Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Các yếu tố tác động đến bạo lực học đường dưới giác độ tiếp cận lý thuyết xã hội học (ths phan thuận)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (619.1 KB, 10 trang )

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BẠO LỰC HỌC ĐƢỜNG DƢỚI
GIÁC ĐỘ TIẾP CẬN LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC
ThS. Phan Thuận*

1. Dẫn nhập
Trong những năm gần đây, tình trạng bạo lực học đƣờng đã trở thành nỗi ám ảnh
và sợ hãi trong tâm trí của các nạn nhân và ngƣời chứng kiến hành vi bạo lực, báo
động tình trạng xuống cấp về đạo đức trong môi trƣờng học đƣờng (Patrick Burton and
Lezanne Leoschut, 2012). Chính vì thế, bạo lực học đƣờng không chỉ đƣợc nhìn nhận
nhƣ là một vấn đề xã hội rất nghiêm trọng (Bộ Tƣ pháp Hoa Kỳ, 2005), đƣợc xem
nhƣ một dịch bệnh xã hội (Elliott và cộng sự, 1998) mà còn trở thành mối quan tâm
hàng đầu của các nhà chính trị (Cowie và cộng sự, 2008;. Cowie và cộng sự, 2002;.
2003; Smith 2003).
Thực tế ở nƣớc ta cho thấy rằng, bạo lực học đƣờng đã để lại những hậu quả khá
nghiêm trọng đối với bản thân, gia đình và xã hội. Những hành vi bạo lực bằng vũ lực
có thể để lại những vết thƣơng trên thể xác và nó có thể lành theo năm tháng. Song, có
những hành vi bạo lực nhƣ bạo lực tình dục, những lời miệt thị đã để lại nỗi ám ảnh về
mặt tinh thần và những nỗi đau khi hành vi bạo lực đó đã cƣớp đi những sinh mạng vô
tội thì khó có thể xóa nhòa theo tháng năm. Để rồi, kẻ thực hiện hành vi bạo lực bị đuổi
học hoặc kết án tù tội còn ngƣời bị hại sẽ ám ảnh, lo sợ và mất đi cơ hội phát triển của
mình. Từ đó, tƣơng lai và ƣớc mơ của các em sẽ rẽ sang một hƣớng khác không mấy
khả quan. Câu hỏi đặt ra là điều gì khiến hành vi bạo lực trong học đƣờng diễn ra ngày
càng phức tạp hơn?
Để giải đáp cho vấn đề đƣợc đặt ra đó, bài viết sẽ tập trung phân tích và nhận diện
các yếu tố tác động đến hành vi bạo lực học đƣờng dƣới giác độ lý thuyết xã hội học
thông qua hai lý thuyết kiểm soát xã hội và lý thuyết bắt chƣớc xã hội, góp phần nhận
diện nguyên nhân của hành vi bạo lực học đƣờng theo hƣớng tiếp cận liên ngành và có
giải pháp thỏa đáng để hạn chế tình trạng bạo lực học đƣờng ở nƣớc ta hiện nay.
2. Thực trạng bạo lực học đƣờng
Tổ chức Y tế thế giới (1996) đã tuyên bố rằng, bạo lực có liên quan đến sức khỏe
cộng đồng và nhận diện nó nhƣ việc sử dụng vũ lực hoặc quyền lực một cách có chủ ý,


đe dọa hoặc hành động, chống lại chính mình, một ngƣời khác, hoặc chống lại một
nhóm hay cộng đồng, kết quả là có nhiều khả năng không chỉ dẫn đến bị thƣơng, tử
vong, mà còn làm cho phát triển dị dạng thậm chí cả sự mất mát tổn thƣơng về tâm lý,
*

Học viện Chính trị Khu vực IV

65


(dẫn theo Agnich, 2011: tr 1). Có thể nói, bạo lực học đƣờng đã tồn tại ở các trƣờng
học trong suốt lịch sử của giáo dục (Aries, 1962).
Ở Mỹ, có khoảng 38% các trƣờng công lập báo cáo với cảnh sát có ít nhất một sự
cố bạo lực xảy ra ở trƣờng học từ năm 2005-2006. Một nghiên cứu khác (2007) cũng
cho thấy rằng, có 5,9% học sinh từ lớp 9-12 mang vũ khí đến trƣờng trong 30 ngày
trƣớc khi có cuộc khảo sát; có 7,8% học sinh đã từng bị đe dọa hoặc đã bị thƣơng
trong trƣờng học trong suốt 12 tháng trƣớc khi có cuộc khảo sát; có 12,7% học sinh
đánh nhau trong trƣờng học trong thời giang 12 tháng trƣớc khi có cuộc khảo sát (dẫn
theo Ông Thị Mai Thƣơng, 2012). Điều này đã làm cho bạo lực học đƣờng đƣợc nhìn
nhận rộng rãi nhƣ là một vấn đề xã hội rất nghiêm trọng (Bộ Tƣ pháp Hoa Kỳ, 2005)
và nó đƣợc xem nhƣ một dịch bệnh (Elliott và cộng sự, 1998). Ở tại Anh quốc, tình
trạng bạo lực diễn ra cũng khá phức tạp. Trong năm 2007, cả nƣớc đã xảy hơn 10.000
vụ bạo lực học đƣờng. Tính tổng cộng số học sinh dƣới 16 tuổi bị đuổi học vì có hành
vi tấn công bạn cùng trƣờng là 65.390 vụ, tăng khoảng 2.720 vụ trong một năm (dẫn
theo Ông Thị Mai Thƣơng, 2012). Chính vì thế, các nghiên cứu (Cowie và cộng sự,
2008;. Cowie và cộng sự, 2002;. 2003; Smith 2003) cho rằng, bạo lực học đƣờng
không còn là một vấn đề xã hội nữa mà nó trở trành mối quan tâm hàng đầu về chính
trị ở Anh. Điều này có nghĩa là, bạo lực học đƣờng không là vấn đề giải quyết giữa cá
nhân với nhau mà nó trở thành mối quan tâm của các nhà chính trị, có lẽ, các nhà
chính trị ở Anh đã nhận thấy đạo đức trong học sinh, sinh viên ở đây có nguy cơ bị tha

hóa và suy đồi; sâu xa hơn, nó đang đe dọa đến sự phát triển bền vững của quốc gia.
Ở các nƣớc đang phát triển, tình trạng bạo lực diễn ra cũng khá phức tạp. Mức độ
và tính chất của nó ngày càng nghiêm trọng hơn. Có 60% học sinh tại các trƣờng học ở
Ethiopian trong năm 1996 cho rằng, bạo lực có tác động tiêu cực đến hoạt động dạy và
học cũng nhƣ những cảm xúc của họ và 40% cho rằng bỏ học vì bạo lực (IBE, 1997).
Ở các nƣớc Đông Nam Á, tình trạng bạo lực học đƣờng cũng diễn ra tƣơng tự. . .
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, bạo lực học đƣờng đã trở thành vấn đề
bức xúc toàn xã hội. Các vụ bạo lực học đƣờng ngày càng tăng lên. Theo thống kê từ
38 Sở GD & ĐT gửi về bộ từ năm 2003 đến năm 2009 có tới hơn 8.000 vụ học sinh
tham gia đánh nhau và bị xử lý kỷ luật. Gần đây xảy ra nhiều vụ bạo lực học đƣờng
nhƣ: nữ sinh tụ tập đánh nhau hội đồng, làm nhục bạn; nam sinh dùng dao, kiếm, mã
tấu chém nhau ngay trong trƣờng học. Ở nhiều nơi, do mâu thuẫn trong tình bạn, tình
yêu đã dùng dao rạch mặt bạn, đâm chết bạn giữa sân trƣờng10. Cũng theo báo cáo của
Bộ Giáo dục & Đào tạo Việt Nam, năm học 2009 - 2010 trên toàn quốc đã xảy ra
khoảng 1.598 vụ việc học sinh đánh nhau ở trong và ngoài trƣờng học, nhiều vụ có
tính chất nguy hiểm, gây thƣơng tích thậm chí tử vong (năm học 2009 - 2010 xảy ra 7
vụ, năm học 2010-2011 xảy ra 4 vụ học sinh đánh nhau dẫn đến chết ngƣời ở trong và
ngoài trƣờng học) (Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật
10

Báo Sài gòn giải phóng, 2009, />
66


phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em giai đoạn 2008-2010 của Ủy ban Văn hóa, Giáo
dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội khóa VIII, ngày 11 tháng 5
năm 2012).
Chính vì thế, tác giả Trần Thị Minh Đức (2012) đã nhận định rằng, đây là hiện
tƣợng ngày càng phổ biến và có mức độ nguy hiểm. Đồng tình với nhận định trên, tác
giả Nguyễn Thị Nga (2011) cũng cho thấy rằng, tình trạng bắt nạn tại các trƣờng học

cũng khá nhiều. Các em học sinh nam thƣờng có hành vi bạo lực và bị bắt nạt nhiều
hơn học sinh nữ. Điều này cho thấy rằng, tình trạng bạo lực học đƣờng là nỗi ám ảnh
đối với học sinh hiện nay và khiến cho môi trƣờng học đƣờng trở nên u ám. Do đó,
việc nhận diện các yếu tố tác động đến hành vi bạo lực học đƣờng sẽ góp phần tìm
kiếm những giải pháp hữu hiệu để hạn chế tình trạng này.
3. Nhận diện các yếu tố tác động đến hành vi bạo lực học đƣờng từ giác độ lý
thuyết kiểm soát xã hội
Đại diện tiêu biểu của trƣờng phái kiểm soát xã hội là Albert J. Reiss, Walter C.
Reckless, Travis Hirschi, Michael R. Gottfredson và John Hagan. Lập luận chính của
thuyết kiểm soát xã hội là sự phạm tội bắt nguồn sâu xa từ sự yếu kém trong khả năng
tự kiểm soát hành vi của cá nhân và thiếu vắng các biện pháp kiểm soát phù hợp từ
phía xã hội. Theo nghiên cứu của Nguyễn Chí Dũng và cộng sự (2010) cho rằng,
Albert J. Reiss (1951) đã lý giải rằng sự hƣ hỏng ở tuổi vị thành niên là do cá nhân
không tự kiểm soát đƣợc hành vi cũng nhƣ họ không bị chi phối bởi sự kiểm soát từ
phía xã hội. Cùng quan điểm của Reiss, Nye (1958) đã khái quát ba loại kiểm soát chủ
yếu khuyến khích sự tuân thủ chuẩn mực, ngăn cản cá nhân thực hiện các hành vi lệch
chuẩn nhƣ kiểm soát trực tiếp, kiểm soát gián tiếp và tự kiểm soát 11 . Đến 1961,
Reckless công bố Thuyết Kiềm chế đã góp phần phát triển lý thuyết kiểm soát xã hội.
Theo Nguyễn Chí Dũng và cộng sự (2010) phân tích luận điểm của Reckless cho thấy
rằng, các yếu tố tạo sự kiềm chế bên trong chủ yếu bao gồm các yếu tố thuộc về bản
thân cá nhân nhƣ: sự tự kiểm soát, sự tự giác tuyệt đối trong việc tuân thủ chuẩn mực
hay còn gọi là sự tự ý thức cao độ, khả năng chịu đựng thất bại tốt, khả năng chống lại
những cám dỗ, tinh thần trách nhiệm cao, khả năng tìm kiếm và thay thế những yếu tố
kỳ vọng, định hƣớng mục tiêu…. Sự kiềm chế bên ngoài bao gồm những yếu tố thuộc
về thế giới xung quanh cá nhân. Đó có thể là sự hiện diện của những giới hạn về đạo
11

- Kiểm soát trực tiếp: Thông qua hình phạt và sự khen thƣởng. Cá nhân sẽ bị trừng phạt nếu
họ thực hiện hành vi vi phạm chuẩn mực đồng thời sự tuân thủ các chuẩn mực của cá nhân sẽ
đƣợc khuyến khích, khen thƣởng.

- Kiểm soát gián tiếp: Đó là sự kiểm soát đến từ việc cá nhân lo sợ nếu họ thực hiện hành vi
nào đó thì có thể làm tổn thƣơng hoặc ảnh hƣởng đến những ngƣời mà họ có mối quan hệ mật
thiết.
- Tự kiểm soát: Cảm giác xấu hổ hoặc tội lỗi sẽ ngăn cản cá nhân thực hiện hành vi lệch
chuẩn, khuyến khích sự tuân thủ chuẩn mực.

67


đức có tác dụng giữ cá nhân ở bên trong các giới hạn cho phép; những tác nhân thể chế
khuyến khích sự tuân thủ chuẩn mực, các mục tiêu và sự kỳ vọng, sự giám sát của bố
mẹ và nhà trƣờng, sự đoàn kết trong các nhóm bạn bè, cơ hội để đƣợc chấp nhận,
những quy định về hành vi và trách nhiệm, v.v. Chính những yếu tố thuộc về cấu trúc
xã hội đó đã giúp cho gia đình và các nhóm xã hội khác có thể kiềm chế đƣợc hành vi
của cá nhân.
Đến năm 1969, trong tác phẩm nổi tiếng: “Các nguyên nhân của sự hƣ hỏng tuổi
vị thành niên”, Travis Hirschi khi lý giải nguyên nhân của sự hƣ hỏng ở tuổi vị thành
niên đã cho rằng, cá nhân sẽ thực hiện hành vi lệch chuẩn/phạm tội khi mối ràng buộc
(liên hệ) giữa họ với xã hội bị suy yếu hoặc biến mất. Theo Hirschi, có bốn loại mối
liên hệ12 (ràng buộc) kết nối con ngƣời với xã hội và khuyến khích họ tuân thủ các
chuẩn mực. Cả bốn yếu tố này có thể tác động độc lập đến cá nhân, đồng thời chúng
cũng có quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng ảnh hƣởng đến hành vi của cá nhân. Bất kỳ
sự suy yếu của yếu tố nào cũng có thể dẫn đến sự suy yếu của các yếu tố còn lại. Theo
đó, khi bốn yếu tố này tồn tại và có ảnh hƣởng mạnh đến cá nhân thì cá nhân sẽ bị
ràng buộc chặt chẽ với các chuẩn mực. Bởi vậy, cá nhân bị kiềm chế đúng mức để
không thực hiện hành vi lệch chuẩn. Ngƣợc lại, khi các yếu tố này suy yếu thì cá nhân
có thể bị đẩy đến chỗ thực hiện các hành vi lệch chuẩn (xem Nguyễn Chí Dũng và
cộng sự, 2010).
Có thể nói, lý thuyết kiểm soát xã hội đã lý giải hành vi bạo lực học đƣờng là do
sự thiếu vắng tính kiểm soát của bản thân, gia đình và nhà trƣờng. Điều này đã đƣợc

kiểm định bằng các nghiên cứu trƣớc đây. Chen (2008) đã kết luận rằng, tình trạng bạo
lực ở học sinh liên quan đến đặc điểm tiêu cực của cá nhân (thái độ đối với bạo lực,
kiểm soát tính bốc đồng, tính hung hăng), sự giám sát của cha mẹ, sự kém tuân thủ quy
định ở nhà trƣờng, sự ngƣợc đãi (chứng kiến bạo lực, nạn nhân của bạo lực), mối quan
hệ không tốt giữa giáo viên và học sinh và các nguy cơ từ bạn bè. Nghiên cứu tổng
quan của Sarah Lindstom Johnson (2009) cũng đã có phát hiện tƣơng tự, học sinh có
nhận thức quy tắc của trƣờng và tin tƣởng họ càng tốt thì càng ít có xu hƣớng bạo lực
học đƣờng diễn ra. Khi đó, học sinh sẽ có mối quan hệ tích cực với giáo viên, cảm
12

- Mức độ gắn bó với những ngƣời khác: Đó là mối quan hệ chặt chẽ với ngƣời khác, thừa
nhận họ và quan tâm đến sự mong đợi từ phía họ. Nếu cá nhân càng ít gắn bó, ít bị chi phối
bởi ý kiến của ngƣời khác thì họ càng ít chịu áp lực từ phía họ.
- Sự cam kết: Đó là việc cá nhân cố gắng xây dựng một quy ƣớc hoặc sự cam kết nào đó theo
hƣớng tuân thủ chuẩn mực.
- Sự gắn bó với các hoạt động tích cực: Đó là tình trạng cá nhân chỉ quan tâm và dành thời
gian cho các hoạt động hợp chuẩn thông thƣờng nhƣ: học tập, các quan hệ trong gia đình,
tham gia các hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh tại các câu lạc bộ, v.v.
- Niềm tin: Đó là sự tán thành các giá trị và chuẩn mực của cộng đồng xã hội, đặc biệt là niềm
tin vào tính đúng đắn của hệ thống pháp lý và các quy tắc xã hội khác.

68


thấy thân thiện với ngôi trƣờng của họ, cảm thấy môi trƣờng tích cực và trật tự. Các
nghiên cứu trong nƣớc cũng có những phát hiện khá thống nhất với các nghiên cứu
trên thế giới. Nghiên cứu của các tác giả (Nguyễn Văn Lƣợt, 2009; Lê Thị Lan Anh,
2012) cũng đã kết luận rằng, các em kiềm chế cảm xúc nóng giận càng ít, thất vọng
đối với các quy định càng lớn thì khả năng có hành vi bạo lực học đƣờng càng cao.
Ngoài ra, một nghiên cứu khác của Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, Cao Hàn Thi (2012)

đƣợc thực hiện trên 340 học sinh từ lớp 8-12 của 8 trƣờng trung học cơ sở và trung
học phổ thông trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Nhóm tác giả này đã kết luận
rằng, sự kém tuân thủ quy định ở trƣờng, ấn tƣợng tiêu cực về trƣờng học, thái độ đối
với bạo lực và tình nóng nảy là một trong những nhân tố tác động đến hành vi bạo lực
học đƣờng của học sinh hiện nay.
Nhƣ vậy, bằng chứng từ kết luận của các nghiên cứu trƣớc đây đã góp phần củng
cố tính đúng đắn và hợp lý của lý thuyết kiểm soát xã hội về lý giải hành vi bạo lực
học đƣờng. Điều này có nghĩa là, càng thiếu vắng sự kiểm soát xã hội (bên trong và
bên ngoài) thì học sinh có hành vi bạo lực học đƣờng càng nhiều. Do đó, tăng cƣờng
sự kiểm soát của nhà trƣờng, gia đình và rèn luyện những kỹ năng kiểm soát bản thân
của học sinh là một trong những giải pháp hữu hiệu để hạn chế tình trạng bạo lực học
đƣờng hiện nay.
4. Nhận diện các yếu tố tác động đến hành vi bạo lực học đƣờng từ giác độ lý
thuyết bắt chƣớc xã hội
Hành vi bạo lực học đƣờng không chỉ do sự thiếu vắng tính kiểm soát xã hội mà
còn liên quan đến các yếu tố khác nhƣ sự bắt chƣớc hoặc có tần suất tiếp xúc với bạo
lực. Để góp phần lý giải thoả đáng hơn về nguyên nhân của hành vi bạo lực học đƣờng,
bài viết còn nhận diện hành vi này dƣới giác độ tiếp cận lý thuyết bắt chƣớc xã hội.
Luận điểm cơ bản của khuynh hƣớng lý thuyết này là cá nhân có thể bắt chƣớc hành vi
phạm tội thông qua sự tiếp xúc với các quan niệm, thái độ của tội phạm.
Theo phân tích của nhóm nghiên cứu Nguyễn Chí Dũng và cộng sự (2010) cho
thấy rằng, quan niệm về lý thuyết bắt chƣớc xã hội của Sutherland và Akers đều khẳng
định mối liên hệ mật thiết giữa sự hƣ hỏng và các quan hệ với những ngƣời bạn hƣ
hỏng. Trên thực tế cũng nhƣ về mặt lý luận, cá nhân có thể bắt chƣớc các hành vi lệch
chuẩn từ cả những ngƣời hƣ hỏng cũng nhƣ những ngƣời “ngoan” hay “không hƣ
hỏng”. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng bạn bè hƣ hỏng là nguồn gốc chủ
yếu cho sự bắt chƣớc của cá nhân về các hành vi lệch chuẩn. Từ đó, Akers đã giới
thiệu thuyết bắt chƣớc xã hội ở tầm khái quát hơn với lập luận chủ yếu: cá nhân có thể
bị ảnh hƣởng, bị tiêm nhiễm các hành vi phạm tội/lệch chuẩn thông qua sự bắt chƣớc
và sự thôi thúc của nhiều yếu tố. Các yếu tố đó là: (1) Các mối quan hệ đa dạng, đây là

quá trình cá nhân đƣợc tiếp xúc, tƣơng tác với các quan niệm, chuẩn mực khác nhau.
Theo Akers, nhóm gia đình và bạn bè là nhóm xã hội có tác động khá mạnh mẽ đến
hành vi sai lệch của cá nhân, theo một nguyên tắc chung là những quan hệ diễn ra sớm
nhất, kéo dài nhất, thƣờng xuyên nhất, thân mật và gần gũi nhất thì sẽ có ảnh hƣởng
nhiều nhất đến hành vi của cá nhân. (2) Các quan niệm, đó là thái độ hoặc ý nghĩa mà cá
69


nhân gắn cho một hành vi cụ thể. Nếu cá nhân có thái độ phản đối một hành vi nào đó
càng quyết liệt thì anh ta càng có ít khả năng thực hiện hành vi đó. Ngƣợc lại, nếu cá
nhân có thái độ ủng hộ một hành vi nào đó càng mạnh mẽ thì khả năng anh ta thực hiện
hành vi đó càng cao. (3) Những tác nhân thúc đẩy hành vi: đây chính là sự cân nhắc
giữa các phần thƣởng hoặc hình phạt mà cá nhân có thể nhận đƣợc nếu nhƣ anh ta thực
hiện một hành vi lệch chuẩn/phạm tội. Theo Akers, việc cá nhân sẽ tiếp tục phạm tội
hoặc không phạm tội phụ thuộc chủ yếu vào các phản ứng trong quá khứ, hiện tại và
tƣơng lai (các phần thƣởng và hình phạt). (4) Sự bắt chƣớc, đó là sự thực hiện một
hành vi sau khi đã quan sát hành vi đó ở ngƣời khác. Việc bắt chƣớc các hành vi sẽ
phụ thuộc vào mô hình, loại hành vi cũng nhƣ những hậu quả gắn liền với các hành vi
đó. Cả hành vi hợp chuẩn, đƣợc xã hội ủng hộ cũng nhƣ hành vi lệch chuẩn đều chịu
ảnh hƣởng từ sự quan sát các mô hình nổi bật xuất hiện trên truyền thông đại chúng và
trong các nhóm sơ cấp. So với sự duy trì các mô hình hành vi, sự bắt chƣớc có ảnh
hƣởng nhiều hơn đối với sự khởi đầu của các hành vi mới.
Nhƣ vậy, theo quan niệm của lý thuyết bắt chƣớc xã hội có thể giải thích hành vi
bạo lực học đƣờng là do sự bắt chƣớc và tần suất tiếp xúc các hành vi bạo lực khá
sớm; vì thế, các cá nhân dễ có hành vi bạo lực hơn. Điều này đƣợc phân tích khá rõ
trong các nghiên cứu trƣớc đó. Bằng chứng trong phát hiện nghiên cứu của Singer và
cộng sự (2011) đã cho thấy rằng, tình trạng giáo dục của học sinh, đặc điểm về gia
đình, thói quen xem ti vi, thói quen sử dụng máy tính và việc tiếp xúc với bạo lực
trong quá khứ sẽ dự báo đƣợc hành vi bạo lực của học sinh trong tƣơng lai. Gần đây,
một kết quả nghiên cứu tại Nam Phi cũng cho thấy rằng, các em học sinh chứng kiến

bạo lực càng nhiều, sinh sống trong gia đình thiếu hoặc có ngƣời phạm tội và có nhiều
bạn bè có hành bi bạo lực thì càng có xu hƣớng diễn ra bạo lực đối với ngƣời khác.
Ngoài ra, cơ hội tiếp cận với rƣợu, thuốc phiện và vũ khí càng nhiều thì khả năng có
hành vi bạo lực càng cao (Patrick Burton and Lezanne Leoschut, 2012). Nghiên cứu
của tác giả Hoàng Bá Thịnh (2007) cũng đã giải thích rằng, bạo lực gia đình đối với trẻ
em sẽ để lại những hệ quả tiêu cực trong việc phát triển và hoàn thiện cách của trẻ.
Bằng chứng là, bạo lực sẽ có xu hƣớng chuyển giao hành vi này cho thế hệ sau. Tác
giả khẳng định, những ngƣời chứng kiến cảnh bạo lực hoặc chính họ là nạn nhân của
bạo lực, sẽ ít nhiều tiếp nhận hành vi bạo lực đó trong tâm trí. Với trẻ em sống trong
gia đình có hành vi bạo lực, lớn lên ra ngoài xã hội có thể rụt rè, sợ hãi ngƣời khác,
không dám bày tỏ suy nghĩ của mình, nhƣng cũng có thể sử dụng bạo lực để giải quyết
những mâu thuẫn nảy sinh trong cuộc sống. Có 15,5% thanh thiếu niên phạm tội bạo
lực thì gia đình có mối bất hòa, 14,3% là cha mẹ nghiện rƣợu, 2,6% là cha mẹ có hành
vi bạo lực đối với con cái. Nghiên cứu còn thấy, khi còn nhỏ tuổi bị lạm dụng tình dục
thì khi lớn lên càng dễ bị phạm tội tình dục. (tr 40). Bổ sung các nhân tố ảnh hƣởng đến
hành vi bạo lực học đƣờng, nghiên cứu của tác giả Ông Thị Mai Thƣơng (2012) cũng
cho thấy, nếu các em học sinh nào có mức độ gắn kết càng chặt chẽ, tần suất càng nhiều,
thời gian gia nhập nhóm không chính thức càng sớm thì khả năng có hành vi bạo lực
càng cao.
70


5. Kết luận và gợi ý giải pháp
Nhƣ vậy, dƣới cách tiếp cận lý thuyết kiểm soát xã hội và lý thuyết bắt chƣớc xã
hội đã góp phần giải thích một cách thỏa đáng về hành vi bạo lực học đƣờng rằng,
càng thiếu vắng sự kiểm soát xã hội và có cơ hội tiếp xúc với các hành vi bạo lực càng
sớm, càng nhiều thì nguy cơ có hành vi bạo lực càng nhiều. Do đó, để góp phần hạn
chế tình trạng bạo lực học đƣờng hiện nay, nghiên cứu gợi mở một số giải pháp nhƣ
sau:
Thứ nhất, cần có sự gắn bó giữa cha mẹ với con cái, bởi lẽ để nuôi dạy con cái

thành công thì sự gắn bó giữa cha mẹ với con cái là yếu tố tiên quyết. Bằng chứng của
thực tế cho thấy rằng những đứa trẻ có hành vi bạo lực thƣờng đƣợc sinh ra và lớn lên
trong gia đình với bố mẹ không thƣờng xuyên gần gũi và giúp đỡ họ.
Thứ hai, cần có sự giám sát của bố mẹ đối với con cái, nó sẽ có tác dụng phát
hiện kịp thời và ngăn cản chúng thực hiện các hành vi mang tính bạo lực. Đồng thời,
thông qua sự giám sát chặt chẽ, bố mẹ cũng dạy cho con cái cách thức để tránh các
hành vi bạo lực.
Thứ ba, cần có nhận thức đúng đắn về hành vi bạo lực, để sự giám sát phát huy
tác dụng thì các bậc cha mẹ phải phát hiện kịp thời những nguy cơ có thể dẫn đến hành
vi bạo lực đối với con em mình hoặc con em mình có hành vi bạo lực đối với ngƣời
khác. Tuy nhiên, rất nhiều bậc phụ huynh đã không ý thức đƣợc các dạng hành vi này
và để cho con cái họ thực hiện tự do, chẳng hạn nhƣ hút thuốc lá, nói tục, nghỉ học, v.v.
Rõ ràng, sự thiếu chuẩn mực trong hành vi cũng nhƣ quan niệm của cha mẹ có thể dẫn
đến sự thất bại trong giáo dục con cái.
Thứ tư, nhà trƣờng cũng cần tạo sự gắn kết giữa các em học sinh để có thể hiểu
tâm tƣ, nguyện vọng, nắm bắt tâm lý kịp thời nhằm có ứng phó phù hợp khi có nguy
cơ xảy ra hành vi bạo lực trong học đƣờng. Để làm đƣợc điều này, các trƣờng học cần
thực hiện tốt công tác tham vấn học đƣờng, góp phần giúp cho các em giải tỏa những
bức xúc về tâm lý của lứa tuổi mới lớn. Đồng thời, tăng cƣờng nhiều hoạt động giáo
dục kỹ năng sống cho các em học sinh nhƣ cơ chế kiểm soát cảm xúc, ứng phó trƣớc
những hành vi có khả năng làm tổn thƣơng bản thân mình….
Thứ năm, phụ huynh học sinh cần phải gƣơng mẫu về hành vi đạo đức để các em
có thể theo đó mà học tập một cách tích cực hơn. Để làm đƣợc điều này, mỗi gia đình
tự ý thức tích cực xây dựng gia đình văn hóa và nói không với các tệ nạn xã hội… Có
nhƣ vậy, sẽ tạo ra bầu không khí trong lành trong gia đình, góp phần hình thành nhân
cách các em một cách đầy đủ và hoàn hiện hơn. Khi đó, các em sẽ tự ý thức và kiểm
soát bản thân để hạn chế hành vi mang tính bạo lực.
Cuối cùng, cần xử lý và trừng phạt một cách nghiêm khác đối với các hành vi
lệch chuẩn. Bởi vì, sự trừng phạt các hành vi sai lệch có tác dụng ngăn cản các hành vi
đó ở trẻ em. Các hình phạt thể hiện sự không ủng hộ của cha mẹ đối với những hành vi

71


mà họ không mong muốn. Tuy nhiên, để giáo dục con cái thành công thì cha mẹ cần
phải có các hình thức trừng phạt với mức độ hợp lý đối với từng dạng hành vi sai lệch.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1] Lê Thị Lan Anh (2012). Một số yếu tố tâm lý ảnh hƣởng đến hành vi bạo lực
học đƣờng của học sinh THPT. Luận văn thạc sỹ Tâm Lý học. Trƣờng Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn. Hà Nội.
[2] Trần Thị Minh Đức (2010). “Gây hấn học đƣờng ở học sinh trung học phổ
thông”. Tạp chí nghiên cứu con người, số 3.
[3] Nguyễn Thị Mai Lan (2013a). “Bạo lực học đƣờng và nhận thức của học
sinh về vấn đề này”. Tạp chí Tâm lý học, số 5.
[4] Nguyễn Thị Mai Lan (2013b). “Thái độ và hành động đối với hành vi bao
lực học đƣờng ở nƣớc ta hiện nay”. Tạp chí Tâm lý học, số 6.
[5] Nguyễn Văn Lƣợt (2009). Bạo lực học đƣờng: nguyên nhân và một số giải
pháp hạn chế. Kỷ yếu hội thảo khoa học toàn quốc: Nhà trường Việt Nam
trong một nền giáo dục tiên tiến, mang đậm đà bản sắc dân tộc. TP Hồ Chí
Minh. Trang 9-20
[6] Nguyễn Thị Nga (2011). Tìm hiểu hiện tƣợng bắt nạt ở học sinh trung học phổ
thông. Luận văn thạc sỹ Tâm lý học. Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn, Hà Nội.
[7] Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, Cao Hàn Thi ( 2012). “Các yếu tố tác động đến hành
vi bạo lực của học sinh”. Tạp chí Khoa học và phát triển, tập 15. Trang 32-47
[8] Hoàng Bá Thịnh (2007). “Bạo lực gia đình đối với trẻ em và một số giải
pháp phòng ngừa”. Tạp chí Tâm lý học, số 6.
[9] Ông Thị Mai Thƣơng (2012). Tác động của nhóm không chính thức đến
hành vi bạo lực thể chất trong học sinh THPT (Nghiên cứu trƣờng hợp

THPT Lê Viết Thuật, TP Vinh, Nghệ An). Luận văn thạc sỹ Xã hội học.
Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Hà Nội.
Tiếng Anh
[10] Agnich et al (2011). A cross- National study of school violence. Blacsburg,
VA.
[11] Aries (1962). Centuries of Childhood. New York, NY: Alfred A. Knopf.

72


[12] Chen (2008). Scholl social dynamics as mediators of students’s personal
traits and family factors on the perpetration of school violence on Taiwan.
Thesis.
[13] Cowie, H., Jennifer, D. and Sharp, S (2003). “Violence in schools: UK” in
P.K. Smith (ed.) Violence in Schools: The perspective from Europe. P. 1-15.
London: Routledge.
[14] Cowie, H., Naylor, P., Talamelli, L., Chauhan, P. and Smith, P.K. 2002.
“Knowledge, use of and attitudes towards peer support.” Journal of
Adolescence. 25, p:453-467.
[15] Cowie, H., Hutson, N., Jennifer, D. and Myers C.A. (2008). “Taking stock
of violence in U.K. schools: Risk, regulation, and responsibility.” Education
and Urban Society. 40(4), p:494-505.
[16] Elliott, Hamburg and Williams (1998). Violence in American Schools.
Cambridge, MA: Cambridge University Press.
[17] Patrick Burton and Lezanne Leoschut ( 2012). School Violence in Soth
Africa: Results of the 2012 National School violence study. Centre for
Justice and Crime Prevention.
[18]

Sarah Lindstom Johnson (2009). Improving the school environmet to

reduce school violence: A review of the literatue. Journal of School Health,
Vol 79, 10/2009. Trang 451- 465.

[19] Singer, Kaya, Bilgin (2011). Contributing factors to aggressive behavior in
high school student in Turkey. The Jornal of School nirsing, vol 28, p 56-69.
[20] Smith (2003) . Violence in Schools: The Perspective from Europe. London:
Routledge.
[21] United States Department of Justice. Office of Justice Programs. Bureau of
Justice Statistics (2005). School Crime Supplement to the National Crime
Victimization Survey. Washington, D.C.: Department of Justice, Office of
Justice Programs.

73


Kho Ebook miễ n phí
ebookfree247.blogspot.com
Cơ sở Dữ liệ u Hội t hảo/Tham luận
t huvie nhoit hao.blogspot.com
t huvie nt hamluan.blogspot.com

CHIA SẺ TRI THỨC



×