Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bình luận ý nghĩa kinh tế của tỷ giá đặc biệt trong nền kinh tế mở, liên hệ tới tỷ giá ở việt nam qua các thời kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.53 KB, 10 trang )

Câu 1-b: Bình luận ý nghĩa kinh tế của tỷ giá đặc biệt trong nền kinh tế mở, liên
hệ tới tỷ giá ở Việt Nam qua các thời kỳ.
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến các phạm
trù kinh tế khác và đóng vai trò như một công cụ có hiệu lực, có hiệu quả trong
việc tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước, đồng thời là yếu tố cực
kỳ quan trọng đối với chính sách tiền tệ quốc gia.
Tỷ giá hối đoái là giá cả của đồng tiền này được biểu thị bằng mét đơn vị
tiền tệ khác. Là một phạm trù kinh tế phức tạp và nhạy cảm, tỷ giá hối đoái thường
xuyên biến động do những tác nhân của nền kinh tế. Đồng thời, tỷ giá cũng có
những ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt là đối với nền kinh tế mở.
Ý nghĩa kinh tế của tỷ giá trước hết được thể hiện qua so sánh sức mua giữa
các đồng tiền. Tỷ giá hối đoái phản ánh tương quan giá trị giữa hai đồng tiền,
thông qua đó có thể so sánh giá cả tại thị trường trong nước và trên thế giới, đánh
giá năng suất lao động, giá thành sản phẩm trong nước với các nước khác.
Ý nghĩa kinh tế của tỷ giá còn được thể hiện qua vai trò kích thích và điều
chỉnh xuất nhập khẩu. Thông qua cơ chế tỷ giá, chính phủ sử dụng tỷ giá để tác
động đến xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ, khuyến khích những ngành hàng,
chủng loại hàng hóa tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại, hạn chế nhập khẩu
nhằm thực hiện định hướng phát triển cho từng giai đoạn.
Tỷ giá cũng đóng vai trò trong việc điều tiết thu nhập trong hoạt động kinh
tế đối ngoại, phân phối lại thu nhập giữa các ngành hàng có liên quan đến kinh tế
đối ngoại và giữa các nước có liên quan về kinh tế với nhau. Khi tỷ giá cao, tức là
giảm sức mua của đồng tiền trong nước so với đồng tiền nước ngoài. Điều này có
tác dụng giúp cho nhà xuất khẩu có thêm lợi thế để cạnh tranh, tăng thêm thu nhập
cho nhà xuất khẩu.


Tỷ giá còn là công cụ sử dụng trong cạnh tranh thương mại, giành giật thị
trường tiêu thụ hàng hóa, khai thác nguyên liệu của nước khác với giá rẻ thông qua
biện pháp phá giá đồng tiền. Phá giá đồng tiền là việc chính phủ đứng ra tuyên bố
giảm giá nội tệ so với ngoại tệ. Điển hình là nước Mỹ đã dùng công cụ tỷ giá để


cản trở sự xuất khẩu các hàng hóa của Nhật sang Mỹ (đặc biệt là xe hơi). Việc làm
này đã gây thiệt hại cho Nhật, làm giảm thu nhập từ xuất khẩu của Nhật.
Ở Việt Nam từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, Nhà nước ta đã có những
chủ trương và giải pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại và chính sách tỷ giá, đã
từng bước xóa bỏ cơ chế độc quyền ngoại thương, cho phép các tổ chức kinh tế
được phép xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài. Số lượng các công ty được
trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên, cùng với việc mở rộng
ngoại thương, chế độ tỷ giá cũng có những thay đổi căn bản. Nhà nước đã áp dụng
chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước nhưng việc điều hành của
Nhà nước trong từng năm có khác nhau, ta có thể tạm thời chia ra 3 giai đoạn:
Giai đoạn thả nổi tỷ giá (1989-1993): Trong giai đoạn này, tỷ giá VNĐ/USD
có khuynh hướng tăng và được Nhà nước điều chỉnh sát với giá của thị trường tự
do. Điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ
đã được quan tâm đầy đủ hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó, sự thả nổi tỷ giá đã kích
thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá. Tình trạng tỷ
giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ cũng đã gây nên những cơn sốt USD
làm mất ổn định nền kinh tế. Quản lý ngoại tệ của Chính phủ không đạt được kết
quả như mong muốn, Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Vì vậy
đến năm 1993, Nhà nước đã chuyển sang "cố định" tỷ giá.
Giai đoạn cố định tỷ giá (1993-1996): Trong thời gian này tỷ giá chính thức
của Nhà nước và tỷ giá thị trường tự do không chênh lệch nhiều, tốc độ tăng tỷ giá
hối đoái chậm hơn tốc độ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu
ngoại tệ, vào cụm các nhân tố kinh tế đối ngoại. Việc duy trì tỷ giá ổn định trong
một thời gian khá dài đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố sức mua đối
nội của VNĐ, kiềm chế được lạm phát, góp phần đẩy mạnh thu hút vốn nội tệ vào


ngân hàng, khuyến khích đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên việc cố định tỷ giá trong
một thời gian dài(1993-1996) đã không khuyến khích được xuất khẩu, làm cho
ngoại thương kém phát triển. Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã

tác động xấu đến xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân
thương mại dẫn tới tình trạng hoặc phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hoặc
phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có
thay đổi, tỷ trọng nhập máy móc thiết bị công nghệ ngày càng tăng, nhưng nhập
siêu vẫn kéo dài đã làm đất nước lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính
quốc gia. Qua 4 năm 1993-1996, tốc độ lạm phát tăng tổng cộng là 36,8% trong
khi tỷ giá VNĐ so với USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế giá bán hàng nội địa đã
tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại đã trở nên rẻ hơn và được
nhập vào thị trường nước ta với số lượng lớn, cạnh tranh với hàng nội địa, thể hiện
qua sự gia tăng thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của nước ta trong những năm
1993-1996 từ nhập siêu 939 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD năm 1994 lên 2,7
tỷ USD năm 1995 và 3,8 tỷ USD 1996. Đứng trước tình hình đó, ngay từ năm
1997 cho đến nay Nhà nước đã chỉ đạo: xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp
thời tình trạng mở LC thanh toán tràn lan, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng
cần thiết chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất; đồng thời điều hành tỷ giá
linh hoạt theo tín hiệu của thị trường.
Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước từ năm
1997 đến nay: năm 1997 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến trình đổi
mới và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam, một năm với những khó khăn
và thử thách trên hầu hết các lãnh vực. Mặc dù có những tổn thất mất mát nhưng
hoạt động ngân hàng vẫn tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng, tạo đà thúc
đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo điều kiện
cho giá trị VNĐ phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại tệ, góp phần kiềm
chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu. Qua năm 1998, tình
hình tỷ giá hối đoái trong nước lại trở nên phức tạp, giá USD mỗi ngày mỗi tăng,
ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội. Trước tình hình đó ,Chính phủ đã


có một quyết định nhằm kiểm soát hoạt động ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam ,

bằng việc ban hành Quyết định 37/1998/QĐ-TTg (ngày 14-2-1998) "Về một số
biện pháp quản lý ngoại tệ", nhanh chóng làm giảm cơn sốt tỷ giá ngoại tệ. Tỷ giá
thị trường tự do, thị trường có tổ chức đã sát lại gần nhau. Hiện nay ngân hàng đã
kiểm soát được trên 90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường, đã thu hút từ
nhiều nguồn một lượng ngoại tệ tăng thêm.
Câu 2: Bình luận về thực trạng cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay và cho phương án xử lý.
Cán cân thanh toán quốc tế là một bản đối chiếu giữa các khoán tiền thu
được từ nước ngoài với các khoản tiền trả cho nước ngoài của một quốc gia trong
một thời kỳ nhất định. Như thế, thực chất của cán cân thanh toán quốc tế là một tài
liệu thống kê, có mục đích cung cấp sự kê khai đầy đủ dưới hình thức phù hợp với
yêu cầu phân tích những quan hệ kinh tế tài chính của một nước với nước ngoài
trong một thời gian xácđịnh.
Người ta có thể soạn thảo cán cân thanh toán song phương và cán cân thanh
toán chung. Hoặc cũng có thể soạn thảo cán cân thanh toán trong thời kỳ hoặc cán
cân thanh toán thời điểm để phù hợp với yêu cầu phân tích, đánh giá tình hình và
quản lý chỉ đạo khác nhau
Cán cân thanh toán trong một thời kỳ là bản đối chiếu giữa những khoản tiền
thực tế thu được từ nước ngoài với những khoản tiền mà thực tế nước đó chi ra cho
nước ngoài trong một thời kỳ nhất định. Vậy, loại cán cân này chỉ phản ánh số liệu
thực thu và thực chi của một nước đối với nước ngoài trong thời kỳ đã qua.
Cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định là bản đối chiếu giữa các khoản
tiền đã và sẽ thu về và chi ra ở một thời điểm cụ thể nào đó. Vậy, trong loại cán
cân thanh toán này chứa đựng cả những số liệu phản ánh các khoản tiền nợ nước
ngoài và nước ngoài nợ nước đó mà thời hạn thanh toán rơi đúng vào ngày của cán
cân.


Kể từ 2002, ở Việt Nam đã xuất hiện thâm hụt thương mại gia tăng mang
tính chất hệ thống, đến nay đã đạt đến mức cao trong lịch sử. Thâm hụt thương mại

mang tính cơ cấu là gánh nặng lớn đối với Cán cân thanh toán (BOP) của quốc gia,
và kết quả là cán cân vãng lai đã rơi vào tình trạng thâm hụt trong những năm gần
đây. Mặc dù tình hình BOP của Việt Nam không bị coi là đáng báo động, nhưng
thực trạng này yêu cầu cần phân tích sâu sắc về các nguyên nhân kinh tế và chính
sách thương mại cũng như các bước đi để lọai bỏ bất cập này. Quá trình hội nhập
nhanh chóng vào nền kinh tế thế giới cũng định hình lại môi trường chính sách
thương mại ở Việt Nam cũng như các cam kết quốc tế trong lĩnh vực thương mại
tạo ra khuôn khổ cho các biện pháp đối phó với các bất cập liên quan đến BOP.
Sau khi thực hiện cải cách kinh tế khá mạnh mẽ, mở cửa đối với thương mại
quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng kinh
tế cao, đầu tư tăng, và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Trong những năm
gần đây, nền kinh tế Việt Nam trở nên quá nóng, luồng vốn vào tăng cao và thâm
hụt tài khoản vãng lai gia tăng, chủ yếu là do thâm hụt thương mại tăng lên. Thâm
hụt tài khoản vãng lai lên mức 9 tỷ đôla Mỹ vào 2008. Do cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới bắt đầu từ năm 2007, luồng vốn vào Việt Nam đã giảm mạnh, thoái
đầu tư và rút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) diễn ra ở mức nhất định, tạo ra
hiện tượng thâm hụt kép trên cả tài khoản vãng lai và tài khoản tài chính. Trong
2009, dự trữ quốc tế dự kiến sẽ giảm xuống mức thấp khoảng 3 tháng nhập khẩu
của năm kế tiếp, mặc dầu giá hàng nhập khẩu đã giảm nhiều so với năm 2008.
Hiện tượng này tạo ra lo ngại cho các nhà xây dựng chính sách về sự bền vững của
các chính sách áp dụng trong thời gian qua và tạo nên cơ sở để xem xét áp dụng
các biện pháp chính sách thương mại nhằm giải quyết vấn đề thâm hụt thương mại
mang tính cơ cấu, với vai trò là nhóm biện pháp nhằm cải thiện BOP của Việt
Nam.
Hiện trạng cán cân vãng lai của Việt Nam chủ yếu bao gồm cán cân thương
mại hàng hóa và cán cân chuyển khoản, còn dịch vụ và thu nhập tương đối nhỏ.
Chuyển khoản giảm mạnh trong năm 2008, một phần là do khủng hoảng tài chính


toàn cầu, nên kiều hối giảm xuống, và thoái đầu tư của cá nhân. Cán cân thu

nhập bao gồm chuyển lợi nhuận từ hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
thông thường luôn ở trạng thái thâm hụt. Thương mại dịch vụ có quan hệ gắn
kết chặt chẽ với thương mại hàng hóa do thống kê dịch vụ chủ yếu bao gồm
vận tải và bảo hiểm, mặc dù thương mại dịch vụ còn bao gồm cả các dịch vụ đáng
kể khác như du lịch và dịch vụ tài chính. Thương mại hàng hóa là nhân tố lớn nhất
gây ra thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai, với mức 12.3 tỷ đôla Mỹ năm 2008.
Thâm hụt tài khoản vốn của Việt Nam trước đây thường là thặng dư, chủ
yếu là do dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào khá lớn, FDI đạt mức đỉnh
là 7,8 tỷ đôla Mỹ vào năm 2008. Nợ ngắn hạn hay dòng vốn ngắn hạn vào Việt
Nam, dưới hình thức đầu tư gián tiếp cũng có xu hướng dương (mặc dù biến
động khá mạnh). Tuy nhiên, sự tin tưởng vào thị trường Việt Nam cũng bị suy
giảm mạnh trong năm 2008 và dòng vốn đầu tư gián tiếp giảm mạnh.
Tình hình cán cân thanh toán của Việt Nam không bị coi là trầm trọng bởi
một số lý do nhất định. Thứ nhất, nghĩa vụ nợ ngắn hạn của Việt Nam có thể được
thực hiện. Mức dự trữ hiện nay cao hơn so với năm trước đồng thời nghĩa vụ trả nợ
ngắn hạn tương đối nhỏ, vì vậy xét về ngắn và trung hạn nhu cầu đối với dự trữ
quốc tế không lớn. Dự trữ hiện nay đủ lớn để đảm bảo thanh toán nhập khẩu và sự
mất cân đối thương mại của Việt Nam cũng có những dấu hiệu được cải thiện
trong năm 2009. Ngoài ra, luồng vốn quốc tế có khả năng sẽ quay trở lại xu hướng
như trước đây khi nền kinh tế thế giới phục hồi trong năm 2010. Điều quan trọng là
Việt Nam phải giành được niềm tin vào nền kinh tế của mình từ đó hạn chế tối đa
hiện tượng rút vốn. Để đạt được điều này, không chỉ cần ổn định tình hình kinh tế
vĩ mô ở Việt Nam mà còn cần đảm bảo môi trường đầu tư hấp dẫn.
Từ góc độ dài hạn hơn, tình hình cán cân thanh toán của Việt Nam chỉ thực
sự bền vững nếu có đủ năng lực trả nợ nước ngoài bằng thặng dư thương mại trong
tương lai. Mất cân đối cơ cấu cần được giải quyết để đảm bảo rằng cán cân thanh
toán không trở nên báo động. Trước hết là cần đối mặt với các bất cập mang tính
cơ cấu gắn với thâm hụt thương mại. Lý do chính dẫn tới thâm hụt thương mại lớn



là việc Việt Nam nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu thô và đầu vào phục vụ sản
xuất xuất khẩu. Nâng cao vai trò của các ngành sản xuất trong nước và tăng tỷ lệ
giá trị gia tăng của sản xuất trong nước, thì tỷ lệ nhập khẩu để xuất khẩu sẽ giảm
xuống. Các biện pháp bảo hộ do các nước thành viên G20 áp dụng kể từ khi xảy ra
khủng hoảng tài chính toàn cầu có thể ảnh hưởng xấu hơn nữa tới kết quả xuất
khẩu của Việt Nam, hiện nay một số ngành đã chịu ảnh hưởng tiêu cực của các
biện pháp bảo hộ tại thị trường nước thứ ba.
Thâm hụt thương mại tăng cao cũng xuất phát từ việc cắt giảm nhanh chóng
hàng rào bảo hộ kể từ khi, hội nhập với ASEAN, tham gia khu vự mậu dịch tự do
ASEAN, ASEAN-Trung Quốc, ASEAN- Ấn Độ, ASEAN- Hàn Quốc và đàm phán
để trở thành thành viên của WTO vào năm 2007. Việt Nam hiện tiếp tục cân nhắc
các thỏa thuận thương mại song phương khác (BTA) thông qua ASEAN và đây
cũng là cơ sở để nhập khẩu tăng lên. Việc đánh giá kỹ lưỡng các hiệp định như vậy
và lợi ích cho Việt Nam từ các hiệp định này cần được thực hiện trước khi ký kết,
không nên chỉ nhìn nhận những chi phí phát sinh sau khi ký kết.
Trong 2009, Việt Nam thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng và nới lỏng
chính sách tài khóa nhằm kích cầu trong nước. Các chính sách kinh tế vĩ mô này
của Chính phủ đã giúp đạt được tăng trưởng kinh tế khá trong năm, lạm phát phát
sinh ở mức thấp. Tuy nhiên, chính sách này đã dẫn đến sự gia tăng nhu cầu nhập
khẩu, được phản ánh trong cơ cấu nhập khẩu. Ngoài ra, thâm hụt ngân sách cũng
đòi hỏi tăng mức nợ, từ đó đặt ra yêu cầu phải có thặng dư cán cân tài khoản vãng
lai trong tương lai thì mới có nguồn để thanh toán khoản nợ này.
Thông thường FDI tập trung vào ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu hoặc và
các ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ tài chính và du lịch. Tuy nhiên, gần đây FDI
lại tập trung vào bất động sản, tạo ra nhu cầu lớn đối với vật liệu xây dựng và thiết
bị nhập khẩu, trong khi không tạo ra năng lực xuất khẩu trong tương lai. Điều này
tạo ra bất cập với cán cân thương mại, và giải pháp là Việt Nam nên cố gắng thu
hút FDI vào các ngành sản xuất của nền kinh tế.



Một lý do cơ bản khác dẫn tới bất cập của cán cân tài khoản vãng lai là sự
mất cân đối lớn giữa tiết kiệm và đầu tư ở Việt Nam. Mặc dù mức đầu tư lớn là
dấu hiệu tích cực nếu được tập trung vào các hoạt động sản xuất, nhưng trong điều
kiện tiết kiệm quốc gia thấp, thì đầu tư lớn cũng đồng nghĩa với việc phải đi vay
nước ngoài. Để giảm bớt thâm hụt tài khoản vãng lai, Việt Nam cần tăng tiết kiệm.
Mặc dù Việt Nam vẫn là nước có thu nhập tương đối thấp, cần bắt đầu khuyến
khích tiết kiệm ngay khi thu nhập tăng lên để giảm bớt sự phụ thuộc nặng nề vào
vốn nước ngoài.
Áp dụng các biện pháp hạn chế để khắc phục thâm hụt tài khoản vãng lai,
bao gồm từ việc hạn chế nhập khẩu đến nâng thuế nhập khẩu đều có khả năng
không có lợi cho lợi ích kinh tế của Việt Nam. Thứ nhất, do tỷ lệ nhập khẩu về
phục vụ xuất khẩu là khá cao, nên áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu sẽ dẫn tới
suy giảm sức cạnh trạnh của hàng xuất khẩu. Thứ hai, áp dụng các biện pháp chính
sách thương mại như vậy thường dẫn tới hậu quả là các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài bị rút vốn hoặc đóng băng do không giải quyết được nhu cầu nhập khẩu đầu
vào hoặc công nghệ. Thứ ba, những biện pháp này có thể làm cho các nhà đầu tư
mất niềm tin và triển vọng kinh tế của Việt Nam, dẫn tới rút vốn quy mô lớn và tạo
sức ép làm cho đồng tiền Việt Nam mất giá.
Bất cập về cán cân thanh toán thực chất là bất cập về cơ cấu kinh tế và chính
sách vĩ mô, vì vậy giải pháp tốt nhất chính là cải cách cơ cấu và các công cụ chính
sách kinh tế vĩ mô, như chính sách tài khóa hoặc tiền tệ, hoặc giảm bớt tổng cầu
nội địa (và như vậy sẽ cải thiện cán cân thương mại khi nhập khẩu giảm bớt), hoặc
thay đổi cơ cấu chi tiêu từ hàng nhập khẩu sang hàng sản xuất trong nước, thông
qua hạ thấp tỷ giá thực của đồng tiền. Đây là phương pháp tiếp cận hợp lý hơn để
đối phó với bất cập về cán cân thanh toán.
Các kiến nghị:
Việt Nam hiện nay chưa rơi vào tình trạng “khó khăn về cán cân thanh toán”
hoặc “tình trạng nghiêm trọng về cán cân thanh toán” theo nghĩa nêu trong quy



định của WTO. Vì vậy, với tình hình BOP hiện nay, Việt Nam không nên áp dụng
các biện pháp hạn chế nhập khẩu vì mục đích BOP. Việc áp dụng hạn chế nhập
khẩu vì mục đích BOP có thể ảnh hưởng xấu tới uy tín của Việt Nam là một nước
có môi trường kinh tế có khả năng đoán định, có thể ảnh hưởng quan hệ với các
đối tác FTA và đối tác thương mại chủ chốt khác, bao gồm cả các nhà đầu tư nước
ngoài, với những hậu quả nghiêm trọng. Tác động trực tiếp sẽ làm tăng chi phí sản
xuất hàng xuất khẩu vì 2/3 giá trị xuất khẩu là nguyên liệu nhập khẩu;
Mặc dù tình trạng hiện nay chưa thực sự đáng báo động, nhưng Việt Nam
nên thực hiện cải cách cơ cấu kinh tế và điều chỉnh chính sách vĩ mô dưới hình
thức điều chỉnh chính sách tài khóa và tiền tệ để hạn chế tốc độ tăng vay nợ nước
ngoài, từ đó đảm bảo thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai là bền vững trong dài
hạn. Cần tiếp tục tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn ở Việt Nam để duy trì niềm tin
đối với nền kinh tế Việt Nam và đảm bảo rằng kiều hối và đầu tư nước ngoài tiếp
tục chảy vào các lĩnh vực sản xuất của nền kinh tế và nâng cao tỷ lệ giá trị gia tăng
trong xuất khẩu;
Giảm hệ số sử dụng hàng nhập khẩu ở Việt nam có thể được thực hiện tốt
nhất thông qua các biện pháp điều chỉnh cung. Từ khía cạnh này, điểm tích cực
đáng ghi nhận là đang dần hình hành sự dịch chuyển từ công nhiệp gia công, lắp
ráp sang công nghệ cao phục vụ xuất khẩu. Định hướng này có khả năng giải quyết
được sự mất cân đối thương mại trong dài hạn. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng
khuynh hướng tăng đầu tư vào bất động sản cũng đang tăng lên;
Mở cửa nền kinh tế Việt Nam với thế giới bên ngoài mà đặc biệt là việc gia
nhập WTO và tham gia vào các thỏa thuận thương mại tự do đã làm gia tăng nhập
khẩu. Nếu sự gia tăng nhập khẩu tạo nên bất cập cho nền kinh tế trong nước, Việt
Nam có thể vận dụng các khả năng áp dụng hạn chế nhập khẩu phù hợp với quy
định trong nước và cam kết quốc tế (WTO, FTA và song phương). Sau những diễn
biến về BOP, nếu tình hình BOP trở nên nghiêm trọng, và cần có biện pháp kịp
thời, thì có thể cân nhắc việc áp dụng hạn chế nhập khẩu, nhưng cần ghi nhớ đây là



lựa chọn cuối cùng, vì có thể tạo ra nhiều tác động tiêu cực khi áp dụng các biện
pháp này.



×