Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Đánh giá ảnh hưởng của các mức bón phân lân đến sự sinh trưởng và phát triển của các giống hoa đồng tiền nhập nội trên đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 72 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoa là một sản phẩm không thể thiếu trong cuộc sống. Từ bao đời nay chơi
hoa đã gắn bó mật thiết và đi vào tiềm thức, thói quen của mọi người, mọi tầng
lớp xã hội. Hoa khơng những có giá trị về mặt thẩm mỹ mà cịn có giá trị về mặt
tinh thần, làm xua tan mệt mỏi sau những giờ làm việc căng thẳng do nó có
hương thơm dịu nhẹ, thanh khiết của hoa cộng với sự hoà quyện của thiên nhiên
đất trời, nó làm mê hoặc lịng người bởi vẻ đẹp vừa tao nhã vừa sặc sỡ của màu
sắc và từ hoa nó cũng tạo nên kết tinh của tình u. Xã hội càng phát triển, mức
sống của ngưòi dân càng nâng cao thì nhu cầu về hoa càng tăng cả về số lượng
và chất lượng. Hàng năm nhu cầu hoa cắt cành trên thế giới tăng khoảng 6 - 9%,
tổng giá trị tiêu thụ hoa trên thế giới năm 1995 là 31 tỉ USD (Hoàng Ngọc Thuận,
2006) tăng lên gần 40 tỉ USD năm 1999 (Nguyễn Xuân Linh và cs, 1998).
Nghề trồng hoa ở Việt Nam đã có từ lâu đời nhưng vài chục năm gần đây
có những bước đột phá, công nghệ sản xuất hoa đã được áp dụng và phát triển
với nhiều mức độ khác nhau đáp ứng được nhu cầu chơi hoa của xã hội. Theo đề
án của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nước ta phấn đấu đến năm 2010
có 8000ha hoa, trong đó bao gồm cả hoa cắt và hoa trồng chậu, kim ngạch xuất
khẩu đạt khoảng 60 triệu USD. Để đạt được mục tiêu đó, bên cạnh các vùng
trồng hoa truyền thống như Đà Lạt (Lâm Đồng), SaPa (Lào Cai), Tây Tựu (Hà
Nội), Mê Linh (Vĩnh phúc), Đằng Lâm, Đằng Hải (Hải Phòng), chúng ta cần
phải tập trung nghiên cứu xây dựng các vùng trồng hoa mới có quy mơ lớn, áp
dụng cơng nghệ tiên tiến về giống, phân bón và các trang thiết bị khác. Hiện nay,
một số vùng sản xuất hoa mới như Thái Bình, Hưng Yên, Quảng Ninh, Bắc
Giang, Bắc Ninh, Hà Nam đã tiến hành đầu tư công nghệ cao để phát triển sản
xuất hoa theo hướng xuất khẩu.
Hoa đồng tiền (Gerbera sp) có nguồn gốc từ Nam Phi, được nhập về trồng
đầu tiên khoảng từ những năm 1940, là một trong 10 loài hoa quan trọng nhất
trên thế giới (sau hồng, cúc, lan, cẩm chướng, lay ơn) (Đặng Văn Đông, 2004).




2

Hoa đồng tiền có màu sắc tươi sáng rất phong phú, đa dạng với đủ các loại màu:
đỏ, cam, vàng, trắng, tím sen. Với ưu điểm dễ trồng, dễ nhân giống, chăm sóc
đơn giản ít tốn cơng, trồng một lần có thể thu hoạch liên tục từ 4 - 5 năm. Trước
đây, cây giống ban đầu thường được tạo bằng phương pháp tách chồi, gieo hạt cổ
truyền, đơn giản, ít tốn công, không tốn kém song chất lượng cây giống kém,
nhanh bị thoái hoá do nhiễm vi rút…Trong những năm gần đây, nguồn giống chủ
yếu là nuôi cấy mô nhập từ Hà Lan, Côn Minh – Trung Quốc với giá rất cao
5000đ/cây, cây lại không rõ nguồn gốc, thiếu chủ động… Đây chính là nguyên
nhân khiến giá hoa thành phẩm còn khá cao, chưa đáp ứng được nhu cầu thưởng
thức hoa của người dân. Vì vậy, trong những năm gần đây, công tác chọn tạo
giống hoa đồng tiền ở Việt Nam đã bắt đầu được quan tâm và nghiên cứu. Viện
Viện sinh học nông nghiệp – Đại học Nông nghiệp I – Hà Nội đã nghiên cứu và
xây dựng thành cơng quy trình nhân nhanh invitro hoa đồng tiền và áp dụng
thành công ở nhiều địa phương nên giá thành cây giống ban đầu rẻ, cây sạch
bệnh, đẻ khoẻ, chủ động trong trồng trọt và đã đáp ứng được một phần nhu cầu
cây giống hoa đồng tiền của thị trường. Tuy nhiên nhu cầu của người tiêu dùng,
của thị trường ln địi hỏi phải có nhiều giống hoa mới, lạ, đa dạng và phong
phú hơn nữa,vì thế các giống hoa trong sản xuất được người trồng nhập về từ
nhiều nguồn khác nhau không qua khảo nghiệm đánh giá một cách hệ thống cho
nên năng suất, phẩm chất hoa chưa đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng. Nền
kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển và hội nhập, điều đó đã tạo cho người
dân có cơ hội hưởng thụ đời sống tinh thần chơi hoa thưởng nguyệt. Trong đó
hoa đồng tiền là một trong những loài hoa được mọi người ưa chuộng. Trước nhu
cầu đó trong những năm qua nhiều nhà sản xuất đã nhập được một số giống hoa
Đồng Tiền từ Hà Lan, Trung Quốc về trồng, kết quả là một số giống đã phát huy
những ưu điểm nổi trội, nhưng cũng có nhiều giống hoa khơng phù hợp với điều

kiện khí hậu Việt Nam. Vì vậy việc nghiên cứu chọn tạo giống hoa đồng tiền
thích nghi với điều kiện khí hậu nước ta có ý nghĩa lớn góp phần nâng cao hiệu
quả sản xuất, tăng thu nhập cho người dân và cho quốc gia.


3

Do vậy, công tác nghiên cứu chọn tạo, nhập nội giống, tuyển chọn giống
hoa đồng tiền thích nghi với điều kiện khí hậu nước ta có ý nghĩa rất quan trọng
góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng thu nhập cho người dân.
Xuất phát từ thực tế trên, để góp phần vào cơng tác chọn tạo giống cũng
như hồn thiện quy trình kỹ thuật thâm canh nâng cao năng suất, chất lượng và
hiệu quả sản xuất hoa đồng tiền, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh
giá ảnh hưởng của các mức bón phân lân đến sự sinh trưởng và phát triển
của các giống hoa đồng tiền nhập nội trên đất đỏ bazan huyện Nghĩa Đàn,
tỉnh Nghệ An”.
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích
- Thơng qua kết quả nghiên cứu có thể tìm ra được liều lượng bón thích hợp
của phân Lân đối với các giống hoa đồng tiền trên đất Nghĩa Đàn.
- Xác định được một số giống hoa đồng tiền có năng suất cao, chất lượng
tốt, màu sắc phù hợp thị hiếu tiêu dùng cho hiệu quả kinh tế cao, có khả năng
chống chịu tốt với sâu bệnh và thích ứng với sinh thái của Nghĩa Đàn và phụ cận
để sản xuất.
2.2. Yêu cầu
- Đánh giá khả năng thích nghi với điều kiện Nghĩa Đàn của 3 giống hoa
đồng tiền nhập nội.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân Lân đến một số chỉ tiêu sinh
trưởng phát triển của hoa
- Nghiên cứu ảnh hưởng của liều lượng phân Lân đến năng suất, chất lượng

các giống hoa.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Cung cấp tư liệu khoa học về ảnh hưởng của liều lượng lân đến sinh trưởng
phát triển năng suất hoa. Trên cở sở đó đưa ra được liều lượng bón lân thích hợp
đối với các giống hoa đồng tiền nhập nội để áp dụng vào thực tiễn sản xuất.


4

Lân tham gia chính vào sự hình thành chất Nucleoproteit của nhân tế bào
do vây toàn bộ bộ phận của cây: thân, rễ, lá, hoa đều cần lân. Lân giúp cho bộ rễ
sinh trưởng và phát triển mạnh tạo tiền đề cho bắt đầu một sự sống, cây con
khoẻ, tỷ lệ sống cao, thân cứng, hoa bền, màu sắc đẹp. Trong quá trình sinh
trưởng của cây, đồng tiền cần lân nhiều hơn vào giai đoạn sinh trưởng sinh thực,
tức là thời kỳ hình thành nụ và hoa. Nhưng do lân phân giải chậm nên chủ yếu
dùng để bón lót 3/4 cịn 1/4 dùng để bón thúc cùng đạm, kali hoặc ngâm với
phân hữu cơ. Lượng lân nguyên chất dùng cho 1ha đồng tiền từ 140- 160kg/năm.
Tuỳ theo từng loại đất mà sử dụng các loại lân khác nhau. Với đất trung tính
nhiều mùn dùng supe lân, đất chua nên sử dụng phân lân nung chảy và đất chua
mặn dùng apatit.


5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc cây hoa Đồng Tiền
Cây hoa đồng tiền tên khoa học là Gerbera jamesonni Bolus cịn gọi là hoa
mặt trời được tìm thấy đầu tiên ở các tỉnh Transvaal, Natal, Barbeton và
Swazilan của Nam Phi. Năm 1886, Gerbera jamesonii được du nhập vào Anh

quốc và đến năm 1910 đã phát triển trở thành hoa thương mại phổ biến tại Pháp.
Bắc Phi và nhiều nước khác… Có nguồn gốc ở Nam Phi, được phát hiện bởi
Robert Jamerson, người Scotsland.
Vào năm 1880 khi đang làm ở bãi khai thác vàng gần Bardedton vùng
Trausval ở Nam Phi. Ông đã tặng cây này cho vườn thực vật Dururrdan và người
phụ trách khu vườn thực vật Hoàng Gia Anh để phân loại và nhận biết, ông đề
nghị đặt tên khoa học cho loài này là Gerbera Jamesonii. Năm 1890, Kichard
Irwin Lynch (người Anh) bắt đầu thực hiện một chương trình tạo giống và đã tạo
ra rất nhiều giống cải tiến [19].
Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, hoa đồng tiền chưa được sản xuất ở Bắc
Mỹ, nhưng sau đó việc nhân giống được tiến hành rộng rãi ở California trong
suốt những năm 70
Ở Việt Nam hoa đồng tiền đơn được người Pháp đưa vào từ đầu thế kỷ XX
và được phát triển cho đến ngày nay. Tuy nhiên chủ yếu vẫn là các giống đồng
tiền đơn, hoa nhỏ. Hoa Đồng Tiền kép mới chỉ được du nhập vào Việt Nam một
vài năm gần đây, (Đặng Văn Đông và Đinh Thế Lộc, 2004) [2].
1.2. Phân loại và đặc điểm thực vật của cây hoa Đồng Tiền
1.2.1. Phân loại
Trong hệ thống phân loại thực vật cây hoa Đồng Tiền thuộc lớp 2 lá mầm,
phân lớp cúc (Asteridae), bộ cúc (Asterales), họ cúc (Asteraceae), chi Gerbera
(Trần Hợp, 1999) [12].


6

Chi Gerbera rất phổ biến, (khoảng 40 loài) được trồng làm cây trang trí trong
các mảnh vườn hoặc được cắt để cắm. Các giống trồng phổ biến ngày nay chủ
yếu là lai ghép chéo giữa G. Jamesonni với G. Viridifilia Schult. Bip hoặc các
giống lai tự nhiên. Ở Nam Phi các giống lai chéo này có tên khoa học là Gerbera
hybrida. Hiện nay tồn tại hàng trăm giống khác nhau, chúng dao động mạnh từ

hình dạng và kích thước hoa màu sắc hoa và nhị hoa rất đa dạng. Hoa đồng tiền
thuộc hoa lưu niên, ra hoa quanh năm và gồm 2 loại là hoa đồng tiền đơn và hoa
đồng tiền kép.
- Hoa đồng tiền đơn: Hoa chỉ có 1 hoặc 2 tầng cánh xếp xen kẽ, mỏng và yếu
hơn hoa kép. Màu sắc hoa ít, điển hình là các màu trắng, đỏ, tím, hồng…
- Hoa đồng tiền kép: Hoa to có nhiều tầng cánh xếp sát vào nhau tạo thành
nhiều vòng rất đẹp, màu sắc hoa rất đa dạng [4].
1.2.2. Đặc điểm thực vật học của cây hoa Đồng Tiền
Cây đồng tiền là cây thân thảo, họ cúc
- Thân, lá: Thân ngầm, không phân cành mà chỉ đẻ nhánh, lá và hoa phát triển
từ thân. Lá mọc chếch so với mặt đất 1 góc 15 – 45 o, hình dạng lá thay đổi theo
giống và sự sinh trưởng của cây, từ hình trứng thn đến hình thn dài. Lá dài
từ 15- 25cm, rộng 5- 8cm, có hình lơng chim, xẻ thuỳ nơng hoặc sâu, mặt lưng có
lớp lơng nhung. Theo Hà Tiểu Đệ và cộng sự (2000) [18].
- Rễ: Rễ đồng tiền thuộc dạng rễ chùm, phát triển khoẻ, rễ hình ống, ăn ngang
và nổi phía trên mặt luống, rễ thường vươn dài tương ứng với diện tích lá toả ra.
- Hoa: đồng tiền do hai loại hoa nhỏ hình lưỡi và hình ống tạo thành, là loại
hoa tự đơn hình đầu, hoa hình lưỡi tương đối lớn mọc ở phía ngồi xếp thành một
vịng hoặc vài vịng nhỏ, do sự thay dổi hình thái và màu sắc hoa nên được gọi là
mặt hoa hoặc tâm hoa rất được chú trọng. Trong quá trình hoa nở hình lưỡi nở
trước, hoa hình ống nở theo thứ tự từ ngồi vào trong, theo từng vòng một [18].
- Quả: Quả Đồng Tiền thuộc dạng quả bế có lơng, khơng có nội nhũ, hạt nhỏ,
1g hạt có khoảng 280- 300 hạt, (Đặng Văn Đông và cs 2003) [18].


7

1.3. Yêu cầu sinh thái của cây hoa Đồng Tiền
1.3.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự sinh trưởng,

phát triển, nở hoa và chất lượng của hoa đồng tiền. Nhiệt độ thích hợp cho sự
phát triển hệ thống rễ hoa là khoảng 20oC trong 3-4 tuần đầu, sau đó giảm xuống
dưới 20oC vào ban đêm. Nếu nhiệt độ < 12oC hoặc > 35oC, cây sẽ phát triển kém,
mầu sắc hoa nhợt nhạt đẫn đến chất lượng hoa xấu. Tốt nhất trong thời kỳ ra hoa
cần đảm bảo nhiệt độ thích hợp 15 -17oC vào ban đêm và từ 21 – 23oC vào ban
ngày thì hoa sẽ to và đẹp [23].
1.3.2. Ánh sáng
Đồng tiền yêu cầu ánh sáng cao cho sinh trưởng, phát triển và phát triển mầm
hoa, chúng có thể ra hoa cả mùa hè và mùa đông, nhưng số lượng lớn nhất tập
trung vào mùa xuân, đồng tiền chỉ phản ứng rất nhẹ với quang chu kỳ, ngày ngắn
ra hoa nhanh, ngày dài ra hoa chậm. Người ta có thể trồng đồng tiền vào mùa
nắng nóng bằng cách dùng lưới đen che để giảm bớt cường độ ánh sáng, giúp cho
đồng tiền sinh trưởng tơt, phục vụ cho mục đích thương mại [2].
1.3.3. Ẩm độ
Đồng tiền là cây trồng cạn không chịu được ứng nhưng đồng thời có sinh
khối lớn, bộ lá to, tiêu hao nước nhiều, do vậy cũng kém chịu hạn. Độ ẩm đất từ
60- 70%, độ ẩm khơng khí 55- 65% thuận lợi cho đồng tiền sinh trưởng. Đặc biệt
vào thời gian thu hoạch cần độ ẩm vừa phải để tránh nước đọng trên các vết cắt.
gây thối hoa và sâu bệnh phát sinh phát triển, chất lượng hoa giảm sút. Trong quá
trình sinh trưởng tuỳ theo thời tiết mà luôn phải cung cấp đủ lượng nước cho
đồng tiền bằng các biện pháp tưới nhỏ giọt hoặc bơm tưới cho cây [2].
1.3.4. Đất
Hoa đồng tiền khơng địi hỏi khắt khe về đất, thích hợp với đất tơi xốp nhiều
mùn, độ pH từ 6- 6,5 đất thịt pha cát, ở vùng đất kiềm cần bón phân mang tính
chua để cải tạo, cũng có thể bón phân chứa lưu huỳnh để giảm thấp độ pH. Ở


8

vùng đất chua có thể bón bổ sung vơi để điều tiết độ chua, ở nơi đất thịt nặng bón

thêm lá cây mục, vỏ trấu, bã riệu để tăng độ tơi xốp.
Đất trồng hoa đồng tiền cần thoát nước tốt, mực nước ngầm thấp và ổn định.
Mực nước ngầm cao hoặc thường đọng nước, rễ cây dễ bị thối và bị bệnh nên
phải có hệ thống thốt nước tốt, xung quanh phải đào rãnh thoát nước sâu từ 0.71m và lên luống cao, hết sức tránh trồng đồng tiền ở nơi đất trũng.
1.3.5. Các yếu tố dinh dưỡng
Các loại phân hữu cơ, phân vơ cơ và phân vi lượng có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sinh trưởng, phát triển, năng suất, phẩm chất của hoa đồng tiền.
Phân hữu cơ: Chứa hầu hết các nguyên tố đa lượng và vi lượng mà cây cần,
do đó khơng làm mất cân đối dinh dưỡng trong cây, giúp cây sinh trưởng tốt,
bền, khoẻ, hoa đẹp. Tuy nhiên loại phân này có tác dụng chậm đối với cây và gây
ô nhiễm môi trường, do vây cần phải ủ hoai mục. Nếu dùng bón lót thì trộn ủ với
lân vi sinh, nếu bón thúc thì dùng nước phân đã ngâm ủ hồ với một lượng đạm
nhỏ để tưới.
Phân vô cơ:
Bảng: Thành phần dinh dưỡng trong các giai đoạn của hoa đồng tiền
Thành phần
dinh dưỡng
N (%)
P (%)
K (%)
Ca (%)
Mg (%)
Fe (ppm)
Mn (ppm)
Cu (ppm)
Zn (ppm)
B (ppm)

Cây cịn nhỏ
2,5

0,5
3,2
0,5
0,2
62
17
2
19
19

Cây đẻ nhánh

Cây ra hoa

2,5
3,0
0,5
0,5
3,2
3,8
0,5
1,3
0,4
0,6
62
132
30
82
2
4

19
24
19
24
Nguồn: Đặng Văn Đơng và cs, 2003


9

- Đạm: Đạm có tác dụng thúc đẩy q trình sinh trưởng phát triển của cây.
Thiếu đạm cây sinh trưởng kém, phát dục nhanh, cây nhỏ, ra hoa nhanh, chất
lượng kém, lá bị vàng, cuống hoa nhỏ, nghiêm trọng hơn cây có thể ngừng sinh
trưởng, rễ bị đen và cây khô chết. Thừa đạm cây sinh trưởng thân lá mạnh nhưng
vóng, mềm, yếu, dễ bị đổ, ra hoa muộn, cũng có thể khơng ra hoa, đồng tiền cần
nhiều đạm vào giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng tức là lúc cây cịn nhỏ đến khi
phân hố mầm hoa. Lượng đạm ngun chất sử dụng cho 1ha đồng tiền từ 140160kg/ năm.
- Lân: Lân giúp cho bộ rễ sinh trưởng và phát triển mạnh, cây con khỏe, tỷ lệ
sống cao, thân cứng, hoa bền, màu sắc đẹp. Trong quá trình sinh trưởng của cây.
đồng tiền cần lân nhiều hơn vào giai đoạn sinh trưởng sinh thực, tức là thời kỳ
hình thành nụ và hoa. Nhưng do lân phân giải chậm nên chủ yếu dùng để bón lót
3/4 cịn 1/4 dùng để bón thúc cùng đạm, kali hoặc ngâm với phân hữu cơ. Lượng
lân nguyên chất dùng cho 1ha đồng tiền từ 140- 160kg/năm. Tuỳ theo từng loại
đất mà sử dụng các loại lân khác nhau. Với đất trung tính nhiều mùn dùng supe
lân, đất chua nên sử dụng phân lân nung chảy và đất chua mặn dùng apatit.
- Kali: Kali có rất nhiều trong cây đồng tiền non trước lúc ra hoa. Trong quá
trình sinh trưởng đồng tiền cần kali vào các thời kỳ tiết nụ và nở hoa. Nếu thiếu
kali đầu chóp lá già, bắt đầu vàng chết khơ, sau đó cả phần thịt lá giữa các gân lá
cũng như vậy, đồng thời xuất hiện các đốm bị “luộc”, cuống hoa mềm ra không
đứng lên được, màu sắc hoa nhợt nhạt, cánh mềm, hoa chóng tàn.
Kali cũng giúp cho cây tăng cường tính chịu rét, chịu hạn, chịu sâu bệnh.

Có thể sử dụng kali ở dạng phân hoá học như sunphat kali, clorua kali hay ở
dạng tro bếp. Chú ý rằng nếu dùng sunphat kali thì phải bón thêm vơi bột để khắc
phục đất chua. Lượng kali nguyên chấtch o 1 ha đồng tiền từ 120- 140kg/ năm,
trong đó bón lót là chủ yếu cịn lại dùng để bón thúc với phân đạm và lân.
- Canxi: Canxi giúp cho đồng tiền tăng khả năng chịu nhiệt, hạn chế được
tác dụng độc của các axit hữu cơ, ngồi ra canxi cịn có tác dụng giảm chua, tăng
độ phì của đất tạo điều kiện cho đồng tiền phát triển tốt hơn. Canxi được bón cho


10

đồng tiền thông qua vôi bột, tuỳ theo từng loại đất mà sử dụng liều lượng khác
nhau. Thông thường lượng vơi bột cần để bón lót cho 1ha đất trồng đồng tiền là
300- 400kg.
- Ngoài các yếu tố đa lượng chính kể trên cịn một số ngun tố vi lượng khác
như: Mg, Fe, Cu, Na… cũng rất cần cho đồng tiền, những nguyên tố này được bổ
sung bằng phân hữu cơ hoặc phân vi sinh có chứa vi lượng [2].
- Qua đó trước khi bón phân chúng ta cần phải hiểu rõ đặc điểm sinh học của cây
và thành phần dinh dưỡng trong đất như thế nào
1.4. Giá trị sử dụng và giá trị kinh tế
Với đặc điểm màu sắc tươi sáng, phong phú, đa dạng với đủ các loại
màu,trên một hoa có thể có một màu đơn hoặc nhiều màu xen kẽ, hoa to, cứng,
nên hoa đồng tiền là một loại lý tưởng để làm hoa bó, lẵng hoa và cắm hoa nghệ
thuật…Ngồi ra đồng tiền cũng có thể được trồng trong chậu để chơi cả chậu
trong suốt một thời gian dài, đặt trong phòng làm việc, phòng khách rất phù hợp.
Hoa đồng tiền là loại hoa có sản lượng và giá trị cao. Ở điều kiện thích
hợp có thể ra hoa quanh năm. Tỷ lệ cành cắt và tỷ lệ hoa thương phẩm đều cao,
kỹ thuật trồng trọt và chăm sóc đơn giản, ít tốn cơng, đầu tư một lần có thể cho
thu hoạch liên tục từ 4- 5 năm [2].
Hiện nay trong các loài hoa đã được chú ý phát triển ở Việt Nam, hoa

đồng tiền kép mới nhập nội còn gọi là đồng tiền Nam Phi nổi lên như một cây
cho hiệu quả kinh tế cao nhất. Từ 1 sào đồng tiền giống mới, chăm sóc đúng kỹ
thuật có thể cho thu nhập gần 50 triệu đồng/ sào [10].
Theo Đặng Văn Đông và Đinh Thế Lộc (2004) [9], trồng hoa đồng tiền
mang lại giá trị thu nhập cao nhất trong các loại hoa trồng chính, hiện nay trồng 1
sào đồng tiền chăm sóc theo đúng yêu cầu kỹ thuật thì 1 năm thu được 60000
bơng/ sào (mật độ 2000 cây / sào), với giá bán buôn tại vườn là 700- 1500 đồng/
bơng, trung bình 900 đồng/ bông, tổng thu sẽ là 5,4 triệu đồng/ sào/ năm.
Như vậy nếu thực hiện canh tác đúng kỹ thuật với giá bán khiêm tốn thì
ngay năm đầu trồng hoa đồng tiền là đã thu hồi toàn bộ vốn bỏ ra là 29,700,000


11

đồng/ sào, đồng thời còn lãi suất xấp xỉ 24 triệu đồng/ sào. Năm 1993 hoa đồng
tiền đứng thứ 7 trong số 10 loại hoa cắt có giá trị kinh tế trên thế giới, đến năm
1994 nó đã vươn lên vị trí thứ 5. Sức tiêu thụ hoa thương mại của Hà Lan tăng từ
12,1% chỉ qua 1 năm (từ 1993- 1994). Trong tương lai nhu cầu về hoa Đồng Tiền
trên thế giới cịn tăng mạnh mẽ [22].
Chính vì vậy, diện tích trồng hoa đồng tiền của Việt Nam ngày càng mở
rộng, lượng tiêu thụ và giá cả ngày một tăng, rất dễ tiệu thụ ở thị trường trong
nước và Thế Giới.
1.5. Tình hình nghiên cứu và sản xuất hoa đồng tiền trên Thế giới và ở Việt
Nam
1.5.1 Tình hình nghiên cứu và sản xuất hoa đồng tiền trên Thế giới
1.5.1.1. Tình hình nghiên cứu
 Nghiên cứu chọn tạo và nhân giống
Việc chọn tạo giống hoa Đồng Tiền ở Châu Mỹ chỉ bắt đầu từ những năm
70 của thế kỷ trước tại trường Đại học Califorlia với những chương trình tạo ra
rất nhiều giống hoa để trồng trong nhà kính. Còn ở Châu Âu, Châu Á và Nhật

Bản lại tạo giống có xu hướng cho trồng hoa cắt.
Từ năm 1975 Ilorist De Kwakel B.V đã tiến hành chọn tạo giống và nhân
giống hoa đồng tiền cho sản xuất cắt tại Hà Lan. Tiếp theo bà đã chọn lọc và tạo
giống hoa đồng tiền trồng chậu. Qua nhiều năm chọn tạo giống cho trồng chậu đã
tảo ra rất nhiều giống hoa trồng chậu ưu thế lai F1 đáp ứng nhu cầu thị hiếu của
thị trường. Những đặc điểm các giống hoa đồng tiền ưu thế lai tập trung vào 5
nhóm chủ yếu:
• Đồng nhất về màu hoa
• Tập tính nở
• Số hoa trên cây
• Chất lượng hoa
• Thời gian sinh trưởng ngắn


12

Kết quả các giống hoa được trồng thử nghiệm và cho những kết quả rất
hứa hẹn và bà đã có những chia sẻ đóng góp cho người trồng hoa trên Thế
giới[17].
Đồng tiền rất khó kết hạt, hạt rất nhỏ, sức sống kém nên trước đây đồng tiền
chủ yếu được nhân giống bằng phương pháp tách chồi. Hiện nay công nghệ nuôi
cấy mô tế bào được áp dụng rộng rãi trong việc nhân giống hoa đồng tiền giúp
cải thiện đáng kể trong vấn đề cây giống.
Giống đồng tiền cứng hoa ngắn 6 inch trồng trong chậu được giới thiệu ở
Nhật Bản vào năm 1980, sau đó người ta đá sử dụng công nghệ nuôi cấy mô để
nhân giống. Hiện nay chúng được trồng ở nhiều nước trên Thế giới [19].
Năm 2000, Viện nghiên cứu rau quả quốc tế đã thành công một giống đồng
tiền mới có tên Raon, đây là kết quả của việc lai giữa giống Kippros có màu
vàng, hoa bán kép với giống Rora có màu vàng hoa đơn. Raon là giống trồng để
sản xuất hoa cắt, có đường kính hoa cắt lớn, màu cam sẫm, dạng hoa kép, độ bền

hoa cắm khoảng 11 ngày, chúng đang được trồng phổ biến ở Hàn Quốc [15].
Phương pháp nuôi cấy mô tế bào là phương pháp chủ yếu trong nhân giống
hoa đồng tiền, chính vì thế từ lâu trên thế giới đã có rát nhiều nhà khoa học
nghiên cứu về vấn đề này.
Năm 1974, Mrorashige và cộng sự đã nghiên cứu và nuôi cấy thành công
hoa đồng tiền trên môi trường MS + 0,5 mg/l IAA và 10 mg/l kinetin. Mẫu cấy
được giữ trong phịng ni ở nhiệt độ 27 oC, thời gian chiếu sáng 12 – 16h/ngày
cường độ chiếu sáng là 1000lux. Những chồi tách sẽ ra rễ sau khi được ni cấy
trên mơi trường MS có bổ sung 10 mg/ l IAA [16].
Năm 1982, khi ngiên cứu ảnh hưởng của chất điều tiết sinh trưởng tới sự
hình thành chồi và rễ của đồng tiền trong phịng ni cấy, Pierik và cộng sự đã
nhận thấy: mơi trường có nồng độ Citokinin cao và Auxin thấp thì sẽ hình thành
chồi, cịn mơi trường có IAA, IBA thuận lợi cho sự hình thành rễ [20].
Năm 1985 Hempel và cộng sự đã nghiên cứu ảnh hưởng của Kinetin. BAP
và 2 ip đến quá trình nhân giống invitro đối với giống Marlen và cho thấy:


13

23,23µM kinetin IBA vào mơi trường sẽ làm tăng số lượng rễ và tăng sức đề
kháng của cây [25].
Pinto JEBP lại cho rằng môi trường tốt nhất cho tái sinh cây là MS có bổ
sung 3 – 9 mg/ l BA, môi trường nhân nhanh chồi là 1/2 MS + 2,27 mg/ l BA,
cịn mơi trường tạo rễ tốt nhất là khơng có BA [14].
Khi so sánh phương pháp nhân giống hoa đồng tiền bắng cách tách chồi với
phương pháp nuôi cây mô tế bào. Osiecki đã tiến hành trên 5 giống và kết luận:
Những cấy tách chồi cho hoa sớm hơn cây nuôi cấy mô từ 2 – 4 tuần tuỳ thuộc
từng giống.
 Các nước khác
Khi ngiên cứu ảnh hưởng của lai gần đến năng suất hoa cắt của đồng tiền

Huang H cho rằng lai gần làm tăng năng suất hoa từ 10,3 lên 28,3 bông/cây [32].
Điều kiện môi trường sống ảnh hưởng đến sinh trưởng và chất lượng hoa
đồng tiền. Điều này được thể hiện trong nghiên cứu của Hahn Eun Joo. Ông đã
tiến hành nghiên cứu 6 giống đồng tiền (Ensophy, Estel, Suset, Rita, Tamara và
beauty) với 2 phương pháp trồng trên giá thể và trồng trực tiếp trên đất. Trên giá
thể cây được trồng trên 4 giá thể khác nhau. Tất cả các cây thí nghiệm được trồng
trong nhà lưới với điều kiện nhiệt độ là 28 oC vào ban ngày và 23oC vào ban đêm.
Kết quả là 2 giống Ensophy và Estel sau trồng 50 ngày trên các loại giá thể đã
cho hoa đầu tiên, cịn trồng trực tiếp trên đất thì sau khoảng 63 ngày mới bắt đầu
cho hoa. Số hoa trên cây, chiều cao hoa, đường kính hoa của 2 giống này trồng
trên giá thể tốt hơn trồng trực tiếp trên đất. Trong đó giống Ensophy trồng trên
giá thể là bọt đá có số hoa trên cây, chiều cao cây, trọng lượng cây và đường kính
hoa lớn nhất, cịn giống Estel thì khơng có sự sai khác về các chỉ tiêu đó ở cả 2
phương thức trồng Ensophy và Estel trồng trên xơ dừa cho số hoa trên cây ít hơn.
Ensophy có vết đen trên cánh hoa dưới điều kiện nhiệt độ mùa hè cao, trong khi
các giống khác khơng có biệu hiện đó.


14

1.5.1.2. Tình hình sản xuất
Hiện nay, trên Thế giới hoa đồng tiền là một loại hoa cắt quan trọng sau
Hồng, Cúc, Lan, Cẩm Chướng…Các nước có sản lượng hoa lớn là Hà Lan.
Colombia, Pháp, Trung Quốc…Ở các nước này đồng tiền được trồng trong nhà
lưới có mái che, có trang bị hệ thống điều chỉnh nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng, tưới
nước, bón phân bằng chế độ tự động hoặc bán tự động. Do đó năng suất và chất
lượng hoa đồng tiền của các nước này rất cao, đạt 4,8 triệu bông/ ha/ năm [9].
Hà Lan là một nước nghiên cứu và sản xuất về hoa đồng tiền lớn nhất Thế
giới. Theo Hà Tiểu Đệ, Triệu Thống Lợi và Lỗ Kim Vũ (2000), Hà Lan có diện
tích trồng hoa đồng tiền là 8,017 ha, giá trị sản lượn là 3 tỷ 590 triệu USD. Nghề

trồng hoa đồng tiền ở Hà Lan đã áp dụng rộng rãi cơng nghiệp hố, tự động hố
trên 80% hoa được trồng trong mơi trường khơng cần đất. Trình dộ tạo giống của
Hà Lan rất cao phần lớn các giống đồng tiền mới, hoa to được trồng rộng rãi
trong sản xuất là do các nhà chọn tạo giống Hà Lan lai tạo ra. Công ty Forist của
Hà Lan là cơ sở dẫn đầu Thế giới và tạo giống, nghiên cứu, sản xuất và buôn bán
hoa đồng tiền…Cơng ty có lực lưỡng rất mạnh về nghiên cứu khoa học, thiết bị
sản xuất, tạo ra rất nhiều giống, sản lượng ngày càng nhiều, việc xử lý sau thu
hoạch, bảo quản, đánh giá đều ở trình độ rất cao.
Ỏ Ba Lan, hoa đồng tiền là loại hoa cắt quan trọng nhất và cũng là cây
trồng chính của sản phẩm nuôi cấy mô. Chiếm khoảng 90% tổng sản phẩm nuôi
cấy mô năm 1984. Thời vụ hoa đồng tiền chỉ kéo dài trong tháng 6 và tháng 7, do
đó việc bảo quản cây invitro đã ra rễ được khai thác tốt [24].
Ở Trung Quốc ngay từ những năm 1920 đã sản xuất hoa đồng tiền cắt cành
ở Mai Long – Thượng Hải, nhưng do giống bị thoái hoá nghiêm trọng nên không
phát triển. Đến năm 1987, do vận dụng kỹ thuật ni cấy mơ nên khắc phục được
tình trạng thối hố giống, khi đó hoa đồng tiền mới được khơi phục, phát triển.
Hiện nay Thượng Hải là nơi có diện tích trồng hoa đồng tiền lớn nhất đạt 35 ha,
trong đó trung tâm nhân giống hoa Hà Viên Nghê ở nông trường Đông Hải đứng
đầu trong sản xuất và nhân giống hoa đồng tiền. Sau Thượng Hải Giang Tô cũng


15

là một nơi mạnh cây hoa đồng tiền. Năm 1995 mới có trên 6000m 2 đến 1999 đã
có tới 6 ha. Ngoài ra, Viện nghiên cứu Rau hoa, Viện nghiên cứu khoa học nông
nghiệp và Nông trường Liên Vân là những đơn vị có diện tích trồng hoa đồng
tiền lớn, kỹ thuật tương đối cao [18].
Tuy nhiên trong sản xuất hoa đồng tiền ở một số nước đang phát triển vẫn
có một số biểu hiện sau:
Tính chun nghiệp và quy mơ sản xuất chưa cao. Có rất ít cơng ty chuyên

sản xuất, quy mô sản xuất thường nhỏ nên không có sản phẩm đứng đầu, đủ sức
cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Ví dụ: Ở Tơ Châu diện tích
trồng hoa đồng tiền lớn nhất khơng q 2 ha, nhỏ thì chỉ trên 1000m 2, sản lượng
hoa hàng ngày rất ít, nên phí thu hái, bao gói, vận chuyển khơng cân xứng, tiêu
thụ tại chỗ thì thừa, bán ra ngồi thì khơng kinh tế nên hiệu quả kinh tế thấp.
Trong khi đó ở Colombia có hơn 100 nông trường quy mô từ 20 ha đến 30 ha,
mỗi nông trường chỉ trồng 2 – 3 giống, mỗi giống 8 – 10 ha, tổng diện tích sản
xuất lớn, sản lượng ít, chất lượng kém.
Diện tích trồng trọt được mở rộng nhưng phân tán, lực lưỡng kỹ thuật
không tập trung lại thêm thiết bị sản xuất thấp, chất lượng kém ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hiệu quả kinhh tế. Theo thống kê năm 1996 diện tích trồng hoa
của Trung Quốc là 75,000 ha, giá trị 600 triệu đơm Mỹ. Trong khi đó Hà Lan lại
trồng 8017 ha giá trị sản lượng 3 tỷ 590 triệu đôla Mỹ, gấp 56 lần Trung Quốc,
trang thiết bị trồng trọt lạc hậu, hàm lượng kỹ thuật cao ít.
Tỷ lệ thiết bị tiên tiến trong trồng trọt rất nhỏ, cách trồng cổ truyền vẫn
chiếm ưu thế gây nên sản lượng thấp, chất lượng kém, mùa vụ sản xuất không
phù hợp với nhu cầu lúc cần, khả năng cung ứng hoa quanh năm khơng mạnh do
đó giá cả không ổn định, hiệu quả kinh tế thấp.
Đầu tư cho bao gói cao. Thời gian bảo quản hoa đồng tiền có thể dài, nhưng
cành giịn, dễ gãy, việc bao gói hiện nay vẫn đơn giản nên tỷ lệ tổn thất sau thu
hoạch tương đối cao


16

1.5.2 Tình hình ngiên cứu và sản xuất ở Việt Nam
1.5.2.1. Ttình hình nghiên cứu
 Nghiên cứu nhân giống
Cây hoa đồng tiền ở Việt nam được trồng từ rất lâu đời, song chủ yếu là
những giống hoa đồng tiền đơn cho nên các kết quả nghiên cứu về giống hoa này

còn hạn chế. Từ những năm 1950 trở lại đây, với sự xuất hiện của nhiều giống
hoa đồng tiền nhập nội đã làm thay đổi cơ cấu cây trồng đồng tiền ở nhiều vùng
trồng hoa và nhậ được những sự quan tâm của các nhà khoa học trong nước.
Năm 1996 Mai Kim Tân và cs [14], đã nghiên cứu phương pháp nuôi cấy
invitro giống hoa đồng tiền từ Tiệp Khắc bước đầu đã thu được một số kết quả:
- Tạo được nguồn mẫu sạch ban đầu bằng nuôi cấy meristem trên mơi trường
MS – 62 cải tiến có bổ sung Auxin, Cytokinin với tỷ lệ 1:2 và kích thước
Meristem từ 1 – 2mm cho khả năng tạo Callus và cụm chồi tốt nhất.
- Môi trường tốt nhất để tạo chồi là MS + 15% nước dừa + (8 – 10mg)/lBA +
0,5mg/lIAA cho hệ số nhân đạt từ 6,3 – cây/ tháng.
- Mơi trường ra rễ tạo cây hồn chỉnh hiệu quả cao nhất là môi trường MS +
(8 – 10mg)/l IAA + 3% Sacaroza
- Tiêu chuẩn cây con khi đưa ra đất cần đạt từ 4 – 5 lá, có từ 4 – 5 rễ, cao từ 4
– 5cm, giá thể thích hợp nhất là đất và phân chuồng hoai mục phối trộng với tỷ lệ
1: 2.
-Viện sinh học nông nghiệp Trường Đại học Nông Nghiệp I hà Nội đã nghiên
cứu thành công và đưa vào sản xuất các giống cúc, đồng tiền nuôi cấy mô tế bào
nhằm đáp ứng phần nào cây giống có chất lượng cao cho sản xuất.
-Công ty hoa Hafarm (Đà Lạt – Lâm Đồng) đã ứng dụng công nghệ trồng
Hồng, Cúc, Đồng tiền, Lily từ Hà lan và xây nhiều nhà lưới để trồng các giống
này, hiệu quả rất cao gấp 10 – 15 lần so với trồng hoa thông thường [2].
- Bằng phương pháp lai giữa loài đồng tiền lâu năm ở Đà Lạt với các loài
đồng tiền mới du nhập vào Việt Nam từ Hà Lan, Đài Loan, Nhật Bản…Một nông
dân ở Đà Lạt đã lai tạo được rất nhiều chủng giống mới. Qua quá trình chọn lọc,


17

anh đã chọn ra được 20 giống có ưu thế và cung cấp hàng chục vạn cấy giống
cho các nhà sản xuất [13].

- Qua nghiên cứu quy trình nhân nhanh giống hoa đồng tiền bằng kỹ thuật
invittro. Đỗ Năng Vịnh và cs, đã rút ra một số kết luận như sau:
- Sử dụng HgCl2 nồng độ 0,1% với thời gian khử trùng 10 phút là thích hợp
cho hoa đồng tiền tỷ lệ mẫu sống đạt 82%.
- Môi trường tạo Callus và tái sinh chồi: MS + TDZ (0,2mg/l) là tốt nhất để
tạo mẫu chồi invitro.
- Nhân nhanh chồi hiệu quả nhất là môi trường bán lỏng MS + BAP
(1,5mg/l) + 10% nước dừa + B1 (1mg/l) + đường (50g/l) + thạch (3g/l).
- Mơi trường tạo rễ thích hợp là: MS + NAA (0,5mg/l) + đường (50g/l) +
thạch (6g/l). Môi trường này đảm bảo tạo cây hồn chỉnh, khoẻ, có sức sống tốt
khi ra vườn.
- Cơng thức giá thể thích hợp cho ra cây con ở giai đoạn vườn ươm là: 1 đất
+ 1 cát + 1 trấu hun +1/4 phân vi sinh cho tỷ lệ cây con sống đạt 90% [6].
Theo Lê Kim Hồn và cs, mơi trường tạo Callus MS + 0,1 NAA + 0,25mg/ l
TDZ.
- Môi trường nhân chồi (nhân nhanh): MS + 0,2mg/l Ki + 0,01mg/l NAA +
0,5mg/l BAP.
- Mơi trường tạo cây con hồn chỉnh: ½ MS + 0,1 mg/l IAA
Nên tạo rễ exvitro đối với đồng tiền kép sẽ thu được lượng rễ nhiều hơn,
khoẻ hơn và đặc biệt giá thành cho 1 cây con rẻ hơn so với cho ra rễ invitro. Liều
lượng ra rễ thích hợp đối với đồng tiền kép là 1000ppm IBA.
 Các nghiên cứu khác
Như Viết Cường và cộng sự đã hồn thiện được quy trình chẩn đốn nhanh
nhậy bệnh nấm hại Phytophthora cryptoge trên cây đồng tiền và Salem ở Việt
Nam có thể sử dụng rộng rãi cho các phịng thí nghiệm nghiên cứu về bệnh cây
hoặc người sản xuất hoa và cây trồng khác [7].


18


Nguyễn Văn Dũng và cộng sự cũng đã hoàn thiện các kỹ thuật cải tiến độ
nhạy của kỹ thuật ELISA có gắn hệ thống Avidine - Biotine tại Việt nam nhằm
đưa ra quy trình chẩn đốn nhanh nhạy và đặc hiệu bệnh hại trên các vật liệu vi
nhân giống hoa và cây trồng. Quy trình này có thể sử dụng cho các phịng thí
nghiệm nghiên cứu bệnh hại và các cơ sở sản xuất (kỹ thuật das – elisa có gắn hệ
thống avidine – biortine (A – B)) [9].
Đặng Văn Đông và cs [19], đã nghiên cứu một số biên pháp kỹ thuật thâm
canh tiên tiến sản xuất hooa đồng tiền tại miền Bắc Việt nam cho biết:
- Thời vụ trồng hoa đồng tiền thích hợp nhất là tháng 3 và tháng 9.
- Kỹ thuật trồng thích hợp nhất là cây cách cây 30cm,hàng cách hàng 35cm,
tương đương với mật độ là 5 – 6 vạn cây/ ha.
- Tưới nước hệ thống nhỏ giọt, chế độ tưới 2 ngày/ lần, mỗi lần 60 phút lá thích
hợp nhất cho hoa đồng tiền sinh trưởng, phát triển, đồng thời cho năng suất, chất
lượng hoa cao nhất.
- Với cơng thức bón 100kg đạm + 120kg Lân + 100kg kali/ha/ lần là phù hợp
nhất với cây hoa đồng tiền, thân lá phát triển vừa phải, tỷ lệ nhiễm bệnh thấp
nhất, rễ phát triển tốt, hoa cứng, cành mập và thẳng.
- Phun phân bón lá Atonik hoặc phân đầu trâu 902 cho hoa đồng tiền 10 ngày/
lần, có tác dụng làm tăng năng suất, chất lượng hoa và hiệu quả kinh tê tăng 2,5
lần.
- Biện pháp kỹ thuật tỉa bỏ 30% lá (sau trồng 1 tháng, mỗi tháng tỉa 1 lần) làm
giảm mật độ nhện, giảm tỷ lệ bệnh, tăng hiệu quả phòng trừ bệnh, tăng năng suất
hoa, chi phí bảo vệ thực vật giảm 50%.
Nguyễn Quang Thạch và cộng sự đã nghiên cứu chuyển gen vào cây đồng
tiền nhờ vi khuẩn Agrobaterium tume faciens nhằm tạo nguồn vật liệu khởi đầu
cho công tác chọn tạo giống, mang những đặc điểm mong muốn, bước đầu đã
cho kết quả [16].


19


1.5.2.2. Tình hình sản xuất
Ở Việt Nam giống hoa đồng tiền đơn được nhập về trồng đầu tiên từ khoảng
những năm 1940. Đặc điểm của giống hoa đơn này là cây sinh trưởng khoẻ, thích
nghi tốt với điều kiện tự nhiên, nhưng nhược điểm là hoa nhỏ, cánh đơn, màu sắc
đơn điệu vì vậy hiện nay chúng ít được trồng. Từ những năm 1990, một vài công
ty và những nhà trồng hoa Việt Nam đã bắt đầu nhập các giống đồng tiền lai (hoa
kép) từ Đài Loan, Hà Lan, Trung Quốc về trồng. Một số giống tỏ ra có ưu điểm
như hoa to, cánh dày, gồm nhiều tầng hoa xếp lại với nhau, màu sắc phong phú,
hình dáng hoa cân đối, rất đẹp, cho năng suất cao. Vì vậy những giống hoa này
được tiếp nhận và phát triển mạnh mẽ ở khắp các tình thành trên cả nước. Bên
cạnh đó cũng có khơng ít giống hoa đồng tiền do khơng thích hợp với điều kiện
khí hậu của Việt Nam cây sinh trưởng, phát triển kém, sâu bệnh phá hại nặng,
gây thiệt hại cho người trồng hoa [2].
Hoa đồng tiền được trồng khá phổ biến tại Đà Lạt trước 1975 với mục đích
cắt cành, có nhiều màu khác nhau, (vàng, cam, đỏ, hồng…), năm 11980 có nhập
thêm một số giống cánh kép từ Hà Nội. Từ 1997 đã nhập nội trên 20 giống của
Hà Lan cho chất lượng cao nhất với nhiều màu khác nhau.
Bảng thị trường hoa qua các thời điểm trong năm 2010
TT

Thời điểm

1

Valentin

Lượng hoa
Bán/ ngày/ cửa
hàng (bông)

500

Giá tại vườn
(Đồng/
bông)
1,500

2

Dịp 8/3

800

2,000

3,000

3

Dịp 20/10

500

1,500

2,500

4

Dịp 20/11


800

2,000

3,000

5

Dịp tết âm lịch

300

1,500

2,500

Giá thị trường
(Đồng/ bông)
2,500

6
Ngày thường
200
1,000
2,000
Diện tích hoa đồng tiền của nước ta ngày càng tăng, nhất là vài năm trở lại
đây. Nhìn chung thị trường tiêu thụ hoa đồng tiền cũng ngày càng được mở rộng,
đặc biệt là các ngày lễ.



20

Theo Đặng Văn Đông năm 2005 [7], trong tổng số diện tích trồng hoa của
cả nước, thì cây đồng tiền chiếm 9%, tăng 1,8 lần so với năm 1995, tăng xấp xỉ
1,3 lần so với năm 2000.
Tại vùng trung du và miền núi phía bắc diện tích hoa của tồn vùng có 135,7
ha. Trong đó cây đồng tiền chiếm 9,7 ha chiếm 0,07% trong cơ cấu tổng diện
tích. Sản lượng hoa của tồn vùng đạt 44,08 triệu bơng, trong số đó sản lượng
hoa đồng tiền đạt 3,1 triệu bơng.
Tại Lào Cai hiện nay tồn tỉnh có 97,5 ha hoa các loại, sản lượng từ 25 – 30
triệu bơng, trong đó hoa đồng tiền có diện tích là 5 ha, sản lượng đạt 1,6 triệu
bông, được trồng tập trung tại xã Lào Cai và Huyện Bắc Thăng.
Tại Hà Giang toàn tỉnh có 28 ha trồng hoa, sản lượng đạt 0,38 triệu bông, tập
trung chủ yếu tại huyện Quản Bạ và huyện Đồng Văn.
Tại Sơn La diện tích trồng hoa tồn tỉnh là 22 ha, sản lượng đạt 6,86 triệu
bông, riêng hoa đồng tiền có diện tích 3,5 ha chiếm khoảng 0,16% tổng diện tích
trồng hoa, sản lượng đạt 1,12 triệu bơng.
Do trồng hoa đồng tiền mang lại thu nhập rất cao nên nhiều năm qua, nhiều
địa phương, hộ gia đình đã tự tìm hiểu để phát triển, trồng loại hoa này. Điển
hình những vùng trồng hoa tập trung có quy mơ lớn tù vài chục ha là Đà lạt (Lâm
Đồng), Vĩnh Tuy (Hà Nội), thị xã Bắc Ninh, thị xã Bắc Giang…[2].
Tại Bắc Ninh nhiều hộ nông dân xã chuyển từ trồng lúa sang trồng các loại
hoa, cây cảnh, đạt hiệu quả kinh tế cao, riêng trồng đồng tiền cho thu lãi trên 10
triệu đồng/ sào/ năm.
Năm 2005, trung tâm kỹ thuật rau quả Vĩnh Phúc đã thực hiện đề tài:
“ Xây dụng mơ hình sản xuất và bảo quản một số giống hoa cơng nghệ cao
có triển vọng xuất khẩu tại Vĩnh Phúc”, đã cho thấy hiệu quả từ việc trồng
đồng tiền là khá cao. Với mức đầu tư 16,2 triệu đồng/ sào/ năm cho thu từ 50,4 –
55,6 triệu đồng/ sào/ năm [1].

Nhìn chung cơng tác nghiên cứu về hoa đồng tiền ở Việt Nam vẫn còn hạn
chế, việc nghiên cứu mới chỉ tập trung chủ yếu vào quy trình kỹ thuật trồng,
chăm sóc, nhân giống, các biện pháp phòng trừ sâu bệnh. Việc nghiên cứu lai tạo
những giống có đặc điểm như mong muốn vẫn cịn đang trong giai đoạn tiền
khởi.


21

CHƯƠNG 2
VẬT LIỆU NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1.1. Cơ sở khoa học
Có thể ví phân bón là “thức ăn” của cây trồng, để nâng cao hiệu lực của
phân bón, việc bón phân là biện pháp kỹ thuật có ảnh hưởng quyết định đến năng
suất chất lượng sản phẩm cây trồng, hiệu quả và thu nhập của người sản xuất. Vì
vậy phân bón là một yếu tố đầu tư rất được quan tâm và thường chiếm một tỷ lệ
đáng kể trong tổng chi phí sản xuất của người trồng trọt.
Bên cạnh vai trị của các loại phân thì việc sử dụng cũng phải dựa vào
nguyên lý sử dụng phân bón theo điều kiện thời tiết từng mùa mà việc sử dụng
phân bón cho phù hợp. Nếu bón phân mà không quan tâm đến điều kiện thời tiết
và mùa vụ thì rất dễ bị thất bại do khơng sử dụng được lợi thế của phân bón theo
mùa hoặc do bón quá nhiều so với khả năng đồng hoá của cây trong mùa đó mà
gây ra lốp đổ giảm năng suất và chật lượng sản phẩm.
Qua đây có thể thấy làm cơ sở khoa học cho việc bón phân cân đối và hợp
lý các yếu tố dinh dưỡng để tạo điều kiện tốt nhất cho cây hoa hấp thu dinh
dưỡng sinh trưởng và phát triển, cho năng suất cao để đạt được hiệu quả kinh tế.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
Việc bón phân thích hợp ngồi tác động tích cực đến kết cấu đất canh tác và
mơi trường, nó cịn đống vai trị quan trọng hơn khi nguồn tài ngun thiên nhiên

có nguy cơ cạn kiệt, sản xuất trong điều kiện canh tác thị trường ngày càng gay
gắt buộc chúng ta phải tiết kiệm, hạ giá thành tăng sức mạnh của sản phẩm.
2.2. Đối tượng, phạm vi và nội dung nghiên cứu
2.2.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu trên:
 Các giống hoa:


Đỏ nhị đen - G1


22



Cam kép - G2



SX - G3



Phân Super lân Ca(H2PO4)2

2.2.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của các mức bón lân đến sinh trưởng và phát triển
của các giống hoa đồng tiền trên đất đỏ Bazan thuộc xã Nghĩa Bình, huyện Nghĩa
Đàn, tỉnh Nghệ An.
2.2.3. Nội dung nghiên cứu

- Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng lân đến sinh trưởng phát triển, năng
suất của các giống hoa trên đất đỏ Bazan thuộc xã Nghĩa Bình, huyện Nghĩa Đàn,
tỉnh Nghệ An.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng lân đến chất lượng của các giống
hoa trên đất đỏ Bazan thuộc xã Nghĩa Bình, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng lân đến khả năng chống chịu của
các giống hoa trên đất đỏ Bazan thuộc xã Nghĩa Bình, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh
Nghệ An.
2.2.4. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thí nghiệm được tiến hành trong vụ Xuân 2011: Từ ngày 22/02 đến ngày
22/06
- Thí nghiệm được tiến hành tại xã Nghĩa Bình – nghĩa Đàn – Nghệ An
2.2.5. Vật liệu nghiên cứu thí nghiệm
- Giống hoa đồng tiền nhập nội từ Trung Quốc
+ Đỏ nhị đen- G1
+ Cam kép – G2
+ SX- G3
- Thí nghiệm sử dụng các loại phân bón


Phân chuồng



Phân đạm: Ure (NH2)2CO



Phân lân: Super lân Ca(H2PO4)2



23



Phân kali: Kaliclorua KCl



Vơi bột

2.3. Phương pháp bố trí thí nghiệm
2.3.1. Cơng thức thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí 4 công thức, với 3 lần nhắc lại, theo kiểu khối ngẫu
nhiên hồn tồn (RCB).
Cơng thức I (cơng thức đối chứng): Nền (5 tấn phân chuồng hoai mục + 60kg
K2O + 300kg vôi + trấu hun) + 0 kg P2O5
Công thức II: Nền + 120 kg P2O5
Công thức III: Nền + 150 kg P2O5
Công thức IV: Nền + 180 kg P2O5
2.3.2. Sơ đồ thí nghiệm
Sơ đồ bố trí thí nghiệm
IaG1

IIIaG1

IVaG1

IIaG1


IaG2

IVaG2

IIIaG2

IIaG2

IIaG3

IaG3

IvaG3

IIIaG3

IVbG1

IIIbG1

IIbG1

IbG1

IIIbG2

IbG2

IIbG2


IVbG2

IIIbG3

IbG3

IIbG3

IVbG3

IIIcG1

IVcG1

IcG1

IIcG1

IIIcG2

IVcG2

IIcG2

IcG2

IcG3

IIcG3


IIIcG3

IVcG3


24

Tổng số ơ thí nghiệm: 4 x 3 x 3 = 36 (ơ)
Diện tích mỗi ơ thí nghiệm: 5 x 2 = 10 (m2)
Tổng diện tích thí nghiệm 360 m2 không kể dãy bảo vệ
- Ghi chú: I, II, III, IV là các cơng thức thí nghiệm
a, b, c: là các lần nhắc lại
G1: Đỏ nhị đen
G2: Cam kép
G3: SX
2.4. Phương pháp nghiên cứu
+Khảo sát, đánh giá tập đoàn giống hoa nhập nội.
- Khảo sát thời gian sinh trưởng qua các thời kỳ sinh trưởng phát triển.
- Khảo sát đặc điểm hình thái cây
- Khảo sát tình hình sâu bệnh hại
- Khảo sát về số lượng và chất lượng hoa
- Đánh giá thị hiếu tiêu dùng
- Đánh giá, xác định các mẫu giống có triển vọng phục vụ sản xuất
- Đánh giá tính ổn định của các giống
+ Phương pháp thí nghiệm đánh giá
- Các thí nghiệm được tiến hành trên đồng ruộng và được bố trí theo phương
pháp theo dõi của Phạm Chí Thành (1998).
- Thí nghiệm được bố trí ở xóm Bình Thành xã Nghĩa Bình – Nghĩa Đàn –
Nghệ An.
- Các thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên với 3 lần nhắc lại, 4 công

thức phân bón, mỗi ơ bố trí 10m2
+ Các chỉ tiêu theo dõi
- Diện tích trồng
- Chủng loại giống
- Nguồn gốc giống
- Năng suất


25

- Hiệu quả kinh tế
+ Khảo sát đánh giá tập đoàn giống hoa nhập nội
Khả năng sinh trưởng và phát triển của cây
- Tỷ lệ sống sau trồng 15 ngày (%)
- Thời gian hồi xanh (ngày)
- Số lá / cây (lá)
- Số nhánh đẻ/ cây (nhánh)
- Chiều dài lá (cm)
- Chiều rộng lá (cm)
+ Thời gian từ trồng đến ra hoa (ngày)
Các yếu tố cấu thành năng suất
- Số hoa/ cây/ năm
- Số hoa/ đơn vị diện tích
- Số hoa thực thu/ ĐVDT/ năm
- Tỷ lệ hoa hữu hiệu
+ Chỉ tiêu chất lượng hoa và đặc tính thực vật học
- Chiều dài cành hoa (cm)
- Đường kính cành (cm)
- Đường kính bơng hoa (cm)
- Màu sắc hoa

- Độ bền hoa cắt (ngày)
+ Thành phần sâu bệnh hại
+ Tỷ lệ cây bị sâu bệnh hại (%)
+ Chỉ số bệnh (%)
+ Hiệu quả kinh tế
- Tổng thu/ 1000m2 (đồng)
- Tổng chi/ 1000m2 (đồng)
- Thu nhập hỗn hợp (đồng) = Tổng thu – Tổng chi phí vật chất (khơng bao
gồm cơng lao động là do người lao động tự làm tất cả các công việc)


×