Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

MỘT SỐ CÂU HỎI ÔN TẬP THI TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.68 KB, 25 trang )

MỘT SỐ CÂU HỎI ÔN TẬP THI TRIẾT HỌC


Câu 1: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, từ đó rút ra ý nghĩa
phương pháp luận?
Để phân tích được mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức thì trước tiên ta phải hiểu
và phát biểu được khái niệm về vật chất và ý thức
*Vật chất: Theo LêNin “ Vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” *Ý thức : Là một dạng vật chất đặc biệt
có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức còn ý thức là
chức năng của bộ óc con người vì vậy không thể tách rời ý thức ra khỏi bộ óc.
Ý thức có 2 nguồn gốc chính: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội
- Nguồn gốc tự nhiên: • Óc người là cơ quan vật chất của ý thức là kết quả quá trình tiến hóa
lâu dài của vật chất.• Sự tiến hóa của các hình thức phản ánh phụ thuộc vào những cấp độ phát
triển khác nhau của vật chất. Phản ánh tâm lý ở động vật cấp cao và sự chuyển hóa của phản
ánh tâm lý thành phản ánh ý thức của con người.
- Nguồn gốc xã hội : ý thức hình thành thông qua quá trình lao động, ngôn ngữ và những quan
hệ xã hội của loài người. * Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
- Vật chất và ý thức quan hệ qua lại và chuyển hóa lẫn nhau :Vật chất có trước ý thức có sau,
vật chất quyết định ý thức, vật chất là nguồn gốc, là tiền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển
của ý thức. Hay nói cách khác vật chất thế nào thì ý thức như thế ấy, vật chất thay đổi đến đâu
thì ý thức thay đổi đến đó.
- Ý thức là do vật chất sinh ra nhưng 1 khi ý thức ra đời nó có tác dụng tích cực trở lại với vật
chất sinh ra nó theo 2 trường hợp:
+ Nếu ý thức tiến bộ: phản ánh phù hợp với thực tế thì có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển.
+ Nếu ý thức lạc hậu: phản ánh không phù hợp với quy luật khách quan thì có tác dụng kìm
hãm xã hội phát triển.
- Ý thức thuần túy: ý thức này dù tiến bộ hay lạc hậu thì bản thân chúng cũng không làm thay
đổi điều kiện hiện thực mà ý thức đó phải thông qua hành động thực tiễn của con người thì
mới trở thành hiện thực.


* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nếu thừa nhận vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức thì trong hành
động nhận thức cũng như hành động thực tiễn của con người phải luôn luôn xuất phát từ thực
tế khách quan tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
- Ý thức có tác động tích cực trở lại vật chất sinh ra nó cho nên ta phải biết phát huy tính năng
động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con người.
- Cần chống bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh bảo thủ, trì trệ, ỷ lại, ngồi chờ.

Cau 2: HAI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT, y nghia pp
luan
* Phép biện chứng là gì?


Phép biện chứng chẳng qua là khoa học về các quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư
duy. Phép biện chứng được thể hiện cô đọng trong hai nguyên lý. Đó là “nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến của sự vật, hiện tượng” và “nguyên lý về sự phát triển”.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Khái niệm mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ sự tác động và ràng buộc lẫn nhau,
quy định và chuển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật hoặc
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
a, Nội dung của nguyên lý
- Các sự vật, hiện tượng trong thế giới có mối liên hệ với nhat không? Nếu có thì tính chất của
các mối liên hệ đó như thế nào và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này như thế nào?
- Phép siêu hình cho rằng: các sự vật, hiện tượng trong TGKQ không có liên hệ gì với nhau,
chúng tồn tại một cách biệt lập nhau. Do đó, không có sự tác động qua lại, ảnh hưởng, chi
phối lẫn nhau. Đây là một quan niệm sai lầm, không phản ánh đúng bản chất của thế giới.
VD: Trong tự nhiên: Giới tự nhiên là một thể thống nhất, nó phụ thuộc lẫn nhau. Nếu một loài
sinh vật tuyệt chủng thì mắt xích của sự sống trên thế giới sẽ bị tổn thương.
Trong xã hội, các sự kiện kinh tế - chính trị ở một quốc gia nào đó không chỉ ảnh hưởng đến
quốc gia đó mà còn lan tỏa khắp thế giới.

Về tư duy, các truyền thống, phong tục tập quán ảnh hưởng rất mạnh mẽ trong cộng đồng.
Hay như ông cho có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”
- Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng cũng như cá bộ phận của chúng không tồn tại biệt lập
với nhau mà có sự liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Phép biện chứng duy vật sử
dụng phạm trù mối liên hệ phổ biến để khái quát thực trạng trên.
- Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Trên cơ sở đó, phép
biện chứng duy vật xem xét thế giơi như một chỉnh thể. Theo đó, các sự vật, hiện tượng dù có
phong phú, đa dạng thế nào thì cũng chỉ là những dạng cụ thể của một thế giới duy nhất và
thống nhất – thế giới vật chất.
- Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật thể hiện ở các
luận điểm cơ bản sau: Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới hay giữa các mặt, các bội phận,
yếu tố trong cùng một sự vật, hiện tượng luôn tồn tại trong những mối liên hệ, tác động qua
lại, chuyển hóa lẫn nhau; bản chất, tính quy luật trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng chủ yếu được bộc lộ thông qua sự tác động qua lại lẫn nhau của chúng. Để thấy rõ hơn
nội dung này, hãy xem xét các khía cạnh sau:
- Về sự tồn tại của các mối liên hệ:
+ Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan cho rằng, cái quyết định mối
liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên
(như trời) hay ở ý thức, cảm giác của con người.
+ Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách
rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng


buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy
định bề ngoài, mang tính ngẫu nhiên. Tuy nhiên cũng có một số người cho rằng, các sự vật
hiện tượng có mối liên hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, song các hình thức
liên hệ khác nhau không có khả năng chuyển hóa lẫn nhau.
+ Những người theo quan điểm biện chứng duy vật cho rằng: các sự vật, hiện tượng, các quá
trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau; Tính
thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự

vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song
chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật
chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại
trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định.
- Về vai trò của các mối liên hệ:
+ Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện
sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau.
+ Do sự tồn tại cũng như bản chất của sự vật hiện tượng cũng chỉ bộc lộ qua các mối quan hệ,
cho nên, trong hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thưc, chúng ta không được tuyệt đối
hóa, hay xem nhẹ một mối quan hệ nào, cũng không nên tách rời các mối qaun hệ với nhau
mà phải tính đến tổng thể các mối liên hệ trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
b, Tính chất của mối liên hệ:
Gồm 3 tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú.
- Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện
tượng; nó không phụ thuộc vào ý thức con người.
- Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kỳ không
gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác.
Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng
có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau,
không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Phát triển
có thể từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
VD: sự học tập phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn; sự sống
phát triển từ đơn giản (đơn bào) đến phức tạp (động vật)
2. Nguyên lý về sự phát triển
a. Nội dung nguyên lý:
Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng cũng như các bộ phận của chúng không tồn tại một cách
tĩnh tại, bất biến mà luôn vận động, chuyển hóa lẫn nhau, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật
cũ. Phép biện chứng duy vật sử dụng phạm trù phát triển để chỉ quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật, hiện

tượng.


- Cơ sở của nguyên lý này là quan niệm về vật chất vận động, theo đó, vật chất luôn luôn vận
động, không có vận động nào lại không phải là vận động của vật chất; vận động là thuộc tính
của sự vật, là phương thức tồn tại của vật chất.
- Nội dung cơ bản của nguyên lý về sự phát triển được thể hiện ở những điểm sau:
Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động, phát triển, trong đó phát triển được
xem như trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng
chuyển hóa sang chất mới cao hơn, hoàn thiện hơn. Phương thức của sự phát triển là sự thay
đổi về chất trên cơ sở những thay đổi về lượng. Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là
những mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng, khuynh hướng của sự
phát triển diễn ra theo đường “xoáy ốc”
- Để hiểu rõ nội dung này, chúng ta hãy xem xét cá khía cạnh sau:
+ Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay sự giảm đi đơn thuần về mặt
lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về
chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một vòng tròn khép kín, chứ không có sự sinh
thành ra cái mới với những chất mới.
+ Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoắn ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật
lập lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
+ Quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển, họ cho rằng mọi sự vật, hiện tượng từ lúc sinh
ra cho đến lức mất đi không hề phát triển
b, Tính chất của sự phát triển :
Ba tính chất cơ bản : Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, theo quan điểm duy vật biện
chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết
liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn
phát triển.
- Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó diễn ra ở

mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách
quan.
- Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự
vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống
nhau.
3. Ý nghĩa phương pháp luận :
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức sự vật cần có quan điểm toàn
diện. Với quan điểm này, khi nghiên cứu sự vật phải xem xét tất cả các mối liên hệ của bản
thân sự vật với sự vật và hiện tượng khác.
Phải phân loại các mối liên hệ để hiểu rõ vị trí, vai trò của từng mối liên hệ đối với sự vận
động và phát triển của sự vật.


- Nếu khuynh hướng của các sự vật, hiện tượng trong TGKQ là vận động đi lên thì trong nhận
thức và thực tiễn cần phải có những quan đểm phát triển. Quam điểm phát triển đòi hỏi: phải
phân tích sự vật trong sự phát triển, cần phát hiện cái mới, ủng hộ cái mới, cần phải tìm nguồn
gốc của sự phát triển trong bản thân sự vật.
Tóm lại: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận của quan điểm
toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Với cách xem xét, nghiên cứu theo quan điểm toàn diện
và phát triển sẽ giúp ta hiểu được bản chất sự vật, làm cho nhận thức phản ánh đúng đắn về sự
vật và hoạt động thực tiễn có hiệu quả cao.

Cau 3: CÁC CẶP PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
a. Khái niệm
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất
định.
Ví dụ:
- Cái bàn học, cái bàn ăn, cái bàn làm việc
- Ngôi nhà ở, ngôi nhà để học (giảng đường), ngôi nhà để vui chơi (câu lạc bộ).
- Cây cam, cây quýt, cây bưởi, cây hồng.

- Người Việt Nam, người Pháp, người Châu Phi
- Ngành khai thác thủy sản, ngành nuôi trồng thủy sản, ngành cơ khí tàu thuyền và các ngành
khác ở trong trường.
Mỗi sự vật, hiện tượng, mỗi ngành nghề trên được gọi là một cái riêng
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những mặt, những yếu tố,
những quan hệ… tồn tại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng.
b. Quan hệ biện chứng giữa cái riêng với cái chung:


b.1 Các trường phái triết học trước Mác về mối quan hệ giữa “cái riêng” và “cái chung”.
- Phái duy thực: Cho rằng “cái riêng” chỉ tồn tại tạm thời thông qua, không phải là cái tồn tại
vĩnh viễn, chỉ có “cái chung” mới tồn tại vĩnh viễn thật sự đối lập đối với ý thức của con
người.
+ “Cái chung” không phụ thuộc vào “cái riêng” sinh ra cái riêng.
+ Đại diện: Platon
- Phái duy danh cho rằng:
+ Chỉ có “cái riêng” mới tồn tại thực sự, còn cái chung là những tên gọi trống rỗng, do tư
tưởng con người bịa ra, không thừa nhận nội dung khách quan của các khái niệm.
b.2 Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Cho rằng cái riêng, cái chung, cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ
hữu cơ với nhau được thể hiện:
- Thứ nhất: “cái chung” chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu thị sự tồn tại
của mình (Không có cái chung thuần túy, tồn tại độc lập bên cạnh cái riêng).
- Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung (không có cái riêng tuyệt đối).
- Thứ ba: Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận nhưng
sâu sắc hơn cái riêng.
- Thứ tư: cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của
sự vật vì:
+ Trong hiện thực cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu nó ở dạng đơn
nhất và hoàn thiện dần và thay thế cái cũ trở thành cái chung, cái phổ biến.

+ Cái cũ lúc đầu là cái chung, cái phổ biến nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện mới
dần trở thành cái đơn nhất (trang 231 giáo trình sđd)
+ Quá trình chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện quá trình cái mới ra đời
thay thế cái cũ, còn chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất thì ngược lại biểu hiện cái cũ
lỗi thời bị phủ định.
KẾT LUẬN:
- Cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, vì nó là biểu hiện tính hiện thực tất yếu, độc
lập với ý thức con người.
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình;
cái chung không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng mà nó phải tồn tại trong từng cái riêng cụ
thể, xác định.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Không có cái riêng tồn tại độc lập, tuyệt
đối tách rời cái chung mà tất yếu phải tồn tại trong mối liên hệ với cái chung.
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái bộ phận
nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng bởi vì cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn
nhất, còn cái chung biểu hiện tính phổ biến, tính quy luật của nhiều cái riêng.
- Cái riêng và cái đơn nhất có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất định: Cái
mới ra đời: đi từ cái đơn nhất - cái đặc thù - cái phổ biến. Cái cũ mất theo con đường chuyển
hóa ngược lại.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung nên không được tuyệt đối hóa cái
riêng (lợi ích riêng của cá nhân, gia đình, tôn giáo, dân tộc, v.v..)
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng, nên muốn tìm ra cái chung (bản
chất, quy luật, chính sách, v.v..) phải thông qua việc nghiên cứu cái riêng. Mặt khác, khi áp
dụng cái chung vào cái riêng cần phải tính đến đặc điểm và những điều kiện tồn tại cụ thể của


cái riêng.
2. Nguyên nhân và kết quả
a. Khái niệm

Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật,
hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau tạo ra một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do những tác động giữa các mặt,
các yếu tố trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng tạo nên. Nguyên nhân khác với
nguyên cớ và điều kiện. Điều kiện là những yếu tố giúp nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng
bản thân điều kiện không sinh ra kết quả. Nguyên cớ là cái không có mối liên hệ bản chất với
kết quả.
Ví dụ:
- Đấu tranh giai cấp, giai cấp vô sản mâu thuẫn giai cấp tư sản -> Cách mạng vô sản (khách
quan).
- Sự biến đổi mầm mống trong hạt lúa (nguyên nhân) -> Cây lúa (kết quả).
- Bão (nguyên nhân) -> thiệt hại mùa màng (kết quả xấu)
- Thực hiện đường lối đổi mới là nguyên nhân, mục tiêu dân giàu … là kết quả.
- Chủ nghĩa đế quốc là nguyên nhân của chiến tranh xâm lược
b. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả nên nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả, còn kết quả
bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Mối quan hệ nhân quả không chỉ đơn thuần là sự đi
kế tiếp nhau về thời gian (cái này có trước cái kia), mà là mối liên hệ sản sinh: cái này tất yếu
sinh ra cái kia. Chỉ có mối quan hệ tất yếu về mặt thời gian mới là quan hệ nhân quả.
Ví dụ:
+ Cuộc đấu tranh giai cấp vô sản mâu thuẫn giai cấp tư sản (là nguyên nhân bao giờ cũng có
trước để dẫn đến cuộc cách mạng vô sản với tính chất là kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau)
+ Sự biến đổi của mầm mống trong hạt lúa bao giờ cũng phải xuất hiện trước còn cây lúa là
kết quả nó xuất hiện sau.
+ Bão (nguyên nhân) xuất hiện trước, sự thiệt hại của hoa màu, mùa màng do bão gây ra thì
phải xuất hiện sau.
+ Người bị ô tô chèn chết đấy là kết quả xấu nhất nguyên nhân của nó là do việc thực hiện luật
lệ giao thông không đúng (không nghiêm chỉnh thực hiện luật lệ giao thông).
Trong trường hợp nhiều nguyên nhân cùng tham gia sinh ra một kết quả, người ta chia ra các
loại nguyên nhân:

Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài;
Nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp;
Nguyên nhân cơ bản và nguyên nhân không cơ bản;
Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu;
Nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
- Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất định.
Nguyên nhân sinh ra kết quả, rồi kết quả lại tác động đến sự vật, hiện tượng khác và trở thành
nguyên nhân sinh ra kết quả khác nữa. Do đó, sự phân biệt nguyên nhân với kết quả chỉ có
tính chất tương đối
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan nên cần phải tìm nguyên nhân của các sự vật, hiện
tượng dẫn đến kết quả trong thế giới hiện thực khách quan chứ không phải ở ngoài thế giới đó.
- Do mối liên hệ nhân quả rất phức tạp, đa dạng nên phải phân biệt chính xác các loại nguyên


nhân để có phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với mỗi trường hợp cụ thể trong nhận
thức và thực tiễn.
- Vì một nguyên nhân có thể dẫn đến nhiều kết quả, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân
nên trong nhận thức và thực tiễn cần có cách nhìn toàn diện và lịch sử cụ thể trong phân tích,
giải quyết và ứng dụng quan hệ nhân quả.
3. Nội dung và hình thức
a. Khái niệm
Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những
quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng.
Hình thức là phạm trù triết học dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện
tượng đó, hình thức là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
Ví dụ:
+ Nội dung cơ thể sống là toàn bộ yếu tố vật chất (tế bào, khí quan, quá trình tạo nên cơ thể
đó). Hình thức: là cách sắp xếp trình tự các tế bào của cơ thể để tạo thành con hay cây gì đó.
+ Một tác phẩm văn học thì nội dung là toàn bộ phần cuộc sống mà tác phẩm phản ánh. Hình

thức là kết cấu bút pháp thể hiện (loại hình nghệ thuật: hát dân ca, tuồng, cải lương, chèo hay
kịch nói…)
+ Phương thức sản xuất xã hội, lực lượng sản xuất là nội dung. Quan hệ sản xuất là hình thức
(Cơ sở hạ tầng là nội dung, kiến trúc thượng tầng là hình thức).
+ Một cái bàn học: toàn bộ những vật liệu gỗ, đinh… là nội dung còn hình thức là sự sắp xếp
nguyên vật liệu đó
+ Quá trình nhận thức thế giới khách quan được phản ánh vào óc là nội dung,. Tiếp thu những
hình ảnh đó bằng cách nào (khái niệm, phán đoán, suy luận) đó là hình thức.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
- Nội dung và hình thức gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất biện chứng với nhau. Không có
nội dung nào lại không có một hình thức nhất định. Cũng không có một hình thức nào lại
không chứa đựng một nội dung nhất định. (Không có nội dung nói chung, chỉ có nội dung cụ
thể. Không có hình thức thuần túy mà chỉ có hình thức cụ thể của một nội dung nhất định).
Giải thích: Nội dung và hình thức là sự thống nhất của 2 mặt đối lập, liên hệ tác động và
chuyển hóa lẫn nhau. Nội dung và hình thức cũng chỉ là sự phân biệt tương đối, có cái ở mối
liên hệ này là nội dung, ở mối liên hệ khác lại là hình thức
- Cùng một nội dung có thể biểu hiện trong nhiều hình thức, cùng một hình thức có thể chứa
đựng nhiều nội dung.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Nội dung và hình thức luôn thống nhất với nhau nên trong hoạt động thực tiễn, cần tránh sự
tách rời giữa nội dung và hình thức hoặc tuyết đối hóa một trong hai mặt đó.
- Nội dung quyết định hình thức cho nên khi xem xét sự vật, hiện tượng, trước hết cần căn cứ
vào nội dung của nó, muốn thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung của
nó.
Vì nội dung quyết định hình thức cho nên khi xét đoán sự vật trước hết phải căn cứ vào nội
dung, đồng thời phải thấy vai trò của hình thức đối với nội dung.
4. Bản chất và hiện tượng.
a. Khái niệm
Bản chất là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định ở bên trong quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện

tượng đó.


Hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ
đó trong những điều kiện xác định.
Hiện tượng là những biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Chú ý:
- Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, cái tạo nên bản chất của một lớp các sự
vật hiện tượng.
Ví dụ: Bản chất của con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Điều đó đúng với mọi
người (bản chất cũng là cái chung) tuy nhiên không phải cái chung nào cũng là cái bản chất.
b. Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
- Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập trong
mỗi sự vật.
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng biểu hiện ở chỗ:
Bản chất bao giờ cũng biểu hiện ra thành những hiện tượng nhất định.Còn hiện tượng bao giờ
cũng là sự biểu hiện của một bản chất nhất định.Không có bản chất tách rời hiện tượng cũng
như không có hiện tượng lại không biểu hiện của một bản chất nào đó.
- Bản chất quyết định hiện tượng. Bản chất như thế nào thì hiện tượng như thế ấy. Bản chất
thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo.
Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ:
Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái riêng biệt, phong phú và đa dạng.
Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức, không được dừng lại ở hiện tượng mà phải đi sâu tìm ra bản chất của sự
vật. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới nhận thức đúng được bản chất.
- Bản chất phản ánh tính tất yếu, tính quy luật nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải căn
cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào hiện tượng mới có thể đánh giá đầy đủ, chính xác về sự
vật, hiện tượng.


cau 4: cac quy luat co ban cua chu nghia duy vat lich su:
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại
Quy luật này vạch ra cách thức của sự vận động và phát triển.
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm chất
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà
không phải là cái khác.
Chất là chất của mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, cái làm nên sự vật,
để phân biệt nó với vô vàn các sự vật, hiện tượng khác cùng tồn tại trong thế giới.
Quan hệ giữa chất và thuộc tính, thuộc tính là đặc trưng (khía cạnh) của chất
được bộc lộ ra trong các mối quan hệ với sự vật khác. Mỗi sự vật có nhiều thuộc


tính, mỗi thuộc tính lại là sự tổng hợp của những đặc trưng và trở thành một chất.
Chất của sự vật không chỉ được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành sự
vật mà còn được xác định bởi trật tự sắp xếp, phương thức liên kết giữa các yếu tố.
1.1.2. Khái niệm lượng
Lượng là phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật biểu thị số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng
như các thuộc tính của nó.
Lượng và chất thống nhất với nhau trong mỗi sự vật tồn tại khách quan, do đó
lượng cũng mang tính khách quan, phong phú như chất.
Trong thực tế, lượng có thể được xác định bằng những đơn vị, các đại lượng
và được nhận thức thông qua các đơn vị và đại lượng ..., có những lượng không
được xác định bằng đơn vị, đại lượng, nhưng chúng ta vẫn nhận thức được nhờ ở
khả năng trừu tượng hóa.
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng

- Lượng đổi dẫn đến chất đổi.
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều là một thể thống nhất giữa chất và
lượng. Trong quá trình tồn tại và phát triển của sự vật, chất và lượng cũng không
ngừng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và chất không diễn ra độc lập với nhau, mà
chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Khi sự vật còn tồn tại trong một chất xác định, nghĩa là sự vật còn tồn tại trong
khuôn khổ của một độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới
hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
Độ biểu hiện khuôn khổ ổn định tương đối của sự vật, độ của sự vật có thể
thay đổi khi điều kiện thay đổi.
Trong khuôn khổ của độ, lượng biến đổi từ từ, tiệm tiến tăng dần hoặc giảm
dần, khi lượng biến đổi đạt tới giới hạn, chất của sự vật sẽ thay đổi, giới hạn đó gọi
là điểm nút.
Điểm nút là giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất
của sự vật. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút. Ví dụ: Trạng thái
nước lỏng (chất), 00
c và 1000
c là những điểm nút.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới, sự
chuyển hóa từ chất cũ sang chất mới gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của các sự
vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra.


Các hình thức của bước nhảy diễn ra rất đa dạng: có bước nhảy toàn bộ, bước
nhảy cục bộ; bước nhảy đột biến, bước nhảy dần dần.
Như vậy, quá trình phát triển bao gồm sự tiệm tiến về lượng và thông qua
những bước nhảy vọt, tạo ra sự chuyển hóa từ chất cũ sang chất mới. Bước nhảy là
sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai

đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên
tục của sự vật.
- Sự ảnh hưởng của chất mới đến lượng mới
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút.
Khi chất mới ra đời, chất mới tác động trở lại lượng, quy định lượng mới để tạo ra phù hợp
giữa chất và lượng mới. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của
sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nhận thức đúng mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay
đổi về chất sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thức tiễn.
Để có tri thúc đúng về sự vật, thì phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của
nó, và đặc biệt về sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật đó.
Sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất có mối quan hệ với nhau, do vậy
trong hoạt động thực tiễn phải hiểu đúng vị trí, vai trò và ý nghĩa của mỗi loại thay
đổi về lượng và chất, đặc biệt trong sự phát triển xã hội; phải kịp thời chuyển từ sự
thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến
hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Xem xét tiến hóa và cách mạng trong quan hệ biện chứng là một trong những
nguyên tắc phương pháp luận trong việc xây dựng chiến lược và sách lược cách
mạng. Hiểu đúng mối quan hệ đó là cơ sở để chống lại chủ nghĩa cải lương, chủ
nghĩa xét lại hữu khuynh, cũng như chủ nghĩa “tả” khuynh.
Chất của sự vật còn phụ thuộc vào trật tự sắp xếp, phương thức liên kết các
yếu tố của sự vật. Trong hoạt động thực tiễn phải biết vận dụng để tạo ra sự phát
triển đa dạng về chất của các sự vật và quá trình tự nhiên. Trong hoạt động xã hội
cũng phải tạo ra sự phát triển đa dạng về chất của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
I/ Nội dung quy luật:
1. Mâu thuẫn là gì:
Mâu thuẫn là sự liên hệ tác động lẫn nhau của các mặt đối lập trong bản thân các sự vật hiện

tượng và giữa sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác.
2. Các mặt đối lập: là những mặt có xu hướng vận động trái ngược nhau trong 1 sự vật hoặc
giữa sự vật này với sự vật khác.


Ví dụ: Trong tự nhiên, khi coi con người là 1 sự vật, thì giữa đồng hóa và dị hóa, giữa biến dị
và di truyền, hấp thụ và bài tiết là các mặt đối lập.
Hai mặt đối lập thống nhất với nhau trong cùng một sự vật tạo thành mâu thuẫn.
3. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
a/ Sự thống nhất:
Là các mặt đối lập nương tựa nhau, làm điều kiện tồn tại cho nhau, không có mặt này thì
không có mặt kia.
Ví dụ: thống nhất đất nước là thống nhất thuần túy.
Thống nhất Các giai cấp đều vì nhân loại.
b) Đấu tranh giữa các mặt đối lập:
- Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động, bài trừ phủ định nhau,là sự triển khai của các
mặt đối lập.
Ví dụ: Tư sản Vô sản, nông dân địa chủ. Nông dân tìm cách để thoát khỏi địa chủ, địa chủ tìm
cách để bóc lột.
Các hình thức của các mặt đối lập rất phong phú đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện, tính chất,
phạm vi, phạm vi của các mặt đối lập.
4. Tính chất của thống nhất và đấu tranh:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khảng định: thống nhất là tương đối tạm thời, đấu tranh là tuyệt
đối.
Thống nhất là tương đối tạm thời vì đứng im là tương đối. Đứng im là một hình thức vận động
trong thế cân bằng khi sự vật đang là nó chưa là sự vật khác. Nhờ có đứng im, nhờ có thống
nhất mà ta xác định được sự vật.
Thống nhất là tương đối, thống nhất các mặt đối lập, do đó, Trong thống nhất bao hàm đấu
tranh.
Đấu tranh là tuyệt đối vì vận động là tuyệt đối.

5. Vai trò của đấu tranh các mặt đối lập và mâu thuẫn:
Đấu tranh các mặt đối lập dẫn đến chuyển hóa, mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi,
sự vật mới ra đời vì thế đấu tranh các mặt đối lập nói riêng, mâu thuẫn nói chung là nguồn
gốc, động lực của sự phát triển.
Lê nin gọi : phát triển là đấu tranh của các mặt đối lập.
II/ Ý nghĩa phương pháp luận:
1/ Vì sự vật là thể thống nhất của các mặt đối lập cho nên nhận thức sự vật là nhận thức mâu
thuẫn của sự vật.
Ví dụ: Đánh giá một đất nước, một con người thì phải đánh giá các mặt trong đất nước, con
người đó. Tức là Đánh giá 2 mặt trong một vấn đề.
2/ Thống nhất là tương đối tạm thời, đấu tranh là tuyệt đối, do đó phải đấu tranh như thế nào
để có thể thống nhất mới cao hơn. Chống hai khuynh hướng tả và hữu, tả khuynh tàn phá tiêu
cực, hữu khuynh là ngại đấu tranh.


3/ Các hình thức đấu tranh cũng rất đa dạng phong phú, cho nên chúng ta phải phân tích mâu
thuẫn, phân tích các mặt đối lập, phân biệt các mâu thuẫn để tìm ra các giải pháp phù hợp.
4/ Con đường đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn, đây là con đường duy nhất, đúng đắn và đây
cũng là lẽ sống.
Nội dung của quy luật phủ định của phủ định
Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản.
- Tính khách quan, phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định, là kết quả giải
quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật tồn tại khách quan.
- Tính kế thừa, phủ định biện chứng là quá trình cái mới ra đời phủ định cái
cũ, nhưng cái mới chỉ phủ định mặt lạc hậu lỗi thời của cái cũ, đồng thời kế thừa
những giá trị của cái cũ. Do đó phủ định biện chứng là sự phủ định nhưng đồng thời
cũng là sự khẳng định.
Phủ định của phủ định. Hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển.
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, là sự
thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng

được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố mới. Do đó sự phát triển thông qua
những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.
Phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định, biểu hiện sự phát triển do mâu
thuẫn bên trong của sự vật. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa của
các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và mặt phủ định.
Phủ định biện chứng được hoàn thành trong một chu kỳ phát triển. Sự vật ở
điểm xuất phát ban đầu qua lần phủ định thứ nhất, trở thành cái đối lập với mìnhbước trung gian của sự phát triển; lần phủ định thứ hai, tái lập cái ban đầu nhưng
trên cơ sở mới cao hơn. Lần phủ định thứ hai được gọi là phủ định của phủ định. Ví
dụ: Hạt thóc - Cây lúa- Bông lúa (Những hạt thóc)
Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới là kết quả tổng hợp tất cả những
yếu tố tích cực đã được phát triển từ trong cái khẳng định ban đầu và cả trong
những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, cái mới với tư cách là kết quả phủ định của
phủ định có nội dung toàn diện và phong phú hơn cái khẳng định ban đầu và cái kết
quả của lần phủ định thứ nhất.
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, ở đó
sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn, đây là đặc
điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng. Điểm kết thúc của một chu kỳ
phát triển lại đồng thời là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo.
Phủ định của phủ định được hoàn thành trong chu kỳ phát triển, thông thường
mỗi chu kỳ trải qua hai lần phủ định, tuy nhiên, thế giới tồn tại rất đa dạng, do đó,
số lần phủ định trong một chu kỳ có thể nhiều hơn. Nhưng trong số rất nhiều lần


phủ định của một chu kỳ vẫn có thể khái quát lại hai lần: phủ định lần thứ nhất
chuyển cái xuất phát thành cái đối lập với mình, phủ định lần thứ hai chuyển cái
trung gian thành cái đối lập với nó, sự vật dường như lặp lại cái xuất phát, nhưng
trên cơ sở mới cao hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển.
Sự phát triển không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “ xoáy trôn ốc”.
V.I. Lênin viết: “Sự phát triển dường như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng

dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự
phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”
. Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đường “xoáy trôn ốc” chính là
hình thức cho phép biểu đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của quá trình phát triển
biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính tiến lên của
sự phát triển. Mỗi vòng mới của đường “xoáy trôn ốc” thể hiện một trình độ cao
hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay trở lại cái đã qua, dường như lặp
lại vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển,
tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao
3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu quy luật phủ định có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận sau:
Trong hoạt động lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn phải nhận thức
đúng cái mới, cái mới nhất định sẽ chiến thắng cái cũ, cái tiến bộ nhất định chiến
thắng cái lạc hậu.
Phải biết phát hiện cái mới, quý trọng cái mới, tin tưởng vào tương lai phát
triển của cái mới, dù cho quá trình đó diễn ra đầy quanh co, phức tạp.
Cái mới ra đời phủ định cái cũ, nhưng chỉ phủ định cái lạc hậu, đồng thời kế
thừa những giá trị, tinh hoa của cái cũ. Do đó, phải chống thái độ hư vô chủ nghĩa,
phủ định sạch trơn quá khứ, nhưng cũng phải khắc phục thái độ bảo thủ, bám giữ
cái lỗi thời cản trở sự phát triển của lịch sử.
Cau 5: THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
I/ Khái niệm:
1/ Thực tiễn
a) Khái niệm:
Theo triết học duy vật biện chứng, Thực tiễn là hoạt động vật chất cảm tính có tính lịch sử xã
hội nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Thứ nhất: Thực tiễn Là hoạt động vật chất cảm tính:
Hoạt động của con người rất phong phú gồm hoạt động vật chất và hoạt động tinh thần.
Hoạt động đó mang dấu hiệu vật chất tác động vào yếu tố cảm giác.
Ví dụ: Chiến sĩ cầm súng bảo vệ tổ quốc.

- Thứ hai là thực tiễn không phải tất cả hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động


vật chất của con người phải sử dụng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào các đối
tượng vật chất để làm biến đổi chúng. VÍ DỤ như quốc đất, xây nhà, lắp ráp ô tô, xây đập thuỷ
điện.
Thứ ba: Thực tiễn mang Tính lịch sử xã hội:
Tính lịch sử nghĩa là trong các giai đoạn lịch sử khác nhau thì hoạt động thực tiễn, cải tạo tự
nhiên xã hội cũng khác nhau.
Ví dụ: hoạt động Cải tạo tự nhiên các thời chiếm hữu nô lệ, phong kiến đều khác nhau.
Tính xã hội: nghĩa là hoạt động thực tiễn không phải hoạt động của cá nhân đơn lẻ, tách rời,
mà phải gắn với cộng đồng, gắn với xã hội.
Ví dụ: làm nông nghiệp cá nhân đều găn liền với các mối quan hệ khác như sản xuất dụng cụ,
thủy lợi, phân bón…
Thứ tư: Thực tiễn là những hoạt động có mục đích, đúng đắn nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội
phục vụ cho nhân loại tiến bộ. Do vậy nó thể hiện tính tự giác cao.
Hoạt động nào nhằm cải tạo tự nhiên thì mới coi là hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn và thực tế: thực tế là cái thực tại thực sự bao gồm cả yếu tố vật chất và tinh thần.
Ví dụ: tư tưởng tiêu cực, tham nhũng, trọng nam khinh nữ là thực tế.
Thực tiễn là hoạt động vật chất hẹp hơn thực tế.
b) các dạng (hình thức: của thực tiễn:
Thứ nhất là Sản xuất vật chất (Sản xuất lúa, ngô, ô tô,…): Đây là phương thức tồn tại của xã
hội loài người vì không có sản xuất vật chất thì loài người sẽ chết. Sản xuất vật chất là hình
thức thực tiễn quan trọng nhất , quyết định hai hình thức sau.
Thứ 2 là: Đấu tranh chính trị xã hội (gắn với những phương tiện vật chất) như mít tinh, biểu
tình, bãi công, bãi khoá, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp…
Thứ 3 là Thực nghiệm khoa học (trung tâm thực nghiệm khoa học, kiểm định giống cây
trồng…): Nghiên cứu tự nhiên và khoa học thông qua những điều kiện do con người đặt ra
(còn gọi là điều kiện nhân tạo, điều kiện không bình thường)
->Trong 3 hình thức này SẢN XUẤT VẬT CHẤT là có sớm nhất, quan trọng nhất, quyết

định các hình thức kia có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.
2/ Khái niệm nhận thức:
Thứ nhất: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng nhận thức không phải là sự phản ảnh hiện
thực khách quan mà là phản ảnh trạng thái chủ quan của con người.
Ví dụ: sự vật là tổng hợp cảm giác của tôi. Nhận thức sự vật là nhận thức cảm giác của chính
mình.
Thứ 2: Chủ nghĩa duy tâm khách quan, không phủ nhận khả năng nhận thức của con người
nhưng cho rằng khả năng đó là do lực lượng siêu nhiên đem lại cho con người.
Ví dụ: Hê ghen cho là nhận thức của con người chính là ý niệm tuyệt đối, tự nhận thức mình.
Thứ 3: Thuyết không thể biết phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người (vật tự nó).
Thứ tư: Các nhà duy vật trước Mác: thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người. coi


nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người. Tuy nhiên lý luận nhận thức
của họ còn mang tính siêu hình máy móc.
Ví dụ: nhận thức như là chụp ảnh, không biết nhận thức là 1 quá trình.
Thứ 5:Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới
khách quan. Nhận thức là phản ảnh hiện thực khách quan vào đầu óc người.
Nhận thức là 1 quá trình và là quá trình biện chứng. Đó là đấu tranh giữa biết và chưa biết,
giữa chân lý và sai lầm, giữa biết nông cạn và biết sâu sắc.
Lấy thực tiễn làm mục đích, tiêu chuẩn cho chân lý. Tức là nhận thức phải dựa vào thực tiễn.
Lưu ý: Nhận thức và ý thức đều là phản ánh nhưng ý thức là kết quả của nhận thức
II/ Vai trò thực tiễn đối với nhận thức:
1/ thực tiễn là cơ sở nguồn gốc, động lực của nhận thức:
+ Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn, con người tác động vào sự vật hiện tượng làm cho
chúng bộc lộ thuộc tính, tính chất quy luật. Trên cơ sở đó con người mới có hiểu biết, tri thức
về sự vật. Nói khác đi, thực tiễn cung cấp vật liệu cho nhận thức, là cơ sở để hình thành sự
hiểu biết của con người. VÍ DỤ : Khi ném hòn đá vào một tấm kính, thấy tấm kính đó Vỡ ra
khi chúng ta sẽ biết rằng kính có thuộc tính dễ vỡ. Cán bộ hiện nay không chịu bộc lộ thuộc
tính (không có chính kiến, quan điểm) để lấy phiếu của cấp trên và cấp dưới.

+ Thực tiễn đề ra yêu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi các nhà lý luận phải giải quyết để trên cơ sở đó
thúc đẩy nhận thức phát triển.
+ Thực tiễn là cơ sở rèn luyện các giác quan của con người, trên cơ sở đó giúp con người nhận
thức hiệu quả hơn và giúp thúc đẩy nhận thức phát triển. Cảm giác chuẩn thì tri giác mới
chuẩn. Tri giác chuẩn thì biểu tượng mới chính xác. Nhận thức trực quan sinh động càng
đúng, càng chính xác thì nhận thức tư duy trừu tượng càng chuẩn xác..
+ Thực tiễn là cơ sở chế tạo phương pháp máy móc để hỗ trợ con người nhận thức đúng đắn,
hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức phát triển.
2. Thực tiễn là mục đích của nhận thức :
+ Nhận thức của con người ngay từ khi con người mới xuất hiện trên Trái đất với tư cách là
người đã bị quy định bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại, tức là nhu cầu thực tiễn. Để sống và
tồn tại, con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, nghĩa là phải có nhận thức.
+ Những tri thức kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa, chỉ có giá trị khi được vận dụng vào
thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là thước đo đánh giá giá trị, ý nghĩa,
kết quả của nhận thức.
3. Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức chân lý : Theo triết học duy
vật biện chứng thì chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định chân
lý. Bởi lẽ chỉ thông qua thực tiễn mới vật chất hoá được tri thức, hiện thực hoá được tư tưởng;
thông qua đó mới khẳng định được chân lý và bác bỏ được sai lầm.
VÍ DỤ : Trên ti vi hiện nay nhiều công ty quảng cáo cho rằng mặt hàng của mình là tốt nhất.
Nhưng mặt hàng nào tốt nhất phải lấy thực tiễn để kiểm nghiệm


Lưu ý,thực tiễn với tư cách là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương
đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định
chân lý, bác bỏ sai lầm. Ngoài thực tiễn ra thì không gì có thể thay thế được. Tính tương đối
của nó thể hiện ở chỗ bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển. Do vậy, với tư
cách là tiêu chuẩn chân lý nó cũng không đứng im. Cho nên thực tiễn đúng của hôm qua chưa
chắc đã đúng hoặc hoàn toàn đúng với hôm nay (thực tiễn không đứng im, chỉ là tương đối)
III/ Ý nghĩa:

1/ Vì Vai trò của thực tiễn Đối với nhận thức như vậy, ta phải có quan điểm thực tiễn . Nghĩa
là mọi chủ trương chính sách, nhận thức của con người đều phải xuất phát từ thực tiễn, gắn
liền với thực tiễn, phải dựa vào thực tiễn để kiểm nghiệm kết quả nhận thức đúng hay sai.
2/ Không ngừng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để rút ra lý luận mới, tri thức mới, phát triển
lý luận phục vụ, chỉ đạo thực tiễn.
3/ Thực tiễn ở đây là thực tiễn hoạt động của quần chúng nhân dân, do đó chúng ta phải đi sâu
lắng nghe nguyện vọng chân chính của quần chúng nhân dân, tin tưởng, hoạt động phục vụ
quần chúng nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống của quần chúng nhân dân.
4/ Chống tệ quan liêu, bệnh giáo điều, xa rời thực tiễn, coi thường thực tiễn hoạt động của
quần chúng nhân dân.
Cau 6: Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất:. Dang ta da nhan thuc va van dung quy luat nay ntn?
- Khái niệm về quan hệ sản xuất:
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của con
người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất của đời sống xã hội. Quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở của đời sống xã hội.
- Trình độ của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự phát triển của phương
thức sản xuất:
Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử loài người thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của loài người trong giai đoạn đó.
Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua việc sử
dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và
phát triển của mình.
Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở:
Trình độ công cụ lao động, trình độ quản lý xã hội trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, kinh nghiệm và kỹ năng của con người và trình độ phân công lao động.
Trên thực tế tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt nhau.
-Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất:

Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, sự tác động lẫn
nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiên mối quan hệ mang tính chất biện
chứng. Chính sự thống nhất và tác động giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã hình
thành nên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trìng độ phát triển của
lực lượng sản xuất.


Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất
thường có tính ổn định trong một thời gian dài.
Sự biến đội của lực lượng sản xuất có nhiều nguyên nhân: Bản thân người lao động thì
những kỹ năng và kinh nghiệm không ngừng tích luỹ và tăng lên.
Bản thân tri thức khoa học trí thức công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có thể sản xuất được.
Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giới hạn nhất định sẽ đặt ra nhu
cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay nó bằng một
quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là diệt vong cả một phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra
đời của một phương thức sản xuất mới.
Sự xoá bỏ các hình thức quan hệ sản xuất hiện có không phải là tự thân mà phải thông qua
một phương thức chính trị và pháp quyền mà phương thức pháp quyền là trực tiếp. Những
quan hệ sản xuất cũ và hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm bảo duy trì khai
thác, phát triển của lực lượng sản xuất giờ đây trở thành những hình thức kìm hãm sự phát
triển đó như CácMác đã nhận định “Từ một giai đoạn phát triển nào đó của chúng các lực
lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có trong đó từ
trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển.
Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất những quan hệ ấy trở thàng
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc Cách mạng xã
hội”Đó cũng chính là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất
hợp lý đồng bộ phù hợp với nó. quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một cách giả

tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải giải
quyết nhưng còn lực lượng sản xuất người không phát hiện được cũng như mâu thuẫn được
phát hiện mà không giải quyết được hoặc giải quyết một cách sai lầm thì tác dụng kìm hãm
của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta không nên tuyệt đối hoá vai trò của lực lượng sản xuất mà bỏ
qua sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với nó khi giữa chúng có sự phù hợp. Đôi khi
sự phát triển chệch hướng của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là do yếu tố chủ quan, chứ không phải do tính chất đặc thù của
quy luật đó.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với
quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện tính độc lập
tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, nó là
yếu tố quyết định là tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt
động, cũng như đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động phát huy tính tích cực sáng tạo
cho con người là nhân tố quan trọng và quyết định trong lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó quyết
định mục đích sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội quy định phân
phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó tạo ra những điều
kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ sản xuất áp dụng thành tựu khoa
học và sản xuất hợp tác phân công lao động.


- Sự vận dụng quy luật vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Sự nghiệp đã đổi mới của Việt Nam được bắt đầu ngay từ giữa những năm 80 và được triển
khai mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực từ đó đến nay. Quá trình đổi mới đã đưa lại nhiều thành
tựu to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều lý luận quan trọng mà việc áp dụng quy luật
quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào việc

giải quyết chúng một cách đúng đắn sẽ là cơ sở hết sức cần thiết cho việc tiếp tục hoạch định
và đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới, cũng như sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Việt Nam đã xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 30 năm ở miền Bắc và hơn 10 năm trên
phạm vi toàn quốc nếu tính đến thời điểm bắt đầu đổi mới. Ngôi nhà xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta muốn xây dựng có thể có nhiều đặc trưng, nhưng có hai đặc trưng chất lượng quan
trọng nhất mà dứt khoát chúng ta phải đặt đến, đó là vừa giàu có hơn, vừa công bằng hơn so
với trong chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế sản xuất của nước ta lại chậm
phát triển, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Sự khó khăn này có thể có nhiều
nguyên nhân, nhưng có lẽ một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là: không nắm vững
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nghị quyết Đại hội VIII đã chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức mạnh tranh chấp. Nhịp độ tăng trưởng
tổng sản phẩm trong nước (GDP) nhịp độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, kim
ngạch xuất khẩu, nhập khẩu… không đạt chỉ tiêu đề ra. Nhìn chung, năng xuất lao động thấp,
chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao.
Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ trong cả
nước và nước ngoài. Hệ thống tài chính-ngân hàng còn yếi kém và thiếu lành mạnh. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư còn phân tán, lãng phí và thất
thoát nhiều. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm, công tác quản lý, điều hành
công tác này còn nhiều vướng mắc và thiếu sót.
Quan hệ một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế nhà nước chưa được củng cố tương xứng với vai
trò chỉ đạo, chưa có chuyển biến đáng kể trong việc sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh
nghiệp nhà nước.
Một số vấn đề văn hoá-xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Tỷ lệ thất nghiệp ở
thành thị và nông thôn còn ở mức cao. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa được đáp
ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Một số cơ chế,
chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp,
ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy định về quản lý nhà nước không còn phù hợp, chưa

bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất.
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, nhà nước ta
đã không thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội nên đã tiến
hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là
theo đường lốiđẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển.
Điều đó có nghĩa là đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Điều đó là hoàn toàn mâu thuẫn với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. để khắc phục những mâu thuẫn có thể phát sinh đòi
hỏi phải thiết lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp và trình độ


phát triển của lực lượng sản xuất.
Những chính sách mới của đảng và nhà nước đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển một
cách mạnh mẽ.Sự thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã
đưa nền kinh tế nước ta sang một bước đi mới. Mọi người được tự do kinh doanh buôn bán,
các doanh nghiệp kinh doanh hợp tác và cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng trước pháp
luật…Tất cả đều nhằm vào mục tiêu duy nhất là thúc đẩy nền kinh tế nước nhà.
Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội phải kể đến yếu tố chủ quan của việc đảng lãnh đạo,
Nhà nước phát động tính tích cực xã hội của quần chúng bằng những lợi ích vật chất và tinh
thần yêu nước vốn có của họ.
Tuy nhiên, theo nhận định trên của đảng, ta thấy rằng, không thể cho rằng những yếu tố tiên
tiến của quan hệ sản xuất mãi là tiền đề sự thúc đẩy phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Chúng chỉ tác động tích cực trong một thời gian ngắn và cuối cùng, vẫn phải tuân
thủ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Thực trạng nền sản xuất nông nghiệp của nước ta trong thời gian chuẩn bị vào những năm đầu
bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã làm rõ nhận định
trên của đảng.
Tại thời điểm đó nền sản xuất nông nghiệp không ổn định, nhiều nơi, nhiều vùng nông thôn bị

đói kém. Khi đó có người cho rằng, nguyên nhân sản xuất chậm phát triển là do giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mâu thuẫn. Mâu thuẫn đó thể hiện giữa một bên là yêu
cầu phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất theo hướng tất yếu chuyển từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất lớn với một bên là chế độ sở hữu phân tán.
Theo một số nhà nhận định, đây là mâu thuẫn vốn có và mâu thuẫn là phổ biến trong các nền
sản xuất. Khi nền sản xuất xã hội phát triển đến trình độ cao thì tự bản thân chế độ tư hữu nhỏ
không thể nào tồn tại như cũ, nó buộc phải thay đổi.
Nhìn lại quá trình chỉ đạo sản xuất nông nghiệp ở nước ta trước đây Đảng ta đã rút ra được sự
cần thiết của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Cau 7: moi quan he bien chung giua CSHT va KTTT. Dang ta da nhan thuc va van dung
ntn?
1/ cơ sở hạ tầng:
: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của
xã hội có giai cấp đối kháng luôn mang tính giai cấp. Vì vậy, không có cơ sở hạ tầng chung
cho mọi xã hội.
2/ Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật.. với những thiết chế tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các
đoàn thể, hiệp hội được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
- Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng đều phản ảnh cơ sở hạ tầng trực tiếp hoặc gián tiếp ->
tức là, lĩnh vực tinh thần đều phản ánh lĩnh vực kinh tế.
3. Quan hệ biện chứng:
1/ Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng
Thư nhất: cơ sở hạ tầng nào thì “sinh ra” kiến trúc thượng tầng ấy. Vì để làm chủ về kinh tế,
thì giai cấp thống trị tổ chức ra bộ máy cùng với quy định luật lệ và những quan điểm tư


tưởng hướng xã hội hoạt động, bảo vệ quan hệ sản xuất thống trị ấy, bảo vệ lợi ích giai cấp
mình.
Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định quan hệ khác như kinh tế chính trị...

Thứ 2: cơ sở hạ tầng hình thành tính chất kiến trúc thượng tầng , cơ sở hạ tầng biến đổi, sớm
hay muộn cũng dẫn đến sự biến đổi kiến trúc thượng tầng nhưng vô cùng phức tạp.
Ví dụ: Cơ sở hạ tầng quan hệ sản xuất tư bản thì kiến trúc thượng tầng là kiến trúc thượng
tầng tư bản.
Cơ sở hạ tầng thay đổi thì dẫn đến kiến trúc thượng tầng thay đổi nhưng phức tạp vì sự thay
đổi không đồng nhất thay đổi nhanh chậm khác nhau. Ví dụ, Trong xã hội hiện nay vẫn còn tư
tưởng gia trưởng phong kiến.
2. Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trên hai khía cạnh:
Thứ nhất: Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng Thể hiện ở chức năng xã hội của nó.
Chức năng này có hai mặt,
Mặt thứ nhất là kiến trúc thượng tầng bảo vệ, duy trì, củng cố, phat triển cơ sở hạ tầng sinh ra
nó.
Mặt thứ 2: Đấu tranh để xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ.
Thứ 2: Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng nếu cùng chiều với quy
luật kinh tế khách quan, thì thúc đẩy cơ sởhạ tầng , còn ngược lại sẽ kìm hãm.
LIÊN HỆ : Chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh đúng tình
hình thực tiễn, đb phản ánh phù hợp các QUAN HỆ SẢN XUẤT và đời sống vật chất của nhân
dân trong xã hội sẽ thúc đẩy đất nước phát triển
Chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật phản ánh không đúng tình hình thực tế, đb là
phản ánh không phù hợp các QUAN HỆ SẢN XUẤT và đời sống vật chất trong xã hội sẽ kìm
hãm sự phát triển của đất nước.
Sự tác động này phức tạp, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Ở đây Nhà nước sẽ tác động trực
tiếp,
Thực chất mối quan hệ này là quan hệ kinh tế và chính trị. Trong đó kinh tế quyết định chính
trị và chính trị tác động trở lại kinh tế.
3. Vai trò của nhà nước đối với cơ sở hạ tầng
- Trong kiến trúc thượng tầng, Nhà nước là yếu tố tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng,
làm chức năng bảo vệ, duy trì quyền sở hữu tư liệu sản xuất và lợi ích của giai cấp thống trị
thông qua bộ máy quyền lực Nhà nước, bao gồm: cảnh sát, nhà tù, trại giam, quân đội, vũ khí
tự vệ và chiến đấu.

+ Các yếu tố khác như: triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học cũng tác động đến cơ
sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước và pháp luật chi phối.
+ Kiến trúc thượng tầng có sự tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội,
nhưng bản thân nó không làm thay đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội.
+ Xét đến cùng kinh tế là nhân tố quan trọng quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu
Kiến trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển của kinh tế - xã hội, thì sớm hay muộn sẽ bị thay
thế bằng kiến trúc thượng tầng mới, tiến bộ nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
4. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay.
- Cơ sở hạ tầng ở nước ta hiện nay nằm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền
kinh tế phát triển còn thấp kém. Đó là một cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều thành phần.


Liên hệ:Nhiều THÀNH PHẦN KINH TẾ với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng,
đan xen hỗn hợp:Thành phần kinh tế NHÀ NƯỚC ; Thành phần kinh tế tập thể; thành phần
Kinh tế tư bản nhà nước; thành phần KINH TẾ cá thể, tiểu chủ; KINH TẾ hỗn hợp
+ Các thành phần kinh tế được tổ chức thành một cơ cấu KINH TẾ thống nhất vận hành theo
định hướng XÃ HỘI CHỦ NGHĨA do kinh tế NHÀ NƯỚC quyết định. Thành phần kinh tế
NHÀ NƯỚC , tức là thành phần kinh tế định hướng XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ngày càng giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống xã hội.
+ Tính đa dạng, phức tạp và đan xen của cơ sở hạ tầng quy định tính phức tạp nhiều mặt của
kiến trúc thượng tầng ở nước ta, được biểu hiện cụ thể trên lĩnh vực đời sống tinh thần của xã
hội.
+ Kết cấu của kiến trúc thượng tầng được quy định bởi hệ tư tưởng Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đó là nền tảng tư tưởng duy nhất chỉ đạo toàn bộ đời sống xã hội đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân.
Cau 8: Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, y nghia pp luan
Tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội.Tồn tại xã hội bao gồm ba nhân tố: Môi trường (hoàn cảnh địa lý); dân số và phương thức
sản xuất. Trong đó, môi trường, dân số là yếu tố thường xuyên, tất yếu đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội; còn phương thức sản xuất là yếu giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại

và phát triển của tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội nảy sinh từ tồn
tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Theo nghĩa
đó, ý thức xã hội là các lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư
tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống… hoặc thể hiện thông qua các hình thái ý thức xã hội
cụ thể như: ý thức chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, khoa học, tôn giáo và thẩm mỹ,
nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Trước triết học Mác về có nhiều quan điểm không đúng về sự hình thành và phát triển của ý
thức xã hội cũng như vai trò của nó với đời sống xã hội. Chẳng hạn, triết học duy tâm đi tìm
nguồn gốc của ý thức, tư tưởng từ bản thân nó; xem tinh thần, tư tưởng hoặc các lực lượng
siêu nhiên là nguồn gốc và quyết định mọi hiện tượng xã hội.
Một trong những ý nghĩa bước ngoặt cách mạng do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện trong
lịch sử triết học đó là việc xây dựng quan điểm duy vật lịch sử và lần đầu tiên đã giải thích
khoa học vấn đề sự hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức xã hội. Các ông cho rằng đời
sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất, rằng không thể
tìm nguồn gốc tư tưởng xã hội, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong
đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. C.Mác viết: “... không thể nhận định
về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại phải giải thích ý
thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực
lượng sản xuất xã hội và nhưng quan hệ sản xuất xã hội”[1].


Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và phụ thuộc vào
tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất xã hội thay đổi thì những tư
tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm chính trị pháp quyền, đạo đức... sớm muộn cũng sẽ
biến đổi theo. Vì thế, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau có những lý luận, quan điểm, tư
tưởng xã hội khác nhau. Sự thay đổi của ý thức xã hội có thể là sự phản ánh đúng, hoặc không
đúng đối với tồn tại xã hội; nhưng xét cho cùng về lâu dài, ý thức xã hội có khả năng phản ánh
đúng, dầy đủ và chính xác đối với quá trình thay đổi của tồn tại xã hội. Vấn đề này đã được

C.Mác khẳng định: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn
tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”[2].
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, không chỉ dừng lại ở việc xác định nguồn gốc, sự phụ
thuộc của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội mà còn chỉ ra rằng không phải bất cứ tư tưởng,
quan điểm, lý luận, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan
hệ kinh tế của thời đại, mà xét cho cùng những quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này
hay cách khác trong những tư tưởng, quan niệm ấy. Bởi vì, không chỉ có ý thức chính trị phản
ánh trực tiếp quan hệ kinh tế của quan hệ giai cấp, mà nó còn được phản ánh ở các hình thái ý
thức khác; mặt khác trong các hình thái ý thức xã hội còn bao hàm sự tác động qua lại và bao
hàm cả sự kế thừa với quá khứ.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Sự thay đổi và phát triển của tồn tại xã
hội có khuynh hướng nhanh hơn so với sự thay đổi và phát triển của ý thức xã hội. Bởi vì, ý
thức xã hội dù thể hiện dưới hình thức nào, như ý thức thông thường, ý thức lý luận, hệ tư
tưởng và các hình thái ý thức xã hội như chính trị, pháp quyền…cũng chỉ nảy sinh từ tồn tại
xã hội và là phản ánh, bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Mặt khác, về nguyên tắc ý thức xã hội
có thể phản ánh đúng hoặc không đúng với sự thay đổi và phát triển của tồn tại xã hội, nhưng
xét về lâu dài nó sẽ phù hợp với tồn tại xã hội.
Do sức mạnh của thói quen tâm lý, mặt hạn chế của truyền thống, tập quán cũng do tính lạc
hậu, bảo thủ của một số các hình thái ý thức xã hội cũng tác động ngược lại sự phát triển của
tồn tại xã hội. Ý thức xã hội luôn gắn liền với lợi ích của nhóm, những tập đoàn người, những
giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được những lực
lượng lưu giữ, truyền bá, sử dụng bảo vệ lợi ích của mình chống lại những những lực lượng xã
hội tiến bộ.
Ý thức xã hội có tính vượt trước tồn tại xã hội. Khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội
so với tồn tại xã hội, thì chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng khẳng định rằng trong những điều kiện
nhất định tư tưởng của con người và đặc biệt vai trò tiên phong của những tư tưởng khoa học
tiên tiến bởi tính vượt trước của nó so với tồn tại xã hội.
Tri thức khoa học không chỉ có khả năng dự báo tương lai, mà nó còn có ý nghĩa tác dụng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn hướng hoạt động thực tiễn của con người giải quyết những

yêu cầu, nhiệm vụ chín muồi của đời sống vật chất đặt ra; nhưng nó vẫn phụ thuộc và bị quyết


định bởi tồn tại xã hội. Ví dụ như vai trò của khoa học công nghệ trong thời đại ngày nay.
Yếu tố kế thừa trong sự tồn tại và phát triển của ý thức xã hội. Quan điểm về sự phát triển của
xã hội kể cả ý thức xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử không chỉ coi yếu tố kế thừa là cơ sở
lý luận giải thích mối quan hệ biện chứng giữa cái mới và cái cũ trong lịch sử phát triển của
đời sống tinh thần xã hội; mà nó còn là điều kiện, tiền đề cho sự xuất hiện, tồn tại và phát triển
của cái mới. Lịch sử hình thành và phát triển của ý thức cá nhân, ý thức xã hội xét cho cùng là
sự kế thừa và phát triển giữa các cá nhân, giữa cá nhân với ý thức xã hội và ngược lại dưới
nhiều hình thức khác nhau.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái của ý thức xã hội. Ý thức xã hội bao gồm nhiều hình
thái ý thức xã hội cụ thể khác nhau như: chính trị, pháp quyền, đạo đức... và sự tác động qua
lại giữa chúng làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất không thể
giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.
3- y nghia pp luan:
Tồn tại xã hội va ý thức xã hội là 2 phương diện thống nhất biện chúng của đ/s xh. Vi vậy
công cuộc cải tạo xh cũ, xd xh mới phai duocj tiến hành đồng thơi trên cả 2 mặt tồn tại xh va ý
thức xh. Cần thấy rằng, thay đổi xh là đk cơ ban nhất để thay đổi ý thức xh, mặt khác cũng cần
thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xh moi tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn
trong đời sống tinh thần mà nguọcj lại nhungx tác động cua d/s tinh thần xh, với điều kiện xác
định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ trong tồn tại xh.
Trong sự nghiệp cm xhcn ở nước ta, một mạt chúng ta phai coi trọng cuộc cm tu tưởng van
hóa, phat huy vai trò động tích cục của đ/s tinh than xh đói với quá trình phat triển kinh tế va
cnh-hdh đất nước. Mặt khác phai tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây
dựng văn hóa xây dựng con nguoi mới.


×