Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Đánh giá gói kích cầu và quá trình phục hồi của nền kinh tế việt nam sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.97 KB, 37 trang )

Lời mở đầu
Trong gần một thập kỷ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1999,
kinh tế thế giới đã phát triển mạnh me, tạo ra bong bóng giá bất động sản và chứng
khoán trên nhiều quốc gia. Bong bóng nhà ở cùng với sự giám sát tài chính thiếu
hoàn thiện ở Hoa Kỳ đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này từ năm
2007, sau đó đã bùng phát mạnh từ cuối năm 2008. Thông qua quan hệ mật thiết về
tài chính nói riêng và kinh tế nói chung của Hoa Kỳ với nhiều nước, cuộc khủng
hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đổ vỡ tài
chính, suy thoái kinh tế và suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế
giới.
Việt Nam tuy không bị cuốn vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng tài chính
và suy thoái toàn cầu nhưng cũng không thể tránh khỏi những tác động của nó.
Trước những ảnh hưởng đó, chính phủ đã lần lượt đề ra các gói kích cầu nhằm cải
thiện nền kinh tế và đời sống người dân. Liệu gói kích cầu của chính phủ có phát
huy hiệu quả hay không? Cụ thể hơn, nền kinh tế của Việt Nam có được khả quan
hơn sau gói kích cầu của chính phủ hay không? Đó chính là lý do chúng tôi chọn đề
tài : “ Đánh giá gói kích cầu và quá trình phục hồi của nền kinh tế Việt Nam sau
cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008 ”

Page 1


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN : ( 1 )
Gói kích cầu hay gói kích thích kinh tế là gì?
Đó là thuật ngữ dùng để chỉ các chính sách tài khoá nhằm trợ giúp hoặc hồi
phục nền kinh tế trong suy thoái. Các gói kích thích được dùng để vực dậy hoạt
động kinh tế trong thời kỳ kinh tế suy yếu qua cách làm tăng tổng cầu. Cách thức
này thực hiện dựa trên lý thuyết cho rằng nếu hàng hoá và dịch vụ được mua nhiều
hơn, tiền thuế hoàn lại cho người dân se được sử dụng để mua sắm thì cầu se không
giảm xuống, các doanh nghiệp se không phải sa thải công nhân, như vậy cầu se
ngừng giảm và kinh tế se không tiếp tục rơi vào tình trạng suy thoái giúp vực dậy


nền kinh tế.
Nguyên tắc cơ bản để thực hiện gói kích cầu:
Nếu một gói kích cầu được thiết kế không tốt, thì mặc dù có tên gọi là gói kích
cầu, với chi phí tốn kém cũng không ‘kích thích’ được nền kinh tế. Điều này đặc biệt
đúng nếu gói kích cầu không tuân theo các nguyên tắc kinh tế học, mà lại được thiết
kế để đáp ứng các yêu cầu về chính trị hoặc theo các nhóm lợi ích. Các nhà kinh tế
học, như Lawrence Summers (giáo sư kinh tế, từng là hiệu trưởng trường đại học
Harvard, và cố vấn kinh tế cho tổng thống Mỹ Obama) cho rằng để một gói kích cầu có
hiệu quả (effective) thì phải đảm bảo ít nhất 03 tiêu chí: đó là kịp thời (timely), đúng
đối tượng (targeted) và ngắn hạn hay nhất thời (temporary).
 Nguyên tắc số 1 - Kích cầu phải kịp thời:
Kích cầu phải kịp thời ở đây không phải chỉ là việc kích cầu phải được chính
phủ thực hiện một cách nhanh chóng khi xuất hiện nguy cơ suy thoái, mà kịp thời còn
có nghĩa là một khi được chính phủ thực hiện thì những biện pháp này se có hiệu
ứng kích thích ngay, tức là làm tăng chi tiêu ngay trong nền kinh tế. Nếu để tự nền
kinh tế phục hồi thì việc phục hồi sớm muộn cũng se diễn ra, mặc dù việc phục hồi
có thể kéo dài, cho nên mục tiêu của kích cầu là đẩy nhanh việc phục hồi của nền
kinh tế. Do đó, việc kích cầu chỉ có thể được thực hiện một cách có ý nghĩa trong một
khoảng thời gian nhất định. Các chính sách mất quá nhiều thời gian để thực hiện se
không có tác dụng, vì khi đó nền kinh tế tự nó đã có thể phục hồi, và việc gói kích
cầu lúc đó lại có thể có tác dụng xấu do có khả năng làm hun nóng nền kinh tế dẫn
đến lạm phát và những mất cân đối vĩ mô lớn .
______________________
(1)

Nguồn : "Chính sách Kích cầu trong hoàn cảnh việt nam" - Nguyễn Ngọc Anh Trung
tâm Nghiên cứu Chính sách và Phát triển (DEPOCEN); Nguyễn Thắng Trung tâm Phân
tích và Dự báo(CAF-VASS); Nguyễn Đức Nhật Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phát
triển (DEPOCEN); Nguyễn Đình Chúc Đại học Aston University


 Nguyên tắc số 2 - Kích cầu phải đúng đối tượng:
Gói kích cầu có thành công hay không se phụ thuộc rất nhiều vào xu hướng chi
tiêu và đầu tư của các đối tượng thuộc diện nằm trong gói kích cầu. Để kích thích
được cầu đối với hàng hóa và dịch vụ, thì gói kích cầu phải được nhắm tới nhóm đối
tượng sao cho gói kích cầu được sử dụng ngay (chi tiêu ngay), và qua đó làm tăng
tổng cầu trong nền kinh tế. Những biện pháp kích cầu đúng đối tượng là những biện
Page 2


pháp nhắm tới các đối tượng se chi tiêu hầu như toàn bộ lượng kích cầu dành cho họ.
Mục tiêu của gói kích cầu là làm tăng cầu, nên chìa khóa để thực hiện điều này là cấp
tiền cho những người (có thể là các cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp và chính
quyền) - se sử dụng những đồng tiền này, và qua đó đưa thêm tiền vào nền kinh tế.
Tiền kích cầu phải được sử dụng để khuyến khích các nhóm đối tượng này tiến hành
các khoản chi tiêu mới, hoặc hạn chế việc các nhóm này cắt giảm chi tiêu.
Để việc kích cầu có hiệu quả thì gói kích cầu phải nhắm vào những đối tượng
sao cho một đồng tiền chi ra có hiệu ứng kích thích tiêu dùng và đầu tư cao nhất.
Theo một số nghiên cứu trên thế giới thì hiệu ứng cao nhất là dành cho bảo
hiểm thất nghiệp (unemployment benefits). Các nhóm khác nhau trong xã hội se có
xu hướng tiêu dùng cận biên khác nhau. Những người có thu nhập cao, thì chỉ có
một phần nhỏ khoản hoàn/miễn thuế (hoặc khoản tiền trợ cấp) mà họ nhận được se
được chi tiêu, trong khi những người có thu nhập vừa và thấp se có nhu cầu chi tiêu
cao hơn tính trên khoản hoàn thuế.
Tóm lại, mức độ “đúng đối tượng” (well-targeted) của gói kích cầu của Chính
phủ phụ thuộc vào: (i) mức độ chi tiêu của các đối tượng nhận được thu nhập nhờ có
gói kích cầu thông qua tác động lan tỏa diễn ra trong nhiều vòng như mô tả ở trên; và
(ii) mức độ “rò rỉ” ra hàng ngoại nhập của các chi tiêu đó ở trong mỗi vòng của tác
động lan tỏa23. Ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam, những người có thu nhập thấp
thường có mức tiêu dùng cao (tức là mức tiết kiệm thấp) trên 1 đồng thu nhập có
thêm được và lại thường tiêu dùng hàng nội. Do vậy nếu kích cầu đúng nhóm đối

tượng này thì đạt đồng thời cả hai mục tiêu là hiệu quả và công bằng, khác với sự
đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng mà trong kinh tế thường gặp.
 Nguyên tắc số 3 - Kích cầu chỉ được thực hiện trong ngắn hạn:
Nguyên tắc ngắn hạn có nghĩa là se chấm dứt kích cầu khi nền kinh tế được cải
thiện. Khi thực hiện các biện pháp kích cầu phải đảm bảo rằng các biện pháp giảm
thuế, tăng chi tiêu chính phủ đều chỉ có tính tạm thời và se chấm dứt khi nền kinh tế
đã vượt qua suy thoái. Và thông thường sau khi vượt qua suy thoái nên thực hiện các
biện pháp để hạn chế và giảm thâm hụt ngân sách. Nguyên tắc ngắn hạn có hai ý
nghĩa:
(1) Gói kích cầu thực hiện trong ngắn hạn se làm tăng hiệu quả gói kích cầu
(2) Chỉ kích cầu trong ngăn để không làm ảnh hưởng tới tình hình ngân sách trong
dài hạn.
Tính ngắn hạn làm tăng hiệu quả của gói kích cầu:
Những chính sách mà vẫn còn hiệu lực sau khi nền kinh tế phục hồi, ví dụ như
chính sách cắt giảm thuế cố định (permanent tax cuts) là những biện pháp kích cầu
kém hiệu quả bởi vì những biện pháp kích thích này se trở thành những khoản chi phí
của chính phủ hoặc khoản thất thu khi mà thời gian cần kích thích đã kết thúc. Hơn
thế nữa, các biện pháp như tín dụng đầu tư, hoặc ưu đãi khấu hao tài sản se là những
biện pháp kích cầu hiệu quả hơn khi được thực hiện là những gói tạm thời, ngắn hạn.
Nếu là những biện pháp dài hạn se không kích thích được cầu. Điều này là do các
biện pháp nếu chỉ được thực hiện trong ngắn hạn se khuyến khích được các doanh
nghiệp tiến hành, đẩy nhanh tốc độ đầu tư để tận dụng những ưu đãi này (ví dụ như ưu
Page 3


đãi về thuế). Những biện pháp dài hạn, ví dụ như giảm thuế quá lâu se không phải là
một biện pháp kích cầu tốt, bởi vì các doanh nghiệp se không cảm thấy cần thiết phải
đẩy nhanh tốc độ đầu tư trong giai đoạn nền kinh tế cần được kích thích nhất.
Ngắn hạn để đảm bảo không làm ảnh hưởng tới ngân sách trong dài hạn.
Thông thường khi thực hiện các biện pháp kích thích nền kinh tế bằng việc mở

rộng chi tiêu (tạm thời) của chính phủ se dẫn tới thâm hụt ngân sách. Do đó một
nguyên tắc vô cùng quan trọng là phải đảm bảo rằng các chính sách kích thích nền
kinh tế trong ngắn hạn không có tác động xấu tới nền kinh tế trong dài hạn hoặc gây
khó khăn cho ngân sách trong dài hạn. Do đó, các gói kích cầu chỉ được phép mang
tính tạm thời, và trong ngắn hạn có thể làm tăng thâm hụt ngân sách, nhưng trong dài
hạn phải không được phép làm thâm hụt ngân sách trầm trọng hơn. Việc đảm bảo rằng
trong dài hạn tình hình kinh tế không kém đi cũng là yếu tố quan trọng để gói kích cầu
ngắn hạn đạt hiệu quả hơn. Việc thực hiện gói kích cầu gây thâm hụt ngân sách trong
dài hạn se có tác động xấu tới thị trường tài chính (do thị trường có tính forwardlooking) và se tạo áp lực làm tăng lãi suất điều này se có tác dụng cản trở quá trình
phục hồi nền kinh tế.
Thâm hụt ngân sách lớn trong tương lai cũng đồng nghĩa với suy giảm tiết kiệm
(national savings) trong dài hạn, dẫn tới giảm đầu tư và ảnh hưởng tới tăng trưởng. Đó
là chưa kể tới việc thâm hụt ngân sách se ảnh hưởng tới tài khoản vãng lai và lạm phát
(trước mắt lạm phát không đáng lo ngại, giá năng lượng và nguyên liệu trên thị trường
thế giới vẫn ở mức thấp và cầu trên thế giới vẫn còn rất yếu, song khi nền kinh tế toàn
cầu phục hồi se lại trở thành vấn đề lớn do lượng tiền hiện nay được các ngân hàng
trung ương bơm ra ào ạt, và vòng quay của tiền tệ khi đó se tăng lên tiềm ẩn nguy cơ
lạm phát cao)
Tóm lại, khi cân nhắc xem xét các biện pháp kích cầu cụ thể của gói kích cầu, thì cả
ba nguyên tắc trên đều phải được tuân thủ và xem xét một cách đồng thời. Nếu một
biện pháp kích cầu cụ thể mà vi phạm một trong ba nguyên tắc trên thì về cơ bản biện
pháp kích cầu đó chưa phải là một biện pháp kích cầu tốt. Để tăng hiệu quả của gói
kích cầu, cần có các chính sách bổ trợ khác (không vi phạm các cam kết thương mại
quốc tế của quốc gia) như không để tỉ giá bị định giá cao (overvalued) và tăng tính
linh hoạt của tỉ giá nhằm sử dụng công cụ này như van tự động điều chỉnh thâm hụt
thương mại ở mức hợp lý và bền vững.
II. KHÁI QUÁT VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TÀI CHÍNH TOÀN
CẦU NĂM 2008 (2 )
Khủng hoảng tài chính 2007 - 2010 là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ
vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng

khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có nguồn gốc từ
khủng hoảng tài chính ở Mỹ.
1. Diễn biến:
Khoảng năm 2005 – 2006, cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ tình trạng
bong bóng của thị trường nhà đất ở Mỹ với những khoản vay dưới chuẩn có nguy cơ
Page 4


rủi ro cao và các khoản thế chấp có lãi suất điều chỉnh. Từ vài năm trước đó, giá nhà
tăng cao cùng với việc được phép vay với điều kiện rất đơn giản đã làm cho
nhiều khách hàng tranh thủ vay tiền của các ngân hàng để đầu tư vào bất động sản.
Đó là những nhà đầu cơ với hi vọng kiếm được những khoản chênh lệch giá bán từ
bất động sản. Do đó, cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ năm 2007 thực chất là một
quá trình ấp ủ “khủng hoảng” rất lâu trước đó.
• Năm 2002 - 2004: Giá nhà đất ở các bang Arizona, California, Florida,
Hawaii, và Nevada tăng trên 25% một năm → Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
• Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Vào cuối mùa
hè năm 2005, thị trường bất động sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ khi tỷ
lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã
đánh giá thấp thị trường.
• Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Chỉ số xây dựng
nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
______________________
(2 )

Khủng hoảng tài chính Mỹ - Những móc chính và góc nhìn từ Việt Nam
/>
• Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Chỉ số cầu về nhà ở
trong tương lai của Mỹ giảm từ mức 128,2 vào tháng 8/2005 xuống còn 89,9 vào
tháng 7/2007. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay

dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bị tịch thu để thế
chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006.
- Ngày 05/02: Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số
các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm
quý 3 năm 2006 đã tuyên bố phá sản.
- Ngày 02/04: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất ở
Mỹ, tuyên bố phá sản.
- Tháng 6: Hai quỹ phòng hộ ( Hedge Fund - một loại quỹ có tính đại chúng
thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5
của Mỹ đã đỗ vỡ sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các
khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ.
- Tháng 8: Nguy cơ khủng hoảng tín dụng lan ra toàn cầu. Nhiều nhà cho vay
ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dữ trữ liên bang đã cho các ngân hàng vay
100 tỷ đô la với lãi suất thấp.
- Ngày 14/09: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng
về khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn.
- Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ
thông báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được
đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủng hoảng
cho vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ
tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng
bất động sản.
Page 5


- Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng
vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ sau
ngày 19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la).
- Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn
nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ

tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro
Properties đã tụt giá 70% tại các sàn giao dịch ở Sydney.
• Năm 2008: các ngân hang, tổ chức tài chính lần lượt tuyên bố phá sản, bị quốc
hữu hóa hay bị mua lại
- Ngày 11/1: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và
vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi
ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó
đòi quá lớn.
- Ngày 30/1: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4
tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát
liên quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
- Ngày 17/2: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
- Ngày 28/2: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn
nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là
1,36 tỷ euro.
- Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một
cổ phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp
các khoản lỗ của Bear Stearn.
- Ngày 29/4: Lần đầu tiên trong 5 năm, Deutsche Bank đã công bố một khoản
thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ
xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.
- Ngày 11/7: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng
IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước
tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
- Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo
cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
- Ngày 31/7: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là
3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD → Deutsche Bank
trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.
- Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn Fannie

Mae và Freddie Mac
- Ngày 11/9: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán
lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
- Ngày 14/09: Merrill Lynch được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ đô
la.
- Ngày 15/9: Lehman Bothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở
Mỹ bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ
sau sự kiện 11/9/2001.
- Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công
Page 6


ty này tránh phá sản.
- Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của bộ trưởng tài chính Paulson trị
giá 700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài chính và nợ tín
dụng. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
- Ngày 22/9: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu
tóm hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại
châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần
Morgan Stanley.
- Ngày 23/9: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs;
Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi
ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.
- Ngày 25/9: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng
lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế
chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát
WaMu và sau đó bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan
Chase & Co. với giá 1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành
ngân hàng bị phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.
- Ngày 26/9: Ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhất

Mỹ được chính phủ tiếp quản và sau đó được bán lại cho JP Morgan Chase& Co với
giá 1.9 tỷ đôla
- Ngày 29/09: Quốc hội Mỹ bác bỏ kế hoạch giải cứu thị trường tài chính Mỹ
do bộ Tài chính Mỹ đề xuất.
- Ngày 30/09: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân hàng
cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đồng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối
thủ Citigroup.
- Ngày 1/10: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD
(tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm
thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính se làm ngân sách thất thu 149 tỷ
USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ
100.000 USD lên 250.000 USD…
Từ đó, cuộc khủng hoảng tài chính ngày càng lan rộng ra toàn thế giới. Hàng
loạt các ngân hàng lớn nhỏ bị sụp đổ, bị sáp nhập hoặc quốc hữu hóa. Tín dụng toàn
cầu bị co rút lại. Các tập đoàn sản xuất kinh doanh gặp khó khăn tiếp cận nguồn vốn
vay ngắn hạn và dài hạn.
2. Nguyên nhân:
Cuộc khủng hoảng lần này không phải là quá bất ngờ với giới tài chính Mỹ
nói riêng và thế giới nói chung. Nó là kết quả của một chuỗi những rủi ro liên tiếp
mà chính các tổ chức tài chính, ngân hàng ở Mỹ tạo ra cho chính mình. Có thể tóm
lại một số nguyên nhân chính, mà thực chất là hệ quả của nhau – đã dẫn đến cuộc
khủng hoảng tất yếu này ở Mỹ.
 Thả nổi tín dụng – cho vay dưới chuẩn:
Chính sách tiền tệ buông lỏng, hạ thấp lãi suất quy định, giảm giá đồng USD,
kích thích con người tiêu dùng nhiều hơn thu nhập, đồng thời cho phép các thiết chế
Page 7


tài chính mở mang các nghiệp vụ cho vay ngày càng phức tạp khiến cho tín dụng bị
lạm dụng quá liều vào kích thích tăng trưởng và dẫn đến phản tác dụng.

Nguyên Thống đốc Hệ thống Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) Alan Green Span đã
liên tục điều chỉnh hạ thấp lãi suất Federal Funds từ 6% xuống còn 1% vào ngày
25/06/2003, từ đó dẫn đến các ngân hàng Thương mại cũng hạ lãi suất cho vay (từ
9-10%/năm xuống còn 4-5%/năm).
Các NHTM có thể cho người dân vay mua nhà “dưới chuẩn” đầy rủi ro với
một quy mô lớn là do được tài trợ từ các công ty tài chính và ngân hàng đầu tư. Đặc
biệt là hai công ty Fanie Mae và Freddie Mac được Chính phủ Mỹ bảo trợ, “cấp
vốn” bằng cách mua lại các khoản cho vay của các NHTM, biến chúng thành loại
chứng từ được bảo đảm bằng các khoản vay thế chấp để bán lại cho các công ty, các
ngân hàng đầu tư lớn khác như: Bear Stearms, Merrill Lynch... Các công ty tài
chính, ngân hàng đầu tư này lại phát hành trái phiếu trên cơ sở các chứng từ cho vay
thế chấp đó để bán cho các ngân hàng Mỹ khác và ngân hàng nhiều nước trên thế
giới làm tài sản tích trữ do uy tín của các ngân hàng phát hành. Việc “chứng khoán
hoá” các khoản vay thế chấp đã vượt khỏi sự kiểm soát của nhà nước. Chuỗi hoạt
động kinh doanh mang tính chất đầu cơ đã làm thị trường nhà đất nóng lên, giá nhà
đất bị đẩy lên cao, trở thành “bong bóng”. Và việc “bong bóng” nổ là không thể
tránh khỏi.
 Mua bán khống
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn dính líu đến cho
vay dưới chuẩn se sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên
một áp lực giảm giá lớn không gì cứu vãn nổi. Sau khi giá giảm đến một mức nào
đó, họ se mua và trả lại nơi cho vay cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh
lệch họ se hưởng trọn.
 Thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ
Giáo sư kinh tế Joseph Stiglitz, người được giải thưởng kinh tế Nobel kinh tế
2001, kết luận: “Hệ thống tài chính của Mỹ đã không thực hiện được hai trách
nhiệm chính của mình đó là quản lý rủi ro và phân chia vốn. Cả hệ thống tài chính
Mỹ đã không làm những gì mà nó đáng ra phải làm - chẳng hạn như tạo ra các sản
phẩm để giúp người Mỹ quản lý được những rủi ro nguy hiểm nghiêm trọng của
mình, như là giữ lại được nhà khi mức lãi suất cho vay tăng cao hoặc khi giá nhà rớt

giá”.
 Khủng khoảng niềm tin
Theo GS. Joseph Stiglitz, cuộc khủng hoảng bắt đầu từ sự sụp đổ thảm khốc
của niềm tin. Khi bắt đầu cảm nhận thấy mùi của sự thua lỗ và nhìn vào hệ thống tài
chính, khi đó thua lỗ xuất hiện, cả thị trường xuống dốc và tất cả mọi người đều bị
thua lỗ.
3. Hậu quả:
Hậu quả lớn và nặng nề nhất là phá huỷ lực lượng sản xuất, đẩy lùi sự phát triển
của kinh tế thế giới. Trước hết là đối với nước Mỹ. ở Mỹ, cuộc khủng hoảng tài
chính biến thành cuộc khủng hoảng kinh tế, sản xuất suy thoái, thất nghiệp tăng lên,
do đó được xem là cuộc khủng hoảng “3 trong 1”.
 Cuộc khủng hoảng làm phá sản hàng loạt ngân hàng và công ty tài chính, kể
Page 8


cả những ngân hàng, công ty tài chính hàng đầu nước Mỹ.

Bear Stearn - một trong những tập đoàn môi giới chứng khoán và ngân
hàng đầu tư hàng đầu phố Wall, đã có bề dày hoạt động 85 năm trên thị trường tài
chính Mỹ, bị thua lỗ nặng nề khi thị trường nhà đất sụt giá. Ngày 16/3/2008, Bear
Stearn đã tuyên bố phá sản và bị Morgan Chase mua lại với giá 2 USD một cổ
phiếu.

Lehman Brather, ngân hàng đầu tư đứng hàng thứ tư ở phố Wall có 158
năm hoạt động vào ngày 15/9/2008 đã phải nộp đơn xin bảo hộ phá sản do thua lỗ,
tổng số nợ lên đến 768 tỷ USD.
Thua lỗ phá sản còn diễn ra với hàng loạt ngân hàng, công ty tài chính lớn khác
như: Indy Mac Bancorp Inc, Freddie Mac và Fannie Mae, Merrill Lynch & Co, City
Group, National Bank of Commerce, Bank of Clark Country... Thị trường chứng
khoán Mỹ chao đảo, nhiều cổ phiếu rớt giá thê thảm. Cả bốn chỉ số quan trọng của

thị trường chứng khoán Mỹ là các chỉ số DowJone, S&P 500, Nasdaq và FTSE đều
sụt giảm nghiêm trọng, một sự sụt giảm mạnh nhất từ những năm 1930 trở lại đây.

 Sản xuất và tiêu dùng ở Mỹ cũng rơi vào tình trạng hết sức khó khăn.
Ngành sản xuất ô tô, một trong những ngành sản xuất quan trọng nhất của kinh
tế Mỹ có doanh thu giảm nghiêm trọng. Ba hãng sản xuất ô tô hàng đầu nước Mỹ là
General Motor, Ford, Chrysler đều thua lỗ nặng nề.
Tháng 1/2008, Nortel Networks Corp, một trong những tập đoàn thiết bị viễn
thông lớn nhất của Mỹ, tháng 2/2008, Lyondell Chemical, một trong những nhà sản
xuất hoá chất lớn nhất nước Mỹ, đã phải nộp đơn xin bảo lãnh phá sản...
Kinh tế suy thoái, tiêu dùng suy giảm nghiêm trọng làm hàng loạt các công ty
bán lẻ lớn của Mỹ như Circuit City Store Inc, Sharper Image Corp, Steve & Barry’s
LLC, Macy Inc, Ann Taylor Stores Inc,... buộc phải phá sản hoặc xin bảo hộ phá
sản.
Sản xuất đình đốn, sa thải lao động làm thất nghiệp của Mỹ tăng lên từng tháng
và đạt mức cao nhất trong 25 năm qua, từ 2,59 triệu người năm 2007 lên 3,84 triệu
năm 2008 và 4,61 triệu người vào tháng 2/2009.
Từ Mỹ, cuộc khủng hoảng làm chao đảo thị trường tài chính, thị trường chứng
khoán, làm phá sản nhiều ngân hàng, công ty tài chính, nhiều tập đoàn kinh tế lớn ở
nhiều nước trên thế giới, gây suy giảm nghiêm trọng các quan hệ thương mại, tài
chính, đầu tư quốc tế và kinh tế thế giới nói chung. Các Ngân hàng Royal Bank
(Scotland), Kaupthing, Landsbanki, Glitnir (Iceland), Ngân hàng Northern Bank,
công ty cho vay thế chấp Brandford & Binglay (Anh), các Ngân hàng IKB, DZ
Bank, Deutsche Bank, Sachsen LB (Đức), Tập đoàn Bảo hiểm Yamato Life
Insurance Co (Nhật Bản) ....và nhiều ngân hàng khác là những nạn nhân của cuộc
khủng tài chính Mỹ, buộc phải xin trợ giúp của chính phủ hoặc bị chính phủ quốc
hữu hoá.
Nghiên cứu của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) cho thấy: Trong năm
2008, cuộc khủng khoảng kinh tế toàn cầu đã làm tổn thất 50 nghìn tỷ USD trong
tổng tài sản tài chính của thế giới. Trong đó, các nước đang phát triển châu Á là chịu

thiệt hại nặng nề hơn cả với tổng giá trị bị thiệt hại là 9,6 nghìn tỷ USD, cao hơn
Page 9


tổng giá trị GDP trong một năm của những nước này. Mặc dù chỉ có hơn 20 nước
chính thức tuyên bố rơi vào suy thoái kinh tế, nhưng trên thực tế hầu hết các nước
trên thế giới đều bị ảnh hưởng, gặp khó khăn và suy giảm tốc độ tăng trưởng ở các
mức độ khác nhau.
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB): Năm 2009:

Kinh tế thế giới tăng trưởng chỉ còn 0,9%

Tốc độ tăng trưởng của các nước OECD là -0,3% (trong đó, của Mỹ là
-0,9%, khu vực đồng EURO là - 0,6%)

Tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển là chỉ là
4,5%...
Các dự báo về kinh tế thế giới của Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD), Citi Group hay Reuters cũng cùng xu hướng suy giảm như
vậy.
Cuộc khủng hoảng cũng làm thay đổi tương quan giữa các nước, các nền kinh
tế lớn trên thế giới : có sự suy giảm vai trò của một số nước (như Mỹ, Nhật,...) và sự
nổi lên của một số nước khác (như Trung Quốc, ấn Độ, Nga, Braxin,...). Do đó, xuất
hiện yêu cầu phải thay đổi hệ thống kinh tế, tài chính thế giới với vai trò chi phối,
thống trị của Mỹ nhiều năm qua, thay đổi cơ cấu và quy chế hoạt động của IMF,
WB, WTO; tìm kiếm những đồng tiền khác thay thế vai trò độc quyền của đồng Đô
la Mỹ làm đồng tiền thanh toán và dự trữ quốc tế.
 Thất nghiệp gia tăng:
Năm 2009, tình hình cũng không khả quan. Các ngân hàng tiếp tục chật vật
đối mặt với cuộc khủng hoảng. Những đợt cắt giảm nhân công liên tục xảy ra từ

những tập đoàn lớn trên thế giới. Trong tháng 1, Microsoft tuyên bố cắt giảm 5000
lao động. Trong khi đó, Intel cũng tuyên bố sa thải 6000 công nhân. Cuối tháng 1/
2009, hàng loạt những đại công ty khác cũng thông báo số lượng công việc cắt giảm
với mức kỉ lục. Caterpilla và Pfizer , hai công ty lớn trong ngành xây dựng và dược
phẩm thế giới cùng sa thải tổng số gần 40.000 nhân công trên toàn cầu. Ở một mức
độ thấp hơn, công ty viễn thông Sprint Nextel cắt giảm 8.000 công nhân; Home
Deport, tập đoàn bán lẻ đồ gia dụng lớn nhất thế giới đã cắt giảm 7.000 lao động.
Trong khi đó General Motors, đại gia của ngành sản xuất ôtô cũng sa thải thêm
2.000 nhân viên. Đến cuối năm 2009, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhờ các
chính sách can thiệp của chinh phủ các nước, nhưng vẵn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TÀI CHÍNH
TOÀN CẦU NĂM 2008 ĐẾN VIỆT NAM
1.Tình hình kinh tế Việt Nam trước khủng hoảng ( 3 )
Nền kinh tế Việt Nam năm 2007 có sự tăng trưởng toàn diện trong hầu hết các lĩnh
vực.


Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá thực tế ước
đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% GDP (đạt kế hoạch đề ra 40% GDP) và
tăng 15,8% so với năm 2006.
Page 10




Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng khá, ước tính năm 2007 đạt
20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006 và vượt 56,3% kế hoạch cả năm,
trong đó vốn cấp phép mới là 17,86 tỷ USD.




Giá trị sản xuất của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2007 đạt gần
200 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% so với năm 2006, trong đó nông nghiệp tăng
2,9%; lâm nghiệp tăng 1% và thuỷ sản tăng 11%.



Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 ước tính tăng 17,1% so với năm
2006.Giá trị hàng hóa xuất khẩu năm 2007 ước đạt gần 48,4 tỷ USD, tăng
21,5% so với năm 2006, trong đó tất cả các mặt hàng chủ yếu đều tăng.



Giá trị xuất, nhập khẩu dịch vụ cả năm 2007 ước đạt 12,4 tỷ USD, tăng
21,6% so với năm trước, trong đó giá trị xuất khẩu dịch vụ đạt 6 tỷ USD, tăng
18,2% và giá trị nhập khẩu dịch vụ, gồm cả phí vận tải và bảo hiểm hàng
nhập khẩu đạt 6,4 tỷ USD, tăng 24,9%.



Lượng khách quốc tế đến nước ta trong năm 2007 ước tính đạt 4,23 triệu
lượt người, tăng 18% so với năm 2006.

Tuy còn một số tồn tại về vấn đề nhập siêu, giá cả hàng hóa tăng cao xong nền kinh
tế Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức để đạt tốc độ tăng trưởng như
đầu năm đã đề ra là gần 8,5%.
______________________
(3)

/>

Năm 2007, nhìn chung đời sống của dân nhân tiếp tục ổn định và từng bước
được cải thiện. Mặc dù chịu tác động của nhiều yếu tố như giá tiêu dùng liên tục
tăng, sản xuất nông nghiệp ở một số vùng chịu ảnh hưởng nặng nề của bão lũ, nhưng
đời sống của đại đa số dân cư ở nông thôn vẫn giữ được mức ổn định, do giá nông
sản, thực phẩm tăng đã khuyến khích nông dân sản xuất hàng hóa, tăng thêm thu
nhập. Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước đã giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75%
năm 2007 vượt kế hoạch đề ra (16%).
Vị thế quốc tế của Việt Nam gia tăng với việc chính thức trở thành thành viên
WTO và được bầu làm Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc..
→ Tóm lại nền kinh tế - xã hội Việt Nam trước khủng hoảng đã có nhiều thành tích
đáng khích lệ về tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút vốn đầu tư,
tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, thị trường chứng khoán, vị thế quốc tế, giảm
nghèo...
2. Tình hình kinh tế Việt Nam trong cuộc khủng hoảng( 4)
Page 11


Đối với Việt Nam, do đặc điểm của một nền kinh tế có độ mở cao, mang nặng
tính chất gia công, tỷ trọng giá trị gia tăng thấp trong cơ cấu giá trị sản phẩm, nên
chịu tác động rất lớn của thị trường thế giới. Tuy nền kinh tế nước ta không chịu tác
động trực tiếp của khủng hoảng tài chính toàn cầu; hệ thống tài chính - tín dụng giữ
được ổn định, nhưng sự tăng trưởng kinh tế trong nước vẫn chịu ảnh hưởng bởi thị
trường thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới 2008 đã có những ảnh
hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể là :
 Đối với hệ thống tài chính – ngân hàng :
Mặc dù hiện tại hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam chưa chịu tác động
mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ vì hệ thống tài chính ngân hàng Việt
Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của hội nhập; nhưng vẫn có những hạn chế trên một số
lĩnh vực như:

- Mức độ liên thông giữa hệ thống ngân hàng Việt Nam với thị trường tài chính
bên ngoài và với ngân hàng Mỹ gặp khó khăn;
- Khả năng giao dịch ngân hàng, tài chính quốc tế giảm, ảnh hưởng đến nợ vay
ngắn hạn của Việt Nam tại các ngân hàng và doanh nghiệp
______________________
( 4)

Ghi chú : Nguồn :
1. Chính phủ (2008), Báo cáo tại Kỳ họp Quốc hội tháng 11 năm 2008;
2. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Báo cáo nhanh.
3. Thông tấn xã Việt Nam, Thông tin tổng hợp tháng 11/2008
 Đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế :

Tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho tốc độ tăng trưởng
kinh tế của nước ta chậm lại.
Kế hoạch đầu năm 2008, tăng trưởng GDP dự kiến từ 8,5 – 9%.
Tháng 5 năm 2008 Quốc hội đã điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng GDP xuống 7%
Tháng 10 năm 2008 tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế là 6,52%
→ Năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế 6.2%..
 Đối với hoạt động xuất khẩu

Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam, chiếm khoảng 20-21% kim
ngạch xuất khẩu. Khủng hoảng tài chính đã tác động làm do cầu tiêu dùng tại thị
trường Mỹ trên đà giảm mạnh. Điều này dẫn đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào
thị trường Mỹ suy giảm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt
Nam trong năm 2008 và cả năm 2009 .
EU và Nhật Bản là hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do tác
động của khủng hoảng, người dân tại các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu,
các nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán do khó khăn về tài chính. Theo đó
nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng giảm. Thực tế với

tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính, xuất khẩu của Việt nam đã có biểu hiện
giảm sút. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 1/2009 ước tính chỉ đạt 3,8 tỷ USD,
giảm 18,6% so với tháng 12/2008 và giảm 24,2% so với cùng kỳ năm trước. So với
cùng kỳ năm 2008, hầu hết các mặt hàng đều cho thấy có sự giảm sút kim ngạch
Page 12


trong tháng 1/2009. Kim ngạch xuất khẩu tháng 11/2008 đã tiếp tục giảm và xuống
dưới ngưỡng 5 tỷ USD/tháng. Đây là tháng thứ ba kim ngạch xuất khẩu suy giảm.
Tháng 11 năm 2009 kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ còn 4,8 tỷ USD giảm so với
mức 5,044 tỷ USD của tháng 10. Trong đó:

Dệt may giữ được kim ngạch ở mức 780 triệu USD

Giày dép tăng nhẹ lên 400 triệu USD so với 396 triệu USD của tháng
10/2008.
Một số mặt hàng khác cũng suy giảm. Trong đó đặc biệt là dầu thô giảm mạnh do
giá dầu đã giảm 60% so với mức tháng 7/2008. Khủng hoảng tài chính dẫn đến suy
thoái kinh tế, nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam giảm giá và tác động trực tiếp
đến kim ngạch xuất khẩu.
 Đối với vốn đầu tư của nước ngoài ( kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián

tiếp):
Với tình hình khủng hoảng, chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn và thị trường xuất
khẩu có khả năng bị thu hẹp nên dòng vốn chảy vào Việt Nam có khả năng giảm sút.
Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung và FDI nói riêng, phần vốn vay
thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính,
các ngân hàng gặp khó khăn se làm cho nhiều hợp đồng vay vốn không được ký kết
hoặc không thể giải ngân được.
Tháng 11 năm 2008 Việt Nam vẫn thực hiện khoảng 10 tỷ USD vốn giải ngân,

bằng 16,2% vốn đăng ký và tăng 44% so với cùng kỳ năm 2007 (13% từ Nhật Bản
và 67% từ các nước châu Á khác), trong đó các nhà đầu tư đến từ châu Âu và Mỹ
chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn khoảng 5% trong số vốn đăng ký, gần 60 tỷ USD.
 Hoạt động của thị trường chứng khoán gặp khó khăn, bất lợi cho các nhà

đầu tư:
Do tác động của khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp đang niêm yết trên
thị trường chứng khoán không tránh khỏi tác động xấu, đặc biệt là doanh nghiệp
xuất khẩu, theo đó giá cổ phiếu sụt giảm. Bên cạnh đó, thị trường trái phiếu cũng có
nhiều biến động. Nửa đầu năm 2008, hoạt động huy động vốn trên thị trường trái
phiếu có biểu hiện đình trệ do lãi suất tăng cao, một số cân đối vĩ mô có xu hướng
xấu.
Khủng hoảng tài chính tác động mạnh me đến tâm lý của các nhà đầu tư chứng
khoán Việt Nam, thị trường chứng khoán lập tức bị tác động xấu vì những lo ngại
của các nhà đầu tư trong nước. Cụ thể là thị trường chứng khoán liên tục suy giảm
từ đầu năm 2008. Chỉ số VN-Index đã giảm gần 70%, chỉ số HASTC-Index có thời
điểm giảm xuống dưới mức 100 điểm do tác động của tình hình trong nước và đặc
biệt là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu nổ ra từ quý
3/2008, khiến cho dòng vốn nước ngoài giảm mạnh, sức cầu trên thị trường yếu đi.
Mặc dù vậy, trong năm 2008 vẫn có gần 90 công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán, nâng tổng số lên trên 340 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết. Giá trị vốn hoá
thị trường cổ phiếu đạt khoảng 18,5% GDP.
Page 13


 Đối với thị trường bất động sản (BĐS) :

Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt Nam đều có tiềm
lực tài chính khá hạn hẹp, phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài, chủ yếu là
vốn vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Đây là một khó khăn của doanh

nghiệp kinh doanh BĐS trong điều kiện khủng hoảng tài chính .
Cuối năm 2007 tình trạng đầu cơ BĐS đã đẩy giá BĐS ở Việt Nam lên quá cao
so với giá trị thực. Thị trường đã lên cơn sốt ảo, cầu ảo tăng cao. Bước sang năm
2008 nền kinh tế Việt Nam gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế,
lạm phát tăng cao buộc người dân phải giảm chi tiêu, thị trường BĐS đóng băng, giá
BĐS đã giảm đến 40%, các doanh nghiệp kinh doanh BĐS rơi vào khó khăn, không
bán được sản phẩm lại phải chịu lãi suất cao do chính sách thắt chặt tiền tệ làm lãi
suất ngân hàng tăng cao. Đến nay thị trường cũng chưa có dấu hiệu phục hồi. Giá
BĐS giảm se kéo theo tài sản ngân hàng cũng giảm theo, nợ xấu tăng lên làm cho cơ
cấu vốn của ngân hàng thương mại rơi vào tình thế bất lợi.
Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ mà gốc rễ là từ khủng hoảng địa ốc tuy
không làm ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường BĐS ở Việt Nam nhưng nó cũng ảnh
hưởng gián tiếp qua các tác động đến thị trường tài chính tiền tệ, thị trường chứng
khoán và các yếu tố tâm lý của người dân.
 Đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ :

Trong tình hình kinh tế thế giới đang suy thoái, nhiều doanh nghiệp đã cắt giảm
kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô do chi phí sản xuất tăng, đặc biệt là
lãi vay ngân hàng.
Một trong những ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam là ngành du lịch
cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Lượng khách tới Việt Nam trong năm 2009 được
dự báo là se giảm nghiêm trọng, buộc ngành du lịch phải giảm giá phòng và giá dịch
vụ du lịch hàng loạt. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu dẫn đến lượng khách du lịch quốc
tế đến Việt Nam cũng giảm sút. Trong tháng 1/2009, khách quốc tế đến nước ta ước
tính đạt 370 nghìn lượt người, giảm 11,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó:

Khách đến với mục đích du lịch đạt 231,5 nghìn lượt người, giảm 10,5%;

Khách đến vì công việc đạt 65 nghìn lượt người, giảm 17,6%;


Khách thăm thân nhân đạt 55 nghìn lượt người, giảm 1,2%.
Sản xuất trong nước bị đình đốn, đầu tư tăng thấp, tiêu dùng có dấu hiệu chậm lại,
dẫn đến sự dư thừa đáng kể năng lực sản xuất, trong đó đặc biệt nghiêm trọng là dư
thừa lao động.14 Hiện nay tình trạng mất việc làm ở Việt Nam đang gia tăng nhanh,
do lĩnh vực xuất khẩu sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày da, thủy sản, mỹ
nghệ và tiểu thủ công nghiệp 15 bị cắt giảm mạnh đơn hàng. Đó là những dấu hiệu
cho thấy tình trạng thiếu việc làm đang tiến dần đến ngưỡng nhạy cảm

IV. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA GÓI KÍCH CẦU VÀ QUÁ TRÌNH
PHỤC HỒI CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ SAU CUỘC
Page 14


KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH ĐẾN NAY
A. Tác động của gói kích cầu :
Tình hình triển khai, thực hiện gói kích cầu (5)
Từ đầu năm 2009, Chính Phủ đã thực hiện các gói kích cầu với quy mô đến nay
được ước tính khoảng 160 nghìn tỷ đồng bao gồm nhiều khoản được sử dụng cho
năm 2009 và một số khoản chi trong năm tới.
______________________
(5)

/>
Thứ nhất, hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng: Khoảng 17. 000 tỷ đồng.
Tại Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 23/01/2009, Thủ tướng Chính phủ đã cho
phép hỗ trợ lãi suất 4% cho các tổ chức, cá nhân vay vốn lưu động để sản xuất, kinh
doanh. Thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 8 tháng đối với các khoản vay theo
hợp đồng tín dụng được ký kết và giải ngân trong khoảng thời gian từ ngày 01/02
đến ngày 31/12/2009.
Đồng thời, để góp phần thúc đẩy nhanh quá trình phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng

sau suy giảm kinh tế, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 443/QĐ-TTg ngày
4/4/2009 về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn trung, dài hạn ngân
hàng để đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Việc hỗ trợ lãi suất được thực hiện từ
ngày 01/ 4/2009 đến ngày 31/12/2011. Mức hỗ trợ lãi suất tiền vay là 4%/năm, tính
trên số tiền vay và thời hạn cho vay thực tế, nhưng không quá 24 tháng.
Ngày 17/4/2009, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 497/QĐ-TTg về việc
hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp
và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn. Mức tiền vay tối đa và mức lãi suất
được hỗ trợ như sau:
- Đối với các sản phẩm máy móc, thiết bị cơ khí, phương tiện phục vụ sản xuất, chế
biến nông nghiệp và máy vi tính: mức tiền vay tối đa bằng 100% giá trị hàng hoá
(riêng đối với máy vi tính, mức tiền vay tối đa không quá 05 triệu đồng/chiếc) và
được hỗ trợ 100% lãi suất vay.
- Đối với các sản phẩm vật tư nông nghiệp: mức tiền vay tối đa bằng 100% giá trị
hàng hoá nhưng không vượt quá 07 triệu đồng/ha và được hỗ trợ lãi suất 4%.
- Đối với vật liệu xây dựng các loại để làm nhà ở: mức tiền vay tối đa bằng 100%
giá trị hàng hoá nhưng không vượt quá 50 triệu đồng và được hỗ trợ 4% lãi suất
vay.
Thời hạn hỗ trợ lãi suất tối đa là 24 tháng đối với các sản phẩm máy móc, thiết
bị cơ khí, phương tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp và máy vi tính và 12
tháng đối với các sản phẩm vật tư nông nghiệp và vật liệu xây dựng các loại để làm
nhà ở, áp dụng đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết, giải ngân
trong khoảng thời gian từ ngày 01/5-31/12/ 2009.
Riêng các doanh nghiệp vay vốn lưu động để nhập khẩu hàng tiêu dùng chưa
thiết yếu, vay kinh doanh chứng khoán, tài chính, ngân hàng, vay vốn để trả nợ các
hợp đồng tín dụng khác… không được hưởng chính sách ưu đãi này.
Thứ hai, tạm hoãn thu hồi vốn đầu tư XDCB ứng trước: Khoảng 3.400 tỷ
Page 15



đồng.
Tại Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008, Chính phủ đã chỉ đạo tạm
hoãn thu hồi các khoản vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước kế hoạch năm 2009,
trừ các khoản đã được tạm ứng năm 2009 để hoàn thành trong năm 2008.
Thủ tướng Chính phủ đã cho phép hoãn thu hồi khoảng 3.400 tỷ đồng vốn ngân
sách đã ứng trước theo Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2009.
Thứ ba, ứng trước ngân sách nhà nước để thực hiện một số dự án cấp bách:
Khoảng 37.200 tỷ đồng. Cụ thể:
(1) Ứng trước vốn cho các dự án cấp bách, có khả năng hoàn thành trong năm 2009
và 2010: Khoảng 26.700 tỷ đồng. Ngày 20/02/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 237/QĐ-TTg cho phép tạm ứng 3.500 tỷ đồng cho Bộ Giao
thông vận tải và 1.000 tỷ đồng cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để bổ
sung vốn cho các dự án cấp bách, có khả năng hoàn thành trong năm 2009 và 2010.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện
việc rà soát các công trình, dự án có khả năng hoàn thành trong năm 2009, 2010,
trình Thủ tướng Chính phủ cho phép ứng khoảng 22.200 tỷ đồng để triển khai thực
hiện nhằm đẩy nhanh tiến độ, hoàn thành công trình đưa vào sử dụng.
(2) Ứng vốn hỗ trợ thực hiện Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với
61 huyện nghèo: 1.525 tỷ đồng. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã có thông báo số 29/TB-BKH ngày 26/3/2009 ứng trước 1.525 tỷ đồng từ
ngân sách nhà nước cho 61 huyện nghèo (mỗi huyện 25 tỷ đồng) để hỗ trợ thực hiện
Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo.
(3) Ứng trước khác: khoảng 9.000 tỷ đồng. Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện các
khoản ứng trước để tăng kinh phí kiên cố hoá kênh mương, đầu tư hạ tầng làng
nghề, hạ tầng thuỷ sản 3.000 tỷ đồng; hỗ trợ vốn xây dựng nhà ở cho hộ nghèo 500
tỷ đồng; thực hiện Đề án xây dựng nhà ở xã hội 1.000 tỷ đồng; cấp bù chênh lệch lãi
suất 2.500 tỷ đồng; bổ sung vốn điều lệ Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương 500 tỷ;
bổ sung kinh phí xúc tiến thương mại trong và ngoài nước; hỗ trợ các doanh nghiệp
để duy trì lao động, mở rộng sản xuất và xuất khẩu 1.000 tỷ đồng,...
Thứ tư, chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009: Khoảng

30.200 tỷ đồng.
Chính phủ đã trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép kéo dài thời gian giải
ngân vốn ngân sách Nhà nước và trái phiếu Chính phủ kế hoạch năm 2008 đến hết
tháng 6 năm 2009 với số vốn NSNN khoảng 22.500 tỷ đồng và vốn trái phiếu chính
phủ khoảng 7.700 tỷ đồng.
Thứ năm, phát hành thêm trái phiếu Chính phủ trong năm 2009: Khoảng
20.000 tỷ đồng.
Page 16


Thứ sáu, thực hiện chính sách giảm thuế: Khoảng 28.000 tỷ đồng.
Để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu và kích cầu tiêu dùng, Chính phủ đã
thực hiện gói kích cầu thông qua các biện pháp giảm thuế. Cụ thể như sau:
- Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN): Giảm thu NSNN do thực hiện chính sách
giảm thuế TNDN khoảng 13.000 tỷ đồng. Chính phủ đã cho phép giảm 30% số thuế
TNDN phải nộp của quý IV năm 2008 và số thuế TNDN phải nộp của năm 2009 đối
với thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Giãn thời hạn nộp thuế TNDN trong thời gian 9 tháng đối với số thuế TNDN phải
nộp năm 2009 của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói trên (70% số thuế còn lại sau
khi giảm) và của các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, gia công, chế biến nông,
lâm, thuỷ sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử. Đây là khối doanh nghiệp sử dụng
nhiều lao động và chịu nhiều ảnh hưởng từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Theo đó
cho phép giảm 30% số thuế TNDN phải nộp của quý IV năm 2008 đối với thu nhập
từ hoạt động sản xuất sợi, dệt, nhuộm, may và sản xuất các mặt hàng da giầy.
- Thuế thu nhập cá nhân : Giảm thu NSNN do thực hiện chính sách giảm thuế thu
nhập cá nhân khoảng 6.500 tỷ đồng. Đối tượng được giãn nộp thuế thu nhập cá nhân
là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế từ kinh doanh; thu nhập từ tiền lương, tiền
công; thu nhập từ đầu tư vốn; thu nhập từ chuyển nhượng vốn (bao gồm cả chuyển
nhượng chứng khoán); thu nhập từ bản quyền; thu nhập từ nhượng quyền thương
mại; thu nhập từ nhận thừa kế; thu nhập từ nhận quà tặng; cá nhân không cư trú có

thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn ( bao gồm cả chuyển nhượng
chứng khoán); thu nhập từ bản quyền; thu nhập từ nhượng quyền thương mại. Thời
gian được giãn nộp thuế là từ ngày 01/01/2009 đến hết ngày 31/5/2009.
- Thuế giá trị gia tăng: Giảm thu NSNN do thực hiện chính sách giảm thuế giá trị
gia tăng khoảng 8.600 tỷ đồng. Chính phủ đã cho phép:

Tạm hoàn 90% số thuế giá trị gia tăng (GTGT) đầu vào đối với hàng hoá thực
xuất khẩu trong trường hợp doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân
hàng

Hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán

Giảm thuế đối với 19 nhóm hàng hóa, dịch vụ khác, bao gồm: than đá; hoá chất
cơ bản; sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất; ô tô các loại; linh kiện ô tô; tàu,
thuyền; khuôn đúc các loại; vật liệu nổ; đá mài; ván ép nhân tạo; sản phẩm bê
tông công nghiệp; lốp và bộ săm lốp cỡ từ 900-20 trở lên; ống thuỷ tinh trung
tính; sản phẩm luyện, cán, kéo kim loại đen, kim loại màu, kim loại quý, trừ vàng
nhập khẩu; máy xử lý dữ liệu tự động và các bộ phận, phụ tùng của máy; bốc
xếp; nạo vét luồng, lạch, cảng sông, cảng biển; hoạt động trục vớt, cứu hộ; vận
tải bao gồm: vận tải hàng hoá, hành lý, hành khách, vận tải du lịch bằng đường
hàng không, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, trừ vận tải quốc tế; kinh doanh
khách sạn; dịch vụ du lịch theo hình thức lữ hành trọn gói; in (trừ in tiền).
Bộ Tài chính hướng dẫn việc hoàn và giảm thuế GTGT, đồng thời quy định
Page 17


việc giảm 50% mức thuế suất thuế GTGT theo Danh mục hàng hoá của Biểu thuế
nhập khẩu ưu đãi. Tại Quyết định 58/2009/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009, Thủ
tướng Chính phủ đã cho phép giảm 50% thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với mặt
hàng như sợi, vải, hàng may mặc, da giầy, xi măng, gạch ngói, xe mô tô hai ba bánh

trên 125cm3; kéo dài thời gian nộp thuế giá trị gia tăng đến 180 ngày đối với các lô
hàng nhập khẩu là máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên
dùng nằm trong dây chuyền công nghệ thuộc loại trong nước chưa sản xuất.
Ngoài ra, Chính phủ cũng đã chỉ đạo giãn thời gian ân hạn nộp thuế nhập khẩu; điều
chỉnh giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất
như:

Nguyên liệu để sản xuất thuốc kháng sinh;

8 nhóm xơ, sợi tổng hợp;

Một số loại linh kiện, phụ tùng điện tử; nguyên liệu nhựa, nguyên vật liệu xây
dựng; nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi...
Đồng thời thực hiện điều chỉnh giảm thuế đối với 8 nhóm thuốc chữa bệnh để góp
phần bình ổn thị trường, giảm giá thuốc (từ các mức 2%, 5% và 8% xuống 0%).
Thứ bảy, tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp: Khoảng 17.000
tỷ đồng (1 tỷ USD).
Thực hiện Nghị quyết 30/2008/NQ-CP của Chính phủ, Bộ Tài chính đã chủ
trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tăng thêm dự nợ bảo lãnh tín dụng cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn
vốn vay để phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm mới. Tổng dư
nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vay vốn ngoài nước nhập thiết bị, công
nghệ,... phục vụ sản xuất, kinh doanh ước tính khoảng 17.000 tỷ đồng.
Để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn vốn bảo lãnh tín dụng, Thủ
tướng Chính phủ ra Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 ban hành Quy
chế bảo lãnh cho doanh. Giao Bộ Tài chính phối hợp với Ngân hàng Phát triển Việt
Nam hướng dẫn việc quản lý và sử dụng Quỹ dự phòng bảo lãnh vay vốn; cơ chế
phối kết hợp giữa Ngân hàng Phát triển Việt Nam với các NHTM trong việc bảo
lãnh doanh nghiệp vay vốn và các vấn đề liên quan khác.
Thứ tám, các khoản chi kích cầu khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm

bảo an sinh xã hội: Khoảng 7.200 tỷ đồng.
Chính phủ đã cho phép tăng mua dự trữ quốc gia về gạo và xăng dầu, dự kiến
tổng nguồn vốn cho nhiệm vụ này khoảng 2.800 tỷ đồng (trong đó mua gạo là 1.300
tỷ đồng; xăng dầu là 1.500 tỷ đồng).
Chính phủ cũng cho phép ứng chi để thực hiện các nhiệm vụ chi thường xuyên
nhằm đảm bảo an sinh xã hội phát sinh ngoài dự toán khoảng 4.400 tỷ đồng.
Chính phủ đã quyết định hỗ trợ cho các hộ nghèo đón Tết với mức 200.000
đồng/người nhưng không vượt quá 1 triệu đồng/1 hộ nghèo. Việc xác định hộ nghèo
thực hiện theo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTTg của Thủ tướng Chính
phủ ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010.
Page 18


Đối với các địa phương chưa tự cân đối được ngân sách, Chính phủ se hỗ trợ
100% từ ngân sách Trung ương để hỗ trợ người nghèo. Các địa phương có tỷ lệ điều
tiết các khoản thu phân chia về ngân sách trung ương dưới 50% thì ngân sách trung
ương se hỗ trợ 50% kinh phí. Các địa phương còn lại, kinh phí do ngân sách địa
phương tự thu xếp.
Trong phiên họp thường kỳ tháng 10/2009, dưới sự chủ trì của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng sau khi nhận được đa số ý kiến tán thành của các thành viên,
Chính phủ quyết định tiếp tục thực hiện gói hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay vốn
trung, dài hạn để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, mua máy móc thiết bị phục
vụ sản xuất nông nghiệp... được quy định trong hai quyết định 443, 497 của Thủ
tướng Chính phủ tiếp tục kéo dài đến hết ngày 31-12-2010. Tuy nhiên, mức hỗ trợ
lãi suất se giảm từ 4% xuống 2%, đồng thời thu hẹp phạm vi và đối tượng hỗ trợ.
Các đối tượng vay vốn lưu động (vốn ngắn hạn) quy định trong Quyết định
131 của Thủ tướng Chính phủ cũng se được hỗ trợ lãi suất với mức 2% và thời gian
kéo dài hết quý I/2010.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng tán thành đề xuất của Bộ Tài chính là dãn nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp đến hết quý I/2010.

(6)

______________________
(

6

)

/>ID=47&LangID=1&NewsID=1212&PageNum=12

Gói kích thích kinh tế năm 2009 công bố tháng 5 – 2009
TT
1
2
3

4

5
6
7
8

Danh Mục
Hỗ trợ lãi suất 4 %
Tạm hoãn thu hồi vốn ứng trước năm 2009
Các khoản vốn ứng trước
(1) Ứng trước ngân sách 1 số dự án cấp bách
(2) Ứng vốn chương trình 61 huyện nghèo

(3) Ứng trước khác
Chuyển vốn đầu tư năm 2008 sang 2009
(1) Vốn đàu tư thuộc ngân sách nhà nước
(2) Vốn trái phiếu chính phủ
Phát hành bổ sung trái phiếu chính phủ năm 2009
Thực hiện chính sach miễn giảm thuế
Các khoản kích cầu khác
Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Tổng số

Giá trị ( tỷ đồng)
17.000
3.400
37.200
26.700
1.525
9.000
30.200
22.500
7.700
20.000
28.000
7.200
17.000
160.000 (9 tỷ USD )

Đánh giá tác động của gói kích cầu:
1) Hiệu quả của các gói kích cầu đến nền kinh tế : ( 7 )
Nhờ tác động của gói kích cầu, trong từng ngành, từng lĩnh vực đều có


Page 19


chuyển biến rõ nét. Sản xuất công nghiệp phục hồi khá nhanh. Sau khi giảm sâu
trong tháng 1 (- 4,4%), ngành công nghiệp lấy lại tốc độ tăng trưởng trong các tháng
tiếp theo và đến tháng 10 đã tăng 11,9% so với cùng kỳ 2008. Đặc biệt:

Ngành xây dựng từ mức tăng trưởng âm 0,4% về giá trị tăng thêm trong năm
2008 đã tăng 6,9% trong quý I, tăng 9,8% trong quý II, tăng 11% trong quý III
và dự kiến cả năm có thể đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 11% nhờ các biện pháp
hỗ trợ lãi suất, kích cầu đầu tư.

Ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản có bước phát triển khá. Giá trị sản suất
toàn nghành nông, lâm, ngư nghiệp 9 tháng đầu năm tăng 2,6% so với cùng kỳ
năm trước; sản lượng lương thực vụ đông xuân vượt mức kỷ lục của năm trước
(tăng 0,3%).

Sản lượng khai thác, nuôi trồng thủy sản 10 tháng đầu năm 2009 đạt hơn 4.020
nghìn tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2008.
______________________________________
(7)

/>p_itemid=41207039&p_siteid=33&p_pageid=39318834&p_dad=portal&p_schema=PORT
AL&p_persid=23080966


Khu vực dịch vụ tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng khá cao: Quý I, giá trị
tăng thêm đạt 5,1%; quý II là 5,7% và quý III là 6,8%. Dự báo cả năm đạt
khoảng 6,5%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10
tháng đầu năm 2009 tăng 18% so với cùng kỳ năm 2008.


Miễn, giảm, giãn thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và kích

thích tiêu dùng cá nhân: ( 8 ) Nếu như trước đây các doanh nghiệp (DN) phải thực
hiện nghĩa vụ thuế ngay khi phát sinh thu nhập thì trong gói kích cầu này, chủ
trương của Chính phủ giảm 30% thuế thu nhập DN trong quý 4/2008 và cả năm
2009; Giãn nộp thuế thu nhập DN trong thời gian 9 tháng đối với các DN nhỏ và
vừa và các DN trong một số ngành nghề đã góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho
nhiều DN.
Mặc dù chính sách này không trực tiếp giải quyết được vấn đề cơ bản của DN
là thiếu đầu ra cho sản phẩm nhưng đây vẫn là một chính sách được các doanh
nghiệp hoan nghênh vì nhờ nó DN giảm được chi phí. Việc giảm 50% thuế giá trị
gia tăng đối với 19 nhóm mặt hàng thuộc các ngành hàng mà trước đây có thuế suất
là 10% đã tác động trực tiếp đối với DN để phục vụ cho việc giảm giá hàng bán,
giúp kích cầu tiêu dùng trong bối cảnh suy giảm kinh tế.
Về thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế, theo thống kê: đến ngày
31/8/2009 đã có trên 125.500 lượt doanh nghiệp và khoảng 937.000 đối tượng nộp
thuế thu nhập cá nhân được hưởng các ưu đãi về chính sách thuế, trong đó có :

Trên 36.000 doanh nghiệp được giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp

42.000 doanh nghiệp được giãn thuế thu nhập doanh nghiệp

47.000 doanh nghiệp được giảm 50% thuế giá trị gia tăng…
(9)
Kinh tế vĩ mô cơ bản được ổn định; các cân đối thu chi ngân sách nhà

nước, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế,... được bảo đảm, lạm phát được kiềm chế ở

Page 20



mức thấp. Chỉ số giá tiêu dùng hai tháng 9 và 10 so với tháng 12 năm 2008 chỉ tăng
4,11% và 4,49%. Việc hỗ trợ lãi suất 4%/năm vừa giúp doanh nghiệp giảm bớt khó
khăn, phục hồi sản xuất, vừa hỗ trợ cho việc phát triển ổn định và an toàn của hệ
thống các tổ chức tín dụng.
Hỗ trợ lãi suất và bảo lãnh của Chính phủ nhằm giúp doanh nghiệp tiếp cận

các nguồn tín dụng phục vụ đầu tư, sản xuất, kinh doanh và giải quyết khó khăn phát
sinh do suy giảm kinh tế đồng thời tạo động lực cho hệ thống ngân hàng, tổ chức tín
dụng mở rộng hoạt động huy động vốn và cung ứng vốn cho nền kinh tế.
______________________
(8)
(9)

/> />
Ngày 15/1/2010, Ngân hàng Nhà nước đã có thông cáo báo chí tổng hợp tình
hình ngân hàng tháng 12/2009, và tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến ngày
24/12/2009 đạt 446.952 tỷ đồng. Trong đó, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất của ngân
hàng thương mại và công ty tài chính là 412.180 tỷ đồng, Ngân hàng Phát triển Việt
Nam là 10.836 tỷ đồng, Ngân hàng Chính sách xã hội là 23.936 tỷ đồng. Dư nợ cho
vay đối với doanh nghiệp nhà nước là 59.379 tỷ đồng, doanh nghiệp ngoài nhà nước
là 287.971 tỷ đồng, hộ sản xuất là 64.828 tỷ đồng.
Bổ sung các khoản chi ngân sách nhà nước về đảm bảo an sinh xã hội, giảm

nghèo đã đem lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế. Tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm
2009 ước tính còn khoảng 11%, vượt mức kế hoạch. Theo Bộ Xây dựng, trong tháng
6/ 2009 có 20 dự án nhà ở xã hội được khởi công và đến cuối 2010, quỹ nhà ở xã hội
giá thấp se đưa vào sử dụng.
Thông tin cập nhật tới thời điểm 30/10/2009, quy mô của gói kích thích kinh tế

và đảm bảo an sinh xã hội khoảng 122 nghìn tỷ đồng ( khoảng 6,9 tỷ USD). Ước
tính đã thực hiện trong năm 2009 khoảng 100,6 nghìn tỷ đồng ( tương ứng với
khoảng 5,7 tỷ USD), số còn lại se được sử dụng trong thời gian tới.
2) Một số hạn chế cần xem xét: ( 10 )
Đó là còn có sự trùng lắp về đối tượng hỗ trợ lãi suất giữa các quyết định: số
131, số 443 và số 497/QĐ-TTg; Chỉ cho vay để mua hàng hóa sản xuất trong nước;
thủ tục vay phải có xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn về đối tượng và mục
đích sử dụng vốn vay;
Mức tối đa mua vật tư nông nghiệp 7 triệu đồng / ha là quá thấp, trong khi giá
cả trên thị trường các loại vật tư đó đang ở mức cao.
Việc triển khai đồng thời nhiều cơ chế hỗ trợ lãi suất, cùng với việc thực thi
chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho tổng phương tiện
thanh toán và tín dụng tăng ở mức cao, gây sức ép tăng lãi suất thị trường và lạm
phát trong thời gian tới. Mặt khác, do lãi suất cho vay VND sau khi được hỗ trợ khá
thấp, chỉ tương đương lãi suất cho vay bằng USD, cho nên các doanh nghiệp nhập
khẩu chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, gây sức ép tăng tỷ giá, dẫn đến sự
căng thẳng thanh khoản trên thị trường ngoại hối.
Page 21


Cũng có tình trạng, doanh nghiệp đang có vốn tự có gửi vào NHTM để hưởng
lãi suất cao (từ 7 – 10% / năm), nhưng vẫn vay vốn VND để hưởng hỗ trợ lãi suất
4% / năm, hoặc vay vốn để đảo nợ, hoặc sử dụng không đúng mục đích.
______________________
( 10 )

/>
Cũng không ít doanh nghiệp lập phương án sản xuất, kinh doanh, dự án đầu tư
với thời hạn trả nợ kéo dài hơn so với chu kỳ sản xuất, kinh doanh, thời hạn hoàn
vốn để được hưởng nhiều hỗ trợ lãi suất ưu đãi, đẩy thiệt thòi, thua thiệt vào Ngân

sách Nhà nước.
Trong thực tế vận hành đã phát sinh tình trạng không công bằng giữa các đối
tượng được vay vốn và không được vay vốn hỗ trợ lãi suất.
Với mức hỗ trợ lãi suất tiền vay 4%/năm là khá lớn, đối tượng thụ hưởng thuộc
nhiều lĩnh vực, ngành hàng, nếu kéo dài se phát sinh tâm lý ỷ lại vào sự hỗ trợ của
Nhà nước.
Đầu tư cho các công trình xây dựng cơ bản (kết cấu hạ tầng, nhà ở cho sinh
viên, khu chung cư cho người thu nhập thấp, v.v.) hầu như chưa triển khai được gì
do nguồn vốn không có (phát hành trái phiếu không thành công vì lãi suất không
được như nhà đầu tư mong đợi) và tính chất dài hạn của loại hình đầu tư khó phù
hợp với tiêu chí kích cầu ( kịp thời ) trong điều kiện năng lực triển khai kích cầu của
bộ máy rất có hạn.

B. Quá trình phục hồi của nền kinh tế Việt Nam sau cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới 2008
1. Dự báo nền kinh tế năm 2009 (11 )
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc Tế ( IMF):
Thứ nhất, Quỹ tiền tệ Quốc tế cho rằng, với môi trường kinh tế toàn cầu đang
xấu đi, GDP của Việt Nam năm 2009 se giảm xuống còn 5% và có thể đạt mức tăng
trưởng kinh tế 6% trong năm 2010.
Thứ hai, với giá các mặt hàng sơ chế đang giảm, lạm phát chung được dự báo
là se giảm xuống mức một con số vào cuối năm 2009, mặc dù lạm phát cơ bản
(không bao gồm thực phẩm thô và năng lượng) có thể giảm chậm hơn.
Thứ ba, thâm hụt cán cân vãng lai đối ngoại dự kiến se giảm với việc nhập
khẩu giảm nhiều hơn so với giảm xuất khẩu và kiều hối, nhưng vẫn giữ ở mức cao
(9% của GDP) trong năm 2009 khoảng 7%, năm 2010 tăng lên 10%. Điều này se tác
động bất lợi tới vị thế ngoại hối của Việt Nam, hiện vẫn đang ở mức khá thấp (tương
đương 3 tháng nhập khẩu).
Theo dự báo của chính phủ
Sự suy giảm của kinh tế thế giới là nhân tố có thể tác động bất lợi cho nền kinh

tế nước ta, một nền kinh tế vốn dĩ dựa nhiều vào đầu tư nước ngoài và xuất khẩu.
Page 22


______________________
(11 )

Nguồn: Dự báo của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương

Mặt khác, trong nước, việc thực thi chính sách kích thích kinh tế, ở một chừng
mực nhất định nào đó, se gây áp lực làm tăng lạm phát. Do vậy, mục tiêu tăng
trưởng kinh tế do Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII,
Kỳ họp thứ 4 (ngày 06-11-2008) đặt ra cho năm 2009 se là khó khả thi, nếu như các
tác động tiêu cực tới nền kinh tế Việt Nam trở thành hiện thực và việc thực thi chính
sách kích cầu không đạt được hiệu quả mong muốn. Chính phủ đã đề nghị điều
chỉnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 6,5% xuống còn 5,5% năm 2009.
Để làm sáng tỏ nhận định trên, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương đã
tiến hành dự báo một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Việt Nam trong năm 2009. Một
số giả định cụ thể về triển vọng của nền kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam
được dùng để xây dựng các kịch bản dự báo kinh tế vĩ mô và mô phỏng chính sách
cho năm 2009. Các giả định cho năm 2009 được so với năm 2008.

Giả định và kết quả dự báo một số chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô của Việt Nam năm 2009 (%)
Giả định về mức tăng*

Kịch bản
Cơ bản

Kịch bản

Lạc quan(*)

Kịch bản
bi quan(*)

GDP thực của các đối tác thương mại
Giá dầu thô thế giới
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (VNĐ/USD)c

+0,5
-50,0
+5,0

+1,0
- 45,0

+0,0
-60,0
+3,0

Cung tiền tệ (M2)

+25,0

+15,0

Kết quả
GDP (giá 1994)
4,69
5,56

3,39
Lạm phát (CPI) (mức trung bình)
9,4
8,9
8,2
Nhịp tăng xuất khẩu (%)
-12,2
-7,2
-25,5
Chú thích:
· Thương mại trong mô hình được tính theo Hệ thống tài khoản quốc gia.
· * Trong bảng này, chúng tôi chỉ đưa ra một số giả định được sử dụng trong mô
hình
· Các giả định khác không thay đổi, giữ nguyên như trong kịch bản cơ bản; c mức
tăng dương (+) nghĩa là phá giá.
.
Nhìn chung, các kết quả dự báo từ mô hình kinh tế lượng vĩ mô cho thấy, trong
năm 2009 nền kinh tế Việt Nam se tăng trưởng với tốc độ thấp hơn năm 2008, lạm
phát cao và thâm hụt ngân sách ở mức tương đối lớn điều này một phần do tác động
của việc thực thi gói chính sách kích cầu của Chính phủ. Một số chỉ tiêu dự báo
trong đó có chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng GDP theo kịch bản cơ bản thấp xa so với các
chỉ tiêu đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009. Hơn nữa, ngay cả
với kịch bản lạc quan, thì nền kinh tế cũng se chỉ tăng với tốc độ khoảng 5,56%.
Trong khi đó, mức thâm hụt ngân sách lên đến 9,4% GDP.
Page 23


Kết quả dự báo từ mô hình cũng cho thấy, lạm phát vẫn đứng ở mức cao, mặc
dù thấp hơn so với mức năm 2008 và nhập siêu còn lớn, chưa thể khắc phục ngay
trong ngắn hạn. Việc thực thi các chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng gần đây

của Chính phủ Việt Nam đã tác động đến nền kinh tế và dẫn đến kết quả dự báo tăng
trưởng kinh tế từ Mô hình kinh tế lượng của Chính Phủ cao hơn dự báo của các tổ
chức quốc tế khác.

2. Quá trình phục hồi kinh tế:
Tình hình phục hồi ( 12)
Xét về hệ thống tài chính - tín dụng thì thời điểm khó khăn nhất đã rơi vào quý
II - 2008, còn tăng trưởng kinh tế khó khăn nhất cũng đã rơi vào quý I-2009. Và tính
đến cuối năm 2009 tình hình kinh tế nước ta đã có dấu hiệu phục hồi mạnh me đặc
biệt là trong quý IV năm 2009 và 2 tháng đầu năm 2010 (13 )
 Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của

năm 2008, nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch, vào khoảng 5.32%. Trong
bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà kinh tế
nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao như trên là một thành công
lớn.
 Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I và quý II năm 2009 thấp hơn tốc

độ tăng của quý I và quý II năm 2008; nhưng quý III/ 2009 tăng 6,04%, cao hơn tốc
độ tăng 5,98% của quý III/ 2008 và quý IV/2009 tăng 6,9%, cao hơn tốc độ tăng
5,89% của quý IV/2008 cho thấy nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm
tốc độ tăng trưởng. Điều này đã chứng tỏ các chính sách, giải pháp ngăn chặn suy
giảm kinh tế của Chính phủ đề ra và được triển khai trong năm vừa qua đã phù hợp
với tình hình thực tế, và đang phát huy hiệu quả.
______________________
(12)

THÔNG CÁO BÁO CHÍ VỀ SỐ LIỆU THỐNG KÊ KINH TẾ- XÃ HỘI NĂM 2009
(09:19 31/12/2009)
(13 )

Ứng phó Việt Nam với suy thoái kinh tế thế giới - Các vấn đề kinh tế Việt Nam trong
khủng hoảng - GS. TS Nguyễn Mại

Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 so với năm 2008
Năm 2008
Năm 2009
Quý I
7,4%
3,14%
Quý II
6,5%
4,46%
Quý III
5,98%
6,04%,
Page 24


Quý IV

5,89%

6,9%,

 Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2009 theo giá so sánh 1994

Thời gian
6 tháng đầu 2009
6 tháng cuối 2009
Cả năm 2009

Trong đó:
Lĩnh vực
Nông nghiệp
Lâm nghiệp
Thuỷ sản

Sản lượng
97,1 nghìn tỷ đồng
122,8 nghìn tỷ đồng
219,9 nghìn tỷ đồng

Tốc độ tăng so với cùng kỳ 2008
2,76%
3,16%
3%

Sản lượng
160,1 nghìn tỷ đồng
7 nghìn tỷ đồng
52,8 nghìn tỷ đồng

Tốc độ tăng so với 2008
2,2%
3,8%
5,4%

 Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 1/2009 theo giá so sánh 1994 giảm 0,2% so

với cùng kỳ năm 2008; các tháng tiếp theo tuy đạt mức tăng trưởng dương nhưng
tốc độ tăng thấp (Bình quân 6 tháng đầu năm chỉ tăng 4,8%). Nhờ tích cực triển khai

các giải pháp tháo gỡ khó khăn nêu trên nên những tháng cuối năm đã tăng trên dưới
10% (Tháng 8 tăng 9,9%; tháng 9 tăng 12,4%; tháng 10 tăng 9,2%; tháng 11 tăng
10,8% và tháng 12 tăng 13,4%). Tính chung cả năm 2009, giá trị sản xuất công
nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 696,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7,6% so với
năm 2008
Các khu vực
Kinh tế Nhà nước
Ngoài Nhà nước
Có vốn đầu tư trong nước

Tốc độ tăng so với 2008
3,7%
9,9%
8,1%

Do sản
xuất trong nước phục hồi, giá cả hàng hoá, dịch vụ tương đối ổn định, nhiều doanh
nghiệp đẩy mạnh khai thác thị trường trong nước nên tổng mức bán lẻ hàng hoá và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế cả năm ước tính đã đạt 1197,5 nghìn tỷ
đồng, tăng 18,6%; nếu loại trừ yếu tố giá thì mức tăng đạt 11% so với năm 2008.
 Do sức tiêu thụ hàng hoá trên thị trường thế giới thu hẹp, giá cả của nhiều
loại hàng hoá giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt
gần 41,4 tỷ USD, giảm 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Những tháng cuối năm
tình hình đã được cải thiện rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 11 đạt gần
4,7 tỷ USD, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 12 đạt mức cao nhất trong
năm với 5,25 tỷ USD, tăng 12% so với tháng trước và tăng 12,5% so với tháng 12
năm trước, chủ yếu do hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng, trong đó
hàng dệt may tăng 90 triệu USD, gạo tăng 80 triệu USD; giày dép tăng 77 triệu
USD; cà phê tăng 67 triệu USD; dầu thô tăng 33 triệu USD. Tính chung quý IV năm
2009, kim ngạch hàng hoá xuất khẩu tăng 7,1% so với quý IV năm 2008



Page 25


×