Tải bản đầy đủ (.pdf) (258 trang)

Những đặc điểm chính của địa danh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.48 MB, 258 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

_________________________

NGUYỄN THỊ THÁI TRÂN

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA
ĐỊA DANH AN GIANG

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số
: 60.22.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. LÊ TRUNG HOA

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn tất đề tài này, tôi đã nhận được sự chia sẻ, tận tình hướng dẫn, giúp đỡ
của PGS. TS Lê Trung Hoa trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn. Tôi
xin gởi lời tri ân sâu sắc đến thầy và những thầy cô đã giảng dạy, định hướng cho tôi
trong suốt thời gian học tập, từ lúc học đại học đến cao học ngày hôm nay.
Xin gởi lời cảm ơn đến trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, khoa Văn
học và Ngôn ngữ, phòng Sau đại học đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn các anh, các chị, bạn bè của tôi từ khoá 2008, 2009 đợt I và 2009 đợt


II, những người đã gắn bó cùng tôi, động viên và giúp đỡ tôi vượt qua nhiều khó
khăn trong suốt 3 năm dài đi học.
Xin gởi lời tri ân sâu sắc đến gia đình, đồng nghiệp và bạn bè, đã trao cho tôi sự
yêu thương, giúp tôi có thêm sức mạnh để cuối cùng cũng hoàn thành tốt chương
trình cao học.
Trong quá trình thu thập tư liệu tại quê nhà, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp
đỡ từ các cơ quan, sở ban ngành của tỉnh và huyện, đặc biệt là huyện Chợ Mới và
Tri Tôn. Xin gởi lời cám ơn các cô, các chú đã cung cấp cho tôi nhiều tư liệu và
thông tin quý báu.
Và cuối cùng, cảm ơn An Giang đã cho tôi có cơ hội đóng góp chút gì đó, dù là
nhỏ bé cho mảnh đất quê hương của mình.
Với kiến thức còn hạn hẹp cùng với sự non trẻ của lần đầu tiên thực hiện đề tài
này, chắc chắn tôi đã va vấp nhiều sai sót, vì vậy, tôi rất mong nhận được nhiều ý
kiến đóng góp để đề tài này được hoàn thiện hơn, để tôi được trưởng thành hơn
trong những cơ hội tiếp theo.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 10 năm 2011
Nguyễn Thị Thái Trân


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. Ký hiệu
[x, y]: x là tên tác phẩm, tài liệu trích dẫn ghi theo số thứ tự trong phần Tài
liệu tham khảo ở cuối luận văn, y là số trang. Trƣờng hợp tác phẩm có từ hai
trang trở lên thì số trang đƣợc ngăn cách với nhau bằng dấu gạch ngang. Ví dụ:
[15, 12], [30, 45-46].
: biến đổi thành.
/

/ : phiên âm âm vị học.


[

] : phiên âm ngữ âm học.

2. Quy ước về cách viết tắt
AG: tỉnh An Giang.
AP: huyện An Phú.
CĐ: thị xã Châu Đốc.
CM: huyện Chợ Mới.
CP: huyện Châu Phú.
CT: huyện Châu Thành.
LX: thành phố Long Xuyên.
PT: huyện Phú Tân.
TB: huyện Tịnh Biên.
TC: huyện Tân Châu.
TS: huyện Thoại Sơn.
TT: huyện Tri Tôn.


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
DẪN LUẬN.........................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận .............................................................................................11
1.1.1 Khái niệm địa danh ..............................................................................11
1.1.2 Đối tƣợng nghiên cứu ..........................................................................14

1.1.3 Phân loại địa danh ...............................................................................15
1.2 Cơ sở thực tiễn ..........................................................................................10
1.2.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên tỉnh An Giang ................................19
1.2.2 Khái quát tiến trình lịch sử An Giang .................................................24
1.2.3 Lịch sử dân cƣ .....................................................................................29
1.2.4 Đặc điểm ngôn ngữ .............................................................................35
Chƣơng 2: PHƢƠNG THỨC ĐỊNH DANH VÀ CẤU TẠO ĐỊA DANH AN
GIANG
2.1 Kết quả thu thập và phân loại địa danh An Giang ....................................38
2.1.1 Phân loại theo đối tƣợng......................................................................38
2.1.2 Phân loại theo nguồn gốc ngữ nguyên ................................................41
2.2 Vấn đề danh từ chung và thành tố chung ..................................................44
2.2.1 Phân biệt danh từ chung và thành tố chung ........................................43
2.2.2 Giải thích một vài danh từ chung và thành tố chung ..........................44


2.3 Phƣơng thức định danh .............................................................................47
2.3.1 Phƣơng thức tự tạo ..............................................................................47
2.3.2 Phƣơng thức chuyển hoá .....................................................................51
2.4 Cấu tạo của địa danh An Giang ................................................................55
2.4.1 Cấu tạo đơn ..........................................................................................55
2.4.2 Cấu tạo phức ........................................................................................56
Chƣơng 3: NGUỒN GỐC MỘT SỐ ĐỊA DANH VÀ GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH
HIỆN THỰC CỦA ĐỊA DANH AN GIANG
3.1 Nguồn gốc một số địa danh ở An Giang...................................................59
3.1.1 Cái Tàu Thƣợng...................................................................................59
3.1.2 Tri Tôn .................................................................................................62
3.1.3 Tức Dụp ...............................................................................................64
3.1.4 Trà Ôn ..................................................................................................66
3.1.5 Chắc Cà Đao-Mặc Cần Dƣng-Cần Đăng ............................................67

3.2 Giá trị phản ánh hiện thực .........................................................................71
3.2.1 Giá trị phản ánh về mặt lịch sử............................................................71
3.2.2 Giá trị phản ánh về mặt tự nhiên .........................................................80
3.2.3 Giá trị phản ánh về mặt văn hoá ..........................................................87
3.2.4 Giá trị phản ánh về mặt ngôn ngữ .......................................................93
Kết luận.......................................................................................................101
Tài liệu tham khảo ......................................................................................104
PHỤ LỤC


1

DẪN LUẬN
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khám phá ý nghĩa và những gì xoay quanh tên gọi của một vị trí địa lý nào
đó là mong muốn không chỉ riêng có ở những người nghiên cứu về địa danh
học, mà còn là của rất nhiều người từ các ngành khoa học khác, thậm chí chỉ
đơn giản là những người từng sinh ra và lớn lên trên một vùng đất nào đó. Xã
hội càng phát triển, nhu cầu hiểu biết của con người ngày càng cao, con người
ngày càng có nhiều câu hỏi hơn về những gì đang tồn tại xung quanh mình. Địa
danh hiện hữu không chỉ đơn thuần là cái tên để gọi và phân biệt, mà ẩn đằng
sau ấy nhiều điều lý thú, bởi không chỉ có cái giá trị hiện tại mà chính bản thân
nó bảo tồn những dấu ấn của suốt một chiều dài lịch sử của dân tộc. Vì vậy, địa
danh vốn được xem là “tấm bia lịch sử - văn hoá” của đất nước.
Ngành địa danh học ra đời không sớm, nhưng đã đáp ứng được nhu cầu của
xã hội ngày nay. Nghiên cứu địa danh hiện đang là vấn đề cấp thiết. Nghiên
cứu địa danh góp phần làm sáng tỏ, tô điểm rõ nét bức tranh về ngôn ngữ, văn
hoá, lịch sử của từng địa phương nói riêng và Việt Nam nói chung. Cụ thể hơn,
nghiên cứu địa danh giúp giải quyết nhu cầu tìm hiểu về diện mạo văn hoá
từng vùng đất, chuẩn hoá và định hướng trong việc thay đổi địa danh hoặc đặt

tên cho những vị trí địa lý mới. Thành quả nghiên cứu này góp phần không nhỏ
trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch hiện nay, phù hợp với xu thế
phát triển của ngành dịch vụ này.
An Giang là vùng đất ở địa đầu phía Tây Nam của tổ quốc, nơi có đông đảo
đồng bào Khmer sinh sống, là nơi ghi dấu nhiều sự kiện khai hoang, giữ nước
của vùng đất Nam Bộ, là cửa ngõ phía Tây Nam của đất nước, nơi giao lưu,
thông thương với Campuchia. Do đó, nghiên cứu địa danh ở An Giang là một


2

việc làm rất cần thiết, là một trong những cơ sở của việc mô tả những đặc điểm
của địa danh Nam Bộ.
Tuy nhiên, công tác nghiên cứu địa danh ở An Giang hiện còn ít ỏi và rời
rạc, chưa thành hệ thống. Khi chọn đề tài Những đặc điểm chính của địa danh
ở An Giang, chúng tôi mong muốn công trình của mình có giá trị về mặt lý
luận cũng như thực tiễn.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xác định nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn làm rõ những vấn đề
sau:
Hệ thống lại cơ bản địa danh ở An Giang trên cơ sở những vấn đề lý luận về
địa danh học. Minh hoạ thêm một số vấn đề có tính chất lý luận về địa danh
học như cách phân loại địa danh, phương thức cấu thành địa danh.
Vận dụng các phương pháp của ngành địa danh học để nghiên cứu đặc điểm
cấu tạo, phương thức cấu thành, quá trình chuyển biến… của địa danh An
Giang, từ đó, chỉ ra những điểm tương đồng và dị biệt của địa danh nơi đây với
địa danh các vùng khác ở Nam Bộ nói riêng và Việt Nam nói chung.
Làm rõ phương thức đặt tên của địa danh trong khả năng có thể, đồng thời
làm sáng tỏ mối quan hệ giữa chúng với các lĩnh vực khác có liên quan. Từ đó,
chúng tôi mong muốn sẽ tìm thấy những từ cổ, từ địa phương, từ có nguồn gốc

từ các dân tộc khác… còn lưu giữ trong địa danh ở An Giang.
Làm rõ giá trị phản ánh hiện thực của địa danh, đồng thời làm rõ mối quan
hệ hữu cơ giữa địa danh học với các lĩnh vực khác thuộc chuyên ngành ngôn
ngữ học và các lĩnh vực cận ngành.


3

Bổ sung thêm nguồn tư liệu về nguồn gốc và ý nghĩa một số địa danh ở An
Giang.
3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
3.1 Lịch sử nghiên cứu ngành Địa danh học ở Việt Nam
Cũng như những ngành khoa học khác, địa danh học đã trải qua một thời
gian phôi thai rất lâu để hình thành và phát triển. Thời gian phôi thai này bắt
đầu sớm hay muộn tùy thuộc vào tiến trình lịch sử và sự phát triển xã hội của
từng quốc gia. Ở Việt Nam, giai đoạn này bắt đầu khá muộn, chậm hơn một số
nước trên thế giới đến hàng chục thế kỷ. Ở Trung Quốc, những thành tựu này
được đánh dấu bởi những ghi chép của Ban Cố trong Hán thư (các năm 32-92
của nhà Đông Hán) với trên 4000 địa danh, của Lệ Đạo Nguyên đời Bắc Ngụy
(466-527) với hơn hai vạn địa danh, trong đó giải thích được 2300 địa danh.
Riêng ở Việt Nam, những thành tựu này được nói đến qua hàng loạt các bộ
sách sử, địa chí như Dư địa chí của Nguyễn Trãi (1380-1422), Đại Việt sử ký
toàn thư của Ngô Sĩ Liên (thế kỷ XV), Ô châu cận lục (1553) của Dương Văn
An, Hoàng Việt thống nhất dư địa chí (1806) của Lê Quang Định (1760-1813),
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840), Gia Định
thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1765-1825), Đại Nam nhất thống chí
(cuối thế kỷ XIX), Đồng Khánh địa dư chí lược (25 tập) do Quốc sử quán triều
Nguyễn biên soạn (1886-1888)…
Trong những công trình này, địa danh được đề cập đến như những phần
phụ, có liên quan đến khi người ta đề cập đến các đặc điểm về phong thổ, lịch

sử, các miêu tả về địa phương. Đương nhiên, đó là những ghi chép tường tận
về phạm vi lãnh thổ, hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy giúp người
đọc có thể hình dung bức tranh khá toàn diện về đất nước Việt Nam thời bấy


4

giờ (Hoàng Việt thống nhất dư địa chí của Lê Quang Định). Ngoài ra, những
đặc điểm về đời sống kinh tế, phong tục, sản vật, sông núi, hệ thống giao
thông, các đơn vị hành chính….cũng được mô tả khá tường tận qua từng giai
đoạn (Gia Định thành thông chí, Lịch triều hiến chương loại chí, Đại Nam
nhất thống chí, Đồng Khánh địa dư chí lược…). Riêng bộ Gia Định thành
thông chí của Trịnh Hoài Đức, ngoài những nội dung trên, tác giả còn kiến giải
về ý nghĩa địa danh. Đây là nguồn tư liệu quý giá cho việc nghiên cứu địa danh
ở khu vực Nam Bộ sau này.
Giai đoạn phôi thai này được kết thúc vào cuối thế kỷ XIX, đánh dấu bằng
bộ sưu tập 10.994 tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tình từ Nghệ
An trở ra) do Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn (1981). Giai
đoạn này kết thúc để mở đầu một bước phát triển mới, địa danh học Việt Nam
chính thức được hình thành khi nó được vận dụng hệ thống lý thuyết của một
ngành khoa học riêng biệt vào nghiên cứu, đó là ngôn ngữ học. Công trình tiên
phong để đánh dấu giai đoạn này là bài nghiên cứu của Hoàng Thị Châu, Mối
liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông (1964), tiếp
theo là bài Thử bàn về địa danh Việt Nam (1976) của Trần Thanh Tâm, nêu
một số vấn đề cơ bản về địa danh và địa danh học Việt Nam. Địa danh học ở
giai đoạn này được các nhà nghiên cứu tiếp cận và xây dựng một cách có hệ
thống, phương pháp hơn. Những lý luận về ngành này ngày càng được xây
dựng chặt chẽ và củng cố, phát triển hơn qua từng thế hệ các nhà nghiên cứu.
Đến đây, địa danh được đề cập đến không chỉ đơn thuần là những ghi chép và
mô tả như một cách để xác định nó trên bản đồ hoặc trong bức tranh toàn cảnh

về một khu vực nào đó, mà gắn liền với nó là các yếu tố về văn hóa, lịch sử,
ngôn ngữ, xã hội, dân cư, phong tục tập quán đặc thù ở một địa phương nào đó.
Cũng vì bước tiến này mà công việc nghiên cứu địa danh bước đầu tuy có phức


5

tạp, khó khăn nhưng tự nó cũng tìm ra được những con đường đi đến thành tựu
cuối cùng, làm tiền đề cho các bước phát triển sau này. Cũng chính vì thế, từng
công trình trong giai đoạn này như những viên gạch, có thể thô sơ, nhưng đã
góp phần xây dựng nên cái nền móng đầu tiên cho ngành khoa học này.
Các công trình ở giai đoạn này tiêu biểu bởi hàng loạt những luận án, luận
văn tiếp cận nghiên cứu sâu về một địa bàn nào đó của đất nước. Đầu tiên là
luận án của Lê Trung Hoa, Những đặc điểm chính của địa danh ở thành phố
Hồ Chí Minh (1990), sau đó là luận án của Nguyễn Kiên Trường, Những đặc
điểm chính của địa danh Hải Phòng (sơ bộ so sánh với một số vùng khác)
(1996). Sang thập kỷ đầu thế kỷ XXI, có thêm hai luận án mới, Nghiên cứu địa
danh Quảng Trị của Từ Thu Mai (2003) và Những đặc điểm chính của địa
danh Dak Lak của Trần Văn Dũng (2005). Bên cạnh đó là hàng loạt các luận
văn nghiên cứu về địa danh từ hai khía cạnh ngôn ngữ và văn hóa ở nhiều khu
vực khác nhau, kéo dài từ Bắc chí Nam. Đó là Những đặc điểm chính của địa
danh Vĩnh Long (sơ bộ có so sánh với địa danh một số vùng khác) (2008), Khía
cạnh văn hóa của địa danh tỉnh Đồng Tháp của Nguyễn Thị Kim Phượng
(2008), Nghiên cứu địa danh Bến Tre của Nguyễn Thị Kim Phượng (2009),
Nghiên cứu địa danh tỉnh Đồng Nai của Nguyễn Thái Liên Chi (2009), Đặc
điểm địa danh Hà Nội của Hoàng Thị Biên (2010)…
Song song với các luận văn, luận án trên là các công trình nghiên cứu và
trình bày về lý luận địa danh học và các từ điển về địa danh. Đó là Một số vấn
đề về địa danh học Việt Nam của Nguyễn Văn Âu (2000), Địa danh học Việt
Nam của Lê Trung Hoa (2006), Sổ tay địa danh Việt Nam của Đinh Xuân Vịnh

(1995), Sổ tay địa danh Việt Nam của Nguyễn Dược – Trung Hải (1998), Từ
điển bách khoa địa danh Hải Phòng do Ngô Đăng Lợi chủ biên (1998), Từ


6

điển địa danh thành phố Sài Gòn – Hồ Chí Minh do Lê Trung Hoa chủ biên –
Nguyễn Đình Tư xuất bản…. Tuy nhiên, các công trình này vẫn chưa bao quát
hết bức tranh toàn cảnh về địa danh Việt Nam, ngành khoa học này vẫn còn
đang thiếu một công trình thật lớn về toàn bộ hệ thống địa danh của đất nước,
trong đó không chỉ giải thích nguồn gốc ý nghĩa mà còn mô tả những đặc điểm
văn hóa, lịch sử nổi bậc về từ địa danh. Do vậy, tính đến thời điểm bây giờ,
ngành địa danh học Việt Nam vẫn còn đang trong giai đoạn hình thành, chưa
tiến đến những bước phát triển mới như ngành địa danh học trên thế giới.
3.2 Lịch sử nghiên cứu địa danh ở An Giang
Việc nghiên cứu địa danh ở An Giang một cách hệ thống, đứng trên góc độ
ngôn ngữ học và cả văn hoá học vẫn chưa được thực hiện, có chăng là một vài
địa danh được đề cập đến và giải thích một cách rời rạc ở một số công trình đã
kể trên và một vài bài báo địa phương. Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn (phần
An Giang) của Nguyễn Đình Đầu (1995) chỉ thống kê và chú giải hàng loạt các
đơn vị hành chánh, phục vụ cho công tác tra cứu. Riêng Vương Hồng Sển
trong Tự vị tiếng Việt miền Nam (1993) có đề cập và giải thích một số địa danh
ở An Giang, tuy nhiên những kiến giải của tác giả còn mang tính chủ quan,
đậm nét từ nguyên học dân gian. Ngược lại, Bùi Đức Tịnh trong Lược khảo
nguồn gốc địa danh Nam Bộ (1999) có trình bày các phương thức đặt tên cho
từng loại vật thể, những biến đổi của địa danh Nam bộ… nhưng chỉ giải thích
rất ít về địa danh ở An Giang. Gần đây, có một số bài viết, sách báo địa
phương có miêu tả và giải thích sâu hơn một số địa danh ở An Giang, trong địa
chí An Giang, tập I, 2003, có một bài viết ngắn của tác giả Lê Minh Tùng: Giải
thích một vài địa danh ở An Giang. Trong bài viết này, tác giả giải thích nguồn

gốc tên gọi một số địa danh về phương diện ngữ nguyên lẫn từ nguyên học dân


7

gian, bên cạnh đó, tác giả Viễn Phương cũng có hai bài viết trên tạp chí Thông
tin khoa học trường Đại học An Giang (2006) mô tả và giải thích một số địa
danh nổi tiếng ở An Giang. Tuy nhiên, số lượng địa danh được đề cập đến
không nhiều và có một vài sự trùng lắp giữa hai tác giả. Năm 2010, một tác
phẩm viết về quê nhà của Ông Kim Khải, Tìm hiểu di tích, địa danh xã Hội An
(Chợ Mới), có đề cập rất cụ thể đến từng địa danh trong địa bàn xã, miêu tả,
giải thích tên gọi và lịch sử phát triển của địa danh. Tuy nhiên, đây là tác phẩm
nhỏ, thiếu tính học thuật, chủ yếu là những ghi chép và kinh nghiệm dân gian,
xuất phát từ tình cảm tha thiết đối với quê hương. Dù vậy, tác phẩm này rất
đáng quý và cũng là nguồn tư liệu địa phương, thuận lợi nhiều trong nghiên
cứu địa danh An Giang. Ngoài ra, cũng nên kể đến tác phẩm khá thú vị về địa
danh vùng này. Đó là công trình Văn học dân gian An Giang do Huỳnh Công
Tín chủ biên, công trình này có một phần đề cập đến những ghi chép sưu tầm
được từ người dân địa phương về các câu chuyện kể dân gian, giải thích về
nguồn gốc tên gọi các địa danh của quê hương. Mặc dầu, công trình này dừng
lại ở khía cạnh từ nguyên học dân gian, nhưng nó cũng là nguồn tư liệu cần
thiết trong quá trình nghiên cứu địa danh An Giang.
Như vậy, cho đến thời điểm hiện nay, ở An Giang cũng có những công
trình, bài nghiên cứu đề cập đến địa danh của vùng, mặc dầu vẫn còn rời rạt và
chưa đứng trên góc nhìn ngôn ngữ học. Nhưng tất cả chính là nguồn tư liệu ban
đầu quý giá cho chúng tôi trong bước đầu nghiên cứu địa danh ở vùng này một
cách có hệ thống.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phƣơng pháp thống kê – phân loại



8

Thống kê ngôn ngữ học để tìm ra những từ ngữ có tần số xuất hiện và độ
phân bố từ thấp đến cao. Trên cơ sở đó, chúng tôi được bản đồ phân bố địa
danh để phục vụ cho công tác nghiên cứu.
Bước đầu chúng tôi thu thập tư liệu từ các bảng thống kê của các cơ quan
chức năng của tỉnh và từ các bản đồ, từ điển và địa phương chí. Song song đó,
chúng tôi phân loại theo các tiêu chí : loại hình, ngữ nguyên, cách thức đặt tên
và phân chúng thành nhiều tiểu loại như: địa danh mang tên người, địa danh
mang tên cây cỏ, địa danh mang tên cầm thú, địa danh Hán Việt, địa danh gốc
Khmer…
4.2. Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
Trước tiên, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh lịch sử để phục nguyên
hình thái ban đầu của đia danh, từ đó xác lập quá trình của chúng trong lịch sử.
Sau đó, chúng tôi so sánh, đối chiếu địa danh An Giang với địa danh các
vùng khác nhằm làm rõ những nét tương đồng và dị biệt về nhiều khía cạnh
khác nhau.
4.3. Phƣơng pháp khảo sát bản đồ
Trong quá trình khảo sát, chúng tôi sử dụng phương pháp khảo sát bản đồ
theo hai bình diện đồng đại và lịch đại để phát hiện ra những loại địa danh nào
xuất hiện nhiều ở địa bàn nào, khoảng thời điểm nào xuất hiện và biến mất
hoặc những thay đổi về văn tự.
4.4. Phƣơng pháp điền dã
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ sàng lọc một số địa danh hoặc một
số nhóm các địa danh mang nhiều nghi vấn cần được làm sáng tỏ bằng cách
khảo cứu thực địa. Thông qua điền dã, chúng tôi có thể khảo sát được mối liên


9


hệ giữa đặc điểm tên gọi với những yếu tố tự thân của địa danh, thu thập được
những địa danh ẩn, không hề được ghi trên bản đồ, sử sách. Ngoài ra, chúng tôi
có thể thu thập được nhiều cứ liệu về từ nguyên học dân gian, để nghiên cứu sự
tác động của các yếu tố phi ngôn ngữ lên địa danh.
5. TƢ LIỆU NGHIÊN CỨU
Sách, địa chí, từ điển chuyên ngành và cận ngành: bao gồm từ điển về địa
danh, từ điển từ nguyên, từ điển phương ngữ, địa chí của các tỉnh, các sách địa
danh học, các sách mô tả về địa danh du lịch, các sách thuộc lĩnh vực văn học
dân gian có lý giải về nguồn gốc địa danh thông qua các câu chuyện…
Báo, tạp chí: Các báo địa phương và các bài báo viết về địa phương.
Văn bản của chính quyền các cấp trong quá khứ: thường là các quyết định đặt
tên đường, quy định về giá đất, bảng thống kê các tuyến đường giao thông…
Các nguồn tư liệu này có thể cho biết quá trình ra đời, biến đổi hoặc mất đi của
các địa danh.
Bản đồ: là các bản đồ về địa hình, tự nhiên, hành chính, kinh tế, quân sự qua
các thời kỳ.
Các trang web: một số trang web về du lịch, văn hóa, và những trang của địa
phương, thường là các trang web văn học nghệ thuật của tỉnh.
Tư liệu điền dã: là những ghi chép qua lời kể của nhân dân địa phương trong
chừng mực nào đó góp phần giải mã thời điểm ra đời, nguồn gốc – ý nghĩa của
một số địa danh.
6. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Về đối tượng khảo sát, chúng tôi chỉ chọn những địa danh tiêu biểu. Về vấn
đề chuyển biến địa danh, chúng tôi chưa thể đi sâu vào khảo sát các hình thức


10

vay mượn ngược địa danh bằng tiếng Việt của các cộng đồng dân tộc Khmer,

Hoa, Chăm đang sinh sống trên địa bàn tỉnh An Giang.
7. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài này bao gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Những tiền đề lý luận và thực tiễn. Chương này gồm 2 phần,
phần đầu trình bày những vấn đề lý thuyết được coi là cơ sở để vận dụng trong
đề tài này như: khái niệm địa danh, đối tượng nghiên cứu của địa danh, phân
loại địa danh…; phần sau trình bày những đặc điểm chính về lịch sử, địa lý,
thành phần dân cư, ngôn ngữ, các khía cạnh văn hoá tại địa phương…
Chƣơng 2: Phương thức định danh, đặc điểm về mặt cấu tạo và chuyển biến
của địa danh An Giang.Chương này trình bày kết quả thu thập và phân loại địa
danh, phương thức định danh, đặc điểm về mặt cấu tạo và chuyển biến của địa
danh, vai trò và ý nghĩa của các thành tố chung trong địa danh An Giang.
Chƣơng 3: Nguồn gốc ý nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực của địa danh An
Giang. Chương này trình bày hai nội dung chính:
- Nguồn gốc ý nghĩa của một số địa danh, đặc biệt là địa danh gốc Khmer.
- Giá trị phản ánh hiện thực của địa danh An Giang, bao gồm giá trị phản ánh
về mặt lịch sử, tự nhiên, văn hoá và ngôn ngữ.


11

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Địa danh học Việt Nam đang ở giai đoạn hình thành, đã có hệ thống lý luận
làm kim chỉ nam cho các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, càng mở rộng
phạm vi nghiên cứu, hệ thống lý luận này càng được điều chỉnh và củng cố
thêm. Bởi lẽ, rất cần thế hệ đi sau có sự kế thừa để phát triển. Mặt khác, chiều
rộng đất nước phong phú về địa hình, đa dạng về dân tộc, chiều dài lịch sử
thăng trầm nhiều biến cố, bề dày văn hoá quy tụ nhiều yếu tố đặc sắc. Vì thế,
khi áp dụng hệ thống lý luận này vào thực tiễn từng vùng miền khác nhau trên

đất nước, chính yếu tố thực tiễn này đòi hỏi người nghiên cứu sự chọn lọc và
sáng tạo, vừa khẳng định thêm những luận cứ quan trọng, khái quát, vừa bổ
sung thêm những luận cứ mới, làm phong phú và trọn vẹn hơn hệ thống lý luận
của ngành.
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Khái niệm địa danh
Bắt đầu từ danh xưng học (onomastique hay onomasiologie), một ngành
chuyên nghiên cứu về tên riêng, bao gồm tên người (nhân danh học), tên đất
(địa danh học) và tên các công trình xây dựng, cửa hiệu, đình, chùa…(hiệu
danh học). Địa danh học là một trong ba nhánh nhỏ của ngành danh xưng học.
Về cơ bản, địa danh được hiểu là “tên đất, tên địa phương” [98], hoặc là “tên
gọi các lãnh thổ, các điểm quần cư (làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố), các điểm
kinh tế (vùng công nghiệp, khu công nghiệp), các quốc gia, các châu lục, các
núi, các đèo, cao nguyên, thung lũng, đồng bằng, châu thổ, sông, hồ, vũng,
vịnh, biển, eo biển, đại dương có toạ độ nhất định ghi lại được trên bản đồ. Địa
danh có thể phản ánh quá trình hình thành, đặc điểm của các yếu tố tự nhiên và


12

lịch sử với những nét đặc sắc về kinh tế, xã hội của các lãnh thổ” (Từ điển
Bách khoa Việt Nam). Đây là cách hiểu phổ thông về địa danh. Tuy nhiên
đứng ở góc độ nghiên cứu, cần có một cách hiểu ngắn gọn và khái quát hơn,
vừa đề cập đến đầy đủ các đối tượng nghiên cứu, vừa bao hàm các tiêu chí
nhằm phân biệt đối tượng nghiên cứu của ngành này với các ngành lân cận.
Cùng là do con người đặt tên, giữa ba nhánh nhỏ của ngành danh xưng học,
địa danh có số lượng ít hơn hai ngành còn lại nhưng thời gian tồn tại lâu hơn,
vì thế chứa đựng nhiều yếu tố văn hoá, lịch sử hơn. Chính vì lẽ đó, địa danh
được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau và cũng có nhiều định nghĩa khác
nhau. Chúng tôi chọn lọc được một số định nghĩa sau:

Định nghĩa của A. V. Superanskaja: “Địa danh là tên gọi các địa điểm được
biểu thị bằng những từ riêng….Những địa điểm, mục tiêu địa lý đó là những
vật thể tự nhiên hay nhân tạo với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất, từ
những vật thể lớn nhất (các lục địa và đại dương) cho đến những vật thể nhỏ
nhất (những ngôi nhà, vườn cây đứng riêng rẽ) đều có tên gọi”. [93]
Định nghĩa của Trần Văn Dũng: “Địa danh là tên gọi những đối tượng địa
lý tự nhiên và địa lý do con người kiến tạo”. Trong đó, các đối tượng địa lý do
con người kiến tạo (có thể gọi là địa lý nhân văn) bao gồm: địa lý nơi cư trú,
địa lý chỉ các công trình xây dựng. [32]
Định nghĩa của Lê Trung Hoa: “ Địa danh là những từ hoặc ngữ, được dùng
làm tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các đơn vị hành chánh, các vùng
lãnh thổ và các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều”. [50]
Trong ba định nghĩa trên, định nghĩa của A. V. Superanskaja và của Trần
Văn Dũng có tính khái quát cao, đều chỉ ra những đối tượng tự nhiên và nhân
tạo. Tuy nhiên, cả hai định nghĩa trên đều chưa cụ thể được các “vật thể nhân


13

tạo” hay “các công trình xây dựng” là những đối tượng nào, ngay từ trong định
nghĩa, chúng ta chưa thể phân biệt rạch ròi được đâu là đối tượng nghiên cứu
của địa danh học, đâu là đối tượng nghiên cứu của hiệu danh học. Bởi lẽ, ngoại
trừ những đối tượng tự nhiên ra, tất cả đều là nhân tạo. Trong các đối tượng
nhân tạo, phần lớn là đối tượng nghiên cứu của hiệu danh học. Bên cạnh đó,
chúng tôi rất đồng ý quan điểm “địa danh được biểu thị bằng những tên gọi, từ
riêng hay tên riêng” trong hai định nghĩa của A.V.Superanskaja và Lê Trung
Hoa. Nhờ yếu tố này, chúng ta khẳng định ngay địa danh học là một ngành nhỏ
của danh xưng học, và xác định, phân biệt được một loạt những danh từ chung
đứng trước địa danh với “tên riêng” của đối tượng được nghiên cứu. Nếu chỉ
định nghĩa “địa danh là tên gọi các đối tượng địa lý…” thì sẽ rất khó phân biệt

được danh từ chung và danh từ riêng. Cũng từ cách dùng “tên riêng” trong định
nghĩa địa danh, chúng ta không cần phải đưa vào ý “…những vật thể tự nhiên
hay nhân tạo với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất…” (định nghĩa của
A.V.Superanskaja), bởi vì tên riêng do con người đặt ra, đã có tên gọi tức là đã
được tiếp cận, gắn bó và rõ ràng đã được xác định rồi.
Tóm lại, địa danh trước hết phải là tên riêng, bên cạnh đó, địa danh phải
được phân biệt rõ ràng với hiệu danh. Do đó, khái niệm “công trình xây dựng
thiên về không gian hai chiều” (định nghĩa của Lê Trung Hoa) về cơ bản đã
quy tụ những công trình xây dựng chủ yếu với chiều dài và chiều rộng, không
có nghĩa là không có chiều cao (hoặc chiều sâu), bởi vì chợ sẽ có nhà lồng chợ,
công viên hay bến phà cũng sẽ có mái che…, nhưng đó chỉ là những yếu tố phụ
trong tổng diện của công trình. “Không gian hai chiều” giúp chúng ta phân biệt
với không gian ba chiều của đình, chùa, miếu, bảo tàng, nhà hát… là những đối
tượng của hiệu danh học.


14

Với những nội dung đã phân tích trên, chúng tôi không đưa ra một định
nghĩa mới nào khác mà nhất trí sử dụng định nghĩa của Lê Trung Hoa làm cơ
sở lý luận cho luận văn này.
1.1.2 Đối tƣợng nghiên cứu
Căn cứ vào khái niệm địa danh đã trình bày ở trên, đương nhiên đối tượng
nghiên cứu của địa danh học chính là địa danh, bao gồm hai nhóm lớn: đối
tượng tự nhiên và đối tượng nhân tạo. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ nghiên cứu cụ
thể những gì từ các đối tượng đã được xác định?
Dù là đối tượng tự nhiên hay nhân tạo, đều do con người trong hoàn cảnh
nào đó đã cho nó tên gọi, ẩn đằng sau tên gọi ấy là những sắc màu của ngôn
ngữ, tư duy dân tộc, là một bề dày lịch sử, văn hoá. Do đó, nghiên cứu địa danh
học, điều quan trọng nhất là phải chỉ ra được các phương thức đặt địa danh, cấu

tạo địa danh, điều kiện ra đời, phát triển và mất đi của địa danh. Cho nên, tuỳ
vào từng nhóm đối tượng nghiên cứu khác nhau mà nhà nghiên cứu cần có
những phương pháp tiếp cận riêng để cho ra những kết quả chính xác, rõ ràng.
Đối với nhóm đối tượng tự nhiên, vấn đề đã rất rõ ràng, bao gồm những
địa danh chỉ các địa hình tự nhiên như núi, đồi, gò, sông, kênh rạch, hồ, suối...
Riêng nhóm đối tượng nhân tạo, tên gọi các chùa, đình, miếu, nhà bảo tàng,
nhà hát, trường học, …thường bị nhầm lẫn là đối tượng nghiên cứu của địa
danh học. Đây là những công trình xây dựng thiên về không gian ba chiều.
Nhóm này bao gồm các đơn vị hành chánh, các vùng lãnh thổ và các công trình
xây dựng thiên về không gian hai chiều. Cũng cần lưu ý, chúng ta vẫn xét tên
thành (dĩ nhiên là các thành cổ, ví dụ: thành Cổ Loa-Hà Nội,thành cổ Châu SaQuảng Ngãi), đàn (đàn Nam Giao-Huế, đàn Xã Tắc-Hà Nội) vào nhóm địa
danh chỉ các công trình xây dự thiên về không gian hai chiều.


15

Về tên gọi, chúng tôi đã nhất trí với khái niệm địa danh như đã nói ở trên,
do vậy, địa danh sẽ bao gồm không chỉ là một từ mà còn là ngữ, từ hai thành tố
trở lên, thậm chí vẫn có những địa danh lên đến 10 thành tố. Đó thường là
những con đường được đặt theo cách ghép hai hay nhiều địa điểm (đường Liên
Tổ Khu Phó Quế-Nguyễn Trãi-Lý Thái Tổ (Mỹ Long-Long Xuyên-An Giang),
hoặc theo cách mô tả (đường Vòng Núi Sam (Núi Sam-Châu Đốc-An Giang).
Mặt khác, một địa danh luôn bao gồm hai phần: phần đầu là danh từ chung chỉ
loại hình, được viết thường (sông, núi, hồ, đường, cầu, cù lao…) và phần sau là
tên gọi, được viết hoa (sông Hậu, núi Cấm, hồ Nguyễn Du, đường Trần Hưng
Đạo, cầu Tôn Đức Thắng, cồn Phó Quế, cù lao Ông Hổ…).
1.1.3 Phân loại địa danh
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập đến những cách phân loại
của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam, chúng tôi chọn một trong số đó cách phân
loại khái quát nhất và áp dụng vào phân loại các địa danh ở địa bàn chúng tôi

khảo sát. Thông thường, việc phân loại địa danh bao giờ cũng căn cứ vào hai
yếu tố chính: đối tượng và ngữ nguyên. Sau đây là một số cách phân loại của
các tác giả Việt Nam:
Trước tiên, về đối tượng, theo Hoàng Thị Châu, địa danh được chia thành
hai hệ thống là tiểu địa danh (tên thôn, xóm, gò, đồi, khe, suối, hồ, đầm…) và
đại địa danh (tên lục địa, đại dương, nước, vùng, thủ đô, thành phố, sông,
biển….) [21]. Trong cách phân loại này, tác giả căn cứ vào quy mô của địa
danh. Nếu áp dụng cách phân loại này vào phân loại địa danh ở An Giang, số
lượng của hai hệ thống rất chênh lệch, không cân đối. Hơn nữa tiêu chí phân
loại chưa rõ ràng, trong hệ thống đầu, các tiểu nhóm chưa có sự tương đồng,
thống nhất với nhau.


16

Cách phân loại của Trần Thanh Tâm [96]: chia địa danh Việt Nam thành 6
loại: 1. Loại đặt theo địa hình và đặc điểm; 2. Loại đặt theo vị trí không gian và
thời gian; 3. Loại đặt theo tín ngưỡng, tôn giáo, lịch sử; 4. Loại đặt theo hình
thái, đất đai, khí hậu; 5. Loại đặt theo đặc sản, nghề nghiệp và tổ chức kinh tế;
6. Loại đặt theo sinh hoạt xã hội. Cách phân loại này khá phức tạp, ở loại thứ
ba và thứ năm, người ta dễ nhầm lẫn những đơn vị là đối tượng của ngành hiệu
danh học.
Cách phân loại của Nguyễn Văn Âu [6] [7]: chia địa danh Việt Nam theo ba
cấp: loại ( loại tự nhiên và loại kinh tế-xã hội), kiểu (7 kiểu: thuỷ danh, sơn
danh, lâm danh, làng xã, huyện thị, tỉnh, thành phố, quốc gia), dạng (12 dạng:
sông ngòi, hồ đầm, đồi núi, hải đảo, rừng rú, truông, trảng, làng, xã, huyện,
quận, thị trấn, tỉnh, thành phố và quốc gia). Cách phân loại này rất cụ thể,
phong phú, tuy nhiên có sự trùng lập giữa hai cấp cuối, kiểu và dạng (đơn vị
hành chánh: làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố, quốc gia). Mặt khác, cách phân
loại này đã thiếu đề cập đến những đối tượng thuộc nhóm công trình xây dựng

thiên về không gian hai chiều.
Cách phân loại của Lê Trung Hoa [50]: chia địa danh Việt Nam thành hai
nhóm lớn: 1. Địa danh chỉ các đối tượng tự nhiên (còn gọi là địa danh chỉ địa
hình); 2. Địa danh chỉ các đối tượng nhân tạo, gồm có ba loại: địa danh chỉ các
công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều, địa danh hành chính và địa
danh vùng. Cách phân loại này khái quát hơn, chúng tôi chọn cách này và áp
dụng cụ thể hơn như sau:


17

Địa hình cao: núi, đồi, đỉnh, vồ, hang, thác,
suối, thung lũng, đèo, dốc, rừng…

Đồng bằng: đồng, sông, rạch,
kênh, mương, cồn, cù lao,
doi, vàm, tắt, trảng, lung,
rọc…

Địa danh
chỉ địa hình

Địa hình thấp
Duyên hải, hải đảo: bãi, đảo,
quần đảo, hòn, vịnh, ghềnh,
mũi, eo biển, rừng ngập
mặn…

Địa danh hành chính: Châu lục, khối, khu vực,
quốc gia, tỉnh, thủ đô, thành phố, thị xã, quận,

huyện, thị trấn, phường, xã, khóm, ấp, làng.
Địa danh
Địa danh vùng: vùng, khu, xóm…

Địa danh công
trình xây dựng

Giao thông: cầu, đường,hẻm, ngã
ba, ngã tư, vòng xoay, bến đò, bến
phà…

Sinh hoạt cộng đồng: chợ, công
viên, quảng trường, vườn quốc
gia, khu du lịch, khu lưu niệm, lâm
viên…


18

Về ngữ nguyên, chúng tôi chọn lọc được một số cách phân loại như sau:
Cách phân loại của Nguyễn Kiên Trường [112] chia địa danh thành các tiểu
loại có nguồn gốc khác nhau: nguồn gốc Hán Việt, nguồn gốc thuần Việt,
nguồn gốc tiếng Pháp, nguồn gốc từ phương ngữ Quảng Đông, nguồn gốc khác
như Tày-Thái, Việt-Mường…, nguồn gốc hỗn hợp và địa danh chưa xác định
nguồn gốc.
Cách phân loại của Trần Văn Dũng [32] chia địa danh thành 5 loại: 1. Loại
địa danh gốc bản địa (đặt theo cách và tiếng của các dân tộc thiểu số tại chỗcác cư dân sống lâu đời trên địa bàn); 2. Loại địa danh thuần Việt; 3. Loại địa
danh Hán Việt; 4. Loại địa danh gốc khác; 5. Loại địa danh chưa xác định
nguồn gốc.
Cách phân loại của Lê Trung Hoa [50] chia địa danh thành 4 nhóm: 1. Địa

danh thuần Việt; 2. Địa danh Hán Việt; 3. Địa danh các ngôn ngữ dân tộc
(Chăm, Khmer, Ba Na, Ê Đê, Gia Rai, Tày, Thái, Mường…); 4. Địa danh
ngoại ngữ (Pháp, Indonesia, Malaysia…)
Cách phân loại của Nguyễn Kiên Trường và Trần Văn Dũng tuy có nhiều
hơn so với cách phân loại của Lê Trung Hoa, đều do đặc trưng riêng của từng
vùng, quyết định nhiều bởi cư dân bản địa và sự giao lưu văn hoá với các dân
tộc ở các vùng lân cận. Riêng nhóm địa danh chưa xác định nguồn gốc, đương
nhiên là phải có, có thể do những thay đổi, biến cố lịch sử nào đó mà nguồn
gốc của nó bị mờ lấp, chúng ta chưa thể tìm ra, chứ thực chất nó cũng thuộc
đâu đó trong bốn nhóm còn lại. Địa danh hỗn hợp là những địa danh đã tìm ra
nguồn gốc, tuy nhiên nó bao gồm nhiều thành tố thuộc những nguồn gốc khác
nhau ghép lại. Trong ba cách phân loại trên, chúng tôi thấy khái quát nhất là


19

cách phân loại của Lê Trung Hoa, chúng tôi chọn và áp dụng cho phân loại về
mặt ngữ nguyên cho địa danh ở An Giang như sau:
ĐỊA DANH

Địa danh
thuần Việt

Địa danh không
thuần Việt

Địa danh
Hán Việt

Địa danh

gốc
Khmer

Địa danh hỗn hợp

Địa danh
gốc
Malaysia,
Indonesia

Địa danh chưa xác
định nguồn gốc

Địa danh
gốc Pháp

1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên tỉnh An Giang
Tỉnh An Giang nằm ở địa đầu Tây Nam của lãnh thổ Việt Nam. Phía Bắc
và Tây Bắc tiếp giáp Campuchia với đường biên giới dài 104 km, chạy dọc
theo kênh Vĩnh Tế. Phía Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang đường ranh giới dài
69,789 km. Phía Nam có 44,734 km đất đai tiếp giáp với thành phố Cần Thơ.
Phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Đồng Tháp, ngăn cách bởi sông Tiền và
rạch Cái Tàu Thượng, chiều dài đường ranh giới là 107,6 km.
Lãnh thổ An Giang bao gồm hai vùng: dãy cù lao nằm giữa sông Tiền- sông
Hậu bao gồm các huyện: An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới; dãy đất nằm
dọc bên hữu ngạn sông Hậu, thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên, bao gồm các
huyện: Châu Phú, Châu Thành, Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại Sơn, thị xã Châu



20

Đốc và thành phố Long Xuyên. Chiều dài nhất theo hướng Bắc - Nam là 86
km, Đông - Tây là 87 km, trong vùng tọa độ từ 10012' - 10057' vĩ Bắc
và 104046' - 105035' kinh Đông. Điểm cực Bắc trên vĩ độ 10057’ nằm tại xã
Khánh An, huyện An Phú. Điểm cực Nam trên vĩ độ 10012’ nằm tại xã Thoại
Giang, huyện Thoại Sơn. Điểm cực Tây trên kinh độ 104 0 46’ tại xã Vĩnh Gia,
huyện Tri Tôn. Điểm cực Đông trên kinh độ 1050 35’tại xã Bình Phước Xuân,
huyện Chợ Mới.
An Giang có hai dạng địa hình là đồng bằng và đồi núi. Đồng bằng chiếm
khoảng 87% diện tích tự nhiên của tỉnh, là nơi sinh sống của khoảng 89% dân
cư toàn tỉnh. Đồng bằng cũng được phân thành hai loại là đồng bằng phù sa và
đồng bằng ven núi.
Đồng bằng phù sa do phù sa của sông Cửu Long bồi đắp, gồm 2 khu vực:
khu vực 1 là dãy đất nằm kẹp giữa sông Tiền và sông Hậu, bao gồm một phần
huyện An Phú và các huyện Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới. Địa hình có dạng
lòng chảo, cao ở hai bờ sông và thấp dần ở giữa. Khu vực 2 là dãy đất nằm ở
hữu ngạn sông Hậu, bao gồm một phần huyện An Phú, các huyện Châu Phú,
Châu Thành, Thoại Sơn, thị xã Châu Đốc và thành phố Long Xuyên. Địa hình
hơi nghiêng, thấp dần về phía Tây - Tây Nam.
Đồng bằng ven núi tập trung ở các huyện miền núi Tri Tôn, Tịnh Biên và
một phần huyện Thoại Sơn, thuộc kiểu sườn tích (Deluvi) và phù sa cổ. Kiểu
sườn tích hình thành trong quá trình phong hóa và xâm thực từ các núi đá, độ
cao trung bình từ 5 - 10 m, hẹp, độ dốc nhỏ.
Vùng đồi núi chiếm khoảng 13% diện tích tự nhiên và 11% dân cư toàn
tỉnh. Các dãy núi phân bố thành hình vòng cung kéo dài gần 100 km, khởi đầu
từ xã Phú Hữu, huyện An Phú, qua xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, bao trùm lên



×