Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.45 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN
BỘ MÔN KINH TẾ QUỐC TẾ


Bài tiểu luận:
Đề tài: Mối

quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và
ASEAN
GVHD: Thầy Ngô Văn Phong
SVTH: Nhóm 8B-Lớp KTLĐ&QLNNL
Thái Văn Quân
NL1
Nguyễn Văn Hoàng
NL2
Trần Quang Sơn
NL2
Nguyễn Kim Thoại
NL2
Trần Thị Thanh Thủy
NL2
Nguyễn Thị Thu Thủy
NL2
Nguyễn Thị Phương Thảo NL2

TP.HCM Ngay 19/06/2009


Lời nói đầu
Trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, theo hướng công


nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước ta không thể phát triển nếu không thực sự
hòa nhập vào sự phát triền chung của khu vực và Thế Giới.
Với tư cách là một nước độc lập, đang phát triển, nước ta đã trở
thành thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam Á ( The
Association of Southeast Asian Nations- ASEAN ) từ ngày 28 tháng 7
năm 1995 , tạo cơ hội cho nước ta có thêm cơ hội thuận lợi để thúc đẩy
nhanh hơn quá trình hội nhập và tham gia phân công lao động quốc tế của
mình.
Tuy nhiên, điều đó không chỉ có lợi mà còn là một sự thách thức
đối với nền kinh tế nước ta, vì tham gia ASEAN, không chỉ có sự hợp tác
hữu nghị giữa các quốc gia trong khu vực mà còn có cả cạnh tranh.
Hợp tác Việt Nam-ASEAN là một sự hợp tác nhiều mặt, nhiều lĩnh
vực: thương mại, dịch vụ, đầu tư, công nghiệp, tài chính, ngân hàng, sở
hữu trí tuệ....
Trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng em hướng vào nghiên cứu
“mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và ASEAN”. Do nguồn tài liệu thì
phong phú nhưng năng lực chúng em có hạn, mong thầy đóng góp ý kiến
để chúng em hoàn thiện bài tiểu luận này.
Xin chân thành cảm ơn thầy!!


Mục lục
Lời mở đầu..................................................................................................1
Mục lục........................................................................................................2
I. Khái quái quát........................................................................................3
1/Quá trình hình thành ....................................................................3
2/Mục tiêu hoạt động.......................................................................4
3/Nguyên tắc hoạt động...................................................................4
II. Nội dung.................................................................................................5
1/Giới thiệu tình hình kinh tế của Việt Nam ......................................5

a.Trước khi gia nhập........................................................................5
b.Sau khi gia nhập............................................................................5
2/ Quan hệ giữa các thành viên của ASEAN với Việt Nam...............7
a.Đầu tư............................................................................................7
-Đầu tư từ các nước thành viên ASEAN vào Việt Nam...............7
-Đầu tư từ Việt Nam vào các nước thành viên ASEAN.............10
b.Tình hình xuất nhập khẩu...........................................................11
- Về tình hình xuất khẩu..............................................................11
- Về tình hình nhập khẩu.............................................................14
c. Viện trợ phát triển chính thức(ODA).........................................15
3/ Tác động của ASEAN đối với Việt Nam......................................17
a.Thuận lợi ....................................................................................17
b.Khó khăn ....................................................................................19
c.Vị thế của Việt Nam trong ASEAN ...........................................21
d.Thách thức .................................................................................22
III. Ý nghĩa của việc Việt Nam gia nhập ASEAN.................................23
Lời kết.......................................................................................................24
Tài liệu tham khảo...................................................................................25

Mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và
ASEAN


I. Khái quát chung
1. Quá trình hình thành.
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam á (Association of Southeast Asian NationsASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967 tại Băng-cốc, Thái Lan, đánh dấu một mốc quan
trọng trong tiến trình phát triển của khu vực.
ASEAN ra đời trong bối cảnh có nhiều biến động đang diễn ra trong khu vực
và trên thế giới, bao gồm cả những thay đổi từ bên ngoài tác động vào khu vực
cũng như những vấn đề nảy sinh từ bên trong mỗi nước. Để đối phó với các

thách thức này, xu hướng co cụm lại trong một tổ chức khu vực với một hình
thức nào đó để tăng cường sức mạnh bản thân đã xuất hiện và phát triển trong
các nước thành viên tương lai của ASEAN.
Khi mới thành lập ASEAN gồm 5 nước là Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Singapore
và Thái Lan. Năm 1984, ASEAN kết nạp thêm Bru-nây làm thành viên thứ 6. Ngày
28/7/1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội. Ngày 23/7/1997, kết nạp
Lào và Mianma. Ngày 30/4/1999, Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN,
hoàn thành ý tưởng về một ASEAN bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam á, một
ASEAN của Đông Nam Á và vì Đông Nam Á.
Các nước ASEAN (trừ Thái Lan) đều trải qua giai đoạn lịch sử là thuộc địa của các
nước phương Tây và giành được độc lập vào các thời điểm khác nhau sau Chiến tranh thế
giới thứ hai. Mặc dù ở trong cùng một khu vực địa lý, song các nước ASEAN rất khác
nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hoá, tạo thành một sự đa dạng cho Hiệp
hội.
ASEAN có diện tích hơn 4.5 triệu km2 với dân số khoảng 575 triệu người; GDP
khoảng 1281 tỷ USD và tổng kim ngạch xuất khẩu 750 tỷ USD. Các nước ASEAN có
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và hiện nay đang đứng hàng đầu thế giới về
cung cấp một số nguyên liệu cơ bản như: cao su (90% sản lượng cao su thế giới); thiếc và
dầu thực vật (90%), gỗ xẻ (60%), gỗ súc (50%), cũng như gạo, đường dầu thô, dứa...
Công nghiệp của các nước thành viên ASEAN cũng đang trên đà phát triển, đặc biệt
trong các lĩnh vực: dệt, hàng điện tử, hàng dầu, các loại hàng tiêu dùng. Những sản phẩm
này được xuất khẩu với khối lượng lớn và đang thâm nhập một cách nhanh chóng vào các
thị trường thế giới. ASEAN là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao so với các khu
vực khác trên thế giới, và được coi là tổ chức khu vực thành công nhất của các nước đang
phát triển.
Tuy nhiên mức độ phát triển kinh tế giữa các nước ASEAN không đồng đều. Mianma
hiện là nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người thấp nhất trong ASEAN, chỉ vào
khoảng hơn 200 USD. Inđônêxia là nước đứng đầu về diện tích và dân số trong ASEAN,
nhưng thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ vào khoảng trên 600 USD. Trong khi
đó, Singapore và Brunây là hai quốc gia nhỏ nhất về diện tích (Singapore ) và về dân số

(Brunây) lại có thu nhập theo đầu người cao nhất trong ASEAN, vào khoảng trên 30.000
USD/năm.
Ở các nước ASEAN đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ theo hướng
công nghiệp hoá. Nhờ chính sách kinh tế “hướng ngoại”, nền ngoại thương ASEAN đã
phát triển nhanh chóng, tăng gần năm lần trong 20 năm qua, đạt trên 160 tỷ USD vào
đầu những năm 1990 (nay là 750 tỷ USD). ASEAN cũng là khu vực ngày càng thu hút
nhiều vốn đầu tư của thế giới. Nếu năm 2005, tổng số vốn đầu tư mà ASEAN thu hút


được tăng 16,9% so với năm 2004, thì năm 2006, tổng số vốn đầu tư đã tăng 27,5%.

2.Mục tiêu hoạt động.
Giữ vững hòa bình, an ninh, ổn định khu vực, xây dựng một cộng đồng hòa hợp, hợp
tác để cùng nhau phát triển kinh tế-xã hội

3. Nguyên tắc hoạt động.
Nguyên tắc về quan hệ song phương và đa phương: Tôn trọng chủ quyền và không
can thiệp vào nội bộ của nhau
Nguyên tắc điều phối hoạt động: có 3 nguyên tắc chủ yếu là nguyên tắc nhất trí,
nguyên tắc bình đẳng và nguyên tắc 6-X -Trong quan hệ với nhau, các thành viên của
khối đều tuân theo 6 nguyên tắc chính được nêu lên trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác
ở Đông Nam á (Hiệp ước Ba-li), kí tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ I tại Ba-li năm
1976, là:
-Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc
của tất cả các dân tộc;
-Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình, không có sự can
thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài;
-Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
-Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân thiện;
-Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực;

-Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
Nguyên tắc điều phối hoạt động
Việc quyết định các chính sách hợp tác quan trọng cũng như trong các lĩnh vực quan
trọng của ASEAN dựa trên nguyên tắc nhất trí (consensus), tức là một quyết định chỉ
được coi là của ASEAN khi được tất cả các nước thành viên nhất trí thông qua. Nguyên
tắc này đòi hỏi phải có quá trình đàm phán lâu dài, nhưng bảo đảm được việc tính đến lợi
ích quốc gia của tất cả các nước thành viên. Đây là một nguyên tắc bao trùm trong các
cuộc họp và hoạt động của ASEAN .
Một nguyên tắc quan trọng khác chi phối hoạt động của ASEAN là nguyên tắc bình
đẳng. Nguyên tắc này thể hiện trên 2 mặt. Thứ nhất, các nước ASEAN, không kể lớn hay
nhỏ, giàu hay nghèo đều bình đẳng với nhau trong nghĩa vụ đóng góp cũng như chia xẻ
quyền lợi. Thứ hai, hoạt động của tổ chức ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên, tức
là các chức chủ toạ các cuộc họp của ASEAN từ cấp chuyên viên đến cấp cao, cũng như
địa điểm cho các cuộc họp đó được phân đều cho các nước thành viên trên cơ sở luân
phiên theo vần A,B,C của tiếng Anh.
Để tạo thuận lợi và đẩy nhanh các chương trình hợp tác kinh tế ASEAN , trong Hiệp
định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ký tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 4 ở
Singapore tháng 2/1992, các nước ASEAN đã thoả thuận nguyên tắc 6-X, theo đó hai hay
một số nước thành viên ASEAN có thể xúc tiến thực hiện trước các dự án ASEAN nếu
các nưóc còn lại chưa sẵn sàng tham gia, không cần phải đợi tất cả mới cùng thực hiện.

II. Nội dung
1. Tình hình kinh tế của Việt Nam
a.Trước khi gia nhập ASEAN


Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng thì hậu quả của cuộc chiến tranh để lại
hết sức nặng nề, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, kẻ thù lại ra sức bao vây
cấm vận kinh tế nước ta, thiên tai lũ lụt lại xảy ra nhiều, tình hình kinh tế xã hội ở thời kỳ
hậu chiến rất phức tạp… Đứng trước tình hình đó nhiệm vụ trước mắt của nhân dân ta là

phải nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời củng cố quốc phòng, bảo vệ thành quả của cách
mạng.
Trước những sai lầm về đường lối lãnh đạo và tình hình khủng hoảng kinh tế lúc đó.
Đại hội lần thứ VI của Đảng dã được triệu tập vào tháng 12-1986. Đại hội đã đề ra đường
lối đổi mới toàn diện đất nước. Thay đổi cách thức lãnh đạo của nhà nước,đặc biệt là đổi
mới nền kinh tế : Phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, Phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Xoá bỏ
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, lâý lợi ích vật chất để khuyến khích sản xuất. Xây
dựng các kế hoạch từng bước đưa nước ta theo con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Kế hoạch năm 5 (1986-1990) : trong những năm 1986-1990 tập trung sức người, sức
của để thực hiện 3 chương trình: Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Mở rộng kinh tế đối ngoại và hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế.
Kế hoạch 5 năm (1991-1995) : mục tiêu tổng quát trong thời kỳ này là ổn định tình
hình kinh tế - xã hội và chính trị, sớm thoát ra khỏi tỉnh trạng khủng hoảng và lạm phát,
tạo tiền đề đẩy nhanh sự phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
Sau những nỗ lực để thực hiện những kế hoạch đề ra nền kinh tế trong thời kỳ này
cũng đật được những thành tựu đáng kể : nền kinh tế tăng trưởng nhanh, tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) tăng bình quân 8,2%/ năm, công nghiệp 13,3%, nông nghiệp 4,5%. Xuất
khẩu đạt 17 tỉ USD. Quam hệ mậu dịch mở rộng ra hơn 100 nước ngoài. Vốn đầu tư nước
ngoài tăng 50%/năm.
Từ những thành tựu đạt được bước đầu, mặc dù còn nhiều hạn chế và thiếu sót, nèn
kinh tế vẫn cồn khó khăn.Nhưng chứng tỏ, đường lối của đảng, nhà nước ta cơ bản là
đúng đắn. Từ đó, tạo tiền đề cho nước ta tham gia các tổ chức trong khu vực và trên thế
giới.

b. Sau khi gia nhập ASEAN
Hơn 10 năm kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã để lại ấn tượng khá tốt đẹp đối
với các nước ASEAN không chỉ về thành tựu phát triển kinh tế (nhất là trong lĩnh vực
tăng trưởng kinh tế, xóa đói, giảm nghèo) mà còn trong việc thực hiện cam kết hội nhập

kinh tế khu vực và quốc tế.
Từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thực hiện lộ trình AFTA, tích cực chủ động
tham gia mọi chương trình hợp tác kinh tế của ASEAN, phù hợp với quyền lợi của đất
nước. Từ năm 1995 đến nay, Việt Nam đã đưa vào danh sách CEPT 4.233 mặt hàng,
chiếm 67% trong tổng số 6.332 mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi MFN.
Tháng 2/2001, Chính phủ Việt Nam đã công bố lịch trình tổng thể cắt giảm thuế theo
Hiệp định CEPT cho đến 1/1/2006 là thời điểm hội nhập đầy đủ vào AFTA. Việt Nam
cũng tham gia ký kết Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) ngày
7/10/1998, với mục tiêu tạo ra một khu vực đầu tư tự do trong nội bộ các nước ASEAN
vào năm 2010 và cho các nước khác ngoài ASEAN và năm 2020.
Việt Nam tham gia ký và thực hiện khá tốt Hiệp định khung về Khu vực tự do hóa
mậu dịch ASEAN (AFAS), về “Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN" (AICO), về
"Sáng kiến hội nhập" (IAI), đã chủ động đưa ra và tích cực thực hiện Chương trình hợp


tác phát triển Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS), trong đó có dự án xây dựng các
hành lang kinh tế, nhất là hành lang kinh tế Đông-Tây, hành lang lưu thông Côn Minh-Hà
Nội-Hải Phòng...
Có thể khẳng định rằng, về hợp tác và liên kết khu vực nói chung, và kinh tế nói
riêng, Việt Nam đã chủ động đưa ra nhiều sáng kiến, đề xuất, được các nước ASEAN
đánh giá cao.
Về quan hệ mậu dịch giữa Việt Nam và các nước trong ASEAN từ thập niên 1990,
nhất là từ sau khi Việt Nam vào ASEAN năm 1995, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng
năm đạt trên 20%. Năm 1994, tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN
chiếm tỉ trọng 21%, đến đầu những năm 2000 chiếm trên 25%.
Về đầu tư, đến tháng 6/1995, các nước trong ASEAN đầu tư vào Việt Nam gần 200
dự án với tổng số vốn pháp định trên 2 tỉ USD, chiếm 15% FDI vào Việt Nam thời điểm
đó. Đến năm 2004, các nước khác trong ASEAN đã đầu tư trên 600 dự án với tổng số
vốn đăng ký trên 10 tỉ USD, chiếm 27% FDI vào Việt Nam.Tính đến hết tháng 5/2007,
khu vực ASEAN có 1.179 dự án đầu tư được cấp phép tại Việt Nam, với tổng vốn trên 16

tỷ USD.Trong số này, Xinhgapo vẫn giữ vị trí dẫn đầu với 474 dự án và 9,07 tỷ USD còn
hiệu lực, đứng thứ hai trong tổng số 78 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam;
tiếp theo là Malaixia với 219 dự án và 1,7 tỷ USD, đứng thứ 10.
Không chỉ hội nhập kinh tế với ASEAN, Việt Nam cùng các nước này mở rộng
không gian hợp tác kinh tế với các nước Đông Á (ASEAN+3), với các nước EU trong
khuôn khổ ASEM, với các nước Châu Á-Thái Bình Dương trong khuôn khổ APEC.
Trong 10 năm qua, Việt Nam luôn phấn đấu phát triển kinh tế đạt tốc độ cao với tỷ lệ
tăng trưởng trung bình khoảng 7%. Tuy vẫn còn là nước nghèo, nhưng Việt Nam đã rút
ngắn được một chút khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước ASEAN 6 (Thái Lan,
Xinhgapo, Malaixia, Inđônêxia, Philíppin, Brunây). Từ năm 1994 đến nay, Việt Nam đã
rút ngắn khoảng cách GDP/đầu người so với các nước trong khu vực (so với Xinhgapo từ
17,1 lần xuống còn 15 lần, với Malaixia từ 5 lần xuống còn 4,2 lần, với Thái Lan từ 4,4
lần xuống còn 3,4 lần, với Philippin từ 2,5 lần xuống còn 1,9 lần, với Inđônêxia từ 2,3 lần
xuống còn 1,7 lần).
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực, bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
tỷ trọng các ngành kinh tế khu vực I (nông, lâm, ngư nghiệp) giảm đáng kể, năm 2004
còn 21,76%; khu vực II (công nghiệp, xây dựng) 40,09%; khu vực III (thương mại, dịch
vụ) 38,15%. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính sách xã hội,
xóa đói giảm nghèo đã được những thành tựu đáng kể và được cộng đồng quóc tế ghi
nhận.
Những thành tựu đó đạt được của Việt Nam trong quá trình hội nhập ASEAN là đáng
ghi nhận. Sự hội nhập đó đã mở ra cơ hội cho Việt Nam tiếp cận với những vấn đề quan
trọng nhất của đời sống kinh tế và hợp tác quốc tế, tạo ra những khả năng mới để tăng
cường hợp tác đa phương, song phương cùng có lợi với các nền kinh tế lớn vốn là những
bạn hàng thương mại và nguồn đầu tư quan trọng của Việt Nam. Là thành viên bình đẳng
trong ASEAN, hy vọng trong thời gian tới quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN trên mọi
lĩnh vực sẽ được nâng lên tầm cao mới, tương xứng với tiềm năng vốn có của nó.

2. Quan hệ giữa các nước thành viên ASEAN với Việt Nam
a.Đầu tư

●Đầu tư từ các nước thành viên ASEAN vào Việt Nam


Các nước ASEAN tuy xuất hiện muộn trên thị trường đầu tư Việt Nam nhưng đã có
bước tiến khá dài. Từ một số dự án mang tính chất thăm dò thị trường trong đó đi tiên
phong là Singapore, Thái Lan, Indonexia vào những năm 1990, dòng vốn này thật sự
khởi sắc vào năm 1995 với tổng số 230 dự án và trên 3 tỷ USD.
Đặc biệt, ngay sau khi Việt Nam tham gia Hiệp định thương mại tự do ASEAN
(AFTA), tháng 1/1996, tốc độ vốn đầu tư đã tăng nhanh chóng, đạt tới 7,8 tỷ USD vào
giữa năm 1997.
Tuy nhiên, tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 đã khiến dòng
vốn đầu tư vào Việt Nam của các quốc gia này giảm sút mạnh chỉ trừ Singapore là vẫn
giữ được “phong độ”.
Giai đoạn từ cuối năm 2000 đến nay được coi là thời kì phục hồi dòng vốn đầu tư từ
ASEAN vào Việt Nam. Theo số liệu của Cục đầu tư nước ngoài (Bộ kế hoạch và đầu tư),
tính đến hết tháng 5/2007 khu vực ASEAN có 1.179 dự án đầu tư được cấp phép tại Việt
Nam, với tổng số vốn trên 16 tỷ USD.
Singapore
Mặc dù dòng vốn đầu tư từ ASEAN vào Việt Nam qua vẫn còn hạn chế song nguồn
vốn này từ các nhà đầu tư Singapore đỗ vào Việt Nam vẫn luôn duy trì dẫn đầu so với sự
gia tăng cả về số dự án và vốn đầu tư.
Hiện nay, hầu hết các thành viên ASEAN đã có đầu tư vào Việt Nam (trừ Myanmar).
Theo số liệu của cục đầu tư nước ngoài (Bộ kế hoạch và đầu tư) trong 7 tháng đầu năm
2007, Singapore đã có 44 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư tại Việt Nam với
tổng số vốn trên 1,3 tỷ USD. Kết quả này đã đưa Singapore đứng vị trí thứ hai trong tổng
số 79 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Chất lượng của các dự án đầu tư của Singapore vào Việt Nam cũng cải thiện rõ rệt so
với các nhà đầu tư khác. Quy mô vốn bình quân mỗi dự án từ Singapore đạt 18,7 triệu
USD, cao hơn mức bình quân của các dự án trên toàn quốc, thậm chí gấp 2-3 lần so với
quy mô vốn bình quân mỗi dự án của một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác như: Hàn

Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Malaysia…
Thống kê của cục đầu tư nước ngoài cho thấy, hiện các nhà đầu tư Singapore có mặt
hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam, từ thăm dò, khai thác dầu khí, sản xuất công
nghiệp tới chế biến nông-lâm-thủy hải sản, nhưng tập trung nhiều nhất ở lĩnh vực dịch vụ
với 207 dự án đầu tư và tổng số vốn đầu tư là 5,5 tỷ USD chiếm 60,7% tổng vốn đăng kí.
Tiếp đó là lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 230 dự án đầu tư với tổng số vốn là 3,3
tỷ USD chiếm 36,4% tổng vốn đăng kí. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm-nghiệp.
Hiện nay nhiều dự án đầu tư của Singapore đang hoạt động tại Việt Nam rất hiệu quả,
trong đó phải kể tới dự án Khu công nghiệp Việt Nam-Singapore. Đây là công trình hợp
tác của chính phủ Việt Nam và Singapore được hình thành trên ý tưởng của nguyên Thủ
tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt và nguyên thủ tướng Singapore Goh Chok Tong.
Đến nay, KCN đã triển khai xây dựng hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng của cả 3 giai đoạn với
tổng diện tích khoảng 600ha. Theo ban quản lí KCN Việt Nam-Singapore, sau 10 năm
hoạt động, doanh nghiệp đã thu hút 250 dự án đầu tư với tổng số vốn 1,7 tỷ USD và lấp
đầy 97% diện tích đất nông nghiệp theo quy hoạch, trong đó 165 dự án đã triển khai hoạt
động, 30 dự án đang xây dựng và lắp đặt máy móc thiết bị với tổng vốn đầu tư thực hiện
khoảng 820 triệu USD, số còn lại đang trong giai đoạn hoàn tất các thủ tục sau giấp phép.
Tính tới nay KCN này cũng tạo ra tổng doanh thu 3,25 tỷ USD, trong đó xuất khẩu
đạt 1,62 tỷ USD. Hiện nay, ban quản lý sẽ tiếp tục mở rộng KCN Việt Nam - Singapore


II và đầu tư thêm 2 KCN tại tỉnh Bắc Ninh và Hà Nam để thu hút các nhà đầu tư trong
giai đoạn hậu WTO. Cụ thể, mới đây Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã đồng ý
chủ trương cho Công ty Liên doanh TNHH Việt Nam - Singapore đầu tư xây dựng KCN,
đô thị và dịch vụ tại tỉnh Bắc Ninh. Theo đó, KCN, đô thị và dịch vụ Việt Nam Singapore có tổng diện tích khoảng 700ha, trong đó diện tích KCN là 500ha, diện tích
khu đô thị và dịch vụ là 200ha. Chính phủ cũng bổ sung KCN Việt Nam - Singapore với
diện tích trên vào Danh mục các KCN dự kiến ưu tiên thành lập mới đến năm 2015.
Theo đánh giá của Cục Đầu tư nước ngoài, thời gian gần đây, các nhà đầu tư
Singapore đang quan tâm lớn đến lĩnh vực cơ sở hạ tầng của Việt Nam với một lượng
vốn khá lớn đổ vào các dự án xây dựng nhà ở, văn phòng, khách sạn.

Malaysia
Tiếp theo là Malaysia với 219 dự án và 1,7 tỷ USD tổng vốn đầu tư, đứng thứ 10
trong 78 nước và lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam và đứng thứ tư trong các nước ASEAN
đầu tư vào Việt Nam. Các dự án của Malaysia chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp với 140 dự án và với tổng số vốn đầu tư đăng kí là 1,19 tỷ USD; tiếp theo đó là
lĩnh vực dịch vụ với 47 dự án, tổng số vốn đầu tư đăng kí là 336 triệu USD; lĩnh vực
nông-lâm-ngư nghiệp có 32 dự án và tổng số vốn đầu tư đăng kí là 208 triệu USD.
Tuy nhiên, đầu tư của Malaysia vào Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng
hợp tác của hai nước, phần lớn các dự án đầu tư của Malaysia vào Việt Nam là các ự án
có quy mô nhỏ.
Philippines, Indonesia và Brunei cũng là những nước có đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam còn khá khiêm tốn.
Philippines
Theo Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch Đầu tư, Philippines hiện mới có 30 dự án
với tổng vốn đăng ký đầu tư đạt 247 triệu USD, vốn thực hiện đạt 85,9 triệu USD. Dự án
của Philippines tập trung vào lĩnh vực công nghiệp với 14 dự án và 157, 4 triệu USD
(chiếm 63,5% tổng vốn đầu tư của Philippines). Lĩnh vực nông nghiệp có 8 dự án với
88,8 triệu USD. Lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ lệ vốn đầu tư ít nhất với 855.000 USD và 8 dự
án.
Indonesia
Indonesia có 13 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư đạt 130 triệu USD;
trong đó các dự án của Indonesia tập trung vào lĩnh vực công nghiệp với 11 dự án và 73,8
triệu USD (chiếm 56% tổng vốn đầu tư của Indonesia); 3 dự án trong lĩnh vực dịch vụ
với 63,7 triệu USD; không có dự án trong lĩnh vực nông nghiệp.
Brunei
Brunei có 37 dự án với tổng vốn đầu tư đạt 125 triệu USD. Cũng giống như hai nước
trên, đầu tư của Brunei chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp với 31 dự án và 116 triệu
USD vốn đầu tư (chiếm 92% tổng vốn đầu tư của Brunei). Nông nghiệp và dịch vụ chỉ
chiếm tỷ lệ nhỏ với 5 dự án và 9,6 triệu USD trong lĩnh vực nông nghiệp và 1 dự án với
120.000 USD trong lĩnh vực dịch vụ.

Thái Lan
Đầu tư của Thái Lan vào Việt Nam đã tăng nhanh trong thời gian gần đây. Hiện nay,
với 153 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng kí là 1,54 tỉ USD, Thái Lan đứng thứ 12 trong
tổng số 79 nước và vùng lãnh thổ và đứng thứ 3 trong số các nước ASEAN đầu tư vào
Việt Nam.


Các dự án của Thái Lan tập trung chủ yếu vào xây dựng hạ tầng cơ sở cho khu công
nghiệp, trung tâm đô thị mới tại Đồng Nai, Bình Dương, Hà Nội và TP.HCM. Theo Cục
Đần Tư nước ngoài (Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư), gần 67% các dự án của Thái Lan tại Việt
Nam là 100% vốn nước ngoài, chiếm 56% số vốn đăng kí và 27,6% các dự án là các công
ty liên doanh, chiếm 43% vốn đăng kí.
Lào
Tính đến tháng 12/2008, Lào có 7 dự án đang hoạt động tại Việt Nam, với tổng vốn
đăng ký gần 17 triệu USD, trong đó đã thực hiện được khoảng 5,5 triệu USD, tập trung
vào các lĩnh vực: Bưu điện, Giao thông vận tải...
Các công trình của Lào đầu tư tại Việt Nam mặc dù quy mô chưa lớn, nhưng bước
đầu đã xuất hiện, đóng góp một phần vào việc tăng cường tiềm lực kinh tế của mỗi bên.
Campuchia
Tính đến 20/12/2005, Campuchia có 4 dự án còn hiệu lực tại Việt Nam với số vốn 4 triệu
USD, đứng thứ 59 trong tổng số 74 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Năm
2008, Campuchia không có thêm dự án đầu tư mới vào Việt Nam.
Biện pháp thu hút đần tư
Để thu hút hơn nữa đầu tư của các nước trong khu vực, đặc biệt là những đối tác tiềm
năng, các cơ quan chức năng của Việt Nam đang thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng trong
việc rà soát, phân loại các dự án từ các quốc gia ASEAN để có biện pháp hỗ trợ, giải
quyết triệt để các khó khăn đặt ra trong quá trình đầu tư như thủ tục hành chính, giải
phóng mặt bằng…
Cụ thể trong trường hợp của Singapore, việc thúc đẩy các dự án đã được cấp phép
triển khai thực hiện sớm đang là ưu tiên của Chính phủ. Hiện hai bên cũng đang xúc tiến

điều chỉnh “Cơ chế chấp thuận nhanh trong cấp Giấy chứng nhận đầu tư” giữa Bộ Kế
hoạch và Đầu tư Việt Nam và Cơ quan Phát triển kinh tế Singapore để phù hợp với điều
kiện mới.
Đối với Malaysia, chính phủ hai nước đã thông qua cơ quan quản lí hoạt động FDI
tiếp tục hỗ trợ các dự án đầu tư đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư ngưng đang gặp khó
khăn trong quá trình hoạt động.
Chúng ta chủ trương xúc tiền đầu tư từ Malaysia vào Việt Nam trong một số lĩnh vực
như dầu khí, luyện kim, hóa chất, xây dựng khách sạn, khu đô thị mới, sản xuất đồ gia
dụng, chế biến gỗ, chế biến thực phẩm, chế biến, nuôi trồng hải sản, giáo dục, đào tạo, kể
cả đào tạo ngắn hạn để cung cấp lao động sang Malaysia
Về đối tác đầu tư, ngoài các công ty Malaysia, hướng vận động đầu tư vào tập đoàn
lớn đang đầu tư tại Makaysia nhằm đưa Việt Nam vào hệ thống sản xuất trong khu vực
của các công ty đa quốc gia, các tập đoàn lớn đang được các ban ngành của Việt Nam hết
sức chú ý.
Mặt khác, trong thời gian tới, một biện pháp nữa đang được triển khai nhằm thúc đẩy
hợp tác đầu tư giữa Việt Nam và các nước thành viên là khuyến khích và hỗ trợ đầu tư
của doanh nghiệp Việt Nam sang các nước ASEAN thông qua đại diện ngoại giao tại các
nước ASEAN bằng hình thức hội thảo, trao đổi thông tin của doanh nghiệp các nước
hoặc tổ chức các đoàn doanh nghiệp hai nước đi khảo sát thị trường lẫn nhau.
●Đầu tư từ Việt Nam vào các nước thành viên ASEAN
Tính đến tháng 12 năm 2008, qua gần 20 năm thực hiện hoạt động đầu tư ra nước
ngoài, Việt Nam có 368 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư


đăng ký hơn 4,39 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 1,2 tỷ USD, chiếm 27% tổng vốn
đăng ký.
Quy mô vốn đầu tư bình quân 11,9 triệu USD/dự án và tăng dần qua từng giai đoạn,
điều này cho thấy tác động tích cực của khuôn khổ pháp lý đối với hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như sự trưởng thành về mọi mặt
của doanh nghiệp nhà nước tham gia vào hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Các

quốc gia tiếp nhận đầu tư của các Việt Nam chủ yếu là Lào, Camphuchia và Malaysia.
Lào
Lào là quốc gia dẫn đầu về đầu tư Việt Nam ra nước ngoài Tính đến tháng 12/2008,
Việt Nam và Lào đã có 142 dự án đầu tư tại Lào với tổng giá trị hơn 758.609.396 USD. .
Trong đó, phía Việt Nam đầu tư 91 dự án 100% vốn ( chiếm 42% tổng vốn đầu tư ra
nước ngoài) và 51 dự án liên doanh với Lào.
Các dự án đầu tư của Việt Nam sang Lào tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực công
nghiệp với 77 dự án, tổng vốn đầu tư là 1,05 tỷ USD (chiếm 52,7% số dự án và 69% vốn
đầu tư); tiếp theo là lĩnh vực Nông-Lâm nghiệp với 47 dự án (chế biến gỗ, trồng và khai
thác mủ cao su), tổng vốn đầu tư là 427,2 triệu USD (chiếm 32% số dự án và 28% vốn
đầu tư); lĩnh vực Dịch vụ có 22 dự án với tổng vốn đầu tư là 44,9 triệu USD (chiếm 15%
số dự án và 2,94% vốn đầu tư).
Campuchia
Theo Bộ Thương mại Campuchia, vốn đầu tư của Việt Nam vào Campuchia trong
những năm gần đây ngày càng tăng cao, riêng năm 2007 đã tăng 115 triệu USD; năm
2008 có có 34 hạng mục với kim ngạch là 153 triệu USD ( chiếm 6,3%), và sẽ tiếp tục
tăng mạnh trong năm nay.
Các nhà đầu tư Việt Nam đã tập trung vào những lĩnh vực như thủy điện, khai khoáng
và viễn thông, với nhiều dự án lên đến hàng trăm triệu USD.
Việc các nhà đầu tư Việt Nam đẩy mạnh đầu tư vào Campuchia trong những năm
qua đã giúp quan hệ hợp tác thương mại giữa hai nước tăng nhanh: năm 2001, kim ngạch
thương mại giữa hai nước chỉ ở con số 184 triệu USD, đến năm 2006 đã tăng lên 940
triệu USD; và năm 2007, tăng lên mức kỷ lục là hơn 1,1 tỷ USD.
Malaysia
Hiện Việt Nam có 7 hạng mục đầu tư tại Malaysia với 162,89 triệu USD.
Indonesia
Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam sang Inđônêxia mới chỉ tập trung vào việc
thăm dò và khai thác dầu khí.
Biện pháp đẩy mạnh đần tư ra nước ngoài
Đầu tư ra nước ngoài là xu hướng tất yếu, khách quan của các doanh nghiệp

Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Để thúc đẩy các doanh nghiệp
Việt Nam đầu tư ra nước ngoài thì:
-Nhà nước khẩn trương xây dựng đề án về cơ chế hỗ trợ, khuyến khích để thúc đẩy
hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước theo chỉ đạo của Thủ
tướng. Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư và nghiên cứu thị trường, luật pháp, chính
sách, tìm hiểu môi trường và cơ hội đầu tư để hướng các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư
có hiệu quả tại những thị trường này.
-Trong thời gian tới các cơ quan chuyên môn sẽ trình Chính phủ việc phân cấp quản
lý đầu tư ra nước ngoài để các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài dễ hoạt động. Đồng


thời yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện chế độ báo cáo thống kê định kỳ làm cơ sở đánh
giá tình hình thực hiện các dự án đầu tư ra nước ngoài để có chính sách phù hợp, kịp thời.
về phía cơ quan quản lý nhà nước sẽ liên tục tổ chức thu thập thông tin về môi trường đầu
tư tại các nước để cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước đang có ý định đầu tư ra
nước ngoài về như: chính sách thu hút đầu tư, các dự án kêu gọi đầu tư, luật pháp chính
sách liên quan đến hoạt động đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
tiềm năng và cơ hội đầu tư trong một số ngành, lĩnh vực cụ thể tại nước mà doanh nghiệp
Việt Nam muốn đầu tư vào. Công bố thông tin về các dự án đầu tư cụ thể đã được Chính
phủ Việt Nam ký với nước ngoài...
-Nhà nước sẽ hỗ trợ nguồn vốn đầu tư cho những dự án thực hiện tại nước ngoài mà
có tác động tới sự phát triển kinh tế của nước ta như: dự án điện để xuất khẩu điện về
Việt Nam, dự án khai thác khoáng sản để thay thế nhập khẩu phục vụ sản xuất chế biến
trong nước...

b.Tình hình xuất nhập khẩu
Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, với những tác động tích cực từ chính
sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước theo hướng thị trường, mở cửa và hội nhập
kinh tế, năng lực sản xuất của nền kinh tế đã được giải phóng, lực lượng sản xuất trong
nước phát triển mạnh mẽ. Cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng tích cực, dần dần từ

sản xuất nhằm thay thế hàng nhập khẩu sang sản xuất nhằm mục đích xuất khẩu. Sản xuất
hàng xuất khẩu đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng các mặt hàng chế biến,
giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, đa dạng hóa chủng loại sản phẩm hàng hóa. Hàng hóa
nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu. Thị
trường xuất - nhập khẩu cũng tăng trưởng nhanh theo hướng đa dạng hóa.
Đi đôi với quan hệ hợp tác đầu tư, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước
ASEAN cũng không ngừng phát triển, đặc biệt là kim ngạch trao đổi thương mại tăng lên
nhanh chóng. Đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam cũng như các
nước thành viên ASEAN.
Về tình hình xuất khẩu:
Vào khoảng 4 tháng đầu năm 2009, nhìn chung tình hình xuất khẩu so với 4 tháng
đầu năm 2008 đã giảm đáng kể. Điều này lẽ nhiên không thể tránh được vì nước ta cũng
bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Theo Tổng cục thống kê, kim
ngạch xuất khẩu sang thị trường ASEAN vào thời điểm đầu năm nay là 2,80 tỉ USD.
Việc thực hiện đầy đủ các cam kết theo CEPT/AFTA đã và đang tạo điều kiện thuận lợi
cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước ASEAN. Tuy nhiên, những
lợi thế này vẫn chưa được các doanh nghiệp tận dụng để thâm nhập vào thị trường khu
vực và thế giới. Định hướng xuất khẩu một số mặt hàng vào thị trường ASEAN được xác
định như sau:
Đá quý, kim loại & sản phẩm: kim ngạch mặt hàng này trong 4 tháng đầu năm nay là
1,00 triệu USD với thị trường nhập khẩu thuộc ASEAN duy nhất là Thái Lan.
Dầu thô: xuất khẩu đạt 1,2 triệu tấn, giá trị xuất khẩu dầu thô là 834 triệu USD. Thị
trường nhập khẩu: Singapore: 1,16 triệu tấn, Malaysia: 942 nghìn tấn, Thái Lan: 196
nghìn tấn và Indonesia: 74,90 nghìn tấn.
Than đá: lượng xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2009 là 264,74 nghìn tấn với giá trị xuất
khẩu 25,82 triệu USD. Với thị trường xuất khẩu: Thái Lan: 163 nghìn tấn, Indonesia:
52,74 nghìn tấn, Lào: 28,98 nghìn tấn, Malaysia: 19,15 nghìn tấn.


Hàng dệt may: trị giá xuất khẩu trong nhóm hàng này là 59,44 triệu USD. Thị trường

nhập khẩu thuộc ASEAN lớn nhất là Indonesia: 15,81 triệu USD, tiếp đến là Singapore:
11,92 triệu USD…
Giày dép các loại: do trùng hợp về cơ cấu xuất khẩu nên Việt Nam khó có khả năng
thâm nhập mạnh vào thị trường ASEAN. Tuy vậy trị giá giày dép xuất khẩu đạt 16,61
triệu USD. Trong đó, xuất sang Malaysia: 6,01 triệu USD, Singapore: 3,81 triệu USD,
Thái Lan: 3,20 triệu USD…
Gỗ và sản phẩm gỗ: Trong quý đạt được 6,25 triệu USD, Malaysia: 4,39 triệu USD…
Gạo: kim ngạch xuất khẩu trong quý I/2009 đạt 700 triệu USD với sản lượng 1,36 triệu
tấn. Có thể nói, ASEAN tiếp tục là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu gạo ở Việt Nam. Đặc
biệt là Philipines: 993 nghìn tấn, Malaysia: 268 nghìn tấn, Singapre: 86 nghìn tấn,
Indonesia: 17 nghìn tấn… đây là những nước thường xuyên xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Do lợi thế về vận tải và nhu cầu gạo phẩm cấp thấp, phù hợp với sản xuất của Việt Nam
nên thị trường ASEAN vẫn được xác định là thị trường xuất khẩu gạo quan trọng của
Việt Nam.
Hàng hải sản: Tuy các nước ASEAN cũng xuất khẩu thủy sản, nhưng Việt Nam vẫn có
thể thâm nhập vào thị trường này dễ dàng. Hết quý I/2009, xuất khẩu 58,35 triệu USD.
Với thị trường nhập khẩu: Thái Lan: 21,52 triệu USD.
Tuy nhiên, để đẩy mạnh xuất khẩu, ngoài vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, việc ký thoả
thuận về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm giữa các cơ quan quản lý chất lượng các
nước ASEAN là rất cần thiết.
Cao su: trong quý đạt 3,97 nghìn tấn, giá trị xuất khẩu: 5,29 triệu USD. Thị trường nhập
khẩu: Malaysia: 3,44 nghìn tấn…
Cà phê: xuất khẩu trong quý là 25 nghìn tấn, đạt kim ngạch 38 triệu USD. Thị trường
nhập khẩu: Singapore: 9,18 nghìn tấn, Philipines: 7,44 nghìn tấn…
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: Đây là mặt hàng chủ yếu do các công ty
liên doanh tại Việt nam sản xuất và xuất khẩu sang các nước ASEAN. trong quý xuất
khẩu 153 triệu USD. Thị trường nhập khẩu: Thái Lan: 73 triệu USD, Singapore: 40,88
triệu USD, Philipines: 22,99 triệu USD, Malaysia: 10,46 triệu USD…
Như vậy, trong suốt 4 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Philipines
là 685 triệu USD, tiếp đến là Singapore với 664 triệu USD và đứng thứ ba là Malaysia

596 triệu USD.
Thực hiện Hiệp định CEPT/AFTA, hầu hết thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu của
các nước ASEAN chỉ còn ở mức từ 0-5%. Đây là lợi thế mà các doanh nghiệp Việt Nam
có thể sử dụng để đưa hàng hóa của Việt Nam vào các nước trong khu vực. Các mặt hàng
có kim ngạch xuất khẩu khá lớn khác sang ASEAN là linh kiện điện tử, vi tính, hải sản,
hàng dệt may..., hầu hết đều được Việt Nam và các nước ASEAN đưa vào trong danh
mục IL để thực hiện CEPT/AFTA từ khá sớm, nhưng kim ngạch xuất khẩu sang các nước
ASEAN không ổn định, năm tăng năm giảm. Điều đáng chú ý là các mặt hàng xuất khẩu
của Việt Nam sang ASEAN gồm: nông sản, hải sản và khoáng sản thô, sơ chế có giá trị
thấp, hàm lượng giá trị gia tăng không cao. Những mặt hàng này tuy hầu hết đều được
hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi CEPT tại các nước nhập khẩu nhưng do có giá trị thấp, giá
cả phụ thuộc vào biến động trên thế giới, nên kim ngạch xuất khẩu không ổn định. Trừ
mặt hàng linh kiện điện tử và vi tính, hàng công nghiệp tiêu dùng có hàm lượng chế biến
và giá trị gia tăng như may mặc, giày dép... chỉ chiếm tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng
kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN.


Biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các nước ASEAN: (phần này tao đang
thắc mắc là không biết có nên thêm vào hay không)
Để đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước ASEAN, tham gia vào việc hội nhập quốc tế
nói chung và hội nhập khu vực nói riêng, doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm một số
vấn đề sau đây:
- Nắm bắt kịp thời những biến động trên thị trường thế giới cũng như ở các nước
ASEAN có ảnh hưởng nhiều tới giao dịch và giá cả; tiếp đó là tình hình chính trị thiếu ổn
định ở một số nước cũng tác động mạnh đến quan hệ thương mại và khả năng xuất khẩu
của doanh nghiệp Việt Nam. Có như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam mới điều chỉnh tốt
chính sách thị trường, giá cả trong giao dịch.
- Từ nay đến năm 2020, thị trường châu Á và các nước ASEAN vẫn tiếp tục giữ tỷ
trọng nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tương đối cao, doanh nghiệp Việt Nam cần tận
dụng lợi thế vị trí địa lý gần và đây hầu hết là các thị trường buôn bán truyền thống, để

đẩy mạnh những mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô, hải sản, sản phẩm điện tử và
máy vi tính, hàng dệt may, gạo, cao su và than đá...
- Tăng cường cơ chế hợp tác thay cho sự cạnh tranh trên thị trường, nhất là việc
cùng giao dịch chào bán và tham gia đấu thầu các mặt hàng nông sản như gạo, cà phê,
cao su... mà Việt Nam và một số nước trong khu vực đều là nước có thế mạnh xuất khẩu,
tránh được sự ép giá của các nhà nhập khẩu. Điển hình là mặt hàng gạo trong nhiều năm
qua, Việt Nam và Thái Lan đã hợp tác xuất khẩu nên đã nâng được giá cả trên thị trường
thế giới, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nông dân. Việc hợp tác tham gia đấu
thầu và xuất khẩu gạo tại thị trường Philippin, Inđônêxia cũng cần được hai nước chú ý
phối hợp tốt trong thời gian tới.
- Công tác xúc tiến thương mại luôn là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với xuất
khẩu. Cần xây dựng thương hiệu quốc gia và thương hiệu riêng cho các sản phẩm xuất
khẩu của Việt Nam để đảm bảo chất lượng, ổn định thị trường tiêu thụ và thu hút sự quan
tâm của khách hàng ngày càng nhiều.
- Củng cố hoạt động của các Cơ quan thương vụ ở nước ngoài. Việc thành lập các
phòng trưng bầy giới thiệu sản phẩm tại các nước phải được các cơ quan thương vụ quan
tâm hơn.
Về tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam với các nước thành viên ASEAN:
Trong những năm qua, Malaysia là thị trường tiếp nhận nhiều lao động từ Việt Nam
nhất. Trong các năm 2005–2007, mỗi năm quốc gia này tiếp nhận khoảng 30.000 lao
động Việt Nam. Năm 2008, do lo ngại nhiều rủi ro cũng như khan hiếm nguồn lao động,
số người Việt sang Malaysia giảm hẳn, chưa tới 10.000. Ngoài ra, thì còn có thêm
Bruney với một thị trường được đánh giá là rất có tiềm năng và cả Singapore.
Tuy nhiên những lao động được xuất khẩu chủ yếu là từ các khu vực nông thôn trên
khắp đất nước và họ hầu hết là không có tay nghề, chỉ có thể làm những công việc cơ bắp
giản đơn và được trả công thấp ở nước ngoài. Thông tin cung cấp không đầy đủ về nơi
làm việc, điều kiện sống, hệ thống luật pháp ở những nước tiếp nhận lao động và hợp
đồng lao động là rất phổ biến. Sự ổn định công việc và lương thấp cũng là những vấn đề
lớn ở thị trường lao động nước ngoài, đặc biệt là Malaysia. Mặt khác, xu hướng chung
của các thị trường tiếp nhận lao động hiện nay là đòi hỏi những lao động phải có tay

nghề, trình độ ngoại ngữ nhất định. Và vấn đề đặt ra là dù cho có được đào tạo hay không
thì trình độ tay nghề cũng như ngoại ngữ chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường tiếp nhận


lao động. Đây là vấn đề gây trở ngại lớn cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu lao động
của nước ta.
Do ảnh hưởng suy giảm kinh tế thế giới nên tình hình xuất khẩu lao động của nước ta
cũng gặp khó. Đó là việc tại các thị trường, lực lượng lao động nước ngoài đã bị cắt giảm
đáng kể. 02/03/09, chính phủ Malaysia đã ra quyết định tạm dừng tiếp nhận mới lao động
nước ngoài vào làm việc trong một số lĩnh vực: điện, điện máy… gây không ít khó khăn
cho nước ta. Chính vì vậy, để giải quyết được những khó khăn trên, trước mắt cần phải
tìm cách tăng cường mở rộng thị trường tiếp nhận lao động, đào tạo tay nghề, nâng cao
trình độ ngoại ngữ cho lao động xuất khẩu…
Về tình hình nhập khẩu:
Vào quý I/2009, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu trong 4 tháng đầu 2009 là 3,51 tỷ USD.
Tương ứng với các mặt hàng như:
Nhóm hàng nguyên phụ liệu, dệt, may, da, giầy: tổng trị giá nhóm hàng này là 13 triệu
USD. Nhập khẩu nhóm hàng này xuất xứ từ Thái Lan: 24,47 triệu USD….
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: Tổng kim ngạch là 212 triệu USD. Đây là nhóm
hàng dẫn đầu về kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Nhóm hàng này được nhập khẩu
từ VN có xuất xứ: Thái Lan: 88 triệu USD, Malaysia: 52,41 triệu USD, Singapore: 49
triệu USD…
Phân bón các loại: lượng nhập khẩu nhóm hàng này vào VN là 164 nghìn tấn với kim
ngạch nhập khẩu là 64 triệu USD. Trong đó, được nhập khẩu từ các nước: Philipines: 146
nghìn tấn …
Xăng dầu các loại: tổng lượng xăng dầu các loại nhập khẩu 4 tháng là 2,25 tỷ tấn, kim
ngạch nhập khẩu nhóm hàng này 850 triệu USD.Trong đó, tính đến hết 4/2009, nhập
khẩu xăng dầu các loại xuất xứ chủ yếu từ Singapore với hơn 2 triệu tấn, chiếm 44% tổng
lượng nhập khẩu nhóm hàng này của cả nước. Ngoài ra, còn có Thái Lan: 128 nghìn tấn,
Malaysia: 123 nghìn tấn.

Sắt thép các loại: Tính đến hết tháng 4, lượng sắt thép các loại nhập khẩu là 331 triệu
tấn; đơn giá bình quân nhập khẩu nhóm hàng này là 523 USD/tấn. Đây là một trong các
nhóm hàng nhập khẩu chủ lực có kim ngạch giảm rất mạnh so với năm 2008 và đóng góp
nhiều nhất vào mức giảm kim ngạch nhập khẩu của năm nay. Hết tháng 4, VN nhập khẩu
nhóm hàng này có xuất xứ từ Malaysia: 143 nghìn tấn, Indonesia: 61 nghìn tấn…
Thức ăn gia súc & nguyên liệu: kim ngạch 4 tháng đầu năm là 33 triệu.Nhập khẩu
nhóm này có xuất xứ như từ Indonesia: 15,3 triệu USD, Thái Lan: 9,44 triệu USD…
Chất dẻo nguyên liệu: lượng chất dẻo nguyên liệu nhập khẩu vào VN là 191 triệu tấn,
đạt trị giá 201 triệu USD. Nhập khẩu nhóm hàng này có xuất xứ từ Thái Lan: 91 triệu
USD, Singapore: 57 triệu USD…
Ôtô nguyên chiếc các loại và linh kiện, phụ tùng ôtô: lượng ôtô nguyên chiếc nhập
khẩu đến hết tháng 4/2009, cả nước nhập khẩu 343 nghìn chiếc với kim ngạch nhập khẩu
là 6 triệu USD. Trong 4 tháng đầu năm 2009, ô tô nguyên chiếc được nhập khẩu vào Việt
Nam có xuất xứ từ ASEAN: Thái Lan: 305 nghìn chiếc…Trị giá nhập khẩu linh kiện &
phụ tùng trong 4 tháng là 93 triệu USD.
Như vậy, nhập khẩu của hầu hết các mặt hàng trên đều giảm cả về khối lượng và trị
giá so với cùng kỳ. Nguyên nhân là do nhu cầu giảm, giá nhập khẩu giảm, thậm chí một
số mặt hàng giảm đến hơn 50% như dầu mỡ động thực vật, thép các loại, ôtô nguyên
chiếc, xăng dầu.


Trong 4 tháng đầu năm 2009, lượng nhập khẩu có giảm. Tuy nhiên vẫn có sự chênh
lệch khá lớn giữa trị giá xuất khẩu (2,80 tỷ USD) và nhập khẩu (3,51 tỷ USD). Vì vậy, để
đẩy mạnh xuất khẩu và giảm nhập siêu, các chuyên gia thương mại khuyến cáo doanh
nghiệp Việt Nam phải nâng cao hơn nữa sức cạnh tranh cho hàng hóa, tận dụng những lợi
thế ASEAN là thị trường gần, có nhiều nét tương đồng, dân số đông, tốc độ tăng trưởng
cao, chi phí cho quảng cáo và tiếp thị thấp. Những cơ hội này nếu biết tận dụng sẽ giúp
các doanh nghiệp thâm nhập sâu hơn vào các nước thành viên ASEAN để tăng thị phần
và xây dựng thương hiệu của mình. Bên cạnh đó, còn có nhiều giải pháp như kiểm soát
chặt nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu theo thứ tự ưu tiên cho những mặt hàng thiết yếu là

đầu vào cho sản xuất và xuất khẩu, khống chế cho vay đối với doanh nghiệp nhập khẩu
tiêu dùng, tăng biểu thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, áp dụng
thu thuế ngay tại cửa khẩu khi thông quan…

c. Viện trợ phát triển chính thức(ODA) của các nước ASEAN đối với Việt
Nam
Ở một số nền kinh tế như Đài Loan, Singapore…người ta thích vay ODA hơn là đầu
tư trực tiếp vì họ không muốn có “sự thâm nhập sâu” của tư bản nước ngoài trong nền
kinh tế của họ. Dĩ nhiên điều này chỉ xảy ra khi các nền kinh tế này đã phát triển cao và
trên thực tế, họ cần vốn chứ không “cần công nghệ đi theo vốn” và những kĩ năng sử
dụng vốn có hiệu quả như Việt Nam trong giai đoạn đầu “lột xác” từ hai nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường.
Trước đây, Việt Nam chủ yếu nhận ODA từ các nước trong hội đồng tương trợ kinh
tế, trong đó đại bộ phận từ Liên Xô cũ dưới hình thức nhận thiết bị toàn bộ và bù đấp
nhập siêu thương mại. Kể từ năm 1991 trở đi, tức là sau sự sụp đỗ của Liên Xô, lượng
ODA mà Việt Nma nhận được là không lớn(12USD/ đầu người/ năm)
Còn hoạt động ODA của các nước ASEAN đối với Việt Nam chưa có gì đáng kể. Tại
hội nghị các nhà tài trợ họp tại Pari vào tháng 11-1993, các nước và các tổ chức quốc tế
cam kết tài trợ cho Việt Nam. Trong thời gian qua, cộng đồng tài trợ tại Việt Nam đã
được mở rộng rất nhiều và hiện có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và
23 nhà tài trợ đa phương đang hoạt động thường xuyên tại Việt Nam.
Ngoài nguồn vốn tài trợ ODA, ở Việt nam còn có khoảng 600 các tổ chức phi Chính
phủ quốc tế hoạt động với số tiền viện trợ hàng năm lên đến 200 triệu USD trong nhiều
lĩnh vực khác nhau, liên quan trực tiếp đến đời sống người dân tại các vùng nông thôn,
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Thông qua 15 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (gọi tắt là
Hội nghị CG) thường niên, tổng vốn ODA đã được các nhà tài trợ cam kết đạt 42,438 tỷ
USD với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước, kể cả những năm kinh tế thế giới gặp
khó khăn như khủng hoảng tài chính khu vực châu Á vào năm 1997.
Số vốn ODA cam kết nói trên được giải ngân dựa trên tình hình thực hiện các chương

trình và dự án được ký kết giữa Chính phủ và các nhà tài trợ. Từ năm 1993 đến nay (tính
đến hết tháng 10 năm 2008), Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ đã ký các điều ước
quốc tế cụ thể về ODA với tổng số vốn đạt 35,217 tỷ USD, chiếm 82,98% tổng vốn ODA
cam kết trong thời kỳ này, trong đó vốn ODA vay ưu đãi chiếm khoảng 80%, vốn ODA
không hoàn lại chiếm khoảng 20%.
Việt Nam nhận thức rằng cam kết vốn ODA mới chỉ là sự ủng hộ về chính trị của
cộng đồng tài trợ quốc tế, việc giải ngân nguồn vốn này nhằm tạo ra các công trình, sản


phẩm kinh tế - xã hội cụ thể để đóng góp vào quá trình phát triển của đất nước mới là
quan trọng.
Trong thời kỳ 1993-2008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008), tổng vốn ODA giải ngân
đạt 22,065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và 62,65% tổng vốn ODA ký kết.
Có thể nhận thấy trong thời kỳ này tình hình giải ngân vốn ODA có những cải thiện
nhất định với chiều hướng tích cực qua các năm. Tuy nhiên, mức giải ngân này vẫn chưa
đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và tỷ lệ giải ngân
vẫn còn thấp hơn mức trung bình của thế giới và khu vực đối với một số nhà tài trợ cụ
thể.
BIỂU ĐỒ CAM KẾT, KÝ KẾT, GIẢI NGÂN TỪ 1993 - 2008

Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội - Những ngành và lĩnh vực ưu tiên sử dụng
vốn ODA
Căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư và định hướng phát triển theo ngành, lĩnh vực và vùng
lãnh thổ đề ra trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ Việt
Nam đã đưa ra định hướng chiến lược, chính sách và những lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn
ODA cho từng thời kỳ. Gần đây nhất, trên cơ sở tham vấn rộng rãi các nhà tài trợ, ngày
29 tháng 12 năm 2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 290/2006/QĐ-TTg
phê duyệt Đề án thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 20062010. Năm lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2006-2010 bao
gồm:
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ

sản kết hợp xóa đói, giảm nghèo).
- Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát triển và một
số lĩnh vực khác).
- Bảo vệ môi truờng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.


- Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ,
nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
Cơ cấu vốn ODA theo các điều ước quốc tế về ODA đã được ký trong thời kỳ 19932008 (tính đến hết tháng 10 năm 2008) phù hợp với những định hướng ưu tiên sử dụng
vốn ODA nêu trên

3.Tác động của ASEAN đối với Việt Nam.
Trong quá trình phát triển, việc nước ta gia nhập ASEAN là một tất yếu. Việc nước ta
gia nhập ASEAN ta có cả tác động tích cực và tiêu cực đối với nền kinh tế và quốc
phòng. Chúng ta cần phát huy mạnh các yếu tố tích cực để chủ động hội nhập và phát
triển, đồng thời khắc phục đến mức thấp nhất những tiêu cực do hội nhập mang lại để
phát triển đất nước một cách bền vững. Về quốc phòng, những phân tích của tác giả cho
chúng ta thấy những thế mạnh cần phát huy và những khiếm khuyết cần khắc phục để
bảo vệ tổ quốc song song với xây dựng và phát triển đất nước.
Một trong những mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự hội nhập khu vực của Việt Nam
về kinh tế là việc nước ta gia nhập ASEAN (28/7/1995). Đó là bước khởi đầu có ý nghĩa
quan trọng , tạo cho Việt Nam thế và lực mới để phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH),
củng cố chủ quyền an ninh quốc gia, tăng cường sức mạnh quân sự của đất nước, góp
phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, quá trình đó cũng làm xuất hiện những nguy cơ và thách
thức to lớn đối với công cuộc xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng. Dưới đây chúng
tôi đi vào phân tích một số tác động của việc Việt Nam tham gia asean về kinh tế đến sự
nghiệp quốc phòng hiện nay:


a.Về mặt thuận lợi
Thứ nhất: Việc tham gia asean cho phép tăng cường tiềm lực kinh tế và tiềm lực
kinh tế quân sự của đất nước.
Gia nhập ASEAN, tham gia vào các chương trình hợp tác kinh tế khu vực, Việt Nam
có điều kiện để học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm phát triển của các nước; có điều kiện mở
rộng thị trường, thu hút đầu tư của các nước trong và ngoài khối; có cơ hội đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) và mở rộng thương mại. Nhờ đó thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Sự phát triển của lực lượng sản xuất lại tạo điều kiện để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động xã hội, tăng tổng sản
phẩm xã hội, tăng khối lượng sản phẩm vật tư, trang thiết bị để cung cấp cho quốc phòng;
tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước - cơ sở để tăng nguồn chi cho quốc phòng. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất nhờ tham gia asean còn tác động đến sự phát triển của
các bộ phận cấu thành tiềm lực kinh tế quân sự. Đó là một bộ phận của các ngành kinh tế
dân dụng như công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, thông tin... công
nghiệp quốc phòng.
Hội nhập về kinh tế vào ASEAN thông qua các chương trình liên kết kinh tế, hợp tác
song phương, đa phương trên các lĩnh vực thương mại, khoa học và công nghệ
(KH&CN), tài chính, giao thông vận tải, thông tin liên lạc...sẽ góp phần thúc đẩy sự phát
triển của tất cả các ngành, vùng, thành phần kinh tế. Sự phát triển của các ngành kinh tế
rộng khắp trên cả nước lại trực tiếp làm tăng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hậu cần của
nền quốc phòng, thúc đẩy công nghiệp quốc phòng phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất
của các doanh nghiệp kinh tế, kinh tế - quốc phòng; góp phần phân bố hợp lý nguồn nhân
lực, xây dựng lực lượng chiến đấu tại chỗ trong các khu vực phòng thủ và trên cả nước.


Thứ hai: Tham gia ASEAN cho phép thúc đẩy tiềm lực KH&CN quân sự từng
bước phát triển.
Phát triển kinh tế đối ngoại, mà trước hết với các nước ASEAN là nguồn lực quan
trọng trực tiếp thúc đẩy KH&CN của đất nước phát triển. Tiềm lực KH&CN quốc gia
mạnh là nền tảng vững chắc cho sự phát triển của KH&CN quân sự.

Cùng với việc tích cực hội nhập về kinh tế, Việt Nam cũng tích cực tham gia ngay
vào các chương trình hợp tác khác của ASEAN, trong đó có chương trình hợp tác
KH&CN . Hợp tác KH&CN của asean được tiến hành trên nhiều lĩnh vực: KH&CN về
lương thực; khí tượng và vật lý địa cầu; vi điện tử và công nghệ thông tin; công nghệ sinh
học; KH&CN vật liệu; nghiên cứu năng lượng phi truyền thống; khoa học về biển; phát
triển hạ tầng và tiềm lực KHCN. Ngoài ra, các nước asean còn tiến hành hợp tác với nhau
trong lĩnh vực viễn thám, nối mạng thông tin KH&CN, đào tạo nguồn nhân lực...
Tất cả những lĩnh vực hoạt động đó đều mang tính lưỡng dụng vì thế sự tham gia
ASEAN không chỉ thúc đẩy tiềm lực KH&CN quốc gia từng bước phát triển mà còn tiếp
trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy tiềm lực KH&CN quân sự phát triển. Sự mở rộng hợp tác
kinh tế Việt Nam với ASEAN đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nhờ đó có
điều kiện thúc đẩy sự phát triển của ngành giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học từ phổ
thông đến đại học, sau đại học. Đó là cơ sở bổ sung nhân lực có chất lượng cao để tăng
cường tiềm lực KH&CN của đất nước nói chung và quân sự nói riêng. Mặt khác, thông
qua các hình thức tiếp nhận và chuyển giao công nghệ như: Đào tạo, hội thảo khoa học,
triển lãm, hội chợ...mà cán bộ khoa học trong lĩnh vực quân sự được đào tạo và đào tạo
lại, mở rộng nhiều chuyên ngành mới; nhờ đó khả năng nắm bắt, thích ứng, làm chủ tri
thức công nghệ hiện đại cho đội ngũ cán bộ khoa học quân sự được tăng cường. Góp
phần tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật thông tin cho công tác nghiên cứu
khoa học quân sự. Đây là nhân tố quan trọng của tiềm lực khoa học quân sự, mà mức độ
hiện đại của nó phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế, vào quá trình chuyển
giao công nghệ trong nước và quốc tế.
Trong điều kiện hội nhập ASEAN, hợp tác về KH&CN sẽ góp phần cung cấp thiết bị,
phương tiện công nghệ cao đáp ứng yêu cầu đổi mới đồng bộ các cơ sở vật chất cho
nghiên cứu KH&CN, cải tiến phương tiện hiện có đáp ứng yêu cầu trước mắt, đồng thời
xây dựng các cơ sở nghiên cứu, thí nghiệm dựa trên công nghệ cao thuộc các lĩnh vực
điện tử, tin học, vật liệu mới...phục vụ cho nghiên cứu triển khai ở các ngành KH&CN
quân sự. Thông qua chuyển gia công nghệ trong nước và khu vực chúng ta có khả năng
hoàn thiện hệ thống đo lường, kiểm định, phát triển công nghệ lưỡng dụng phục vụ cho
cả quốc phòng và kinh tế.

Thứ ba, tham gia ASEAN về kinh tế sẽ góp phần cải thiện thế trận quốc phòng
toàn dân
Để hội nhập vào nền kinh tế khu vực, chúng ta phải từng bước tạo ra những động lực
để phát huy nội lực, làm chuyển biến nền kinh tế từ bên trong, đồng thời mở rộng hợp tác
với các nước, để khai thác các tiềm năng về lao động, tài nguyên, chất xám và thế mạnh
của các vùng, các miền. Nhờ đó, thúc đẩy các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế
phát triển. Sự phát triển của các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế với cơ cấu hợp
lý, năng động và hiệu quả sẽ góp phần khai thác tốt nhất tiềm năng thế mạnh của các địa
phương, tạo ra cơ sở kinh tế cho việc xây dựng các đơn vị chủ lực, tạo ra lực lượng sản
xuất và chiến đấu tạo chỗ, cơ sở vật chất kỹ thuật tại chỗ; tạo điều kiện thuận lợi để triển
khai thế bố trí chiến lược và thế trận quốc phòng toàn dân.


Sự phát triển nhanh chóng các mối quan hệ kinh tế trong cộng đồng ASEAN đòi hỏi
phải tăng cường, mở rộng kết cấu hạ tầng vật chất của các quốc gia, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc giao lưu, hợp tác. Trước hết ưu tiên xây dựng các tuyến đường giao thông
nối liền các quốc gia trong khu vực với nhau. Theo kế hoạch phân công của Hội nghị bộ
trưởng giao thông vận tải ASEAN họp tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 3 / 1998, Việt Nam
sẽ tham gia vào 5 tuyến đường được mang các mã số ASEAN (các tuyến 5, 6, 7, 11, 15)
xuất phát từ Việt Nam nối với các địa điểm trên đất Lào, Campuchia, Thái Lan. Đây là
một tương lai khả quan, tạo điều kiện cho Việt Nam phát huy lợi thế về địa hình như cảng
biển, các vùng khai thác nguyên vật liệu và trở thành một trung tâm giao lưu kinh tế giữa
các nước trong khu vực. Đồng thời, góp phần tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các vùng,
miền, hình thành thế trận liên hoàn trong từng khu vực phòng thủ cũng như cả nước và
khu vực.
Thứ tư, tham gia ASEAN về kinh tế góp phần tạo môi trường chính trị - xã hội ổn
định cho việc xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần của quốc phòng.
Hội nhập vào ASEAN, Việt Nam có điều kiện để thúc đẩy ngoại thương phát triển,
tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của cả các nước trong và ngoài
ASEAN để đẩy mạnh CNH, HĐH. Nhờ đó, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, góp

phần cùng những đổi mới về cơ chế kinh tế để nước ta tránh khỏi khủng hoảng KT-XH;
nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho đại bộ phận các
tầng lớp nhân dân, trong đó có các gia đình chính sách, gia đình quân nhân; quan hệ kinh
tế đối ngoại được mở rộng; thế và lực của nền kinh tế được nâng lên, tạo ra khả năng mới
cho nước ta tham gia đầy đủ và bình đẳng vào các tổ chức kinh tế thế giới, do đó có điều
kiện để tranh thủ lợi thế của sự hợp tác, có cơ hội để đấu tranh, bảo vệ lợi ích quốc gia,
giữ vững chủ quyền...

b.Về mặt khó khăn:
Thứ nhất là: khó khăn khi tham gia vào AFTA
Tuy nhiên, việc Việt Nam hội nhập ASEAN về kinh tế cũng sẽ mang lại những
thách thức mới cho quốc phòng. Đó là, nguy cơ phụ thuộc vào nước ngoài tăng lên, nếu
Nhà nước không có chiến lược đúng đắn trong lộ trình hội nhập; những phần tử chống
đối sẽ lợi dụng để thúc đẩy chiến lược "diễn biến hoà bình".
Với tư cách là thành viên của asean, dù muốn hay không, Việt Nam cũng phải tuân
thủ "luật chơi", tham gia vào các chương trình liên kết kinh tế nội bộ khu vực, mà trước
hết là tham gia AFTA. Tham gia AFTA, Việt Nam phải từng bước xoá bỏ những rào cản
về thuế quan và phi quan thuế, hạ thấp chi phí để tăng nhanh dòng luân chuyển hàng hoá,
dịch vụ, vốn giữa các nước, tạo điều kiện cho sự phát triển chung. Chính quá trình đó sẽ
đưa hàng hoá Việt Nam vào thế phải cạnh tranh quyết liệt với hàng hoá các nước trên thị
trường Việt Nam, thị trường ASEAN và ngoài ASEAN. Điều đó dễ đưa đến nguy cơ làm
phá sản hàng loạt doanh nghiệp trong nước do không đủ sức cạnh tranh. Điều rất đáng
chú ý là nền kinh tế nước ta có điểm xuất phát thấp; máy móc thiết bị, công nghệ ở hầu
hết các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế đều thấp hơn mức trung bình của thế giới
từ 1 đến 3 thế hệ công nghệ, vì vậy khi thực hiện tự do hoá thị trường, nếu chúng ta
không có các biện pháp mạnh để sớm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế thì nguy
cơ trở thành thị trường tiêu thụ hàng hoá cho các nước ASEAN, phụ thuộc vào asean về
kinh tế là có thực. Trong điều kiện đó lợi ích quốc gia, độc lập tự chủ của nền kinh tế bị
vi phạm, cơ hội để các thế lực chống đối lợi dụng asean thực hiện chiến lược "diễn biến
hoà bình" nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta tăng lên, chủ quyền quốc gia sẽ



bị uy hiếp. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải có chiến lược đúng đắn cả về kinh tế, quốc
phòng trong lộ trình hội nhập kinh tế ASEAN.
Thứ hai là: khó khăn về trình độ quản lí của các doanh nghiệp
Tuy nhiên, nếu quá trình tiếp nhận, chuyển giao công nghệ của các ngành, các doanh
nghiệp, các thành phần kinh tế thiếu sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước thì sẽ làm tăng
nguy cơ nhập thiết bị công nghệ lạc hậu của khu vực và thế giới vào nước ta. Ngoài ra,
việc chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp nếu không thực sự đặt lợi ích quốc
gia lên trên hết cũng dễ làm lộ bí mật công nghệ quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến sức
cạnh tranh của nền kinh tế, làm chậm bước tiến của KH&CN đất nước, trong đó có tiềm
lực KH&CN quân sự.
Hơn nữa, sự hội nhập của Việt Nam vào ASEAN là sự hội nhập của nền kinh tế hàng
hoá với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Vì vậy trên khía cạnh lợi ích kinh tế,
do động cơ chạy theo lợi ích trước mắt mà khoa học cơ bản dễ bị xem nhẹ, đồng thời còn
có thể xẩy ra tình trạng chảy máu chất xám từ lĩnh vực quân sự sang dân sự, tạo ra sự
hẫng hụt về nhân lực KH&CN của quân sự. Điều đó sẽ gây khó khăn cho việc triển khai
nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng triển khai các thành tựu KH&CN hiện đại
trong các hoạt động tác chiến, chống lại chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao của đối
phương đối với nước ta trong tương lai.
Làm cho quốc phòng dễ rơi vào thế bị động, tốn kém, khó khăn trong bố trí về thế
trận nếu Nhà nước thiếu chặt chẽ trong quản lý, qui hoạch, định hướng phát triển, thiếu
kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng trong các lĩnh vực hợp tác kinh tế Việt Nam ASEAN. Bởi vì, khi đầu tư vào Việt Nam, các đối tác thường quan tâm đầu tư vào những
ngành, những lĩnh vực, những địa bàn thuận lợi, có khả năng mang lại nhiều lợi nhuận,
trong đó không loại trừ những ngành, những lĩnh vực, những địa bàn quan trọng có ý
nghĩa cả về kinh tế và quốc phòng. Cùng với tình trạng đó, sự đầu tư không cân đối giữa
các miền, các vùng sẽ dẫn đến sự phát triển không đồng đều, cân đối giữa các vùng,
miền. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng khai thác lực lượng tại chỗ để phục vụ cho
chiến đấu khi chiến tranh xảy ra. Hơn nữa, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống giao
thông cả đường bộ, đường không, đường biển sẽ làm "mềm hóa" biên giới lãnh thổ quốc

gia, làm thay đổi địa thế chiến lược của toàn khu vực, cũng như ở từng quốc gia. Do đó,
sẽ gây ra những khó khăn, phức tạp mới cho công cuộc phòng thủ của đất nước, làm
giảm đi tính chủ động và gây tốn kém cho sự bố trí thế trận quốc phòng của cả nước cũng
như từng vùng do vậy đòi hỏi Nhà nước phải có chiến lược tổng thể kết hợp kinh tế với
quốc phòng trong lĩnh vực này.

Đánh giá sự tác động của AFTA đến nền kinh tế Việt Nam
Tác động tích cực:
-Tham gia vào AFTA giúp Việt Nam đẩy mạnh quá trình hội nhập với linh tế khu vực và
thế giới.
-Kích thích mạnh mẽ Việt Nam cơ cấu kinh tế theo hướng: đẩy mạnh công cuộc công
nghiệp hóa phục vụ xuất khẩu.
-Tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam đẩy nhanh tốc độ thu hút vốn đầu tưu nước ngoài.
-Góp phần kích thích sự hoàn thiện và đổi mới.
-Tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu trong các nước trong khu vực và
thị trường trên thế giới.
Tác động tiêu cực:
-Có nguy cơ nhiều doanh nghiệp Việt Nam bị phá sản, thất nghiệp gia tăng.


-Hàng hóa khó cạnh tranh với hàng nhập khẩu có ưu thế từ các nước ASEAN khác.
-Dễ bị tác động bởi sự biến động không thuận lợi của các nước trong khu vực(khủng
hoảng 97-98).
-Ảnh hưởng đến nguồn ngân sách.
Lợi thế so sánh của các nước ASEAN khác
a.Có trình độ phát triển kinh tế đi trước Việt Nam từ 10 đến 20 năm.
b.Có nền công nghiệp chế biến tương đối phát triển, đã thâm nhập được thị trường nhiều
nước và khu vực trên Thế Giới, một số nước đã thành công với nền công nghiệp hướng
ngoại.
c. Hạ tầng cơ sở và điều kiện tiếp cận các nguồn lực thuận lợi.

d. Đã tiếp can và thâm nhập được nhiều thi trường lớn, có chỗ đứng, thị trường trong
nước đã thành hệ thống. Môt số nước có thị trường trong nước đủ lớn cho sự phát triển
độc lập của nền sản xuất trong nước.
e. Một số nước ASEAN( Malaysia và Singapore) đã làm chủ công nghệ nguồn.
f. Một số nước co đội ngũ cán bộ trẻ, chuyên môn cao, cơ cấu bộ náy kinh tế hoạt động
có hiệu quả.
Lợi thế so sánh của Việt Nam
a. Đang bước vào thời kì có nhiều nhân tố của sự phát triển nhanh.
b. Có nền nông nghiệp và nền tài nguyên tiền tàng.
c. Có nguồn nhân công dồi dào và tương đối có kĩ thuật, mang nhiều tiềm năng ( trẻ,
có văn hóa trung bình tương đối cao, có thể đào tạo nhanh thành nhân tố đột biến).
d. Còn nhiểu tiểm năng về thị trường chưa khai thác, cả trong nước và ngoài nước.
e. Điểm xuất phát còn thấp, có điều kiện chen chân vào các chỗ trống trên thị trường và
tiếp nhận công nghệ cao

c. Vị thế của Việt Nam trong ASEAN
Sau 12 năm đồng hành của ASEAN, Việt Nam đang có vai trò ngày càng lớn hơn.
Nhiều người đang nghĩ đến vị thế của Việt Nam như là một trong những quốc gia tiên
phong, định hướng cho sự phát triển của ASEAN.
ASEAN là cửa ngõ đầu tiên và then chốt cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới
của Việt Nam. Đó là bước chuyển từ tư duy đổi mới sang hành động thực tế ở cấp độ khu
vực. Gia nhập tích cực, chủ động, Việt Nam đã xóa đi những nghi kỵ trong các nước khu
vực và thế giới do những vấn đề lịch sử để lại.
Được đánh giá là nhân tố đoàn kết nội bộ trong ASEAN và cân bằng quan điểm với
bên ngoài, Việt Nam luôn kiên trì các nguyên tắc cơ bản của tổ chức. Nếu thay đổi là cần
thiết, thì sự thay đổi ấy phải được tiến hành từng bước và có được sự đồng thuận trong
ASEAN.
Tham gia vào Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) và từng bước tiến nhanh, hội nhập
vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Việt Nam đã góp phần mở rộng và phát
triển số thành viên ASEAN từ 7 nước lên 10 nước, tăng cường các quan hệ kinh tế

thương mại, đầu tư và giao lưu phát triển văn hoá, thể thao... với các nước ASEAN khác.


Ngoài việc nỗ lực với các hoạt động chung ASEAN, Việt Nam cũng luôn luôn chú ý
tăng cường hơn nữa các mối quan hệ hợp tác toàn diện về nhiều lĩnh vực với các nước
thành viên khác của ASEAN, trong đó sôi động nhất vẫn là ở lĩnh vực kinh tế. Vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức do sự chênh lệnh về trình độ phát triển, Việt Nam đã tham gia
tích cực vào các chương trình hợp tác, liên kết kinh tế như Hiệp định đầu tư ASEAN
(AIA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)....
Việt Nam có được vị thế ngày càng vững mạnh trên trường quốc tế và đặc biệt là ở
khu vực Đông Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng là do:
-Đó là Việt Nam đã thực hiện có hiệu quả cao đường lối đối ngoại rộng mở và đúng
đắn phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực
hoá hiện nay.
-Các đối tác của Việt Nam trong đó có các nước ASEAN đều đã nhìn thấy hiện thực
và tiềm năng phát triển của Việt Nam ở tất cả mọi lĩnh vực mà họ có thể hợp tác cùng
phát triển, trong đó trước hết là các lợi ích về phát triển kinh tế và nâng cao vị thế chính
trị ở khu vực và trên thế giới, vì như đã biết Việt Nam là quốc gia có vị trí tiền đồn về an
ninh chính trị đối ngoại ở Đông Nam Á và hơn thế nữa Việt Nam đang là “miền đất hứa”
có nhiều tiềm năng về các nguồn lực tài nguyên, lao động và lại đang rất ổn định về chính
trị-xã hội...
Thực tế cho thấy, đến nay Việt Nam đã có quan hệ với hầu hết các tổ chức tiền tệ và
tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB... Việt Nam cũng đã quan hệ ngoại giao và hợp tác
kinh tế với hơn 150 nước và lãnh thổ trên thế giới, đã ký kết Hiệp định thương mại Việt
Nam-Hoa Kỳ, Hiệp định đầu tư song phương với 40 nước và Hiệp định tránh đánh thuế
hai lần với 40 nước khác.

c. Thách thức
Mặc dù Việt Nam đã và đang tiếp tục tạo dựng được một vị thế vững vàng và triển
vọng phát triển sáng sủa như vậy, song nghiêm túc nhìn nhận, chúng ta còn phải nỗ lực

phấn đấu nhiều hơn nữa, cao hơn nữa để đến năm 2020 mới có thể thực hiện được mục
tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX (2001) đã đề ra là trở
thành nước công nghiệp. Trước mắt, chúng ta cần phải nỗ lực phấn đấu vượt qua một số
trở ngại, thách thức lớn nhất sau đây:
-Mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã duy trì liên tục được sự tăng trưởng khả quan, nỗi
lo về nguy cơ tụt hậu vẫn còn đó. Các số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê vào năm
2004 đã cho thấy, nếu xét theo GDP thực tế, Việt Nam hiện vẫn chỉ ở vị trí xếp hạng lớn
thứ 7 trong khối 10 nước ASEAN (ta chỉ đứng trước Brunây, Campuchia và Lào) và
đứng thứ 58 trên thế giới, vẫn thuộc vào nhóm nước nghèo.
-Một khó khăn, thách thức lớn đối với Việt Nam và có lẽ không chỉ riêng với Việt
Nam mà kể cả số các nước khác trong khối ASEAN đang vẫn còn tồn tại ít nhiều những
nét chưa tương đồng về trình độ phát triển kinh tế, đời sống văn hoá, thể chế chính trị - xã
hội...
-Bất cập của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu cao của hội nhập quốc tế và khu
vực; những yếu kém của cơ chế quản lý hành chính Việt Nam hiện nay mặc dù chúng ta
đã cải cách, đổi mới nhiều...
Ngoài ra còn những khó khăn, thách thức lớn từ bối cảnh quốc tế và khu vực đưa lại,
trong đó phải kể đến sự thiếu thiện chí đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam của một số
thế lực đối lập, thậm chí thù địch với định hướng tiến lên CNXH ở Việt Nam; những đe
doạ đối với an ninh phát triển của toàn cầu, trong đó đáng lo ngại nhất hiện nay là tình


trạng môi trường thiên nhiên ngày càng xấu hơn, thiên tai, dịch bệnh do đó càng gia tăng
mạnh, chủ nghĩa khủng bố vẫn đang là hiểm hoạ lớn nhất của loài người... Những vấn đề
này đòi hỏi chúng ta phải hết sức cảnh giác, chủ động phòng chống một cách tích cực và
có hiệu quả nhất.

III.Ý nghĩa của việc Việt Nam gia nhập ASEAN
Ngày 28/7/1995 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội quốc
gia Đông Nam Á. Đến nay tổ chức này đă gồm 10 thành viên. Việc Việt Nam hội nhập

vào ASEAN là một quyết định đúng đắn, phừ hợp với xu thế chung của thế giới và khu
vực. Xét trên 3 góc độ quan trọng là an ninh quốc phòng, tăng cường hợp tác khu vực và
quốc tế, tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, trong những năm qua chúng ta đă đạt
được những kết quả rất quan trọng.
Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, tổ chức này đã có
những chuyển biến quan trọng về cả lượng và chất, trở thành nhân tố thiết yếu cho hòa
bình, ổn định và hợp tác phát triển ở Đông Nam Á, Đông Á -Thái Bình Dương và thế
giới. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN cũng là kết quả của việc thực hiện đường lối đối
ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động tích cực hội nhập khu vực và thế
giới mà Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra.
Đến nay ASEAN đă trở thành một khu vực có vị thế chính trị, có tiềm năng kinh tế
đầy triển vọng, có quan hệ với nhiều trung tâm kinh tế lớn và khu vực khác trên thế giới.
Việt Nam hội nhập ASEAN, trước hết về kinh tế là một quyết định đúng đắn, phù hợp
với xu thế phát triển chung của kinh tế thế giới và khu vực, mang lại lợi ích cho cả hai
bên. Về phía Việt Nam, kể từ khi chính thức gia nhập ASEAN, quan hệ Việt Nam ASEAN và các đối tác của ASEAN không ngừng rộng mở, sâu sắc, mang lại những
thành quả quan trọng góp phần thúc đẩy mạnh công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế và
củng cố quốc phòng an ninh.Từ quan hệ Việt Nam- ASEAN có thể nhìn ra một số bài
học kinh nghiệm đối với Việt Nam: nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ trong quan hệ với
các nước trên thế giới; sự khác nhau về chế độ chính trị, hệ tư tưởng không là rào cản
quyết định quan hệ; phát huy truyền thống hoà hiếu dân tộc, giải quyết đúng đắn các vấn
đề do lịch sử để lại.
Những thành tựu đó đạt được của Việt Nam trong quá trình hội nhập ASEAN là đáng
ghi nhận. Sự hội nhập đó đă mở ra cơ hội cho Việt Nam tiếp cận với những vấn đề quan
trọng nhất của đời sống kinh tế và hợp tác quốc tế, tạo ra những khả năng mới để tăng
cường hợp tác đa phương, song phương; củng có lợi với các nước khác vốn là những bạn
hàng thương mại và nguồn đầu tư quan trọng của Việt Nam. Là thành viên bình đẳng
trong ASEAN, hy vọng trong thời gian tới quan hệ kinh tế Việt Nam - ASEAN trong mọi
lĩnh vực sẽ được nâng lên tầm cao mới, tương xứng với tiềm năng vốn có của nó.



Lời kết
ASEAN là một khối kinh tế hình thành và phát triển trong những năm gần đây đã có
nhiều thành công đáng kể trong lĩnh vực phát triển kinh tế thương mại cũng như góp
phần ổn định chính trị ở khu vực và Thế Giới.
Quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam với các nước ASEAN thực tế là sự hợp tác
kinh tế tương ứng với các tầng nấc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với năng lực
chuyển hóa cùa ASEAN. Trong đó, Việt Nam cần phải có sự nghiên cứu chọn lọc
phương thức và mặt hang, xác định cơ cấu thị trường, Vấn đề tìm kiếm và khai thác tốt
các lợi thế so sánh, vấn đề hợp tác…để có những chính sách thích hợp.
Các quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam với các nước ASEAN đang phát triển
trên cơ sở hai chiều, trong đó giữa các nước thành viên ASEAN đang có sự cạnh tranh
giành lợi thế trên thị trường tiêu thụ và đầu tư ở Việt Nam. Tuy nhiên, hợp tác giữa Việt
Nam và các nước ASEAN đang ngày càng trở nên đa dạng hóa, bất chấp những khó
mha8n nội tại của Việt Nam và sự thiếu vắng khả năng bổ sung lẫn nhau giữa Việt Nam
và các nước này. Đây cùng là giới hạn đáng kể của sự xích lại gần nhau giữa họ về kinh
tế. Tham gia AFTA dẫn đến quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và các nước đang
từng bước được thể chế hóa và có nhiều triển vọng tốt đẹp.
Việt Nam với tư cách là thành viên đầy đủ của ASEAN là việc cần thiết vừa có lợi
cho Việt Nam, vừa có lợi cho các nước thành viên ASEAN. Bởi vì khi gia nhập ASEAN
sẽ mở ra nhiền triển vọng hợp tác và cơ hội phát triển kinh tế, nhưng đồng thời cũng đặt
ra không ít khó khăn, thách thức mà chúng ta phải cố gắn nhiều mới vượt qua được.
Đề tài giúp ta hiểu biết sâu rộng hơn về mối quan hệ Việt Nam – ASEAN qua đó giúp
ta nắm bắt được những thuận lợi cũng nhưng những thách thức đặt ra cho chúng ta trong
thời kỳ hội nhập này, từ đó giúp ta có những hành động giúp cho quan hệ Việt Nam –
ASEAN ngày càng phát triển và đưa Việt Nam ngày càng có vị thế trong khu vực và thế
giới.


×