơn để học sinh phải vận dụng kiến thức, suy nghĩ tích cực, tuy
nhiên không nên hỏi quá khó.
- Không nên sử dụng câu hỏi lớn, tổng quát để hỏi học sinh. Câu hỏi nên
được chia nhỏ nhiều phần để học sinh có thể trả lời từng phần.
1.3.3.2. Sử dụng câu hỏi trong giảng bài mới
* Ý nghĩa:
Cung cấp kiến thức mới cho học sinh. Giúp học sinh thấy được mối liên hệ
giữa kiến thức cũ và kiến thức mới. Vận dụng kiến thức cũ vào kiến thức mới.
* Câu hỏi sử dụng khi giảng kiến thức mới
- Thường sử dụng cả câu hỏi tái hiện và câu hỏi phát huy tính tích cực của
học sinh. Số lượng của hai loại câu hỏi tuỳ thuộc nội dung bài.
- Có thể sử dụng câu hỏi nêu vấn đề không cần học sinh trả lời.
- Câu hỏi đặt ra phải thoả mãn các nguyên tắc khi xây dựng câu hỏi.
1.3.3.3. Sử dụng câu hỏi trong củng cố và hoàn thiện kiến thức
* Ý nghĩa
- Đây là phần không thể thiếu trong mỗi bài dạy. Kiến thức mà giáo viên
cung cấp cho học sinh trong một bài dạy rất nhiều, khó có thể yêu cầu học sinh nắm
rõ toàn bộ kiến thức. Do đó, muốn học sinh hiểu bài, giáo viên phải lựa chọn những
kiến thức trọng tâm, những kiến thức cần nhấn mạnh cho học sinh qua hình thức
củng cố bài từng phần và củng cố toàn bài.
- Đây là hình thức giúp học sinh khắc sâu, nhớ lâu các kiến thức trọng tâm

của bài. Giúp học sinh biết được đâu là kiến thức nhất thiết phải nắm và đâu là kiến
thức mở rộng.
* Câu hỏi sử dụng khi củng cố bài
- Thường là câu hỏi đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ, vận dụng, tổng hợp
những kiến thức vừa mới học và những kiến thức cũ để trả lời.
- Nội dung câu hỏi tập trung vào kiến thức trọng tâm, đòi hỏi học sinh phải
suy luận.
- Câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, chính xác, nêu bật trọng tâm bài.
1.3.3.4. Sử dụng câu hỏi trong kiểm tra viết
12


* Ý nghĩa
Các câu hỏi này sẽ giúp cho giáo viên kiểm tra được toàn bộ lớp học về kiến
thức, về kĩ năng. Qua kết quả thu được, giáo viên tự đánh giá cách dạy của mình để
kịp thời sửa đổi cho phù hợp. Giáo viên cũng phát hiện các lỗi để sửa cho học sinh
và cũng là biện pháp cần thiết để nhắc nhở cho học sinh chăm chỉ, siêng năng học
tập tự rèn luyện và hoàn thiện.
* Câu hỏi sử dụng trong kiểm tra viết
- Câu hỏi phải kiểm tra được hầu hết các vấn đề cơ bản của phần đã học.
- Trong một bài kiểm tra cần có nhiều loại câu hỏi khác nhau, câu hỏi phù
hợp với trình độ của học sinh, câu hỏi thông minh đòi hỏi học sinh phải tư duy sáng
tạo.
1.3.4. Một số kĩ thuật khi sử dụng câu hỏi
1.3.4.1. Những điều nên làm
- Dừng lại một chút sau khi đặt câu hỏi.
- Nhận xét một cách khuyến khích đối với câu trả lời của học sinh.
- Tạo điều kiện cho nhiều học sinh trả lời một câu hỏi.
- Tạo điều kiện cho mỗi học sinh đều được trả lời câu hỏi, ít nhất là một lần
trong giờ học.

- Có những câu hỏi gợi mở phòng khi học sinh không trả lời được.
- Yêu cầu học sinh giải thích câu trả lời của mình.
- Yêu cầu học sinh liên hệ câu trả lời với những kiến thức khác.
1.3.4.2 Những điều nên tránh
- Nhắc lại câu hỏi của mình.
- Nhắc lại câu trả lời của học sinh.
- Đặt câu hỏi rồi gọi học sinh trả lời ngay.
- Gọi học sinh rồi mới đặt câu hỏi.
- Tự trả lời câu hỏi minh đưa ra.
1.4. Bộ câu hỏi định hướng bài học
1.4.1. Tác dụng của bộ câu hỏi định hướng bài học
- Định hướng hoạt động cho giáo viên và học sinh vào những nội dung quan
trọng. Tránh được tình trạng trình bày nông cạn, hời hợt, ngoài chủ đích.
- Giúp giáo viên và học sinh đạt được các mục tiêu dạy học.
13


- Dẫn dắt học sinh đến kiến thức thông qua hệ thống câu hỏi. Giúp học sinh
học tập tốt hơn, nhanh hơn, thông minh và sâu sắc hơn.
- Rèn kỹ năng tổ chức và sử dụng kiến thức.
- Rèn cho học sinh kỹ năng tư duy.
- Khơi dậy sự chú ý của học sinh.
- Kích thích hứng thú học tập.
1.4.2. Giới thiệu bộ câu hỏi định hướng bài học
Đặc
điểm

Tác
dụng


Câu hỏi khái quát

Câu hỏi bài học

Câu hỏi nội dung

- Có phạm vi rất rộng, là
những câu hỏi mở, tập trung
vào những vấn đề, mối quan
tâm lớn (đã giải quyết hay
còn đang tranh cãi) có ý
nghĩa xuyên suốt các lĩnh vực
của môn học và có khi cả các
môn học khác.

Cũng là câu hỏi mở
nhưng bó hẹp trong
một chủ đề hoặc bài
học cụ thể

- Là những câu
hỏi cụ thể trong
một bài học.

- Là cầu nối giữa môn
- Là cầu nối giữa các môn học và bài học.
học, giữa môn học và bài học.
- Không có một câu
- Không có một câu trả lời trả lời hiển nhiên
hiển nhiên “đúng”.

“đúng”.
- Không thể trả lời thoả đáng - Không thể trả lời
bằng một câu đơn giản. Vì thoả đáng bằng một
vậy, học sinh được thử thách câu
trong việc tìm ra nhiều kết
đơn giản.
quả khác nhau.

sinh phải có
những kỹ năng tư
duy bậc cao.

- Chỉ ra sự phức tạp và phong - Giúp giáo viên tập
trung vào các khía
phú của vấn đề, dẫn đến
cạnh quan trọng của
những câu hỏi quan trọng
bài học.
khác.
- Những câu hỏi bài
- Phát triển trí tưởng tượng và học hướng tới các
trình độ khác nhau có
tạo mối liên hệ giữa các môn
thể hỗ trợ và phát
học, giữa môn học với kiến
triển một câu hỏi khái
thức và ý tưởng của học sinh.
quát. Chúng được
- Khuyến khích thảo luận và
thiết kế để làm rõ,

khai thác các khía

- Trực tiếp hỗ trợ
chuẩn kiến thức
và mục tiêu học
tập

- Chú trọng vào
- Thường gắn với sự kiện hơn là
những nội dung bài giải thích sự kiện.
học cụ thể.
- Ít yêu cầu học

14

- Thường có
những câu trả lời
“đúng”, rõ ràng,
chính xác.

- Nhiều câu hỏi
nội dung hỗ trợ
và phát triển một
câu hỏi bài học
hay câu hỏi khái
quát.


nghiên cứu chuyên sâu.


cạnh của câu hỏi khái
- Gợi mở sự nghiên cứu chứ quát thông qua chủ đề
của bài học.
không dẫn đến những kết
- Đặt nền tảng cho
luận sớm.
các câu hỏi Nội dung.
- Đặt nền tảng cho các câu
hỏi Bài học và câu hỏi Nội
dung.
Ví dụ - Làm thế nào để chúng ta có - Em biết gì về oxi ?
(bài
cuộc sống tốt đẹp hơn?
- Oxi quan trọng như
Oxi
- Sinh vật tồn tại và phát triển thế nào?
lớp
như thế nào?

- Tính chất vật lý
của oxi?

10)

- Oxi hay ozon có
tính oxi hoá
mạnh hơn?

- Vai trò của oxi
trong cuộc sống?


- Ứng dụng của
oxi, ozon?
- Ai là người đầu
tiên đã phát hiện
ra oxi?
1.4.3. Một số chú ý khi sử dụng bộ câu hỏi định hướng bài học
- Sự khác nhau giữa câu hỏi Khái quát hay câu hỏi Bài học không quá rõ
ràng, không phải là màu trắng với màu đen. Ngược lại chúng được xem như là một
chỉnh thể thống nhất. Chúng cùng hướng đến mục đích định hướng cho việc học,
khuyến khích người học liên kết đến nhiều câu hỏi cụ thể hơn, nhiều câu hỏi tổng
quát hơn, hướng dẫn khám phá, khai thác những ý tưởng quan trọng.
- Tuỳ thuộc vào tình huống và cách sử dụng, một câu hỏi có thể là câu hỏi
Khái quát hay câu hỏi Bài học.
- Câu hỏi Khái quát được hình thành một cách tự nhiên, mới xem có cảm
giác là tùy tiện hoặc không liên quan. Câu hỏi Khái quát cần hấp dẫn, thích hợp với
lứa tuổi và vốn ngôn ngữ của học sinh. Chú ý tránh những câu hỏi Khái quát quá
tổng quát, trừu tượng, khó tiếp cận đối với học sinh.
- Nhiều câu hỏi Bài học hỗ trợ một câu hỏi Khái quát. Các nhóm giáo viên
của nhiều môn học khác nhau có thể sử dụng các câu hỏi Bài học của mình để hỗ
trợ một câu hỏi Khái quát chung, thống nhất.

15


- Khi xây dựng bộ câu hỏi định hướng bài dạy giáo viên cần tập trung vào
các câu hỏi được các nhà khoa học quan tâm thường xuyên trong suốt quá trình
phát triển của lịch sử nhân loại, các câu hỏi được học sinh quan tâm.
1.4.4. Một số cách xây dựng bộ câu hỏi định hướng bài học
- Hãy bắt đầu…đừng lo ngại về cách thức và ngôn ngữ. Chú trọng vào cách

tư duy tập thể.
- Suy nghĩ về các câu hỏi học sinh sẽ hỏi khi bạn dạy bài này và chú trọng
vào việc làm sao để cuốn hút học sinh.
- Tìm xem điều gì làm cho học sinh ghi nhớ từ bài học này trong vòng 5 năm
nữa.
- Bạn có thể viết câu hỏi như một mệnh đề trước, sau đó phát triển nó thành
câu hỏi.
- Nếu cần, trước hết hãy viết câu hỏi bằng ngôn ngữ “người lớn” để diễn đạt
được nội dung chính, sau đó viết lại bằng ngôn ngữ “học trò”.
- Đảm bảo rằng mọi câu hỏi, kể cả các câu hỏi bài học, có nhiều hơn một câu
trả lời hiển nhiên “đúng” - nhằm phát triển kỹ năng tư duy mức cao.
- Luôn hỏi lại “Vậy thì sao?” mỗi khi học sinh hỏi giáo viên.
- Sau khi làm việc tập thể, nên trao đổi các câu hỏi của mình với một số đồng
nghiệp và thu thập ý kiến nhằm xem xét các câu hỏi đó.
- Liên tục xem xét và cải tiến các câu hỏi trong suốt quá trình xây dựng hồ sơ
bài giảng.
1.5. Thực trạng của việc sử dụng câu hỏi trong dạy học hóa học
Việc sử dụng câu hỏi trong các giờ học Hóa học là việc làm thường xuyên
của mỗi giáo viên khi lên lớp. Tuy nhiên, việc sắp xếp hệ thống câu hỏi theo trình
tự logic, có sự định hướng chưa thật sự được các giáo viên chú ý.

16


Chương 2
THIẾT KẾ BỘ CÂU HỎI ĐỊNH HƯỚNG BÀI HỌC
“CHƯƠNG CACBON-SILIC” HÓA HỌC 11
VÀ “ĐẠI CƯƠNG VỀ KIM LOẠI” HÓA HỌC 12
CHƯƠNG TRÌNH CƠ BẢN
2.1. Giới thiệu tổng quan về chương Cacbon-Silic

2.1.1. Mục tiêu của chương
* Kiến thức
- Cấu tạo nguyên tử, phân tử của cacbon, silic và cấu tạo phân tử của một số
hợp chất quan trọng của nó.
- Tính chất hoá học cơ bản của đơn chất cacbon, silic và hợp chất của nó.
- Cách điều chế cacbon, silic và một số hợp chất quan trọng của các nguyên
tố này.
* Kĩ năng
- Viết các phương trình hoá học dưới dạng phân tử và ion rút gọn minh họa
tính chất hóa học.
- Giải các bài toán hoá học liên quan tới kiến thức về cacbon, silic và các hợp
chất
của
nó.
2.1.2. Một số điểm cần chú ý khi giảng dạy chương Cacbon-Silic
* Các kiến thức liên quan
- Những kiến thức về cacbon, silic và hợp chất của chúng đã được đề cập ở
lớp 8, 9. Ở lớp 11, kiến thức về cacbon, silic được nâng cao hơn sau khi học lí
thuyết chủ đạo về cấu tạo nguyên tử, bảng tuần hoàn, phản ứng oxi hoá–khử và sự
điện li. Ngoài tính chất phi kim có chú ý tới tính oxi hoá và tính khử của mỗi
nguyên tố. Đối với hợp chất : chú ý đến tính axit, tính bazơ, tính điện li, tính oxi
hoá, tính khử.
- Chú trọng đến các phương pháp điều chế cacbon, silic và các hợp chất quan
trọng của chúng trong phòng thí nghiệm và phương pháp hiện đại trong công
nghiệp.
- Chú trọng đến ứng dụng cacbon, silic và các hợp chất quan trọng của
chúng. Giới thiệu về ngành công nghiệp có liên quan đến cacbon, silic.
* Phương pháp dạy học
- Giáo viên khai thác lí thuyết chủ đạo như cấu tạo nguyên tử, liên kết hóa
học, khái niệm về độ âm điện,…, đặt các câu hỏi giúp học sinh thông qua việc trả

17


lời các câu hỏi đó có thể tự khám phá ra những kiến thức mới trên cơ sở những kiến
thức đã có.
- Các nguyên tố cacbon, silic và hợp chất của chúng có nhiều ứng dụng trong
đời sống và sản xuất. Giáo viên nên đặt các câu hỏi thách thức, câu hỏi gợi trí tò
mò nhằm khai thác khía cạnh thực tiễn giúp học sinh có những ý thức về bảo vệ
môi trường sống nói chung và bảo vệ cho sức khỏe chính mình.
- Gắn những kiến thức về ứng dụng và điều chế chất với tính chất vật lí, hóa
học và vai trò của chúng trong tự nhiên.
- Kết hợp các phương tiện dạy học nhằm tạo hứng thú cho hoc sinh.
2.2. Giới thiệu tổng quan về chương Đại cương về kim loại
2.2.1. Mục tiêu của chương
* Kiến thức
Học sinh biết:
- Vị trí, đặc điểm về cấu tạo nguyên tử, tính chất vật lý, tính chất hóa học
chung của kim loại, dãy điện hóa của kim loại.
- Khái niệm về hợp kim và cấu tạo của hợp kim.
- Các phương pháp điều chế kim loại.
Học sinh hiểu:
- Nguyên nhân gây ra các tính chất vật lý chung của kim loại.
- Nguyên nhân gây ra tính chất hóa học chung của kim loại.
Học sinh vận dụng: Biết cách bảo vệ kim loại khỏi bị ăn mòn.
* Kỹ năng
Rèn kỹ năng:
- Từ cấu tạo của nguyên tử kim loại và tinh thể kim loại suy ra tính chất.
- Giải bài tập về kim loại.
- Kỹ năng làm thí nghiệm đơn giản về kim loại.
2.2.2. Một số điểm cần chú ý khi giảng dạy chương Đại cương về kim loại

- Nội dung chương trình chuẩn, phần hóa học kim loại lớp 12 THPT có thể
chia thành hai phần: Phần thứ nhất tìm hiểu về vị trí của các kim loại trong bảng
tuần hoàn, tính chất vật lý và tính chất hóa học chung của kim loại, hợp kim, sự ăn
mòn kim loại và điều chế kim loại; Phần thứ hai đi sau tìm hiểu một số kim loại cụ
thể quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Như vậy nội dung của phần thứ nhất
rất quan trọng, nó là lý thuyết chủ đạo của sự tìm hiểu các kim loại cụ thể ở phần
thứ hai.
18


- Cần sử dụng rộng rãi phương pháp suy diễn (diễn dịch) từ vị trí của những
nguyên tố kim loại trong bảng tuần hoàn, suy ra cấu tạo nguyên tử của nguyên tố
kim loại và sau đó dự đoán những tính chất hóa học cơ bản của kim loại, tiếp đến là
kiểm chứng những tính chất hóa học này bằng thực nghiệm và viết các phương
trình hóa học.
+ Dựa trên cơ sở cấu tạo tinh thể của kim loại, gợi ý để học sinh có thể tự
giải thích được những tính chất vật lý, hóa học chung của kim loại.
+ Từ cấu tạo nguyên tử của nguyên tố kim loại, suy ra được tính chất hóa
học đặc trưng của kim loại là tính khử và dẫn dắt để học sinh có thể tự dẫn ra được
những phản ứng hóa học minh họa dựa trên các kiến thức về kim loại đã được học
ở lớp 9.
- Tăng cường sử dụng phương pháp đặt và giải quyết vấn đề: Tìm tòi để phát
hiện hoặc vận dụng những định luật, lý thuyết đã biết để bác bỏ giả thuyết sai,
khẳng định giả thuyết đúng, từ đó hình thành những kiến thức mới, những khái
niệm mới.
- Tăng cường sử dụng phương pháp kiến tạo và phương pháp hợp tác trong
nhóm nhỏ.
- Tăng cường hoạt động độc lập của học sinh dưới sự hướng dẫn, tổ chức của
giáo viên như nghiên cứu sách giáo khoa, lập bảng tổng kết, làm thí nghiệm có tính
chất nghiên cứu,…

2.3. Nguyên tắc thiết kế và sử dụng bộ câu hỏi định hướng bài học
2.3.1. Nguyên tắc thiết kế
* Về nội dung
- Chính xác, khoa học.
- Câu hỏi phải hướng vào nội dung bài học, đúng trọng tâm.
- Câu hỏi phù hợp trình độ học sinh.
- Kích thích khả năng tư duy của học sinh, đòi hỏi học sinh phải tìm tòi suy
nghĩ, liên hệ các kiến thức đã học và khả năng suy luận để giải quyết vấn đề.
- Bộ câu hỏi phải có tính logic, có sự gắn kết giữa câu hỏi khái quát, câu hỏi
bài học, câu hỏi nội dung, các câu hỏi này bổ sung và hỗ trợ nhau giúp học sinh
hiểu bài sâu sắc hơn.
- Câu hỏi phải khơi dậy sự hứng thú của học sinh, khơi dậy khả năng tự học
và yêu thích bộ môn.
- Có câu hỏi liên quan đến thí nghiệm hóa học vì đó là đặc trưng của bộ môn
(có thể là giải thích hiện tượng, dự đoán hiện tượng, …)
19


- Có câu hỏi ứng dụng thực tế giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa môn học trong
cuộc sống.
* Về hình thức
- Câu hỏi phải đa dạng: câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học, câu hỏi nội dung.
Câu hỏi khái quát mang tính thách thức cao được đưa ra đầu mỗi bài học nhằm
khơi dậy sự chú ý của học sinh. Câu hỏi bài học thể hiện những nội dung chính của
bài học. Câu hỏi nội dung, câu hỏi gợi mở giúp học sinh có thể trả lời câu hỏi bài
học, câu hỏi khái quát.
- Trong hệ thống câu hỏi của giáo viên phải có nhiều mức độ câu hỏi dành
cho nhiều đối tượng học sinh: câu hỏi tái hiện, câu hỏi sáng tạo, vận dụng.
- Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu và trong sáng.
- Số lượng vừa phải.

2.3.2. Nguyên tắc sử dụng
- Phát trước bộ câu hỏi cho học sinh chuẩn bị ở nhà theo nhóm.
- Tùy trình độ học sinh và điều kiện cho phép giáo viên linh hoạt sử dụng các
câu hỏi cho phù hợp.
- Tạo điều kiện cho học sinh thể hiện năng lực, phát huy tính sáng tạo.
- Phải có thời gian chờ vừa đủ cho học sinh suy nghĩ tìm câu trả lời.
- Khuyến khích học sinh nhận xét câu trả lời của các học sinh khác trong lớp.
- Khuyến khích học sinh đặt câu hỏi cho thầy cô và các học sinh khác trong
lớp.
2.3.3. Quy trình thiết kế bộ câu hỏi định hướng bài học
Quy trình thiết kế bộ câu hỏi định hướng bài học gồm 9 bước:
Bước 1: Xác định mục tiêu và trọng tâm bài học
- Đây là vấn đề then chốt khi thiết kế bộ câu hỏi định hướng bài học vì nó
quyết định nội dung, các phương pháp dạy học cùng các hoạt động của giáo viên và
học sinh.
- Mục tiêu của bài học là đích đặt ra cho học sinh cần đạt được sau khi học
xong bài đó.
- Mục tiêu của bài gồm ba thành tố: kiến thức, kĩ năng, thái độ. Khi xác định
mục tiêu cần chú ý đến các kiến thức đặc biệt là các kĩ năng, thái độ ẩn chứa trong
nội dung bài. Mục tiêu được thể hiện bằng các động từ có thể lượng hóa được với
ba mức độ biết, hiểu, vận dụng.
- Xác định rõ trọng tâm của tiết lên lớp.
20


- Đặc biệt là phải tuân thủ theo chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt được của Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành trong chương trình giáo dục phổ thông.
Bước 2: Xác định các kiến thức liên quan và điều kiện dạy học
Đây là vấn đề khá quan trọng khi giáo viên xây dựng bộ câu hỏi định hướng
bài học. Giáo viên phải biết mình đã trang bị những kiến thức, kỹ năng gì cho học

sinh tránh tình trạng giáo viên tốn nhiều thời gian giải quyết vấn đề học sinh đã biết
rồi. Khi đó học sinh sẽ không còn cảm thấy hứng thú với các câu hỏi của giáo viên
nữa. Trên nền tảng kiến thức mà học sinh đã biết, giáo viên cần xây dựng các câu
hỏi mang tính tư duy cao giúp học sinh nhớ lại và thấy được mối liên hệ giữa kiến
thức cũ và kiến thức mới. Từ đó các kiến thức trong chương trình học sẽ không còn
quá nặng nề đối với học sinh, bước đầu giúp học sinh có cái nhìn khái quát và hệ
thống về nội dung bài học, học sinh nhớ bài lâu hơn. Đối với các kiến thức khá
mới, giáo viên phải tìm các kiến thức liên quan ở các bài trước hoặc kiến thức trong
thực tế cuộc sống để dẫn dắt, giảng giải cho học sinh hiểu và trả lời câu hỏi. Giáo
viên không nên tự trả lời câu hỏi do mình đặt ra. Điều kiện dạy và học ở mỗi
trường, mỗi địa phương sẽ có rất nhiều điểm khác nhau. Tuy đây không phải là vấn
đề then chốt nhưng cũng ảnh hưởng đến cách thiết kế, sử dụng câu hỏi và chất
lượng giảng dạy. Nếu có điều kiện làm thí nghiệm thì giáo viên làm thí nghiệm (có
thể dùng đoạn phim thí nghiệm), giáo viên yêu cầu học sinh quan sát và giải thích
hiện tượng; nếu không có điều kiện trang thiết bị đầy đủ thì giáo viên có thể dùng
tranh ảnh rồi mô tả thí nghiệm bằng lời sau đó yêu cầu học sinh giải thích; giáo
viên phải linh hoạt trong từng tình huống cụ thể.
Bước 3: Xác định đối tượng HS
Hầu hết trong các trường phổ thông hiện nay có đầy đủ các đối tượng học
sinh: giỏi, khá, trung bình, yếu, kém. Khi thiết kế bộ câu hỏi, giáo viên phải nắm rõ
tình hình, đặc điểm của học sinh trong lớp mình để đưa ra bộ câu hỏi phù hợp với
đa số HS trong lớp. Bên cạnh những câu hỏi tư duy, sáng tạo cho học sinh khá giỏi
cần phải có những câu hỏi đơn giản cho học sinh trung bình, yếu kém. Tuy nhiên
đối với lớp chọn thì trình độ học sinh khá đồng đều và đa số là học sinh khá giỏi
nên giáo viên có thể đưa thêm những câu hỏi mang tính thách thức, đòi hỏi học
sinh phải tư duy ở cấp độ cao, hạn chế những câu hỏi quá đơn giản nhìn vào đã biết
câu trả lời.
Bước 4: Xác định các phương pháp dạy học chủ yếu sẽ tiến hành
Phương pháp là con đường để giáo viên đạt được mục đích dạy học. Phương
pháp hiệu quả sẽ giúp giáo viên thành công trong dạy học. Việc xác định các

phương pháp dạy học sao cho đơn giản, phù hợp, giúp học sinh tự học ở mức độ
cao nhất để tìm tòi phát hiện kiến thức mới phù hợp với đối tượng học sinh. Không
có phương pháp nào là vạn năng, mỗi phương pháp đều có những điểm mạnh và

21


hạn chế riêng. Do đó việc lựa chọn và phối hợp các phương pháp phải dựa vào mục
tiêu, nội dung bài học, trình độ học sinh, điều kiện cơ sở vật chất.
Bước 5: Thiết kế bộ câu hỏi định hướng bài học
Sau khi đã thực hiện bốn bước trên và dựa vào yêu cầu đối với câu hỏi giáo
viên xây dựng bộ câu hỏi định hướng bài học. Giáo viên thực hiện theo trình tự sau:
câu hỏi khái quát, câu hỏi bài học, câu hỏi nội dung. Bộ câu hỏi phải tuân thủ các
nguyên tắc thiết kế đã đề xuất ở trên.
Bước 6: Xem xét các câu hỏi có phù hợp mục tiêu, yêu cầu đã đặt ra
Khi thiết kế giáo viên đã tuân thủ các nguyên tắc nhưng không phải là không
có sai sót. Do đó, sau khi thiết kế giáo viên phải đọc lại hệ thống câu hỏi mà mình
đã soạn. Xem xét từng câu hỏi có phù hợp nội dung bài học không? Hình thức câu
hỏi có đúng không? Cách diễn đạt có phù hợp với học sinh không? Hệ thống câu
hỏi có tính logic không? Các câu hỏi có phù hợp với phương pháp dạy học không?
Bước 7: Chia sẻ và tranh thủ sự góp ý của đồng nghiệp
Kiến thức là vô tận, việc học là việc làm suốt đời “Học, học nữa, học mãi”.
Một người không thể thấy hết mọi khía cạnh của một vấn đề. Do đó, khi chia sẻ bộ
câu hỏi với đồng nghiệp đôi khi ta lại thu nhận nhiều đóng góp rất quý báu về cách
đặt câu hỏi, nội dung và cách dùng từ sao cho phù hợp nhất với học sinh. Do đó
trước khi sử dụng ta phải phản biện với các đồng nghiệp về độ chính xác (về nội
dung và cấu trúc), độ tin cậy (độ ổn định của kết quả đánh giá), tính khả thi (chất
lượng câu hỏi tốt, thời gian hợp lí, sát với đối tượng) của bộ câu hỏi.
Bước 8: Thử nghiệm trước khi sử dụng chính thức (nếu có điều kiện)
Bước 9: Chỉnh sửa và hoàn thiện bộ câu hỏi cho từng bài học

2.4. Một số hướng sử dụng bộ câu hỏi định hướng bài học
2.4.1. Hướng thứ nhất: (lớp có nhiều đối tượng học sinh)
Bước 1: Chuẩn bị
+ Giáo viên phát bộ câu hỏi cho học sinh.
+ Học sinh làm việc theo nhóm ở nhà để trả lời các câu hỏi và nộp lại cho
giáo viên trước buổi học.
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi
+ Không nhất thiết sử dụng tất cả các câu hỏi đã soạn.
+ Không nhất thiết phải theo đúng trình tự. Câu hỏi khái quát thường được
dùng để mở đầu bài giảng nhưng cũng có thể dùng khi kết thúc bài giảng; có thể sử
dụng câu hỏi nội dung trước câu hỏi bài học và ngược lại; không sử dụng câu hỏi
bài học mà chỉ sử dụng câu hỏi nội dung hoặc ngược lại.
22


+ Trong khi đặt câu hỏi, giáo viên nên có thái độ cởi mở, vui vẻ, thân thiện
nhằm tạo bầu không khí thoải mái cho học sinh suy nghĩ tìm câu trả lời.
+ Giọng nói đủ lớn để tất cả học sinh trong lớp có thể nghe rõ; có nhấn mạnh
những điểm quan trọng chứ không nên dùng giọng nói đều đều dễ gây buồn ngủ;
đôi khi có thể có những câu nói hài hước hoặc câu chuyện vui hóa học giúp học
sinh lấy lại sự tập trung.
+ Không nên chỉ nhìn vào một số học sinh mà phải bao quát cả lớp.
Bước 3: Chờ học sinh trả lời
Thời gian chờ không những tùy thuộc vào đặc điểm câu hỏi mà còn phụ
thuộc đặc điểm tâm sinh lí và trình độ của học sinh. Giáo viên nên chú ý đến thời
gian cho phép của tiết học để xác định thời gian hợp lí.
Bước 4: Gọi học sinh trả lời
+ Giáo viên có thể gọi bất kì học sinh nào nếu câu hỏi dễ.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh xung phong để trả lời câu hỏi khó.
Bước 5: Nhận xét và đánh giá câu trả lời

+ Giáo viên yêu cầu các bạn trong lớp nhận xét câu trả lời của bạn là đúng
hay không, nếu sai thì sai ở đâu, có thể sửa lại như thế nào cho đúng?
+ Giáo viên khuyến khích học sinh đánh giá trên tinh thần học hỏi, giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
Ví dụ: Học sinh nên nói “Câu trả lời của bạn A chưa đúng” chứ không nên
nói “Câu trả lời của bạn A là sai”
+ Giáo viên nhận xét trên tinh thần ghi nhận sự cố gắng và tiến bộ của học
sinh.
Bước 6: Khẳng định và củng cố
+ Giáo viên khẳng định câu trả lời đúng, mở rộng thêm một số ý mà học sinh
chưa nêu.
+ Đối với câu hỏi bài học, câu hỏi nội dung thì giáo viên phải cho học sinh
biết câu trả lời chính xác nhưng câu hỏi khái quát thì không nhất thiết phải trả lời
trong tiết học đó. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh về nhà suy nghĩ thêm rồi sẽ trả
lời trong những tiết sau.
2.4.2. Hướng thứ hai: (đa số trình độ học sinh trong lớp là khá giỏi)
Bước 1: Chuẩn bị
+ Phát bộ câu hỏi cho học sinh: Giáo viên có thể đưa nhiều câu hỏi khó,
mang tính tư duy và khái quát cao, hạn chế câu hỏi dễ mà nhìn vào học sinh đã thấy
câu trả lời mà không cần tư duy.
23


+ Khi Giáo viên muốn kiểm tra năng lực tư duy, sự nhanh nhạy của học sinh
thì giáo viên có thể giữ lại một số câu hỏi khó, trong giờ lên lớp giáo viên mới đưa
ra cho cả lớp suy nghĩ tìm câu trả lời. Không những giáo viên biết học sinh nào
thực sự xuất sắc mà còn tạo hứng thú cho học sinh trong tiết học.
Bước 2: Đặt câu hỏi
Giáo viên có thể bỏ bớt các câu hỏi nội dung, sử dụng nhiều câu hỏi bài học
giúp học sinh nhìn vấn đề một cách hệ thống hơn; học sinh tăng cường khả năng

lập luận để trả lời câu hỏi.
Bước 3: Chờ học sinh trả lời
+ Đối với câu hỏi dễ có thể không cần thời gian chờ vì học sinh đã được
chuẩn bị trước ở nhà.
+ Đối với câu hỏi khó hoặc câu hỏi giáo viên mới đưa ra trong bài giảng thì
thời gian chờ 1 đến 5 phút tùy mức độ câu hỏi.
Bước 4: Gọi học sinh trả lời
Bước 5: Nhận xét và đánh giá
Bước 6: Khẳng định và củng cố
Bước 7: Học sinh đặt câu hỏi
+ Khi điều kiện cho phép, giáo viên nên cho học sinh hỏi giáo viên và các
bạn trong lớp. Nếu câu hỏi phù hợp nội dung bài học thì giáo viên có thể gọi học
sinh trong lớp trả lời hoặc tự mình trả lời.
+ Nếu câu hỏi không đúng nội dung bài học thì giáo viên phải khéo léo ứng
xử không trả lời câu hỏi nhưng cũng không làm cho học sinh đặt câu hỏi cảm thấy
xấu hổ.
2.4.3. Hướng thứ ba: (đa số trình độ HS trong lớp là trung bình)
Bước 1: Chuẩn bị
+ Giáo viên nên hạn chế những câu hỏi quá khó sẽ làm học sinh chán nản vì
không trả lời được, tăng cường câu hỏi nội dung, câu hỏi gợi mở.
+ Học sinh làm việc theo nhóm ở nhà để trả lời các câu hỏi và nộp lại cho
giáo viên trước buổi học.
Bước 2: Giáo viên đặt câu hỏi
Sử dụng nhiều câu hỏi nội dung rồi dẫn dắt học sinh tìm thấy câu trả lời đúng
cho câu hỏi bài học.
Bước 3: Chờ học sinh trả lời
Bước 4: Gọi học sinh trả lời
24



Bước 5: Nhận xét và đánh giá câu trả lời
Bước 6: Khẳng định và củng cố
Giáo viên khẳng định câu trả lời đúng, mở rộng thêm một số ý mà học sinh
chưa nêu.
2.5. Thiết kế bộ câu hỏi định hướng bài học
2.5.1. Chương Cacbon-Silic
Tiết 23:

CACBON

I. MỤC TIÊU
1. Kiến thức
Biết được:
Vị trí của cacbon trong bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, cấu hình
electron nguyên tử, các dạng thù hình của cacbon, tính chất vật lí, ứng dụng.
Hiểu được:
Cacbon có tính phi kim yếu và tính khử. Trong một số hợp chất, cacbon
thường có số oxi hóa +2 hoặc +4.
2. Kĩ năng
Viết phương trình hóa học minh họa tính chất của C.
3. Thái độ
Tích cực học tập.
II. CHUẨN BỊ
1. Giáo viên
- Phát sẵn bộ câu hỏi định hướng bài học cho học sinh.
- Mô hình than chì, kim cương; mẫu than gỗ, than muội…
2. Học sinh
Nghiên cứu SGK và thảo luận nhóm để trả lời các câu hỏi định hướng bài
học.
III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC CHỦ YẾU

- Đàm thoại gợi mở.
- Thảo luận nhóm và dạy học nêu vấn đề.
III. BỘ CÂU HỎI ĐỊNH HƯỚNG BÀI HỌC
Câu hỏi khái quát:
- Nguồn nhiên liệu hóa thạch hình thành như thế nào?
25


×