Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Vận dụng triết lý về con người trong tục ngữ để dạy học tốt phần công dân với đạo đức ở chương trình giáo dục công dâ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.55 KB, 88 trang )

1

Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trờng Đại học Vinh
----------------------------------------

Nguyễn Văn Hải

Vận dụng triết lý về con ngời trong tục
ngữ để dạy học tốt phần "Công dân với
đạo đức" ở chơng trình Giáo dục công
dân lớp 10 THPT

luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục
Chuyên ngành: Lý luận và Phơng pháp dạy học
bộ môn Chính trị
Mã số:
60 14 11

Ngời hớng dẫn khoa học:
TS. Bùi Văn Dũng

Vinh - 2008


2
Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới đã đặt ra cho
ngành Giáo dục và Đào tạo một vai trò to lớn trong việc trực tiếp tham gia bồi


dỡng nguồn lực con ngời. Con ngời phát triển cao về trí tuệ, cờng tráng về thể
lực, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, là động lực và mục tiêu
của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nớc ta. Những năm gần
đây ngành Giáo dục và Đào tạo đã tập trung vào thực hiện mục đích và nhiệm
vụ đã xác định. Để giải quyết đợc hàng loạt vấn đề quan trọng, ngành Giáo
dục và Đào tạo đã đa ra nhiều biện pháp tích cực một cách đồng bộ. Bên cạnh
đó là vấn đề đổi mới phơng pháp dạy học theo hớng phát huy tính tích cực chủ
động sáng tạo cho học sinh; rèn luyện và phát triển khả năng độc lập, tự chủ.
Môn Giáo dục công dân là môn học trực tiếp giáo dục t tởng chính trị,
đạo đức, phong cách, chuẩn mực của ngời lao động mới cho học Trung học
phổ thông (THPT), đồng thời trang bị những kiến thức lý luận một cách có hệ
thống của chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, bồi dỡng năng lực và
phơng pháp khoa học trong hoạt động thực tiễn.
Trong chơng trình môn Giáo dục công dân phần "Công dân với đạo
đức" với những chức năng và nhiệm vụ riêng của mình, đợc xếp sau phần
"Công dân với việc hình thành thế giới quan, phơng pháp luận khoa học"
nhằm đảm bảo lôgic cấu trúc chơng trình, từ hình thành thế giới quan khoa
học, phơng pháp t duy biện chứng, mức độ nâng cao dần, từ khái niệm phạm
trù nâng lên thành quan điểm lý luận. Chính vì vậy, trong hệ thống các môn
học, môn Giáo dục công dân đợc đặt ở vị trí đúng với chức năng giáo dục của
nó trong trờng Trung học phổ thông.
Nhng thực trạng của công tác dạy học môn Giáo dục công dân nói
chung và phần "Công dân với đạo đức" nói riêng hiện nay còn tồn tại nhiều
bất cập, nh xem môn Giáo dục công dân ở trờng THPT chỉ là môn bổ trợ, môn
học phụ... Cho đến nay, quan niệm này vẫn còn tồn tại khá nặng nề trong ở


3
các cấp, trong đó cả ở các cấp lãnh đạo và quản lý của ngành Giáo dục và Đào
tạo, trong xã hội, trong giáo viên, trong phụ huynh học sinh và bản thân học

sinh. Họ cha thấy rằng: những tri thức của môn Giáo dục công dân chính là
hành trang cụ thể để học sinh bớc vào đời tự tin vững vàng - những tri thức rất
cơ bản và thiết thực đối với một công dân tơng lai.
Những quan niệm sai lầm trên đơng nhiên sẽ dẫn đến những sai lầm
trong hành động. Đặc biệt là ngời giáo viên môn Giáo dục công dân trong khi
dạy học vẫn còn hiện tợng coi giờ lên lớp chỉ là giờ thời sự mang tính chất
tuyên truyền, thuyết minh đờng lối cách mạng, chính sách của Đảng và Nhà
nớc. Phần "Công dân với đạo đức" trong chơng trình Giáo dục công dân lớp
10 lại càng bị xem nhẹ, giáo viên chỉ lên lớp một cách qua loa, đại khái cho
đúng giờ dạy; Nội dung, phơng pháp bị xem nhẹ dẫn đến sự mất hứng thú của
học sinh, trong dạy học mang nặng tính chất truyền thụ một chiều, thiếu sự
liên hệ với thực tiễn cuộc sống.
Xuất phát từ những yêu cầu và thực tiễn của việc dạy học môn Giáo dục
công dân nói chung và phần "Công dân với đạo đức" nói riêng, chúng tôi nhận
thấy rằng cần phải có sự đổi mới về phơng pháp dạy học phần "Công dân với
đạo đức" để tạo sự hứng thú trong học tập, phát huy hơn nữa tính tích cực chủ
động của học sinh, hình thành nhân cách tốt đẹp bằng việc khai thác và vận
dụng tục ngữ vào bài dạy.
Tục ngữ Việt Nam rất đa dạng và phong phú thể hiện ở nhiều lĩnh vực
là kết tinh truyền thống văn hoá dân tộc, về cách đối nhân xử thế, về triết lý
nhân sinh. Những t tởng này rất có ích cho việc hình thành và bồi dỡng nhân
cách của con ngời đặc biệt là với học sinh THPT. Bên cạnh đó, thông qua việc
khai thác và vận dụng tục ngữ Việt Nam vào bài dạy sẽ góp phần tạo ra động
lực phát huy tìm kiếm, su tầm của học sinh về tục ngữ ở địa phơng nơi các em
sinh sống qua đó sẽ hình thành những giá trị tốt đẹp của truyền thống quê hơng, làng xóm.


4
Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài Vận dụng triết lý về con
ngời trong tục ngữ để dạy học tốt phần "Công dân với đạo đức" ở chơng

trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT làm đề tài nghiên cứu của luận văn
thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề:
Trớc khi thực hiện thay sách môn Giáo dục công dân của Bộ giáo dục
và Đào tạo đã có nhiều công trình nghiên cứu đổi mới phơng pháp dạy học
nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh, nâng cao hiệu quả học tập.
Cuốn sách Phơng pháp dạy học môn đạo đức Giáo dục công dân của
Tác giả Nguyễn Nghĩa Dân (Nxb Giáo dục, năm 1997) đã giới thiệu tổng quát
lý luận và thực tiễn, gồm lý luận về phơng pháp và phần áp dụng mô hình thiết
kế các bài học đạo đức, Giáo dục công dân theo quy định hiện hành của Bộ
Giáo dục và Đào tạo với mục giới thiệu mẫu thiết kế bài học, chọn và sắp xếp
theo chủ đề để tiện nghiên cứu. Cuốn sách này tác giả đã giới thiệu tổng hợp
lý luận về phơng pháp dạy học tích cực lấy học sinh làm trung tâm giới thiệu
mô hình thiết kế bài học theo phơng pháp này, ứng dụng vào môn đạo đức.
Cuốn "Phơng pháp dạy học môn Giáo dục công dân của nhóm tác giả
Phùng Văn Bộ, Nguyễn Thị Kim Thu, Vơng Tất Đạt, Lê Văn Thứ, Đinh Văn
Đức, Dơng Minh Đức, Trần Thị Ngọc Anh do PTS. Vơng Tất Đạt chủ biên,
(Trờng Đại học S phạm Hà Nội I. Hà Nội 1994) giới thiệu tổng quát về lý luận
dạy học, các nguyên tắc dạy học, các hình thức dạy học và các phơng pháp
dạy học môn Giáo dục công dân. Nhóm tác giải trình bày một cách chi tiết về
các phơng pháp dạy học môn Giáo dục công dân nhằm đạt hiệu quả tốt nhất.
Cuốn "Bồi dỡng nội dung và phơng pháp dạy học môn Giáo dục công
dân 10" của nhóm tác giả Vũ Hồng Tiến, Phùng Văn Bộ chủ biên (Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội 1999) trình bày, thể hiện những nét đặc trng riêng về
cách trình bày và phơng pháp tiếp cận bộ môn Giáo dục công dân để giáo viên
có điều kiện lựa chọn vận dụng một cách có hiệu quả, sát với thực tế phổ
thông, đặc biệt, cuối mỗi bài đều có hệ thống câu hỏi và tài liệu tham khảo


5

dành cho giáo viên tiếp tục tìm tòi nhằm không ngừng nâng cao trình độ của
mình.
Cuốn "Lý luận dạy học môn Giáo dục công dân ở PTTH" của tác giả
Phùng Văn Bộ (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 1999) đã nghiên cứu và xây
dựng chung về dạy học môn Giáo dục công dân, về các phơng pháp, các hình
thức tổ chức dạy học môn Giáo dục công dân ở hệ THPT. Tác giả cũng đề ra
những yêu cầu s phạm đối với môn Giáo dục công dân một cách cụ thể.
Tất cả các cuốn sách trên tuy đề cập một cách hệ thống và đầy đủ của lý
luận dạy học và các phơng pháp dạy học môn Giáo dục công dân, nhng cha có
cuốn sách nào đi sâu vào việc dạy học phần "Công dân với đạo đức" mà chỉ
dừng lại ở vấn đề về phơng pháp dạy học, về nội dung kiến thức bài học cần
phải trình nh thế nào thì cha đợc đề cập.
Nghiên cứu về tục ngữ tác giả Bùi Văn Dũng đã thực hiện đề tài Triết
lý về con ngời trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, mã số B2007-27-41-TĐ.
Trong đề tài này nhóm tác giả đã khai thác, nghiên cứu những triết lý về con
ngời trong tục ngữ, đặc biệt về mối quan hệ giữa con ngời với con ngời, với xã
hội và với tự nhiên.
Việc vận dụng tục ngữ vào dạy học phần Công dân với đạo đức nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục nhân cách, giáo dục đạo đức cho học
sinh lớp 10 THPT là việc làm cần thiết nhng cha có tác giả nào bàn đến hoặc
thực hiện. Chính vì những lý do trên chúng tôi đã lựa chọn đề tài Vận dụng
triết lý về con ngời trong tục ngữ để dạy học tốt phần "Công dân với đạo
đức" ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT làm luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
* Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Vận dụng triết lý về con ngời trong tục ngữ để dạy học tốt phần "Công
dân với đạo đức" ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT.
- Đề tài đi vào nghiên cứu để nâng hiệu quả, chất lợng của việc học tập
phần "Công dân với đạo đức, góp phần hình thành nhân cách con ngời Việt



6
Nam có lý tởng, có ớc mơ, hoài bão, có đạo đức cách mạng cho học sinh
THPT.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Để thực hiện đợc mục đích đề ra, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên
cứu chủ yếu sau:
- Xác định tầm quan trọng của phần "Công dân với đạo đức" trong chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT; nghiên cứu những giá trị nhân văn
của tục ngữ đối với việc hình thành nhân cách của học sinh THPT.
- Tiến hành khảo sát thực trạng của việc dạy học môn Giáo dục công
dân nói chung và phần "Công dân với đạo đức" nói riêng lớp 10 THPT ở trờng
THPT số 1 huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình và đánh giá quá trình vận
dụng ngữ vào bài giảng.
- Xây dựng quy trình thiết kế giáo án bài giảng bằng việc sử dụng tục
ngữ.
- Thực nghiệm mức độ phù hợp, khẳng định tính khả thi và hiệu quả đạt
đợc của quá trình khai thác, vận dụng tục ngữ vào bài dạy.
- Xác lập hệ thống các điều kiện và yêu cầu nhằm năng cao hiệu quả
của việc dạy học phần "Công dân với đạo đức" ở chơng trình Giáo dục công
dân lớp 10 THPT và đặc biệt là vận dụng ở một số trờng THPT huyện Quảng
Trạch tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tợng, khách thể nghiên cứu:
* Đối tợng nghiên cứu:
Khai thác và vận dụng triết lý về con ngời trong tục ngữ để dạy học tốt
phần "Công dân với đạo đức" ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT.
* Khách thể nghiên cứu:
Để dạy học tốt phần "Công dân với đạo đức" ở chơng trình Giáo dục
công dân lớp 10 THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu:



7
Đề tài chỉ tập trung vào việc khai thác triết lý về con ngời của tục ngữ
và vận dụng để dạy học tốt phần "Công dân với đạo đức" ở môn Giáo dục
công dân lớp 10 THPT, cho nên đề tài đi sâu vào nghiên cứu:
- Cơ sở của việc vận dụng triết lý về con ngời trong tục ngữ để dạy học
tốt phần "Công dân với đạo đức" ở chơng trình giáo dục công dân lớp 10
THPT;
- Vận dụng triết lý về con ngời trong tục ngữ để góp phần hình thành
nhân cách cho học sinh thông qua dạy học phần "Công dân với đạo đức" ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT.
6. Phơng pháp nghiên cứu:
- Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng tổng hợp các phơng
pháp nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội nh: Phân tích- tổng hợp,
lôgic- lịch sử, cụ thể- khái quát. Đọc và phân tích một số tài liệu có liên quan
đến phơng pháp dạy học môn Giáo dục công dân;
- Phơng pháp thực nghiệm: Chủ yếu là sử dụng phơng pháp thực
nghiệm mô hình xã hội, mà ở đây là tiến hành thực nghiệm ở môn Giáo dục
công dân trờng THPT số 1 Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình;
- Phơng pháp điều tra: Tiến hành điều tra thực trạng của việc dạy học
phần "Công dân với đạo đức" ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 trờng
THPT số 1 Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình;
- Phơng pháp quan sát: Theo dõi quá trình học tập của học sinh ở lớp
thực nghiệm và lớp đối chứng;
- Phơng pháp toán thống kê: Phân tích kết quả điều tra và kết quả kiểm
tra, phiếu điều tra của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
7. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn:
- Luận văn góp phần vào việc nâng cao chất lợng dạy học phần "Công
dân với đạo đức" ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 trờng THPT;



8
- Luận văn có thể là nguồn t liệu tham khảo đối với giáo viên dạy bộ
môn Giáo dục công dân và sinh viên ngành Giáo dục Chính trị;
- Luận văn góp phần giải quyết những vấn đề tồn tại trong việc tạo ra
động lực cho học sinh góp phần hình thành những phẩm chất của ngời công
dân thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời luận văn cũng góp phần
nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh
hoạt của học sinh.
8. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục nội dung luận văn gồm
có 02 chơng 5 tiết:
Chơng 1: Cơ sở của việc vận dụng triết lý về con ngời trong tục ngữ để
dạy học tốt phần Công dân với đạo đức ở chơng trình Giáo dục công dân
lớp 10 THPT
Chơng 2: Vận dụng triết lý về con ngời trong tục ngữ để góp phần hình
thành nhân cách cho học sinh thông qua dạy học phần "Công dân với đạo đức"
ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT

Nội dung

Chơng 1


9

Cơ sở của việc vận dụng triết lý về con ngời
trong tục ngữ để dạy tốt phần Công dân với đạo đức
trong chơng trình môn Giáo dục công dân
lớp 10 THPT
1.1. Những vấn đề chung của phần Công dân với đạo đức ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT


1.1.1. Vai trò, vị trí, mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ phần Công dân
với đạo đức ở chơng trình Giáo dục công lớp 10 THPT
1.1.1.1. Vai trò, vị trí phần Công dân với đạo đức ở ch ơng trình Giáo
dục công dân trong việc hình thành nhân cách cho học sinh lớp 10 THPT
Mục tiêu đào tạo của xã hội nói chung và ngành Giáo dục và Đào tạo
nói riêng của chúng ta là hình và phát triển toàn diện những nhân cách tốt đẹp
cho thế hệ trẻ, những chủ nhân tơng lai, những ngời lao động mới phát triển
hài hoà trên tất cả các mặt đức dục, trí dục, mỹ dục, lao động của đất nớc trên
con đờng hội nhập và phát triển.
Để hình thành và phát triển đợc những con ngời nh vậy, nhà trờng phổ
thông và ngành giáo dục phải có chơng trình giáo dục, giáo dỡng phù hợp với
đất nớc, với con ngời Việt Nam và với thời đại. Yêu cầu khách quan đó đợc
quán triệt trong chơng trình và nội dung học tập của toàn bộ tất cả các môn
học trong trờng Trung học phổ thông.
Giáo dục công dân, giáo dục đạo đức là môn học mà hiện nay Đảng và
Nhà nớc ta đặc biệt quan tâm là do điều Đặc biệt đáng lo ngại là trong một
bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tơng lai
của bản thân và đất nớc [4,36]. Môn Giáo dục công dân là môn học thuộc
khoa học xã hội có đặc trng gắn liền với nhân cách, với đờng lối cách mạng


10
hơn các môn học khác, Giáo dục công dân góp phần đào tạo thế hệ thanh niên
thành những con ngời mới, có nhân cách của một ngời công dân tơng lai. Đó
là phẩm chất chính trị t tởng, đạo đức, phong cách, năng lực hoạt động thực
tiễn. Với vai trò và vị trí, nh vậy phần "Công dân với đạo đức" đợc xếp sau
phần "Công dân với việc hình thành thế giới quan, phơng pháp luận khoa học"
nhằm phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, đảm bảo nội dung kiến thức,
mức độ nâng cao dần, từ khái niệm phạm trù nâng lên thành quan điểm lý

luận, ý thức về bản chất sự vật.
Trong các bài học đạo đức đợc xây dựng ở môn Giáo dục công dân lớp
10, phần "Công dân với với đạo đức" là phần trực tiếp hình thành cho học sinh
những quan niệm đạo đức mới thông qua các khái niệm đạo đức, qua đó rèn
luyện ý thức đạo đức và hành vi đạo đức. Đặc biệt các bài đã chú ý tới chức
năng giáo dục t tởng, phơng pháp t duy khoa học sau mỗi đơn vị kiến thức.
Thông qua phần Công dân với đạo đức, giáo dục ý thức đạo đức có
vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong mỗi phẩm chất nhân cách của con
ngời Việt Nam. Trong xã hội, bất cứ thời đại nào cũng đều có mối quan hệ
biện chứng giữa cá nhân và xã hội. Tuỳ theo trình độ phát triển của xã hội mà
lợi ích của cá nhân phù hợp ít hay nhiều với lợi ích xã hội. Để những hoạt
động của cá nhân không vợt ra khỏi những giới hạn xã hội, xã hội dùng các
biện pháp điều chỉnh trong đó có những quan hệ đạo đức. Sự phản ánh những
yêu cầu chung, tất yếu của xã hội đợc biểu hiện ra nh ý chí, quan niệm của xã
hội về sự tồn tại vật chất hiện thực của mình bằng hình thái ý thức xã hội. ý
thức đạo đức mang trong mình những cảm xúc, những tình cảm của con ngời
đối với con ngời, của cá nhân đối với xã hội. Nói cách khác, trong ý thức đạo
đức, chứa đựng các nguyên tắc, các chuẩn mực biểu hiện nh cảm xúc, trách
nhiệm của con ngời trớc số phận của con ngời và của xã hội. Vì thế, ý thức
đạo đức chứa đựng trong mình ý nghĩa xã hội sâu sắc và khả năng điều chỉnh
tính tích cực đối với con ngời. Cũng vì thế, trong đời sống đạo đức, trách
nhiệm cá nhân đợc đề cao và cấu thành một bộ phận quan trọng làm cho nhân


11
cánh mang tính đặc thù. Với đặc điểm này, phần "Công dân với đạo đức" đợc
đa vào dạy học trong chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 là hoàn toàn phù
hợp với trình độ nhận thức của học sinh lớp 10 trong giai đoạn phát triển nhân
cách cần có sự giáo dục nền tảng đạo đức có tính định hớng, xuyên suốt và
căn bản.

1.1.1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ phần Công dân với đạo đức ở ch ơng
trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT
* Mục tiêu phần "Công dân với đạo đức" ở chơng trình Giáo dục công
dân
Mục tiêu của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa là đào tạo những con ngời
tích cực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, có văn hoá cao, phát
triển toàn diện. Mục tiêu của nền Giáo dục và Đào tạo trả lời câu hỏi: giáo
dục, dạy học để làm cái gì. Môn Giáo dục công dân có mục tiêu giáo dục học
sinh THPT thành những công dân Nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đáp ứng đợc yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Nói cụ thể hơn,
môn Giáo dục công dân góp phần đào tạo thế hệ thanh niên thành những ngời
lao động mới, hình thành ở họ những phẩm chất, năng lực, nhân cách của ngời
công dân mới.
Mục tiêu của phần "Công dân với đạo đức" trong chơng trình Giáo dục
công dân lớp 10 THPT là trên cơ sở những khái niệm đạo đức đợc đề cập có
kế thừa truyền thống đạo đức của dân tộc và có phát triển theo quan điểm mới,
hiện đại. Đặc trng của các khái niệm đạo đức đợc trình bày trên cơ sở thống
nhất các yếu tố trí tuệ, tình cảm, ý chí với hoạt động thực tiễn. Từ ý thức đạo
đức phát triển lên thành các hành vi đạo đức. ở chơng trình Trung học phổ
thông vấn đề đạo đức chỉ dừng lại ở các khái niệm và hành vi đạo đức giúp
học sinh có thể dễ dàng tiếp thu, lĩnh hội dần dần hình thành cho mình những
phẩm chất đạo đức mới trên cơ sở kế thừa truyền thống đạo đức có từ hàng
ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Mục tiêu cụ thể của phần Công dân với đạo


12
đức ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 là xây dựng cho học sinh những
phẩm chất đạo đức, chuẩn mực của xã hội; những quy tắc ứng xử trong cuộc
sống hằng ngày, có tác phong và lối sống lành mạnh, sống có trách nhiệm,
đồng thời cũng góp phần giúp học sinh biết phê phán, đấu tranh chống lại

những khuynh hớng cũ, lạc hậu của đạo đức cũ, những tàn d của đạo đức
không lành mạnh, phản động, đồi truỵ đang xâm nhập từng ngày vào xã hội.
* Nhiệm vụ phần "Công dân với đạo đức" ở chơng trình Giáo dục công
dân lớp 10 THPT
Môn Giáo dục công dân lớp 10 đợc chia thành hai phần nhng có quan
hệ chặt chẽ với nhau. Phần "Công dân với việc hình thành thế giới quan, phơng pháp luận khoa học" và phần "Công dân với đạo đức", ở mỗi phần có
nhiệm vụ khác nhau. Phần đầu có nhiệm vụ giáo dục thế giới quan khoa học,
nội dung tổng quát của nó là bức tranh tổng thể về thế giới vật chất, ý thức xã
hội, các tri thức khoa học nó trực tiếp gắn liền với việc hình thành thế giới
quan khoa học một cách hệ thống. Phần thứ hai về đạo đức với những nguyên
tắc, quy tắc chuẩn mực xã hội có nhiệm vụ giúp học sinh biết điều chỉnh hành
vi của mình vì lợi ích xã hội, vì hạnh phúc của con ngời.
Nhiệm vụ của phần Công dân với đạo đức ở chơng trình Giáo dục
công dân nói chung phải xuất phát từ mục đích của môn học, nhằm nâng cao
tri thức, kỹ năng, bồi dỡng và phát triển nhân cách tốt đẹp của học sinh.
Là một môn khoa học xã hội, môn Giáo dục công dân cùng với tất cả
các môn học khác góp phần hình thành và phát triển nhân cách, năng lực,
phẩm chất cho học sinh THPT. Khác với các môn học khác, môn Giáo dục
công dân góp phần trực tiếp hình thành phẩm chất chính trị, t tởng, đạo đức;
nó gắn liền với đờng lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phần Công dân với đạo
đức ở chơng trình môn Giáo dục công dân có nhiệm vụ góp phần đào tạo
học sinh thành những con ngời lao động mới, hình thành những phẩm chất tốt
đẹp, tích cực của những công dân chủ nhân tơng lai của đất nớc, có thế giới
quan khoa học; nhân sinh quan tiên tiến; có đạo đức trong sáng.


13
Giáo dục phẩm chất chính trị, t tởng, đạo đức cho học sinh là do tất các
môn khoa học khác và các hình thức giáo dục do nhà trờng thực hiện, song
phần Công dân với đạo đức ở chơng trình Giáo dục công dân có nhiệm vụ

hết sức quan trọng trong việc giáo dục đó. Nó có thể giáo dục cho học sinh
những tri thức về thế giới quan, nhân sinh quan một cách tơng đối có hệ
thống, toàn diện, giúp cho học sinh nhận thức đúng đắn cuộc sống cá nhân và
cộng đồng phải phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử xã
hội, biết sống trong điều kiện cụ thể của bản thân, gia đình và trong xã hội,
luôn có ý thức vơn tới những cái cao đẹp. Chính trên cơ sở của những tri thức
đó, học sinh sẽ hình thành dần dần những quan điểm mới, những khuynh hớng
t tởng mới, động cơ, hoài bão, lòng tin và hành vi tốt đẹp của con ngời. Đồng
thời thông qua tri thức của môn Giáo dục công dân sẽ gúp học sinh hình thành
từng bớc phơng pháp nhận thức, t duy khoa học và phơng pháp hành động
đúng quy luật khách quan. Đặc biệt trong thời đại ngày nay việc định hớng
đúng đắn suy nghĩ và từ đó định hớng đúng đắn trong hành động có vai trò hết
sức quan trọng đối với mỗi con ngời trong xã hội.
Nhiệm vụ cụ thể của môn Giáo dục công dân nói chung, phần Công
dân với đạo đức tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội của
đất nớc. Trong giai đoạn hiện nay, phần Công dân với đạo đức ở chơng
trình Giáo dục công dân có những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Trang bị cho học sinh THPT một cách tơng đối có hệ thống những tri
thức phổ thông căn bản, thiết thực về đạo đức và lối sống có đạo đức, những
quan điểm về xây dựng đất nớc ngày càng giàu đẹp, văn minh, cuộc sống ngày
càng ấm no, hạnh phúc;
- Bớc đầu giáo dục cho học sinh những quan điểm khoa học và cách
mạng; t duy mới về thế giới và thời đại, về con ngời và cộng động; về cuộc
đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội giữa cái tiến bộ và cái
bảo thủ, lạc hậu. Trên cơ sở đó hình thành niềm tin có cơ sở khoa học và lý t -


14
ởng cao đẹp mà con ngời luôn luôn vơn tới với sự tất thắng của cái Chân, cái
Thiện và cái Mỹ;

- Bồi dỡng cho học sinh bớc đầu những phơng pháp t duy biện chứng,
biết phân tích và đánh giá các hiện tợng xã hội theo quan điểm khoa học, tiến
bộ, ủng hộ những cái đúng, cái mới. Tích cực đấu tranh chống cái sai, cái cũ
lỗi thời, cái tiêu cực và cái lạc hậu; biết kế thừa những truyền thống quý báu,
tốt đẹp của dân tộc;
- Từng bớc hình thành ở học sinh thói quen và kỹ năng vận dụng những
tri thức đã học vào cuộc sống học tập, lao động và sinh hoạt; giúp học sinh
định hớng đúng đắn về chính trị, t tởng và đạo đức trong các hoạt động xã hội,
trong cuộc sống hiện tại và tơng lai.
Phần Công dân với đạo đức có những nhiệm vụ cụ thể trên nhng
trong đó có hai nhiệm vụ chính và nổi bật hơn, đó là cung cấp cho học sinh hệ
thống tri thức khoa học và giúp các em vận dụng tri thức môn học vào đời
sống thực tế. Cũng cần lu ý rằng, đối với môn Giáo dục công dân từ tri thức
đến niềm tin và từ niềm tin đến hành động thực tế là một quá trình. Nó phải
trải qua một cuộc đấu tranh giữa các nhu cầu khác nhau và chỉ khi nào cuộc
đấu tranh này đủ mạnh thì ngời hành động mới không làm trái với những tri
thức đã đợc giáo dục.
1.1.1.3. Chức năng giáo dục nhân cách cho học sinh trong phần "Công
dân với đạo đức" ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT.
Đợc biên soạn trong chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 với bảy bài,
phần "Công dân với đạo đức" đợc cấu trúc hợp lý, phù hợp với đặc trng của
từng lĩnh vực tri thức riêng lẻ, phù hợp với thực tiễn phát triển của xã hội.
Đồng thời chơng trình còn đảm bảo đợc nội dung kiến thức mức độ nâng cao
dần, đi từ khái niệm, phạm trù và vận dụng vào thực tiễn.
Chức năng của phần Công dân với đạo đức ở chơng trình môn Giáo
dục công dân lớp 10 THPT là giúp học sinh điều chỉnh hành vi của mình
thông qua lơng tâm và d luận xã hội, đợc định hớng qua niềm tin đạo đức của


15

chủ thể về những nguyên tắc sống, những quan niệm về thiện ác, hạnh phúc,
nghĩa vụ, lơng tâm, đạo đức có vai trò vô cùng to lớn trong đời sống xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức cùng với pháp luật là công cụ giữ vững kỉ cơng xã hội, không thể thiếu đợc vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội. Nơi
nào đạo đức bị xem nhẹ thì ở đó cuộc sống bị đảo lộn. Đạo đức là nền tảng
tinh thần của xã hội, là thớc đo giá trị nhân cách của mỗi con ngời. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ví đạo đức nh sức khoẻ của con ngời, con ngời có sức khoẻ
mới gánh đợc nặng và đi đợc xa, ngời có đạo đức cách mạng mới hoàn thành
đợc nhiệm vụ cách mạng. Trong cuộc sống con ngời ta điều quý nhất là sức
khỏe và nhân cách. Nhân cách của mỗi ngời, mỗi gia đình, mỗi dân tộc cao thợng hay thấp hèn đều phụ thuộc vào những giá trị đạo đức. Trong mọi quan hệ
ứng xử, công tác ở bất cứ lĩnh vực nào, ở bất kỳ ai đều rất cần đến đạo đức, tác
phong và nhân cách. Thế hệ cha ông chúng ta trong công cuộc xây dựng đất
nớc và kháng chiến chống giặc ngoại xâm có đợc lòng dũng cảm, đức hy sinh
vì độc lập tự do của dân tộc cũng là do nền tảng đạo đức mà có. Trong quá
trình xây dựng nền đạo đức mới, chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công phát huy
tối đa những giá trị đạo đức tốt đẹp truyền thống của dân tộc và kết hợp một
cách nhuần nhuyễn với tinh hoa đạo đức của nhân loại.
ý thức đạo đức là một trong các hình thái ý thức xã hội góp phần quan
trọng xây dựng mối quan hệ giữa ngời với ngời, giữa cá nhân và xã hội. Chức
năng giáo dục của ý thức đạo đức là giúp con ngời nhận thức, điều chỉnh suy
nghĩ, hành động phù hợp với những yêu cầu xã hội. Nhờ vậy con ngời tự giác
tuân theo những quy tắc, những chuẩn mực trong xã hội. Dạy học đạo đức cho
học sinh có vai trò hết sức to lớn giúp ngời học sáng tạo hạnh phúc, giữ gìn và
bảo vệ cuộc sống tốt đẹp của xã hội và phẩm giá của con ngời. Những giá trị
đạo đức cao cả có sức rung cảm sâu sắc làm thức tỉnh những tình cảm cao đẹp
và lâu bền trong tâm hồn con ngời. Đạo đức xã hội chủ nghĩa không những có
ý nghĩa nâng cao lòng tin của con ngời vào cuộc sống, nâng cao tính tích cực
xã hội cho học sinh, mà bản thân nó cũng là sự biểu hiện lòng tin vào con ngời


16

vào xã hội. Vì vậy, chức năng giáo dục đạo đức là nhằm hình thành cho con
ngời những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực
đạo đức cơ bản; nhờ đó mà học sinh có khả năng lựa chọn, đánh giá đúng đắn
các hiện tợng xã hội cũng nh tự đánh giá những suy nghĩ, hành vi của bản thân
mình. Vì thế, công tác giáo dục đạo đức góp phần quan trọng vào việc hình
thành và phát triển nhân cách của con ngời mới. Cùng với quá trình giáo dục,
nhờ hoạt động tích cực con ngời càng hiểu rõ vai trò to lớn của lơng tâm, ý
thức danh dự và các phẩm chất đạo đức của cá nhân đối với bản thân mình
trong đời sống cộng đồng. Những tấm gơng đạo đức cao cả có sức lôi cuốn
con ngời, giúp họ học tập, rèn luyện theo hớng cái tốt đẹp, cái thiện. Thông
qua lợng kiến thức đợc truyền thụ ở bảy bài trong phần "Công dân với đạo
đức" trên cơ sở nắm vững các khái niệm, các phạm trù đạo đức, luận điểm
chính trị bồi dỡng cho học sinh một phơng pháp t duy khoa học, biết đánh giá
cái đúng, cái sai trong hiện tợng xã hội, thái độ ủng hộ cái mới cái tiến bộ. Có
tinh thần phê phán đối với những cái lạc hậu, cái thấp hèn. Trong thời đại
ngày nay, điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế hội nhập, mở của của đất nớc. Ngoài bộ phận thanh niên sống có lý tởng, có mục tiêu thì tồn tại không ít
thanh, thiếu niên chạy theo lối sống vật chất hởng thụ, đua đòi đi ngợc lại
thuần phong mỹ tục của dân tộc. Việc giáo dục đạo đức là bồi dỡng niềm tin,
lý tởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội; phát huy tính tích cực, sáng tạo trong
học tập và lao động; không ngừng rèn luyện bản thân để tự phát triển hớng
theo lý tởng cách mạng, khơi dậy ở học sinh những khả năng to lớn về t duy,
tính tích cực sáng tạo, tính mài sắc của t duy đã là những yếu tố quan trọng
thúc đẩy thế hệ trẻ phát triển không ngừng. Trong bối cảnh chính trị- xã hội nớc ta hiện nay, Giáo dục công dân nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng góp
phần giáo dục niềm tin vào Chủ nghĩa xã hội, vào con đờng tất yếu của cánh
mạng Việt Nam.
1.1.2. Thực trạng việc dạy học phần "Công dân với đạo đức" ở chơng
trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT


17

Dạy học môn Chính trị trớc đây và môn Giáo dục công dân hiện nay ở
trờng Trung học phổ thông do nhiều nguyên nhân cha đợc quan tâm, nghiên
cứu một cách đầy đủ và nghiêm túc. Công việc dạy học cha đợc chú trọng. Từ
lâu việc dạy học Chính trị hầu nh đợc thực hiện bằng con đờng tự phát kinh
nghiệm chủ nghĩa dựa trên cơ sở phơng pháp dạy học và nghiệp vụ nói chung.
Thầy giáo dạy học Chính trị thờng xuyên truyền đạt lý luận bằng công tác
chính trị, t tởng, tuyên huấn. Trong những năm gần đây, đội ngũ dạy học môn
Giáo dục công dân đợc đào tạo bài bản. Họ đựơc trang bị tri thức khoa học
một cách hệ thống, hiện đại, cơ bản và chuyên sâu; có lý luận về phơng pháp
và nghiệp vụ s phạm, song đội ngũ đó cha trở thành lực lợng chủ yếu và phổ
biến trong trờng THPT. Sở dĩ có tình trạng đó là do nhiều nguyên nhân khách
quan cũng nh chủ quan sau:
- Cha có sự nhận thức cha đúng đắn và đầy đủ về vị trí và nhiệm vụ của môn
học ở trờng trung học phổ thông. Trớc đây môn Giáo dục công dân với t cách
là một môn học khoa học xã hội, nhng cùng với thời gian cha nhiều, cha làm
chuyển biến nhận thức của mọi ngời. Do đó, môn học cha đợc quan tâm đúng
mức;
- Đội ngũ giáo viên dạy học bộ môn nói chung cha đợc chuẩn hoá, cha đợc
bồi dỡng thờng xuyên và sử dụng đúng ngành đợc đào tạo. Bên cạnh đó còn
tồn tại tình trạng giáo viên dạy kiêm nhiệm, giáo viên Văn, Sử, Địa đều có thể
đợc phân công dạy học môn Giáo dục công dân nhất là ở bậc Trung học cơ sở.
Do đó, trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên môn Giáo dục công dân
không đồng đều, trình độ nghiệp vụ s phạm không hoàn toàn đảm bảo;
- Chơng trình thay sách môn Giáo dục công dân Trung học phổ thông bắt
đầu thực hiện ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 và hiện nay đã đợc thực
hiện ở lớp 11 và 12. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng dạy học tùy tiện ở các trờng
Trung học phổ thông, hơn nữa có nhiều tri thức rất khó đối với học sinh. Vì
thế, có những bài, những khái niệm giáo viên cha đủ khả năng dạy học thích
hợp, học sinh lại càng khó tiếp thu hơn;



18
Học Giáo dục công dân là để làm một ngời công dân, không phải một
công dân chung chung, trừu tợng mà là một công dân cụ thể của đất nớc Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới. Tri thức phần Công dân với đạo đức ở chơng
trình Giáo dục công dân lớp10 THPT về bản chất bắt nguồn từ thực tiễn và chỉ
có trong thực tiễn mới chứng minh đợc tính đúng đắn và phát huy đợc sức
mạnh của mình. Nếu giáo viên chỉ dừng lại ở dạy học về lý thuyết mà không
chứng minh đợc tính đúng đắn của nó trong thực tiễn, không sử dụng nó nh là
một phơng tiện, một công cụ để đánh giá, xem xét, giải quyết những vấn đề do
thực tiễn đặt ra thì hiệu quả của việc học đạt đợc rất thấp. Có nghĩa là dạy học
và học tập thoát ly khỏi cuộc sống hàng ngày, bài giảng khô khan, buồn tẻ,
công thức gây cho học sinh sự chán chờng", biết rồi khổ lắm nói mãi", tiết
giảng trở nên thiếu hiệu quả, dần dần sẽ tạo cho học sinh tâm lý không hứng
thú với môn học này.
Trong thời gian qua, phần Công dân với đạo đức nói riêng, môn Giáo
dục công dân nói chung trong quá trình dạy nếu giáo viên chỉ lên lớp một
cách qua loa đại khái sẽ không có tác dụng hình thành và rèn luyện nhân cách,
ngời học cảm nhận chán nản, mất hứng thú trong học tập. Tiết học trở thành
buổi thuyết giảng về đạo đức, một số học sinh thậm chí còn không tin tởng
vào điều thầy giảng, có những lúc có thái độ không đúng đắn. Việc đơn giản
hoá, tầm thờng hoá những tri thức môn Giáo dục công dân bị một bộ phận
không nhỏ các em vẫn còn xem là môn học phụ, bổ trợ. Cho đến nay quan
niệm này vẫn còn tồn tại không những ở học sinh mà còn ở giáo viên các bộ
môn khác nh Văn, Toán, Lý, Hoá, Sinh... kể cả ở cấp quản lý của ngành Giáo
dục và Đào tạo. Tình trạng này vẫn còn tồn tại trong các trờng Trung học cơ
sở và đặc biệt vẫn còn hiện tợng ở các trờng Trung học phổ thông dân lập, cá
biệt có trờng không có cơ cấu giáo viên môn Giáo dục công dân mà chủ yếu là
giáo viên kiêm nhiệm hoặc giáo viên thuê dạy theo tiết. Điều này làm mất
động lực, hứng thú cho học sinh khi giáo viên không đúng chuyên môn,

không đúng nghiệp vụ đứng lớp.


19
Trong xã hội, phụ huynh vẫn còn tâm lý coi nhẹ môn Giáo dục công
dân. Các bậc phụ huynh chỉ chú trọng đến những môn có tính chất đầu ra",
tơng lai" cho bản thân con em họ mà họ quên mất rằng: Chính môn Giáo dục
công dân với những tri thức về chuẩn mực đạo đức, về lối sống ứng xử giữa
con ngời với con ngời và với xã hội là hành trang cần thiết cho các em vững bớc trên con đờng phát triển nhân cách của mỗi con ngời.
Quan điểm lệch lạc đó dẫn tới tình trạng xem nhẹ, coi thờng môn Giáo
dục công dân. Tâm lý coi thờng, hời hợt, không coi tiết học Giáo dục công
dân đúng nguyên nghĩa của nó trong học sinh cũng là những yếu tố lớn hơn
dẫn tới tình trạng hiện nay một bộ phận lớn học sinh xuống cấp về mặt đạo
đức, chạy theo lối sống thực dụng, không có ớc mơ, hoài bão vì ngày mai lập
nghiệp; sống vô nguyên tắc, vô lễ, hỗn láo với ngời lớn với ông bà và với cả
cha mẹ mình. Những sai lầm đó không đổ lỗi hoàn toàn nhng môn Giáo dục
công dân có một phần trách nhiệm.
Những khuynh hớng xem nhẹ môn Giáo dục công dân sẽ dẫn đến
những sai lầm trong hành động. Thứ nhất: Các cấp lãnh đạo, quản lý không
thật sự chú ý đến việc đào tạo, sử dụng và bồi dỡng đúng đắn giáo viên dạy
học môn Giáo dục công dân. Nói một cách khác, không xây dựng đội ngũ
giáo viên dạy học môn học có tri thức khoa học chuyên ngành vừa có trình độ
nghiệp vụ vững vàng. Trong đội ngũ những ngời dạy học môn học không ít
ngời không đợc đào tạo một cách khoa học, hệ thống; hoặc những giáo viên
kiêm nhiệm" mà môn Giáo dục công dân chỉ là môn học đợc dạy học trái
ngạch", hoặc là có chuyên môn nhất định, nhng lại thiếu trình độ s phạm. Thứ
hai: Trong khi dạy học vẫn còn nhiều giáo viên coi giờ lên lớp chỉ là giờ thời
sự, mang tính chất tuyên truyền, thuyết minh đờng lối cách mạng mà không
chú ý tới tri thức khoa học. Thứ ba: Nhiều trờng Trung học phổ thông không
đảm bảo đầy đủ nội dung chơng trình mang tính pháp lệnh, đáng lẽ đối với

môn Giáo dục công dân điều đó là hết sức cần thiết. Thứ t: Nhà trờng và bản


20
thân giáo viên bộ môn cha thờng xuyên đầu t bồi dỡng, nâng cao trình độ
nhận thức, chuyên môn và nghiệp vụ.
Trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang có những biến đổi mạnh mẽ
và sâu sắc, khi mọi mặt của đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hoá
sâu sắc, đất nớc ta đang có những biến đổi toàn diện thì vị trí của môn Giáo
dục công dân càng trở nên quan trọng, đó là một tất yếu khách quan buộc
chúng ta phải nhận thức đúng đắn và đầy đủ vị trí của nó.
1.2.3. xu hớng đổi mới phơng pháp dạy học phần "Công dân với đạo
đức" ở chơng trình Giáo dục công dân nhằm đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn hiện nay
* Phơng pháp dạy học đặc thù của phần "Công dân với đạo đức"
Dạy học phần Công dân với đạo đức" nói riêng và môn Giáo dục công
dân nói chung không đơn thuần chỉ là hoạt động nhận thức, mặc dù điều này
rất quan trọng, mà còn là hoạt động thực tiễn nhằm hiện thực hoá nhận thức lý
luận về đạo đức của cả ngời dạy và ngời học. Đây là đặc điểm đặc biệt quan
trọng của dạy học môn Giáo dục công dân so với các môn khác.
Đối tợng của công tác giáo dục đạo đức ở trờng trung học phổ thông là
học sinh THPT. ở lứa tuổi này bắt đầu phát triển về mọi mặt, cho nên có thái
độ xem tri thức môn Giáo dục công dân là giáo huấn về đạo đức, xem nhẹ
tiết học môn Giáo dục công dân. Học sinh học tập môn Giáo dục công dân
vừa là đối tợng của giáo dục, tức là đối tợng tiếp nhận kiến thức, tiếp nhận sự
giáo dục, vừa là chủ thể của quá trình giáo dục về mặt nhân cách con ngời.
Mục đích của phần Công dân với đạo đức ở chơng trình Giáo dục công dân
là chuẩn bị hành trang lối sống, ứng xử, tác phong của con ngời văn hoá, văn
minh. Công tác dạy học môn Giáo dục công dân nói chung và phần Công dân
với đạo đức nói riêng phải: tuân thủ các nguyên tắc của lý luận dạy học,

nguyên tắc dạy học môn Giáo dục công dân; đồng thời phải biết vận dụng lý


21
luận đó vào dạy học cho phù hợp với đối tợng, yêu cầu, nhiệm vụ hình thành
phẩm chất đạo đức của học sinh.
Phơng pháp dạy học phần Công dân với đạo đức ở chơng trình Giáo
dục công dân ở trờng THPT là quá trình xử lý, chuyển giao thông tin khoa học
của giáo viên và quá trình thu nhận, xử lý thông tin khoa học của học sinh về
quan hệ của con ngời đối với tự nhiên, xã hội và với con ngời trong cộng đồng
trên các lĩnh vực đạo đức; về sự nghiệp xây dựng đất nớc Việt Nam nhằm góp
phần đào tạo con ngời phát triển toàn diện phục vụ cho sự nghiệp đó. Căn cứ
vào mục đích và nội dung của môn học, kết cấu các loại tri thức của nó giáo
viên cần có những phơng pháp giáo dục và giáo dỡng thích hợp. Những
nguyên tắc dạy học, những phơng pháp dạy học không phải là điểm xuất phát
mà là kết quả của sự nghiên cứu nội dung tri thức, đặc điểm tâm sinh lý, trình
độ nhận thức của học sinh, đặc điểm địa phơng của học sinh sinh ra và lớn
lên... Xây dựng và phát triển một phơng pháp dạy học cho môn học phải căn
cứ vào những yếu tố đó. Nhng trong những yếu tố đó mục đích và đối tợng
của môn học giữ vai trò quan trọng nhất. Mỗi môn học có một phơng pháp
dạy học nhất định. Không thể dùng phơng pháp dạy học của môn học này
thay thế cho phơng pháp dạy học của môn học khác, tuy các phơng pháp dạy
học của các môn học có những đặc điểm chung đồng thời ngay cả trong môn
học cũng phải khác nhau, tuỳ theo từng độ tuổi, cấp học khác nhau. Nói một
cách khác, quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh là một quá
trình s phạm, vận động theo các quy luật của t duy.
Quá trình nhận thức, tiếp nhận và xử lý thông tin khoa học của học sinh
phải tuân theo các quy luật nhận thức, nếu sự chuyển giao thông tin của giáo
viên phù hợp với quy luật t duy của học sinh thì việc tiếp nhận và xử lý thông
tin của học sinh sẽ có hiệu quả và ngợc lại, hoặc là đạt đợc hiệu quả không

cao. Mặt khác, sự tiếp nhận và xử lý thông tin khoa học của học sinh còn phụ
thuộc vào tâm lý của họ, sự chuyển giao thông tin của giáo viên phù hợp với
quy luật tâm lý do tâm lý học nghiên cứu sẽ làm cho học sinh tiếp nhận và xử


22
lý thông tin tốt hơn, đầy đủ hơn, chính xác hơn. Trong quá trình xử lý và
chuyển giao thông tin giáo viên còn phải dựa trên các phơng pháp nhận thức
khoa học. Tri thức khoa học là yếu tố tinh thần của khoa học đợc biểu thị dới
dạng lý luận có hệ thống, theo một kết cấu lôgic chặt chẽ, trong đó phản ánh
những quy luật khách quan, những mối liên hệ và quan hệ có tính quy luật tự
nhiên, xã hội và t duy. Việc nhận thức các tri thức khoa học nhất thiết phải có
phơng pháp. Phơng pháp nhận thức khoa học trớc hết giúp cho giáo viên xử lý
chính xác các thông tin về tri thức khoa học của bộ môn. Mặt khác, tìm ra
cách thức chuyển giao thông tin đó một cách hiệu quả nhất. Không những thế,
khi tiếp nhận những thông tin khoa học học sinh không chỉ tiếp nhận thông tin
tri thức khoa học, mà còn tiếp nhận cả cách xử lý thông tin khoa học của giáo
viên. Nh vậy, song song với việc thu nhận tri thức khoa học bộ môn, học sinh
từng bớc thu nhận cả phơng pháp nhận thức và hành động. Điều này sẽ giúp
cho học sinh sau khi tốt nghiệp THPT có thể sử dụng vào cuộc sống tơng lai
của bản thân họ.
Hiện nay, đất nớc ta đang tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập,
trong nền kinh tế tri thức bên cạnh những thuận lợi còn có nhiều khó khăn,
tình hình đó đòi hỏi phải tăng cờng và đẩy mạnh mẽ công tác giáo dục đạo
đức hình thành nhân cách tốt đẹp cho những chủ nhân tơng lai của đất nớc. Vì
vậy, đối với bộ môn Giáo dục công dân và phần "Công dân với đạo đức" ở lớp
10 Trung học phổ thông yêu cầu đặt ra là phải đẩy mạnh cải tiến phơng pháp
dạy học. Điều này đòi hỏi đội ngũ giáo viên dạy học môn Giáo dục công dân
phải nắm vững nguyên tắc, lý luận dạy học, phơng pháp dạy học của khoa học
giáo dục. Đồng thời, nắm vững đặc điểm môn học và đối tợng học sinh. Đối

với giáo viên, bất cứ ai, bất kỳ làm việc gì phải hiểu biết về nghề nghiệp
chuyên môn, bao gồm tri thức chuyên sâu và nghiệp vụ. Để tạo ra một sản
phẩm cần có quy trình công nghệ, dạy học là một nghề hơn nữa là một nghề
tạo ra những sản phẩm là con ngời với biết bao quan hệ đa dạng, phức tạp. Do
đó, giáo viên không thể không có tri thức và nghiệp vụ nhất định. Trình độ


23
nghiệp vụ không phải tự nhiên mà có. Nó đợc hình thành, phát triển trên cơ sở
những tri thức do nhà trờng s phạm trang bị, hoặc do kinh nghiệm dạy học lâu
năm đa lại, nhờ tri thức đã đợc thu nhận đợc trong cuộc sống, trình độ nghiệp
vụ chỉ có thể do phơng pháp dạy học bộ môn cung cấp và đợc rèn luyện trong
quá trình học tập và công tác. Với sự hiểu biết sâu sắc về tri thức khoa học của
bộ môn, với khả năng nắm bắt nhanh nhạy, linh hoạt thực tế đa dạng đời sống
xã hội với nghiệp vụ s phạm cao giáo viên sẽ vận dụng các phơng pháp dạy
học để tác động phù hợp với đối tợng học sinh nhằm đem lại hiệu quả cao cho
công tác giáo dục, giáo dỡng. Đồng thời, nắm vững đặc điểm môn học và đối
tợng học sinh, cùng với vật chất cụ thể để vận dụng đổi mới phơng pháp dạy
học góp phần đa công tác giáo dục đạo đức đạt hiệu quả cao trong thực tiễn.
* Xu hớng đổi mới phơng pháp dạy học phần Công dân với đạo đức ở
chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT
Những năm gần đây ngành Giáo dục và Đào tạo đã tập trung nỗ lực vào
thực hiện mục đích và nhiệm vụ đổi mới phơng pháp dạy học nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trên con đờng chiếm lĩnh tri
thức. Để giải quyết đợc vấn đề đó, ngành Giáo dục và Đào tạo đã đa ra nhiều
biện pháp đồng bộ, trong đó một trong những vấn đề quan trọng là đổi mới
phơng pháp dạy học hớng vào việc khơi dậy rèn luyện và phát triển khả năng
độc lập tự chủ, năng động, sáng tạo cho học sinh ngay trong quá trình học tập
của nhà trờng. Học sinh bằng hoạt động tự lực, tích cực của mình, dần tiến tới
chiếm lĩnh tri thức. Trớc yêu cầu đổi mới phơng pháp dạy học, nhiều giáo viên

có tâm huyết với nghề đã và đang đổi mới cách dạy, áp dụng các phơng pháp
dạy học mới nhằm nâng cao, phát huy tính tích cực của học sinh. Đối với phần
Công dân với đạo đức ở chơng trình Giáo dục công dân lớp 10 THPT, yếu
tố quyết định phơng pháp dạy học là nội dung của môn học, đặc điểm tâm
sinh lý lứa tuổi. Chức năng của môn Giáo dục công dân là trang bị cho học
sinh một hệ thống kiến thức cơ bản làm nền tảng cho nhận thức, hành động và
khả năng vận dụng những kiến thức đó vào cuộc sống.


24
Trải qua quá trình phát triển của lịch sử giáo dục, nhân loại đã sáng tạo
nên một hệ thống phơng pháp giáo dục, hệ thống đó ngày càng hoàn chỉnh, trở
thành cộng cụ sắc bén trong sự nghiệp đào tạo con ngời. Hệ thống phơng pháp
đó đợc chúng ta gọi là phơng pháp dạy học truyền thống vì nó đã trải qua
quá trình thử thách của lịch sử, nó đã có quá trình biến đổi, phát triển lâu dài
đạt trình độ hoàn thiện từ kinh nghiệm đã đợc kết tinh, chắt lọc... và trở thành
một hệ thống lý luận. Phơng pháp dạy học môn Giáo dục công dân dựa trên cơ
sở vận dụng phơng pháp luận mác xít nói chung, lý luận dạy học và phơng
pháp dạy học các môn khoa học xã hội nói riêng (kết quả của việc vận dụng
phơng pháp mácxít) để giải quyết những yêu cầu do quá trình dạy học môn
học đề ra.
Phơng pháp dạy học môn Giáo dục công dân phải quán triệt nguyên tắc
tính khoa học, tính Đảng, tính chiến đấu và tính thực tiễn. Các nguyên tắc này
đợc thể hiện trong nội dung kiến thức và cả trong phơng pháp dạy học, xuyên
suốt toàn bộ quá trình dạy học và đợc thể hiện cụ thể trong mỗi hoạt động của
giáo viên và học sinh. Là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, giáo dục
nói chung, phơng pháp dạy học nói riêng cũng thờng xuyên biến đổi, phát
triển cùng với sự biến đổi, phát triển của xã hội, tồn tại xã hội. Cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ diễn ra vào những thập niên cuối thế kỷ XX, bớc
vào thế kỷ XXI có những bớc phát triển kỳ diệu tác động mạnh mẽ đến mọi

lĩnh vực trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Sự phát triển của
khoa học và cộng nghệ vừa đòi hỏi sự đổi mới của nền giáo dục vừa tạo điều
kiện cho sự đổi mới đó, giáo dục phải đổi mới cả nội dung và phơng pháp.
Hệ thống phơng pháp dạy học truyền thống không còn đáp ứng đợc yêu
cầu đổi mới của sự nghiệp giáo dục hiện đại. Do đó, bản thân nó cũng phải tự
đổi mới, phải hiện đại hoá. Đồng thời với sự hiện đại hoá của phơng pháp
truyền thống xuất hiện phơng pháp dạy học hiện đại, mà nội dung cơ bản của
nó là lấy ngời học làm trung tâm, phát huy cao nhất năng lực tự học, vai trò
chủ động, tích cực của ngời học. Đối với bộ môn Giáo dục công dân trên cơ sở


25
kế thừa những yếu tố tích cực của phơng pháp dạy học truyền thống kết hợp
với nhóm phơng pháp dạy học hiện đại có sử dụng yếu tố khoa học kỹ thuật
vào bài giảng đã làm tăng hiệu quả giáo dục rõ rệt.
Phần Công dân với đạo đức có đặc thù là giáo dục, rèn luyện nhân
cách cho học sinh cho nên hầu hết giáo viên khi tiến hành dạy học thì phơng
pháp thuyết trình vẫn là phơng pháp chủ đạo. Nếu giáo viên không biết kết
hợp một cách linh hoạt, nhuần nhuyễn với các nhóm phơng pháp dạy học khác
thì sẽ tạo ra tâm lý mệt mỏi cho ngời học. Lối truyền thụ kiến thức một chiều,
thầy truyền đạt, trò tiếp nhận ghi nhớ làm cho giờ học buồn tẻ, học sinh ngồi
nghe, tiếp thu một cách thụ động. Rõ ràng với cách dạy nh vậy không phát
huy đợc tính tích cực học tập của học sinh, vì vậy mà kết quả học tập cha cao.
Đổi mới phơng pháp dạy học là đòi hỏi là yêu cầu cấp thiết. Giáo viên bộ môn
Giáo dục công dân đã và đang thực hiện những bớc đổi mới có tính đột phá.
Học sinh là ngời chủ động, là trung tâm của quá trình giáo dục còn giáo viên
với vai trò là ngời hớng dẫn học sinh trên con đờng chiếm lĩnh tri thức. Phơng
pháp giáo dục lồng ghép, nêu gơng đợc vận dụng một cách triệt để trong dạy
học môn Giáo dục công dân nói chung và phần "Công dân với đạo đức" nói
riêng. Hởng ứng cuộc vân động Học tập và làm việc theo tấm gơng đạo đức

Hồ Chí Minh đã tạo đợc động lực thi đua trong giáo viên và học sinh. Bên
cạnh phát huy những phơng pháp dạy học truyền thống giáo viên môn Giáo
dục công dân còn biết kết hợp với nhóm phơng pháp dạy học tích cực nh đàm
thoại, nêu vấn đề, thảo luận, dự án, xêmina... đã tạo đợc hứng thú cho học
sinh, tạo đợc sự sinh động" trong môn học từ lâu đợc coi là môn học khô
khan", buồn tẻ.
Đổi mới phơng pháp dạy học nói chung, phơng pháp dạy học phần
Công dân với đạo đức ở chơng trình Giáo dục công dân nói riêng đã đạt đợc
nhiều kết quả khả quan. Là kết quả của sự quan tâm của Nhà nớc, ngành Giáo
dục và Đào tạo đối với bộ môn, là động lực thúc đẩy giáo viên trên con đờng


×