Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy môn chính trị ở trường cao đẳng kinh tế kỹ thuật miền nam thành phố hồ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.73 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐINH CAO TÍN

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
TRONG DẠY MÔN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
KINH TẾ - KỸ THUẬT MIỀN NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

TP. HỒ CHÍ MINH THÁNG 8 NĂM 2012

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

ĐINH CAO TÍN

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
TRONG DẠY MÔN CHÍNH TRỊ Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
KINH TẾ - KỸ THUẬT MIỀN NAM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH: LL & PPDH BỘ MÔN CHÍNH TRỊ
Mã số: 60. 14. 10
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đăng Bằng


TP. HỒ CHÍ MINH THÁNG 8 NĂM 2012

Mục lục
2


Trang
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

4

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

8

5.Phương pháp nghiên cứu

8

6. Giả thuyết khoa học


8

7. Đóng góp của đề tài

9

8. Bố cục của luận văn

9

Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương

10

pháp dạy học tích cực trong dạy môn chính trị tại trường Cao
đẳng kinh tế - kỹ thuật Miền Nam,Thành phố Hồ Chí Minh
1.1. Cơ sở lý luận của phương pháp dạy học tích cực môn chính trị

10

1.2. Cơ sở thực tiễn của phương pháp dạy học tích cực môn chính trị

27

Kết luận chương 1

40

Chương 2: Thực nghiệm phương pháp dạy học tích cực vào dạy


41

môn chính trị tại trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Miền Nam,
Thành phố Hồ Chí Minh.
2.1. Kế hoạch thực nghiệm phương pháp dạy học tích cực môn chính

41

trị tại trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Miền Nam
2.2. Nội dung thực nghiệm việc vận dụng phương pháp dạy học tích

42

cực môn chính trị tại trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Miền Nam.
Kết luận chương 2

68

Chương 3: Quy trình và giải pháp vận dụng phương pháp dạy

70

học tích cực môn chính trị tại trường Cao đẳng kinh tế - kỹ
3


thuật Miền Nam, Tp Hồ Chí Minh
3.1. Quy trình để thực hiện việc vận dụng phương pháp dạy học tích


70

cực vào dạy môn chính trị
3.2. Một số giải pháp vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào

83

dạy môn chính trị
Kết luận chương 3

89

Kết luận

90

Danh mục tài liệu tham khảo

91

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

4


BCH TW

:

Ban Chấp hành Trung ương


CNH, HĐH

:

công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNTT

:

Công nghệ thông tin

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

HS

:

Học sinh

KH&CN

:

Khoa học và công nghệ


PPDH

:

Phương pháp dạy học

QTDH

:

Quá trình dạy học

SGK

:

Sách giáo khoa

SGV

:

Sách giáo viên

TCH

:

Toàn cầu hoá


XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

5


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề cấp bách đạt ra hiện nay. Điều
này có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng nhằm hướng tới mục tiêu giáo dục toàn diện để tạo ra
những con người mới đáp ứng được những yêu cầu của xã hội hiện đại.
Toàn ngành giáo dục và đào tạo đang tích cực thực hiện chủ trương đổi
mới phương pháp dạy học với mục tiêu: “ Đổi mới và hiện đại hoá phương pháp
giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động, thầy giảng trò ghi sang
hướng dẫn người học chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho
người học phương pháp tự học, tăng cường tính chủ động, tự chủ của HS, sinh
viên trong quá trình học tập.”
Quán triệt tư tưởng đó, những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực đang được áp
dụng một cách rộng rãi. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay, việc vận dụng
các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học môn chính trị còn nhiều hạn
chế và chất lượng giảng dạy chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của thời đại
mới.
Trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật Miền Nam đã tiến hành đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh; sau 4 năm

thực hiện đã thu được nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó
6


khăn, vướng mắc. Một bộ phận giáo viên chưa chịu khó cải tiến phương pháp
dạy học, vẫn còn hiện tượng "đọc chép" trong các giờ dạy; phương pháp chủ yếu
vẫn là diễn giảng, thuyết trình. Giáo viên làm việc quá nhiều. Học sinh chưa
mạnh dạn trình bày quan điểm của mình, chưa thật sự chủ động sáng tạo trong
quá trình tiếp nhận kiến thức. Vì vậy cần đổi mới phương pháp dạy học phù hợp
với đặc trưng môn chính trị. Quá trình dạy học cần phát huy tính tích cực, tự
giác chủ động, bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng hợp tác trong tập thể,
vận dụng kiến thức triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học và
pháp luật vào cuộc sống, tác động đến tình cảm, đem lại cho các em niềm vui,
sự yêu thích qua từng tiết học, từng bài học...từ đó góp phần hình thành nhân
cách của mỗi học sinh. Vì những lý do nêu trên, tôi chọn nội dung: Vận dụng
phương pháp dạy học tích cực trong dạy môn chính trị ở trường cao đẳng
kinh tế kỹ thuật Miền Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. Làm đề tài luận văn cao
học thạc sỹ khoa học giáo dục
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Để góp phần thực hiện chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn
2001–2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định
201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001 về phương pháp đã đề ra: "...Chuyển từ
việc truyền đạt tri thức thụ động, thầy giảng trò ghi sang hướng dẫn người học
chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức; dạy cho người học phương
pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách hệ thống và có tư duy phân tích,
tổng hợp và phát triển được năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ
động, tính tự chủ của học sinh, sinh viên... ".
Vận dụng các phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh vào thực tiễn dạy học với mục đích lấy người học làm trung tâm là một
vấn đề luôn được các nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu, liên quan đến đề tài có

thể chia thành các nhóm vấn đề sau:
- Nhóm vấn đề về lý luận chung về phương pháp dạy học có những bài viết
của các tác giả như: Lê Nguyên Long với công trình: "thử đi tìm những phương
pháp dạy học hiệu quả" NXB Giáo dục, năm 1999. Nội dung của công trình
nghiên cứu những vấn đề lý luận dạy học, phương pháp dạy học và nêu lên hệ
7


thống các phương pháp dạy học. Thái Duy Tuyên với công trình:"những vấn đề
cơ bản giáo dục học hiện đại" NXB Giáo dục, năm 1999. trong công trình này,
tác giả đã khái quát về phương pháp dạy học và nêu ra những quan điểm về
phân loại phương pháp dạy học. Tác giả phân tích xu thế phát triển các phương
pháp dạy học. Song, các vấn đề về định hướng và một số giải pháp đổi mới
phương pháp dạy học chưa được đề cập.“Dạy học và đổi mới”, của thạc sĩ
Nguyễn Việt Bắc-phó hiệu trưởng trường Đại học Sài Gòn; tác giả nêu lên một
triết lý như :có rất nhiều phương pháp dạy học,nên sử dụng phương pháp nào
khiến người học có mức độ lưu giữ kiến thức cao nhất,tạo lập cho người học
khả năng sáng tạo,tư duy độc lập, phê phán, khả năng hợp tác, thích ứng với
cuộc sống phát triển đầy biến động. “Đổi mới nội dung chương trình đào tạo là
nền tảng của việc đổi mới phương pháp giảng dạy” của tiến sĩ Nguyễn Khắc
Hùng.Tại Hội thảo khoa học đổi mới phương pháp giảng dạy năm học 2008 –
2009. Bài viết chỉ ra rằng: Trước khi đổi mới phương pháp giảng dạy, nhất
thiết phải đổi mới nội dung chương trình đào tạo.“Mối liên hệ giữa phương
pháp dạy học tích cực với phương tiện hiện đại” Thạc sĩ Hồ Thị Hương –giáo
viên khoa nhà nước pháp luật.Tại hội thảo khoa học của trường chính trị Nghệ
An, tác giả chỉ ra nguyên nhân và cách phối kết hợp giữa phương pháp tích cực
và phương tiện hiện đại nhằm đạt kết quả cao trong quá trình giảng dạy.
Phương pháp giảng dạy các bộ môn lý luận chính trị đã là một đề tài
nghiên cứu khoa học xã hội cấp Nhà nước, do GS.TS Nguyễn Hữu Vui làm chủ
nhiệm đề tài đã được nghiệm thu. Điều đó nói lên phương pháp không tách rời

nội dung và đổi mới phương pháp cũng là vấn đề khó khăn không kém so với
đổi mới nội dung.
- Nhóm những vấn đề cụ thể như:Trong Tạp chí Lý luận chính trị, số 72002, TS. Nguyễn Lương Bằng trong bài viết "Đổi mới phương pháp giảng dạy
lý luận Mác-Lênin ở các trường đại học hiện nay", đã cho rằng: "Mỗi phương
pháp giảng dạy đều có giới hạn của mình, ngoài giới hạn ấy phải áp dụng
phương pháp khác, phải tìm cách sử dụng mọi phương pháp cho đúng chỗ. Các
phương pháp có tính độc lập tương đối, chúng liên hệ với nhau, bổ sung cho
nhau và chỉ trong sự thống nhất với nhau chúng mới tìm thấy "sức mạnh" của
8


mình...” Tác giả Phạm Thị Duyên có bài viết “Nâng cao chất lượng giảng dạy
các môn học lý luận chính trị ở trường Cao đẳng sư phạm Vĩnh Phúc”.(Theo
www.caodangvinhphuc.edu.vn ngày 02/4/2010). Từ thực tế việc giảng dạy tác
giả nêu lên các giải pháp về đổi mới phương pháp giáo dục các môn lý luận
chính trị.Thạc sĩ Phạm Thạch Hoàng với bài viết “Một vài ý kiến đóng góp về
đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị ở bậc Đại học,Cao đẳng hiện
nay”.
Tác giả Nguyễn Kỳ, có bài viết “ Biến quá trình dạy học thành quá trình tự
học”. Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 3/1996, đã nêu lên thực chất của giảng
dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm.
Phạm Văn Đồng, “Phương pháp dạy học tích cực một phương pháp vô
cùng quý báu”. Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 271/2004, tác giả đã chỉ ra
phương pháp dạy học tích cực là phương pháp người học phải đưa ra các câu hỏi
có tính khêu gợi đòi hỏi người nghe phải suy nghỉ tìm tòi để người học tự học và
ham học
Các công trình, các bài viết trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau
của việc đổi mới PPDH theo hướng vận dụng các PPDH tích cực vào quá trình
dạy học cả về mặt lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay,
chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống và

cụ thể về việc vận dụng các PPDH tích cực vào giảng dạy môn chính trị cho học
sinh, sinh viên tại các trường trung cấp và cao đẳng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Vận dụng tốt một số phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất
lượng dạy học môn chính trị ở trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Miền Nam,
Tp.Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, trong quá trình thực hiện đề tài cần giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng phương pháp giảng
dạy tích cực
9


- Đánh giá thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong
quá trình giảng dạy môn chính trị cho học sinh ở trường trung cấp chuyên
nghiệp.
- Thực nghiệm giảng dạy bằng phương pháp dạy học tích cực ở trường
Cao đẳng kinh tế kỹ thuật Miền Nam,quận Gò Vấp,Tp.Hồ Chí Minh; nhằm kiểm
chứng tính khoa học của phương pháp dạy học tích cực.
- Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực thực hiện việc giảng dạy môn chính
trị ở các trường trung cấp chuyên nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh bằng
phương pháp dạy học tích cực.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu phương pháp dạy học tích cực môn chính trị ở Cao đẳng kinh
tế -kỹ thuật Miền Nam, thành phố Hồ Chí Minh
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ nội dung, bản chất của phương pháp dạy học tích

cực môn chính trị và vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực để nâng
cao chất lượng dạy học môn chính trị tại trường cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Miền
Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp sau đây :
- Phương pháp lý luận chung
- Phương pháp cụ thể:
+Phương pháp thực nghiệm sư phạm
+ Phương pháp phân tích
+ Phương pháp tổng hợp
+ Phương pháp quan sát
6. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình dạy học môn chính trị tại trường Cao đẳng kinh tế - kỹ
thuật Miền Nam, Thành phố Hồ Chí Minh nếu ta sử dụng phương pháp dạy học
nhóm sẽ giúp cho học sinh lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, tích cực và
sáng tạo. Điều đó sẽ tạo ra những giờ học đạt hiệu quả cao và nếu có các giải
10


pháp luôn luôn khả thi để vận dụng tốt phương pháp này sẽ nâng cao được chất
lượng dạy học môn giáo chính trị tại trường.
7. Đóng góp của đề tài
- Đóng góp cho nhà trường: Khi nghiên cứu đề tài đạt hiệu quả sẽ phục
vụ cho việc làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong thực tiễn công tác giáo dục
môn chính trị cho học sinh Trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Miền Nam,
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đóng góp cho ngành: Trong quá trình nghiên cứu phân tích và rút ra kết
luận khả thi; đề tài sẽ góp phần hoàn thiện lý luận khoa học giáo dục về vận
dụng phương pháp dạy học tích cực môn chính trị; nâng cao hiệu quả hoạt động
học tập môn chính trị tại các trường trung cấp chuyên nghiệp tại thành phố Hồ

Chí Minh.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1- Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp
dạy học tích cực trong dạy môn chính trị tại trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật
Miền Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 2- Thực nghiệm việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực
vào dạy môn chính trị Trường Cao đẳng kinh tế kỹ thuật Miền Nam, Thành phố
Phố Hồ Chí Minh.
Chương 3 – Quy trình và giải pháp vận dụng phương pháp dạy học tích
cực trong dạy học môn chính trị tại trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật Miền
Nam, Thành phố Hồ Chí Minh.

11


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG DẠY MÔN CHÍNH TRỊ
TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT MIỀN NAM,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1 Cơ sở lý luận của phương pháp dạy học tích cực môn chính trị
1.1.1

Phương pháp dạy học tích cực và những đặc trưng của

phương pháp dạy học tích cực

1.1.1.1

Khái niệm phương pháp dạy học tích cực

Phương pháp dạy học tích cực, hiện đại xuất hiện ở các nước phương tây
(ở Mỹ, ở Pháp...) từ đầu thế kỷ XX và được phát triển mạnh từ nửa sau thế kỷ
này, có ảnh hưởng sâu rộng đến các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Đó là cách thức dạy học theo lối phát huy tính tích cực chủ động của người học.
Vì thế, người ta thường gọi phương pháp này là PPDH tích cực. "Phương pháp
tích cực để chỉ những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động
sáng tạo của người học. Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hóa,
tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào phát huy
tính tích cực của người học chứ không là tập trung vào người dạy"[18; tr.1].
Theo tác giả Lê Thị Nhung Tuyết: "Phương pháp dạy học tích cực là sự
kết hợp những yếu tố tích cực của các phương pháp dạy học cụ thể, nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học trong quá trình học tập và
chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của giáo viên"[24; tr.12].
Như vậy, phương pháp dạy học tích cực là phương pháp hướng tới việc
hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập
trung vào phát huy tính tích cực của người học, chứ không phải là tập trung vào
phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp
tích cực thì giảng viên phải nỗ lực nhiều hơn so với dạy theo phương pháp thụ
động.
Phương pháp dạy học tích cực là những phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực
12


hóa nhận thức của người học; nhằm bồi dưỡng, phát huy năng lực tự học sáng
tạo của người học; kết hợp quá trình dạy học với quá trình tự học, nghiên cứu

khoa học và hoạt động thực tiễn.
1.1.1.2

Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực

+ Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp lấy người học làm trung tâm
Phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm là dạy học hướng vào
người học, căn cứ vào người học, tập trung vào người học; tức là nhấn mạnh vai
trò của người học trong quá trình dạy học, khác với cách tiếp cận truyền thống
lâu nay là nhấn mạnh vai trò của người dạy. Vì vậy, nếu người học không tự
giác chủ động, không có phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất
hạn chế. Khi đã coi trọng vai trò của người học, thì phải phát huy tính tích cực,
chủ động của người học.
+ Phương pháp dạy học tích cực dựa trên việc tổ chức các hoạt động học tập của
người học
Trong PPDH tích cực, người học phải được cuốn hút vào các hoạt động
học tập do giảng viên tổ chức và chỉ đạo, qua đó người học tự lực khám phá,
trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách
suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức, kỹ năng mới, vừa nắm được phương pháp "tìm ra" kiến thức, kỹ năng đó. Dạy học theo cách này thì giảng viên
không chỉ giản đơn truyền thụ tri thức, mà còn hướng dẫn cách học cho sinh
viên.
+ Phương pháp dạy học tích cực chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Đối với PPDH tích cực, việc rèn luyện phương pháp học tập cho SV
không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học, mà còn là một mục tiêu
dạy học.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học thì
sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết
quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt
hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập

thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay từ trong trường
13


phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp, mà tự học cả trong tiết học có
sự hướng dẫn của GV.
+ Phương pháp dạy học tích cực nhằm tăng cường học tập cá thể, phối hợp với
học tập hợp tác
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của sinh viên không thể
đồng đều, khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực buộc phải chấp nhận sự
phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, vì vậy, cần cá thể
hóa hoạt động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi sinh viên.
Tuy nhiên, trong học tập không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường
giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên
con đường chiếm lĩnh tri thức trong quá trình học tập. Thông qua thảo luận,
tranh luận trong tập thể, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới cao
hơn.
+ Phương pháp dạy học tích cực có sự kết hợp đánh giá của người dạy với tự
đánh giá, tự điều chỉnh của người học
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh, sinh viên không chỉ nhằm mục
đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò, mà còn đồng thời
tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây, người dạy giữ độc quyền đánh giá người học. Trong PPDH tích
cực, người dạy phải hướng dẫn người học phát triển kỹ năng tự đánh giá để tự
điều chỉnh cách học. Liên quan đến điều này, giảng viên cần tạo điều kiện thuận
lợi để sinh viên được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều
chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần thiết cho sự thành đạt trong cuộc
sống mà nhà trường phải trang bị cho sinh viên.
1.1.2 Một số phương pháp dạy học tích cực có thể vận dụng trong dạy học
môn chính trị

1.1.2.1 Phương pháp nêu vấn đề
- Quan niệm về phương pháp nêu vấn đề
Thực ra, quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm có mầm móng ngay
từ thời cổ đại nhưng mãi cho đến đầu thế kỷ XX mới được phát triển. Nếu như
14


trong dạy học truyền thống, lấy giáo viên làm trung tâm thì trong phương pháp
dạy học hiện nay vai trò của người học được coi trọng, giáo viên chính là người
gợi mở đưa học sinh vào tình huống có vấn đề và tự mình giải quyết vấn đề trên
cơ sở sự hướng dẫn của giáo viên. Dạy học nêu vấn đề xuất phát từ luận điểm
cho rằng: con người chỉ tích cực tư duy khi ở vào hoàn cảnh có vấn đề nảy sinh,
khi con người phát hiện cái mâu thuẩn của lý luận hay thực tế mà tư duy cũ
không giải quyết được một cách tốt nhất.
Đây là thành tựu mới nhất của lý luận dạy học hiện đại, đây là phương
pháp dạy học tìm tòi được đề cao trong thời gian gần đây, tư tưởng cơ bản của
phương pháp dạy học này là đưa quá trình học tập của học sinh gần hơn với quá
trình tìm tòi phát hiện khám phá của chính các nhà khoa học. Tư tưởng ấy được
lý giải bằng quan điểm cho rằng dạy học tìm tòi không có gì khác hơn là đưa
người học vào chính cuộc tìm tòi có hiệu quả như chính các nhà khoa học có
nghĩa là phương pháp dạy học nêu vấn đề sẽ kích thích nhu cầu thu nhận tri thức
của bản thân người học, từng bước hình thành và phát triển năng lực tư duy
khoa học độc lập, sáng tạo, biết tự mình đặt ra và giải quyết vấn đề thực tiễn của
cuộc sống.
Socrate: đã từng nêu lên khẩu hiệu "anh phải tự biết lấy mình" phương
pháp này được gọi là phương pháp Xôcrát nhằm mục đích phát hiện "chân lý"
bằng cách đặt câu hỏi để gợi cho người nghe dần dần tìm ra kết luận mà ông dẫn
người ta [7; 59]; hay Khổng Tử thì cho rằng: "không tức giận vì muốn biết thì
không gợi mở cho, không bực vì không rõ được thì không trình bày vẽ cho”
[7;60];"phải để học sinh chạy trước mà nhận xét" chứ không bắt buộc trẻ em

phải nhắm mắt theo những nhận định chủ quan của người thầy giáo”[7;60]
Để góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh một
trong những yếu tố quan trọng nhất là phương pháp dạy học. Có thể cùng một
nội dung học sinh học tập có tích cực, có hứng thú, có để lại những dấu ấn sâu
sắc và khơi dậy tình cảm lành mạnh trong tâm hồn các em hay không? Phần lớn
phụ thuộc vào phương pháp dạy học của từng giáo viên.
Qua đó ta thấy rằng, phương pháp dạy học nêu vấn đề trong dạy học không
chỉ nhằm mục đích truyền thụ tri thức mới cho người học mà còn thông qua đó
15


xây dựng phương pháp tư duy khoa học, hình thành và phát triển thói quen,
năng lực nắm bắt những thành tựu mới của khoa học và vận dụng chúng vào
thực tiễn.
Thực chất của kiểu dạy học nêu vấn đề là tạo ra một chuỗi tình huống có
vấn đề và điều kiện hoạt động của học sinh nhằm giúp học sinh độc lập giải
quyết các vấn đề trong học tập.
Như vậy, dạy học nêu vấn đề là hoạt động có chủ đích của người giáo viên
bằng cách đặt vấn đề học tập và tạo ra các tình huống có vấn đề, hướng dẫn học
sinh học tập, tạo điều kiện cho việc lĩnh hội tri thức và cách hành động mới,
hình thành năng lực sáng tạo của học sinh.
Vấn đề nêu ra trong giảng dạy và học tập có thể là một câu hỏi, một luận đề
phải chứng minh, lý giải hay bác bỏ. Vấn đề bao giờ cũng đòi hỏi giải quyết.
Vấn đề học tập đặt ra khi giảng bài, tọa đàm khi học sinh nghiên cứu sách giáo
khoa.
Dạy học nêu vấn đề có một số đặc trưng cơ bản sau:
+ Tình huống có vấn đề.
Theo thuyết thông minh: Tình huống có vấn đề là trạng thái của chủ thể có
một độ bất định nào đó trước lựa chọn một giải quyết trong nhiều giải pháp có
thể có nhưng chưa biết cái nào trong số đó sẽ xuất hiện; M.AMachinski coi tình

huống có vấn đề là một dạng đặc biệt của sự tác động qua lại của chủ thể và
khách thể, được đặc trưng bởi một trạng thái tâm lí xuất hiện ở chủ thể trong khi
giải quyết một bài toán mà việc giải quyết vấn đề đó lại cần đến tri thức mới,
cách thức hành động mới chưa hề biết trước đó.
Qua đó ta thấy rằng, tình huống có vấn đề là trạng thái tâm lí độc đáo của
học sinh khi gặp phải chướng ngại nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm và có
nhu cầu giải quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước mà
bằng sự tìm tòi, sáng tạo tích cực, đầy hưng phấn đầu tiên và khi tới đích thì lĩnh
hội được phương pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của sự phát triển.
+ Tình huống học tập:
Ý tưởng học tập và ghi nhớ được thay thế bởi ý tướng hoạt động và thể
nghiệm của học sinh trong những tình huống giáo dục, được mô tả càng chi tiết
16


càng tốt trong khuôn mẫu của nội dung dạy học. Hoạt động là một mặt quan
trọng của việc triển khai chương trình. Ở đó chương trình được dùng trực tiếp
như một công cụ giảng dạy. Hoạt động học tập được tiến hành trong tình huống
giáo dục hoặc học tập cần được kế hoạch hóa trong chương trình, trong đơn vị
giảng dạy ứng với một mục tiêu xác định, tình huống học tập gồm những thành
phần sau :
- Nội dung của môn học.
- Tình huống khởi đầu.
- Hoạt động của học sinh trong việc giải quyết vấn đề được đặt ra.
- Kết quả hoạt động.
- Đánh giá kết quả.
Như vậy, tình huống có vấn đề hay tình huống học tập là trạng thái tâm lý
xuất hiện khi con người gặp phải tình huống khó giải quyết, mà bằng tri thức đã
có, bằng cách thức đã biết không thực hiện được và thế phải lĩnh hội tri thức mới
và cách hành động mới. Nó tóm lại tình huống có vấn đề hay tình huống học tập

là trạng thái tâm lý khi học sinh gặp mâu thuẫn giữa những điều đã biết và
những điều chưa biết nhưng lại muốn biết.
Tuy nhiên để có thể nêu vấn đề, giáo viên phải nắm vững bản chất của vấn
đề, nắm vững nội dung bài học. Nếu không như vậy, giáo viên chỉ có thể nêu ra
câu hỏi mà học sinh chỉ cần đọc sách giáo khoa là có thể trả lời một cách dễ
dàng, không đòi hỏi phải có hoạt động tư duy. Dạy học nêu vấn đề không phải là
như vậy.
Vậy, yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề và giải
quyết vấn đề trong môn học đòi hỏi giáo viên phải tiến hành các bước sau:
- Đặt vấn đề: Giáo viên nêu vấn đề cần giải quyết cho cả lớp hoặc cho
từng nhóm nhỏ; học sinh phát hiện, nhận dạng vấn đề cần giải quyết.
- Giải quyết vấn đề: Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, học sinh tiến hành
nghiên cứu, tìm hiểu, đặt ra các chứng cứ, số liệu… để giải quyết vấn đề được
giao, tìm ra các giải pháp khác nhau để giải quyết vấn đề và lựa chọn giải pháp
tối ưu nhất, cho kết quả tốt nhất.
17


- Kết luận vấn đề: Giáo viên tổ chức cho học sinh, cho các nhóm trình bày
kết quả của vấn đề đã được làm rõ, cả lớp cùng thảo luận kết quả và đánh giá kết
quả của từng cá nhân hay của cả nhóm, kết luận vấn đề đã được giải quyết và đề
xuất vấn đề mới.
Trong hướng dẫn dạy học, sách giáo viên môn học đã nêu 4 mức trình độ
của phương pháp đặt và giải quyết vấn đề như sau:
GV đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giải
quyết vấn đề theo hướng dẫn của GV. GV đánh giá kết quả làm việc của HS.
GV nêu vấn đề, gợi ý để HS tìm ra cách giải quyết vấn đề. HS thực hiện
cách giải quyết vấn đề với sự giúp đỡ của GV khi cần. GV và HS cùng đánh giá.
GV cung cấp thông tin tạo tình huống có vấn đề. HS phát hiện và xác định
vấn đề nảy sinh, tự lực đề xuất các giải thuyết và lựa chọn giải pháp. HS thực

hiện cách giải quyết vấn đề. GV và HS cùng đánh giá.
HS tự lực phát hiện vấn đề nãy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc của
cộng đồng, lựa chọn vấn đề phải giải quyết. HS giải quyết vấn đề, tự đánh giá
chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung của GV khi kết thúc [24;15]Quá trình
nghiên cứu và thử nghiệm, chúng tôi nhận thấy tùy theo nội dung bài học và
trình độ HS, GV có thể vận dụng phương pháp dạy học này theo các mức độ đã
nêu trên cho phù hợp. Tuy nhiên, khi vận dụng, cho dù ở mức độ nào thì GV
luôn phải có sự chuẩn bị chu đáo, tỉnh táo trước các tình huống và cảm xúc của
HS khi trả lời các câu hỏi, khi giải quyết các vấn đề.
Vận dụng phương pháp đặt và giải quyết vấn đề vào dạy học môn học cần
lưu ý một số điểm như sau:
Vấn đề nêu ra phải phù hợp với mục tiêu chương trình, mục tiêu bài học,
tiết học và gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với trình độ HS, huy động được
vốn sống, kiến thức của HS.
Phải phát huy được sự suy nghĩ sáng tạo của người học.
Cách giải quyết vấn đề phải là giải pháp tốt nhất, giải quyết vấn đề có hiệu
quả nhất.
Khi vận dụng cần kết hợp với các phương pháp dạy học khác như: thuyết
trình, đàm thoại....
18


1.1.1.2

Phương pháp vấn đáp (Đàm thoại)

Phương pháp vấn đáp là phương pháp dạy học trong đó giáo viên đặt ra
những câu hỏi để học sinh trả lời hoặc để học sinh tranh luận với nhau và với cả
giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học và là một trong những
phương pháp được nhiều GV áp dụng ở nhiều môn học khác nhau và trong dạy

học môn chính trị.
“Phương pháp vấn đáp là quá trình tương tác giữa người dạy với người
học, được thực hiện thông qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng về một
chủ đề nhất định được người dạy và người học đặt ra. Kết quả là dưới sự dẫn dắt
của người dạy, người học thể hiện được suy nghĩ, ý tưởng của mình; khám phá
và lĩnh hội được đối tượng học tập’’[16;209]Như vậy, phương pháp vấn đáp
(đàm thoại) là một kĩ thuật dạy học của GV, dựa vào những hiểu biết sẵn có của
HS, đặt ra một hệ thống câu hỏi gợi mở, kích thích tư duy để HS trả lời, tranh
luận với nhau và với cả GV, liên tưởng giữa điều biết với thực tiễn, hình thành ở
HS những ý tưởng mới, đề xuất cách giải quyết những mâu thuẫn để HS lĩnh hội
nội dung bài học, hiểu được các vấn đề về triết học, đạo đức, kinh tế, các chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam và các kiến thức về pháp luật.
Căn cứ vào tính chất của hoạt động nhận thức có thể phân loại ba phương
pháp vấn đáp cơ bản như sau:
Vấn đáp tái hiện: Đó là khi GV đặt ra những câu hỏi chỉ yêu cầu HS nhớ lại
kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận, không mất nhiều
thời gian, các câu hỏi thường không khó hiểu, HS không phải chuẩn bị trước ở
nhà, những kiến thức đó đã có sẵn trong trí óc, HS chỉ cần tái hiện lại và trả lời
theo yêu cầu của câu hỏi.
Vấn đáp giải thích - minh hoạ: Thực chất đây là hình thức nhằm mục đích
làm sáng tỏ một nội dung vấn đề nào đó trong bài học, GV nêu những câu hỏi
kèm theo những ví dụ minh họa để HS dễ hiểu, dễ nhớ cho người học. Phương
pháp này đặc biệt sẽ phát huy được hiệu quả cao khi có sự hổ trợ của các
phương tiện nghe nhìn .
Vấn đáp tìm tòi: Là khi GV dùng một hệ thống câu hỏi để hướng dẫn HS
từng bước phát hiện những nội dung của bài học, những quy luật, bản chất của
19


vấn đề đang nghiên cứu, tìm hiểu. Với phương pháp này GV là người tổ chức,

hướng dẫn để HS tự lực phát hiện kiến thức mới và qua đó rèn luyện các kỹ
năng trong nhận thức.
Để áp dụng phương pháp vấn đáp, GV cần tổ chức cho HS học tập theo các
bước như sau:
GV nêu câu hỏi cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc cho từng nhóm để HS
suy nghĩ.
GV khích lệ HS phát biểu và đóng góp ý kiến.
GV hoặc lớp trưởng liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu của các thành viên
trong lớp lên bảng hoặc trên tờ giấy khổ lớn (A0, A3, A4…) không loại trừ một
ý kiến nào kể cả các ý kiến chưa chính xác trừ trường hợp trùng lặp, hoặc cho
HS trả lời vào phiếu học tập.
Phân loại các ý kiến HS đã trả lời.
Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và khẳng định những ý kiến đúng
đắn.
GV tổng hợp ý kiến của HS và tạo điều kiện cho HS bổ sung ý kiến hoặc
nêu các thắc mắc của mình nếu chưa hiểu vấn đề.
Một số lưu ý khi sử dụng phương pháp vấn đáp trong dạy học môn chính
trị:
Phương pháp vấn đáp (đàm thoại) có thể vận dụng để lý giải những vấn
đề trong phần triết học, đạo đức, pháp luật, các chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước, song đặc biệt phù hợp với các vấn đề ít nhiều đã quen thuộc
trong đời sống thực tế của HS và vận dụng các kiến thức liên môn đã được học
qua các môn học khác nhau, các kiến thức ở các phần, các bài đã học trước đó.
Khi sử dụng phương pháp này, câu hỏi nêu lên phải rõ ràng, bám sát nội
dung, mục tiêu của bài học, phần học.
Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn.
Tất cả các ý kiến đều cần được GV hoan nghênh, chấp nhận.
GV nên nhấn mạnh kết quả sự tham gia chung của HS sau mỗi phần, mỗi
nội dung để động viên, khuyến khích sự nhiệt tình của HS trong học tập.
20



Trong quá trình dạy học, việc phân loại 3 phương pháp vấn đáp chỉ là
tương đối, mang tính lý thuyết, quá trình thực hiện tùy theo nội dung bài học các
câu hỏi vấn đáp có thể được thực hiện đan xen với nhau nhằm hướng tới mục
tiêu bài dạy học.
1.1.1.3

Phương pháp thảo luận nhóm

“Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học mà trong đó nhóm
lớn (lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong
lớp đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung
của nhóm mình về vấn đề đó, [18;223]
Khi vận dụng áp dụng phương pháp thảo luận nhóm dạy học GV cần tổ
chức cho HS được trao đổi, tranh luận với nhau về những vấn đề nội dung bài
học, qua đó để đạt được mục đích dạy học.
Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, thảo luận nhóm là
phương pháp được nhiều GV lựa chọn thực hiện, HS hưởng ứng khá nhiệt tình.
Là phương pháp dạy học có nhiều ưu thế trong việc tăng cường học tập của các
cá nhân phối hợp với học tập hợp tác. Qua đó thực hiện cũng thu được kết quả
cao trong việc kích thích tư duy HS, tạo điều kiện để HS thể hiện mình.
Phương pháp thảo luận nhóm có thể tiến hành theo 2 cách là thảo luận lớp
và thảo luận theo nhóm nhỏ. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu chúng tôi chỉ tập
trung làm rõ hình thức thảo luận nhóm nhỏ trong một lớp học.
Dựa vào nội dung bài học, GV chuẩn bị các câu hỏi thảo luận, chia HS theo
nhóm nhỏ từ 5 – 10 em và giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm thảo luận 1 – 2 câu hỏi.
Mọi ý kiến của các thành viên nêu lên trong nhóm phải được bàn bạc thống
nhất. Sau khi thảo luận, mỗi nhóm cử một người lên trình bày kết quả trước cả
lớp. Sau phần trình bày của mỗi nhóm, GV hướng dẫn, điều khiển để cả lớp

được đóng góp ý kiến bổ sung. Hệ thống câu hỏi của các nhóm chính là cấu trúc
nội dung của bài học, hoặc một phần của bài học.
Là một trong những phương pháp dạy học tích cực, phương pháp thảo
luận nhóm nếu được sử dụng rộng rãi sẽ giúp cho HS tham gia một cách chủ
động vào quá trình học tập, khuyến khích tính tích cực ngay cả với những học
sinh rụt rè, nhút nhát trong học tập, tạo cơ hội để các em được tự thể hiện mình,
21


HS có thể chia sẽ kinh nghiệm, ý kiến hay cùng giải quyết một vấn đề, một tình
huống về triết học, đạo đức… trong chương trình môn chính trị bậc trung cấp.
Phương pháp này đòi hỏi người học tích cực động não, cho phép mọi thành viên
trong nhóm được phát huy tối đa khả năng của bản thân trong hoạt động hợp tác,
cộng tác, tương tác với mọi thành viên khác, được tạo mọi điều kiện để tham gia
trực tiếp vào quá trình dạy học, được thể hiện quan điểm của mình.
Áp dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn chính trị cần phải
theo các bước sau:
GV giới thiệu chủ đề cần thảo luận và nêu các câu hỏi có liên quan đến
chủ đề, thời gian thảo luận.
GV chia số HS của lớp thành các nhóm, chỉ định hoặc yêu cầu các nhóm
bầu nhóm trưởng, thư ký. GV giao nhiệm vụ để các nhóm tiến hành thảo luận và
yêu cầu ghi kết quả thảo luận của nhóm ra giấy khổ lớn, bảng phụ, bản trong
hoặc phiếu học tập.
GV tổ chức cho các nhóm tiến hành thảo luận các nội dung đã được giao
trong thời gian quy định.
Cử đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận trước lớp. Các nhóm khác
lắng nghe, chất vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
Giáo viên tổng kết các ý kiến.
Đây là một phương pháp dạy học khó, mới được đưa vào dạy học trong các
trường phổ thông, quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn do trong một lớp học

trình độ của các nhóm khác nhau, khi vận dụng chiếm nhiều thời gian của tiết
học, vì vậy, đòi hỏi GV phải có kinh nghiệm trong việc tổ chức dạy học. Khi
vận dụng phương pháp thảo luận nhóm cần lưu ý:
Đưa ra câu hỏi thảo luận phải sát với nội dung bài học và phù hợp với trình
độ HS, không được thảo luận khái niệm, định nghĩa hay những nội dung đã
được trả lời đầy đủ trong SGK.
Cách chia nhóm phải hết sức linh hoạt, luôn thay đổi để tạo điều kiện cho
mỗi HS được giao lưu với tất cả HS trong lớp học chứ không phải chỉ là một số
người cố định trong lớp.
22


GV luôn theo dõi, giám sát việc thảo luận của học sinh. Cần khích lệ mọi
HS cùng tham gia đóng góp ý kiến, không được chê bai một ý kiến nào.
Kết quả thảo luận của các nhóm phải được trình bày trên bảng hoặc treo
xung quanh tường lớp học để HS có cơ hội quan sát, ghi nhớ những điều mỗi em
cần biết.
Các “Nhóm trưởng”, “Thư kí” ở các nhóm cần được thay đổi luân phiên
để mọi HS đều được rèn luyện các kĩ năng cần thiết.
Chỉ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm ở những phần có nội dung khó,
trọng tâm của bài học, chiếm nhiều thời gian của tiết dạy học.
1.2 Cơ sở thực tiễn của phương pháp dạy học tích cực môn chính trị
1.2.1 Vai trò môn chính trị trong hệ thống giáo dục bậc trung cấp
Môn chính trị ở bậc trung cấp chuyên nghiệp đã góp phần thực hiện mục
tiêu cấp học, cụ thể là thừa kế và phát triển kết quả giáo dục đạo đức ở tiểu học,
Giáo dục công dân ở trường trung học cơ sở và giáo dục công dân ở trung học
phổ thông đã trang bị cho học sinh những giá trị tốt đẹp cho dân tộc, tiếp thu có
chọn lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại và thời đại. Đồng thời, trang bị
cho học sinh một thế giới quan, phương pháp luận khoa học đúng đắn để nhận
biết, giải thích và giải quyết những vấn đề trong cuộc sống thường ngày, nâng

cao ý thức, trách nhiệm về quyền và nghiã vụ của mỗi công dân trong thời đại
mới. Đó là điều kiện cần thiết giúp học sinh có khả năng hội nhập vào cuộc sống
chung của nhân loại.
Trong giai đoạn hiện nay, sự phát triển kinh tế xã hội của thế giới ngày
càng trở nên mạnh mẽ. Để có thể tồn tại và đáp ứng yêu cầu ngày một cao của
sự phát triển đó, đòi hỏi người lao động hiện tại và trong tương lai phải có một
trình độ toàn diện ở múc độ cao. Vấn đề chất lượng nguồn lao động đang trở
thành một yêu cầu bức thiết với các nước đang phát triển, các nước chậm phát
triển nói chung và cũng là một thách thức đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.Thông qua lịch sử chúng ta thấy đất nước Nhật Bản, một đất nước mà thế
giới biết đến nghèo nàn về tài nguyên, bị kiệt huệ sau chiến tranh nhưng lại có
một sự phát triển đáng kinh ngạc mà thế giới gọi đó là một sự "phát triển thần
kỳ". Sở dĩ Nhật Bản lại có sự phát triển nhanh đến như vậy chính là nhờ có một
23


chiến lược giáo dục, chiến lược khai thác nguồn lực con người. Việt Nam muốn
tiến kịp Nhật Bản, muốn tiến kịp trình độ phát triển của thế giới thì phải khai
thác nguồn lực của con người-tài nguyên vô tận, yếu tố quyết định tốc độ phát
triển kinh tế xã hội đều là hết sức quan trọng.
Tâm lực - thể lực - trí lực, là ba yếu tố chủ yếu của con người.Bộ môn
chính trị trong trường cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp là một môn khoa
học xã hội và nhân văn, hoạt động giáo dục tâm lực là cơ bản có ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển nhân cách của học sinh và chiến lược phát triển con
người toàn diện, hài hòa.
Giáo dục tâm lực tức là giáo dục các phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị,
lối sống, giáo dục các yếu tố tâm lý như ý chí, nghị lực, tư duy sáng tạo, năng
động, là sự giáo dục về mặt tâm hồn, hướng một cuộc sống tinh thần lạc quan,
hòa nhập với cộng đồng. Thông qua đó giúp học sinh biết cách điều chỉnh được
cuộc sống cá nhân hướng tới cuộc sống lành mạnh.

Trong hoạt động giáo dục, giáo dục tâm lực là điều kiện cho sự phát triển
thể lực và là cơ sở cho sự phát triển năng lực hoạt đông trí tuệ, năng lực hoạt
động giao tiếp, ứng xử, lao động hoạt động xã hội, thích ứng với điệu kiện mới.
Có thể nói trong giai đoạn hiện nay phát triển toàn diện và bền vững nguồn
nhân lực có vai trò quan trong đối với sự phát triển của đất nước ta và luôn luôn
được Đảng và nhà nước xác định rằng trong các văn kiện, nghị quyết đại hội của
Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của đảng đã khẳng định:''nâng cao
trình độ dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt
Nam, là nhân tố quyết định thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa"
Tiếp theo trong đai hội IX của Đảng cũng đã chỉ rõ mục tiêu trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội trong những năm đầu thế kỉ XXI: đưa nước ta khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trơ thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết
cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh được tăng cường, thể chế kinh
24


tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành cơ bản, vị trí nước ta
trên đường quốc tế được năng cao.
Để thực hiện được mục tiêu đó, phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ hàng
đầu và là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn
hiện nay. Đồng thời, phải hướng đến việc xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện, xây đựng đội ngũ những người lao động có phẩm chất và năng
lực ngày càng cao và có cơ cấu hợp lý.
Môn chính trị bậc trung cấp chuyên nghiệp ở nhà trường cao đẳng và trung
cấp góp phần quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển toàn diện, nhiệm
vụ của các môn học nói chung và môn chính trị nói riêng là giáo dục cho học
sinh một hệ thống tri thức khoa học theo quy định của chương trình và động

viên học sinh vận dụng tri thức của môn học đã được giáo dục vào đời sống thực
tế.
Chính vì vậy, vai trò của môn chính trị bậc trung cấp tại trường Cao đẳng
Kinh tế - Kỹ thuật Miền Nam còn thể hiện trước hết ở vấn đề nhận thức tức là
trang bị cho học sinh niềm tin vào chân lí khoa học. Một tình trạng rất dể nhận
thấy hiện nay trong xã hội, bênh cạnh những xu hướng này đang xoá bỏ một
cách không thương tiếc những nguyên lý, giá trị mà học sinh được học trong
trường cao đẳng trung cấp hiện nay, khiến chúng ta không khỏi lo ngại. Xét về
mặt hành động, môn chính trị thể hiện ở việc: kích thích người học đấu tranh vì
đạo đức,chân lý khoa học, chính trị biến tri thức đạo đức, chính trị hành động
theo tri thức đã được giáo dục vào hoạt động thực tiễn.
Mỗi con người - mỗi công dân với tư cách là chủ thể trong đời sống xã hội,
đời sống cộng đồng. Vì vậy, họ là những người phải có khả năng tự ý thức, tự
đánh giá, tự khẳng định mình, tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình, tự chịu
trách nhiệm trước những hành vi của chính mình và hơn thế nữa là tự nhận thức
mình trong hiện tại, tương lai. Vai trò của môn chính trị bậc trung cấp còn thể
hiện ở việc cung cấp cho học sinh những chuẩn mực đạo đức và pháp luật, đáp
ứng được những yêu cầu về mặt phẩm chất và năng lực theo đòi hỏi của xã hội
một cách có hệ thống, phù hợp với lứa tuổi và nhận thức của học sinh, đồng thời
trang bị cho học sinh phương pháp luận để tư duy và hành động trong các quan
25


×