Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và chức năng của đoạn văn trong truyện ngắn nguyễn khải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.74 KB, 101 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

Cao thị kim anh

Tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và chức năng của đoạn văn
trong truyện ngắn nguyễn khải

Luận văn thạc sỹ ngữ văn

Vinh 2004


Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

--------o0o--------

Cao Thị Kim Anh

Tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và chức năng
Của đoạn văn trong truyện ngắn nguyễn khải
Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số
:
5. 04. 08
Luận văn thạc sỹ ngữ văn
Ngời hớng dẫn khoa học:
PGS-TS Phan Mậu Cảnh
Vinh 2004


Lời nói đầu
Nguyễn Khải là nhà văn nhiều tài năng, thờng có mặt ở vị trí hàng đầu của
đời sống văn học. Với sức lao động bền bỉ, khả năng sáng tạo dồi dào, một phong

2


cách độc đáo, lối viết trí tuệ giàu tính triết lí, khả năng phân tích tâm lí sắc sảo
Nguyễn Khải đã để lại dấu ấn của mình trên từng trang viết và trong lòng độc giả.
Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Khải đã dành công sức và tâm huyết
rất lớn cho thể loại truyện ngắn vì thế ở mảng này có một sức hấp dẫn đặc biệt, thu
hút nhiều sự chú ý từ giới nghiên cứu, phê bình văn học. ở đề tài này chúng tôi cũng
đi tìm hiểu truyện ngắn của ông nhng dới một góc độ mới hơn - góc độ ngôn ngữ:
Đặc điểm cấu tạo và chức năng đoạn văn trong truyện ngắn Nguyễn Khải với
mong muốn làm rõ đặc trng của đơn vị này và qua đó hiểu thêm những nét riêng
trong phong cách của ông ở thể loại truyện ngắn.
ở đề tài này, bản thân ngời nghiên cứu đã hết sức cố gắng nhng vì thời gian
có hạn và những hạn chế chủ quan nên không tránh khỏi những khiếm khuyết.
Chúng tôi mong nhận đợc sự góp ý và chỉ bảo để khắc phục trong nghiên cứu khoa
học.
Nhân dịp này, chúng tôi xin đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGSTS Phan Mậu Cảnh- ngời trực tiếp hớng dẫn tận tình, cảm ơn các thầy, cô giáo đã
trực tiếp giảng dạy, các bạn bè đồng nghiệp đã góp ý, động viên để chúng tôi hoàn
thành luận văn này.

Vinh, tháng 12 năm 2004

Tác
giả
Cao Thị Kim
Anh


3


Mục lục
Mở đầu

Trang

1. Lý do chọn đề tài

4

2. Lịch sử vấn đề

4

3. Đối tợng và nhiệm vụ nghiên cứu

6

4. Phơng pháp nghiên cứu

7

5. Cấu trúc luận văn

7

Chơng I: Những giới thuyết chung


8

1. Vài nét về tác giả và tác phẩm của Nguyễn Khải

8

2. Đoạn văn và việc phân loại đoạn văn trong truyện ngắn

14

3.Tiểu kết

34

Chơng II: Các kiểu đoạn văn xét về cấu tạo trong truyện ngắn Nguyễn Khải

35

1. Khảo sát các kiểu đoạn văn về cấu tạo trong truyện ngắn Nguyễn Khải

35

2. Nhận xét các kiểu đoạn văn về cấu tạo trong truyện ngắn Nguyễn Khải

56

3. Tiểu kết

61


Chơng III: Các kiểu đoạn văn xét về chức năng trong truyện ngắn Nguyễn Khải

64

1. Khảo sát các kiểu đoạn văn chức năng trong truyện ngắn Nguyễn Khải

64

2. Nhận xét các kiểu đoạn văn chức năng trong truyện ngắn Nguyễn Khải

88

3. Tiểu kết

93

Kết luận

94

Tài liệu tham khảo

98

4


Mở Đầu
1. Lý DO CHọN Đề TàI


Nguyễn Khải là gơng mặt văn xuôi tiêu biểu, sắc sảo, đa dạng, ông thờng
có mặt ở vị trí hàng đầu trong đời sống văn học. Nguyễn Khải thuộc số ít nhà văn
sớm xác định cho mình một quan điểm độc đáo về nghệ thuật, về vai trò của văn
học và trách nhiệm của ngời cầm bút. Với sức viết dẻo dai, bền bỉ, khả năng sáng
tạo dồi dào, ông đã để lại dấu ấn của mình trên từng trang viết và trong lòng độc
giả. Nói đến Nguyễn Khải ngời ta thờng nói đến một nhà văn hiện thực với phong
cách mang tính triết lí sắc sảo, có khả năng đi sâu khám phá những bí ẩn của đời
sống và những khía cạnh phức tạp của tâm lí con ngời.
Bên cạnh các thể loại khác, Nguyễn Khải có khoảng 100 truyện ngắn trong
đó có khá nhiều tác phẩm đạt đến trình độ mẫu mực về nội dung và nghệ thuật,
đạt đợc những giải thởng cao trong các cuộc thi của Hội Văn nghệ Việt Nam.
Đặc biệt truyện ngắn Mùa lạc của ông đã đợc đa vào giảng dạy ở một vị trí
quan trọng trong chơng trình PTTH. Truyện ngắn của ông thực sự đã vợt qua thử
thách của thời gian, thẩm định của công chúng độc giả và sẽ còn có ý nghĩa đến
nhiều thế hệ mai sau. Vì thế tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Khải là một vấn đề
cần thiết đem lại nhiều lợi ích trong công tác nghiên cứu và giảng dạy.
Với đề tài Tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và chức năng của đoạn văn trong
truyện ngắn Nguyễn Khải chúng tôi mong muốn góp phần làm rõ sự độc đáo
trong quan điểm nghệ thuật của ông qua cách xây dựng đoạn văn. Đồng thời góp
thêm một phần vào công việc giảng dạy môn làm văn, rèn luyện khả năng sử
dụng tiếng Việt đợc tốt hơn và có thể bình giá, thẩm định đoạn văn trong truyện
ngắn nói chung và đoạn văn trong truyện ngắn Nguyễn Khải nói riêng đợc chính
xác và có căn cứ khoa học hơn.
2. LịCH Sử VấN Đề

Theo dõi những công trình bàn về thể loại truyện ngắn của Nguyễn Khải từ
trớc đến nay, chúng tôi nhận thấy tác phẩm của ông thu hút đợc khá nhiều bài
nghiên cứu theo những hớng khác nhau.


5


Hớng nghiên cứu chung các sáng tác của Nguyễn Khải bao gồm: tiểu
thuyết, truyện vừa, kịch, tạp văn trong đó có cả truyện ngắn. ở hớng này có
những bài viết tiêu biểu sau:
Đặc điểm ngòi bút hiện thực của Nguyễn Khải của tác giả Chu Nga (Tạp
chí văn học số 2.1974); Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải
trích chơng XV sách Văn học Việt Nam 1954 - 1975 tập II - Nhà xuất bản Giáo
dục, H, 1990; ở bài Cảm nhận về con ngời trong sáng tác của Nguyễn Khải
những năm gần đây của Nguyễn Thị Hụê (Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt
Nam, tháng 10 - 1999); Thế giới nhân vật của Nguyễn Khải trong cảm hứng
nghiên cứu phân tích của Đào Thủy Nguyên (Tạp chí Văn học, số 11, 2001) và
một số bài nghiên cứu của tác giả khác. Điểm chung của những bài viết này là thờng nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Khải dới góc độ lý luận văn học. Chúng tôi
trích dẫn một vài nhận xét sau: ở Nguyễn Khải nổi bật lên khuynh hớng văn
xuôi hiện thực tỉnh táo giàu yếu tố chính luận và tính thời sự. Cách viết của
Nguyễn Khải nói chung là linh hoạt, năng động không bị gò bó, phụ thuộc nhiều
vào khuôn mẫu sẵn có.[17]
Hớng nghiên cứu riêng về thể loại truyện ngắn của Nguyễn Khải:
Hớng này cũng có một số bài nghiên cứu và cũng chỉ dừng lại ở góc độ lý
luận văn học. Có thể kể tên những bài viết sau: Giọng điệu trần thuật trong
truyện ngắn Nguyễn Khải của Bích Thu(Tạp chí Văn học, số 10,1997); Hay ở
mục riêng dành cho truyện ngắn trong bài nghiên cứu Đọc truyện ngắn và tạp
văn của Nguyễn Khải của Nguyễn Hữu Sơn (Báo Nhân dân,1999). Và một số
bài nghiên cứu các truyện ngắn cụ thể nh: Mùa lạc của Hà Minh Đức (Bình
giảng và Phân tích, Nhà xuất bản Văn học Hà Nội,2001); Mùa lạc một thành
công mới của Nguyễn Khải của tác giả Nguyễn Thành Duy (Tạp chí nghiên cứu
Văn học, số6,1961); Phơng pháp tìm tòi của Nguyễn Khải qua tập Mùa lạc
của Nh Phong (Bình luận Văn học, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Hà Nội,1977).
Chẳng hạn có tác giả nhận xét về truyện ngắn Nguyễn Khải nh sau: Văn

Nguyễn Khải không màu mè, không thiên về tả trời mây non nớc. Bắt đầu vào
trang viết là gặp ngay nhân vật, biến cố , sự kiện theo đó là sữ giăng sắc suy t-

6


ởng, ký ức, cảnh ngộ, những lẽ đời, lòng mình và lòng ngời. Văn ông vì thế thật
giàu chiêm nghiệm sự lịch lãm trải đời.[36]
Tuy cha hẳn có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ toàn diện
về truyện ngắn của Nguyễn Khải, đặc biệt ở phơng diện ngôn ngữ. Song qua các
bài viết trên, chúng tôi nhận thấy tác phẩm của ông đã thu hút đợc khá nhiều nhà
nghiên cứu và họ đã nhận ra những nét đặc sắc, độc đáo trong các sáng tác của
ông nói chung và truyện ngắn nói riêng. Trên cơ sở đánh giá của những ngời đi
trớc, chúng tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu thêm về truyện ngắn Nguyễn Khải
để góp một tiếng nói cụ thể khẳng định tài năng của ông trong thể loại này. Cụ
thể là Tìm hiểu đặc điểm cấu tạo và chức năng đoạn văn trong truyện ngắn
Nguyễn Khải.
3. Đối tợng và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1

. Đối tợng nghiên cứu

Trên cơ sở vận dụng các kiến thức lý thuyết ngôn ngữ, lý luận văn học,
chúng tôi tập trung nghiên cứu đặc điểm đoạn văn ở 25 truyện ngắn tiêu biểu rút
trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải nhà xuất bản Hội nhà văn 2002
bao gồm các truyện sau:
1. Mùa lạc
14. Sống giữa đám đông
2. Tầm nhìn xa

15. Nơi về
3. Hai ông già ở Đồng Tháp Mời
16. Những ngời già
4. Nắng chiều
17. Mẹ và bà ngoại
5. Một ngời Hà Nội
18. Thầy Minh
6. Đời khổ
19. Ông cháu
7. Ngời ngu
20.Lãng tử
8. Luật trời
21.Một bàn tay và chín bàn tay
9. Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức
22.Đàn ông
10. Hậu duệ dòng họ Ngô Thì
23.Đàn bà
11. Chuyện tình của mỗi ngời
24. Chị Mai
12. Anh hùng bĩ vận
25. S già Chùa Thắm và ông đại tá về hu
13. Đổi đời

7


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Có nhiều vấn đề đặt ra cần tìm hiểu về đoạn văn, nhng trong khuôn khổ
luận văn này, chúng tôi xác định nhiệm vụ giới hạn khảo sát đoạn văn vào 2 nội
dung cơ bản:

- Khảo sát, phân tích các đặc điểm về mặt cấu tạo của các loại đoạn văn
trong truyện ngắn Nguyễn Khải. Đồng thời tìm hiểu một số kiểu đoạn văn có
chức năng mở đầu, triển khai, chuyển tiếp, kết thúc trong truyện ngắn của ông.
- Luận văn cũng bớc đầu so sánh đặc điểm đoạn văn trong truyện ngắn
Nguyễn Khải với đoạn văn của một số nhà văn khác cùng thời.
4. PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU

- Phơng pháp thống kê phân loại.
- Phơng pháp phân tích tổng hợp.
- Phơng pháp so sánh đối chiếu.
5. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chơng:
Chơng I: Những giới thuyết chung.
Chơng II: Các kiểu đoạn văn xét về cấu tạo trong truyện ngắn Nguyễn Khải.
Chơng III: Các kiểu đoạn văn xét về chức năng trong truyện ngắn
Nguyễn Khải.

8


Chơng i
Những giới thuyết chung
1. vài nét về tác giả và tác phẩm

1.1 Về tác giả Nguyễn Khải
Nguyễn Khải tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải. Ông sinh ngày 3 tháng 12
năm 1930 tại Hà Nội, trong một gia đình viên chức. Quê nội ông ở phố Hàng Than,
thành phố Nam Định; quê ngoại ở xã Hiếu Nam, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hng Yên.
Theo Nguyễn Khải, ông vốn là "một giọt máu" nhà quan nhng là "giọt

máu rơi" bởi ông là một đứa con thêm bị sỉ nhục, bị bỏ rơi bởi một ông bố thiếu
tình thơng và trách nhiệm. Tuổi thơ của Nguyễn Khải cũng lắm điều cay đắng.
Nhng cuộc đời của ông đã bớc sang một trang mới khi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp bùng nổ. Ông tham gia kháng chiến rồi trở thành một y tá lúc 18
tuổi. Trong thời gian này, ông đã thử viết bài cho tờ "Dân quân Hng Yên". Nhờ
chút năng khiếu ấy, năm 19 tuổi, ông đợc điều lên làm phóng viên cho tờ báo
này. Cũng từ đó, Nguyễn Khải đã đợc nhiều lần cử đi dự các lớp nghiên cứu văn
nghệ, ở đây ông đợc gặp và làm quen nhiều nhà văn lớn nh Nguyễn Tuân, Nam
Cao, Nguyễn Huy Tởng... họ đã trở thành ngời thầy, ngời bạn văn chơng tâm
huyết của ông. Ngời săn sóc, động viên, chỉ bảo trên từng trang viết cho ông
trong những ngày chập chững vào nghề đó là nhà văn Nguyễn Tuân. Năm 26 tuổi
Nguyễn Khải đợc điều về công tác tại tổng cục chính trị (sau 1956 là tạp chí Văn
nghệ Quân đội). Liên tục trong hai năm (1957 - 1958) ông lần lợt đa in các tập
trong phần đầu của tiểu thuyết "Xung đột" - một tác phẩm đợc đánh giá cao. Với
tác phẩm này, Nguyễn Khải "bắt đầu ý thức về chức năng ngời cầm bút và thật sự
bớc vào con đờng viết truyện".
Nguyễn Khải trở thành hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957 1989), là uỷ viên BCH rồi uỷ viên thờng vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1985 và
năm 1988 ông nhận giải thởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 2000 nhận giải
thởng văn học ASEAN. Đặc biệt ngày 1 - 9 - 2000 Nguyễn Khải đã đợc phong

9


tặng giải thởng Hồ Chí Minh (đợt II) cho chùm tác phẩm "Gặp gỡ cuối năm,
Xung đột, Cha và con và ...".
Cho đến bây giờ Nguyễn Khải vẫn tâm niệm và bày tỏ lòng biết ơn sâu xa
đối với cách mạng (trong hồi ký và tự truyện của ông) "Nếu không có cách mạng
thì mãi hắn sẽ bị ám ảnh là một đứa trẻ bị ruồng bỏ... chỉ xứng đáng có một thân
phận hèn mọn. Chính cách mạnh đã cho hắn có lòng tự tin, biết lãng mạn, biết
mộng mơ và biết xây đắp chí hớng". Và Nguyễn Khải không những đã vơn lên,

khẳng định mình mà còn để lại danh tiếng của mình cho hậu thế.

1.2 Về tác phẩm và truyện ngắn Nguyễn Khải
1.2.1. Về tác phẩm Nguyễn Khải
Hơn 50 năm cầm bút, với sức lao động bền bỉ Nguyễn Khải đã có một sự
nghiệp văn chơng khá đồ sộ. Ông sáng tác trên nhiều thể loại và ở thể loại nào
cũng để lại dấu ấn của mình trên từng trang viết và trong lòng độc giả. Có thể
phân chia các sáng tác của ông thành 2 mảng: mảng tác phẩm văn chơng và
mảng văn nghị luận.
- Các tác phẩm văn chơng của Nguyễn Khải bao gồm các thể loại: tiểu
thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, kịch, bút ký, tuỳ bút
Đây là mảng văn chơng chiếm u thế về số lợng và thể hiện rõ nhất phong
cách của Nguyễn Khải - một Chế Lan Viên trong văn xuôi. Tính từ tác phẩm
xuất bản đầu tay của ông là truyện ngắn Ra ngoài ( 1951) cho đến nay với
cuốn tiểu thuyết Thợng Đế thì cời (2004) Nguyễn Khải đã có khoảng: 100
truyện ngắn và truyện vừa, trên 10 cuốn tiểu thuyết, 50 bài bút kí và tùy bút, 10
vở kịch
Có thể kể tên một số tác phẩm xuất sắc và đạt giải cao của ông:
+ Xây dựng: Truyện vừa - giải khuyến khích về truyện và kí 1951 - 1952
của Hội Văn Nghệ Việt Nam.

10


+ Mùa lạc: Truyện ngắn (1959) đã đợc đa vào chơng trình sách giáo khoa
Văn 12.
+ Một cặp vợ chồng: Truyện ngắn - giải nhất cuộc thi truyện ngắn báo Văn
học (1959-1960).
+ Gặp gỡ cuối năm : Tiểu thuyết - giải A, giải thởng về văn xuôi của Hội
Nhà văn Việt Nam.

+ Nhiều tập truyện ngắn giai đoạn 1990-1996: Một ngời Hà Nội; S già
chùa Thắm và ông đại tá về hu; Một thời gió bụi.
+ Đất mỏ: Truyện ngắn nhận giải thởng năm 1996 của báo Văn nghệ Quân đội.
+ Truyện ngắn và tạp văn - giải B, giải thởng Hội Nhà văn Việt Nam 1998.
+ Đàn bà: Truyện ngắn - giải nhất cuộc thi truyện ngắn và ký, giải cây bút
vàng do Bộ nội vụ và Hội Nhà văn Việt Nam đồng tổ chức.
+ Chùm tác phẩm : Gặp gỡ cuối năm, xung đột, cha và con và nhận giải
thởng Hồ Chí Minh năm 2000.
+Thợng Đế thì cời (2004): Tiểu thuyết đang đợc giới nghiên cứu và bạn
đọc quan tâm.
- Mảng văn nghị luận
ở mảng này cũng là một thế mạnh của Nguyễn Khải. Theo thống kê cha
thật đầy đủ thì ông có khoảng trên 100 bài báo, tham luận, báo cáo, các ý kiến,
th ngỏ, trả lời phỏng vấnđợc đăng trên các tờ báo thuộc chuyên ngành văn học
nghệ thuật.
Các ý kiến, các lời đề xuất, các nhận định của ông đợc nhiều ngời đánh giá
cao, đồng tình và ủng hộ. Có thể kể tên một số bài tiêu biểu trong mảng sáng tác này.
+ Nhìn lại những trang viết của mình: bài tham luận trong hội thảo Việt
Nam - nửa thế kỷ văn học (1995).

11


+ Hãy biết cống hiến bạn đọc cái phần mạnh nhất của mình (1998).
1.2.2. Về truyện ngắn Nguyễn Khải
Trong các sáng tác của mình, Nguyễn Khải đã dành công sức và tâm huyết
rất nhiều cho thể loại truyện ngắn. Khoảng 100 truyện ngắn ra đời trong quãng
thời gian hơn 50 năm cầm bút. Trong đó, có nhiều tác phẩm đạt giải cao trong các
cuộc thi viết truyện ngắn hay của Hội nhà văn, có nhiều tác phẩm khi ra đời đã
khơi gợi đợc hứng thú tranh luận, trở thành nơi nơi giao tiếp đối thoại của đông

đảo bạn đọc và giới nghiên cứu. Đặc biệt tác phẩm Mùa lạc của ông đã đợc
nhiều thế hệ bạn đọc biết đến khi đa vào giảng dạy ở trờng PTTH. Truyện ngắn
Nguyễn Khải cũng nh các tác phẩm trong các thể loại khác của ông thờng giàu
tính triết lí. Có những nhận xét, đánh giá đặt ra trong truyện ngắn đã trở thành
những tuyên ngôn về lẽ sống làm cho ngời đọc vỡ lẽ ra đợc nhiều điều. Chẳng
hạn sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hi
sinh, gian khổ, ở đời này không có con đờng cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt
yếu là phải có sức mạnh để bớc qua những ranh giới ấy. (Mùa lạc)
Những điều may mắn ấy không phải đến với ông ngay từ đầu, mà khi bắt
đầu viết truyện ngắn, tác phẩm của ông không mấy thành công, bạn đọc ít chú ý
thậm chí có những tác phẩm sau này Nguyễn Khải nhìn lại cũng thấy non nớt
vô cùng nh truyện ngắn Ra ngoài (1951), Gặp mẹ (1952) Ngời con gái
quang vinh (1956). Khi đó Nguyễn Khải cảm thấy mình không có chút duyên
nào với nghề văn chơng.
Nhng sự kiên nhẫn, bền bỉ của Nguyễn Khải đã mang lại thành công khi
truyện ngắn Nằm vạ và tiểu thuyết Xung đột ra đời (1956). Ông xem đó là bớc khởi nghiệp cho nghề văn của mình.
Rồi các truyện ngắn khác của ông lần lợt ra đời. Có những loạt tác phẩm là
kết quả của những chuyến đi thực tế (Mùa lạc, Đứa con nuôi, Hai ông già ở Đồng
Tháp Mời), có những loạt tác phẩm là những câu chuyện viết về ngời thân bạn
bè của ông (Một ngời Hà Nội, Nắng chiều, Mẹ và bà ngoại), có những tác
phẩm lại phản ánh những vấn đề mang tính thời sự của xã hội (Ngời ngu, Đổi
đời, Anh hùng bĩ vận).

12


Một đặc điểm rất riêng trong truyện ngắn của ông là nhân vật Nguyễn
Khải - chính nhân vật nhà văn luôn thấp thoáng trong mỗi tác phẩm. Nguyễn
Khải viết văn không bao giờ bắt đầu từ sự tởng tợng h cấu về những điều cha
mắt thấy tai nghe, ông chỉ có thể đặt bút viết khi đợc chạm vào ngời, vào việc,

những cảnh ngộ có thật trong cuộc sống. Vì thế các nhân vật, các sự kiệntrong
truyện đều dính líu ít nhiều đến tiểu sử của ông. Đó là những kỉ niệm, những
khao khát, mơ ớc thời trai trẻ, những băn khoăn day dứt vì cuộc sống hôm nay
Tôi chỉ mợn có cái vỏ, cái xác của ngời này ngời kia còn cái hồn phải là của
chính mình. ở cô Đào (Mùa Lạc), cái Tấm (Đứa con nuôi), Hòa (Bố con) đều
có một phần tôi trong đó. Trong truyện ngắn Hai ông già ở Đồng Tháp M ời
phần nào ao ớc của tôi là ông già trởng trạm máy kéo, phần đã có những năm
tháng trải qua là ông già th kí gặp nhiều bất hạnh. Trong Lãng tử, hình ảnh
một anh chàng lãng du, thích sống cuộc đời phiêu lu, tự do, nhàn tản cũng là tôi
nốt nhng là cái tôi của ao ớc, của mộng mơ bởi cuộc sống hàng ngày quá buồn
quá nhạt [1,7]
Truyện ngắn của Nguyễn Khải có một phong cách riêng, không phải bạn
đọc nào cũng thích, nói chung truyện của ông kén ngời đọc. Chỉ ở những ngời a
thích sự tìm tòi, khám phá những bí ẩn của lòng mình lòng ngời và cuộc sống
thì mới cảm thụ tốt tác phẩm của ông. Bởi văn ông thấm đợm chất triết lí, những
chiêm nghiệm về lẽ đời, về thời cuộc hôm nay và hôm qua.

1.3. Những đánh giá về tác phẩm của Nguyễn Khải
Năm 2000, Nguyễn Khải đợc vinh dự nhận giải thởng Hồ Chí Minh (đợt 2)
- giải thởng cao quí nhất đối với giới văn nghệ sĩ. Điều đó đã khẳng định, tôn
vinh vị trí và những kết quả sáng tạo nghệ thuật của ông trong nền văn học nớc
nhà. Các sáng tác của ông kể cả trớc và sau thời kì đất nớc hòa bình luôn nhận đợc sự quan tâm chú ý từ phía bạn đọc và giới nghiên cứu. Các ý kiến đánh giá có
cả khen lẫn chê, nhng dù khen hay chê thì tác phẩm của ông vẫn hấp dẫn ngời
đọc bởi văn của ông có một sự độc đáo không lẫn với ai đợc. Những ý kiến đánh
giá về tác phẩm của Nguyễn Khải xuất hiện ở các ấn phẩm khác nhau: tạp chí
Văn học, tạp chí Ngôn ngữ, báo Văn nghệ Đặc biệt trong cuốn Nguyễn Khải
về tác gia và tác phẩm đã tập hợp tơng đối đầy đủ các bài nghiên cứu, ý kiến phê

13



bình bàn về nội dung t tởng, giá trị nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Khải từ
những năm 60 của thế kỉ XX cho đến nay. Trong lời giới thiệu về tác phẩm, cuốn
sách đã có nhận định khái quát về tác phẩm Nguyễn Khải nh sau: Nguyễn Khải
thờng hớng cho sáng tác của mình thể hiện những mảng hiện thực lớn có ý nghĩa
tiêu biểu cho hiện thực đời sống cách mạng của đất nớc. Tác phẩm của ông thờng gắn với những vấn đề thời sự - chính trị, thờng bám sát những nhiệm vụ cơ
bản của mỗi một giai đoạn cách mạng đồng thời lại đi sâu nghiên cứu, khám phá
những bí ẩn của cuộc sống và những khía cạnh phức tạp của tâm lí con ngời. Thế
giới nhân vật của ông thực sự phong phú, đa dạng. Với cái nhìn sắc sảo, tinh tế
và sự nhạy cảm của một nghệ sĩ, Nguyễn Khải luôn luôn thể hiện trong tác phẩm
những vấn đề của hôm nay và từ đó rút ra những ý nghĩa mang tính triết lí sâu
sắc về cuộc sống con ngời. Tác phẩm của ông vì thế thờng mang tính vấn đề,
giàu tính triết luận [16,5]
Có nhiều nhà nghiên cứu lại đi vào đánh giá những phơng diện khác nh:
phong cách, đề tài, giọng điệu, cốt truyện, ngôn ngữ, nhân vậtĐoàn Trọng Huy
(1990) đã bàn về đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải: ở Nguyễn Khải,
ngời ta thấy nổi bật lên khuynh hớng văn xuôi hiện thực tỉnh táo, giàu yếu tố chính
luận và tính thời sự. ở Nguyễn Khải không bao giờ hoàn toàn chịu sáng tác với ý
đồ minh họa mà lại cảm thụ cuộc sống với một thái độ nghiên cứu, phân tích
nghiêm túc. Tác phẩm của ông vì vậy là một sự nhận thức, một sự khám phá, phát
hiện cuộc sốngCái tạo nên sự hấp dẫn trong tác phẩm của ông là sức thuyết
phục của lí lẽ. Nguyễn Khải không có ý định làm ngời đọc đắm chìm trong cảm
xúc, mê muội đi về tình cảm mà chú ý đánh thức trí tuệ họ. Nên nhiều khi ta có
cảm tởng nh nhân vật Nguyễn Khải chuyên chở một triết lí nhân sinh nào đó. Các
nhân vật thờng hay tranh cãi, lí sự, suy đoán, phán xét, bình luận, bình phẩmVà
nhân vật có mặt trong tác phẩm, quan hệ với nhau cũng bằng lí lẽ. Vì thế nhân vật
Nguyễn Khải dù sắc sảo nhng đôi khi vẫn gây nên cảm giác nặng nề cho ngời đọc.
Nói chung các sáng tác của Nguyễn Khải có quy mô vừa và nhỏ, cách viết linh
hoạt năng động, không bị gò bó, phụ thuộc nhiều vào khuôn mẫu đã có. Kết cấu
truyện kí thờng thờng gây ấn tợng không có kết thúc hoặc kết thúc bỏ ngỏ, nhiều

khi không tránh khỏi sự hụt hẫng cho ngời đọc. Ngôn ngữ Nguyễn Khải giàu chất
sống, chất văn xuôi là ngôn ngữ hiện thực. Đặc biệt là tính chất nhiều giọng. Chữ

14


nghĩa thờng chứa ngầm nhiều ngụ ý và sắc thái khá phong phú. (Văn học Việt
Nam 1945- 1975 tập II nhà xuất bản Giáo dục, H, 1990).
Các tác giả Lại Nguyên Ân, Trần Đình Sử (1983) nhận xét:
"Đề tài nhằm thẳng vào đời sống hiện tại - đó là điều kiện đầu tiên khiến
cho sáng tác của anh có độc giả. Tác phẩm của anh trở thành nơi giao tiếp đối
thoại với bạn đọc, những ngời đang sống cùng thời với tác giả. Cũng viết về đề
tài nh các nhà văn khác nhng sáng tác của Nguyễn Khải có đợc thành công hơn
có lẽ do 2 đặc điểm chính của anh với t cách một nghệ sĩ: cảm hứng nghiên cứu
và sự phân tích tâm lý. Tinh thần nghiên cứu khác hẳn với cảm hứng minh họa...
nó có nội dung nhận thức sắc sảo và đến nay vẫn còn ý nghĩa... Tôi thấy văn
xuôi ở nớc ta có nhiều nhà văn miêu tả tâm lí giỏi, nhng phân tích tâm lí thì ít ai
làm đợc nh anh Khải. Đi trớc anh, về mặt này, có thể chỉ là Nam Cao... Ngôn
ngữ của Nguyễn Khải rất đặc sắc, ngôn ngữ văn xuôi: nó không a nống lên thống
thiết mà thờng pha ngang sang giọng tng tửng, đùa đùa. Thêm nữa là tính chất
nhiều giọng. Cách viết của anh Khải thờng là nói các lí lẽ, ý kiến nhiều hơn là kể
việc và cũng thờng có nguy cơ đơn điệu... Tác phẩm của Nguyễn Khải thờng
không phức tạp về mặt h cấu...(Văn học và Phê bình, nhà xuất bản Tác phẩm
mới, Hà Nội,1994).
Tóm lại: Tác phẩm của Nguyễn Khải giàu chất trí tuệ. Văn phong của ông
tạo nên phong cách giàu tính triết lý. Vì thế có nhiều ngời đồng tình với nhận xét
Nguyễn Khải là một Chế Lan Viên trong văn xuôi.
2. đoạn văn và việc phân loại đoạn văn trong truyện ngắn

2.1 Đoạn văn

Đoạn văn là đơn vị trực tiếp, cùng với câu tạo lập thành văn bản. Khi bàn
tới đơn vị này các nhà ngôn ngữ học cha đi đến một khái niệm thống nhất. Sỡ dĩ
xảy ra điều đó là bởi có sự khác nhau giữa các tiêu chí khi đa ra để nghiên cứu về
đoạn văn.
- Tiêu chí dựa vào hình thức:

15


Đại diện hớng này có Diệp Quang Ban, ông cho rằng Đoạn văn thông thờng đợc hiểu là một phần của văn bản tách từ chỗ viết hoa, thờng lui vào ở đầu
dòng cho đến chỗ chấm xuống dòng. [19,203]
Và trong cuốn Từ điển - sách tra cứu các thuật ngữ ngôn ngữ học do Nhà
xuất bản Giáo dục Liên Xô ấn hành, đoạn văn đợc định nghĩa Là một đoạn của
văn bản viết hoặc in nằm giữa hai chỗ thụt đầu dòng, thờng bao gồm một chỉnh
thể trên câu hoặc một bộ phận của nó, đôi khi bao gồm một câu đơn hoặc một
câu phức. [20,127]
- Tiêu chí dựa vào nội dung:
Giáo trình cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt (Bùi Tất Tơm, Nguyễn Văn
Bằng, Hoàng Xuân Tâm - Nhà xuất bản Giáo dục 1997) quan niệm: Đoạn văn
là một tập hợp nhiều câu thể hiện một chủ đề.
- Tiêu chí dựa vào hình thức và nội dung:
Hớng này có nhiều nhà ngôn ngữ nhất trí. Trần Ngọc Thêm cho rằng
Đoạn văn là một bộ phận của văn bản, gồm một chuỗi phát ngôn đ ợc xây dựng
theo một cấu trúc và mang một nội dung nhất định (đầy đủ hoặc không đầy đủ),
đợc tách ra một cách hoàn chỉnh về hình thức: ở dạng nói, nó có kiểu ngữ điệu
nhất định và kết thúc bằng quãng ngắt hơi dài; ở dạng viết, nó bắt đầu bằng dấu
mở đoạn (gồm thụt đầu dòng, viết hoa) và kết thúc bằng dấu ngắt đoạn (gồm dấu
ngắt phát ngôn). [21]
Theo Phan Mậu Cảnh : Đoạn văn là một bộ phận của văn bản do câu tạo thành
theo một cấu trúc nhất định, biểu thị một nội dung tơng đối độc lập, có hình thức tơng đối rõ ràng.[41, 21]

Trong văn bản nghệ thuật, đoạn văn có biểu hiện rất đa dạng và phức tạp đặc
biệt là về mặt kích thớc và cấu tạo. Việc chia tách đoạn văn ngắn dài khác nhau
nhằm tạo ý nghĩa sắc thái bổ sung có tính chất tu từ học, tức là thông qua việc chia
tách đoạn văn mà đa thêm vào văn bản những ý ngoài lời, những sắc thái ý nghĩa
tình cảm hoặc nhận thức không đợc diễn đạt bằng từ ngữ tờng minh.

16


Trong văn bản nghệ thuật còn có những phần thoại (là lời trao đáp của các
nhân vật và cả lời của tác giả). Trong phần thoại có nhiều đoạn, một lợt lời có dấu
hiệu hình thức nằm giữa hai chỗ ngắt dòng đợc tính là một đoạn. Do đặc thù của
thể loại truyện ngắn nên chúng tôi quan niệm một phần thoại đợc tính là một
đoạn văn dù trong đó có một hay nhiều lợt lời. Trong khuôn khổ luận văn này,
chúng tôi vẫn thống kê phần đoạn nh thế trong tổng số đoạn đợc tính đến ở
truyện ngắn Nguyễn Khải.
Nh vậy, là đơn vị có tính chất trung gian giữa câu và văn bản, đoạn văn có
hình thức xác định (lùi vào trong phần đầu của dòng chữ, ngắt dòng cuối đoạn;
một hoặc tổ hợp câu nằm giữa hai chỗ ngắt dòng), diễn đạt một nội dung nhất
định. Đoạn văn luôn định hớng về đích giao tiếp và quan hệ chặt chẽ với tổng thể
văn bản.
Tóm lại có thể hiểu cách chung nhất về đoạn văn nh sau:
Đoạn văn là một bộ phận của văn bản gồm một câu hoặc một chuỗi
câu đợc xây dựng theo một cấu trúc và mang nội dung nhất định (đầy đủ
hoặc không đầy đủ), đợc tách ra một cách rõ ràng về mặt hình thức.

2.2 Việc phân loại đoạn văn trong truyện ngắn
Truyện ngắn cũng là một loại văn bản - nhng là văn bản nghệ thuật. Vì thế
đoạn văn trong truyện ngắn vừa mang những đặc điểm của loại văn bản nói
chung vừa mang những đặc điểm riêng mà chỉ ở loại văn bản nghệ thuật mới có.

Việc phân loại đoạn văn trong truyện ngắn dựa vào các tiêu chí nh cấu tạo, quan
hệ, chức năng, kiểu lời
2.2.1 Dựa vào cấu tạo: Xét về mặt cấu tạo của bản thân đoạn văn ta có thể
nhận thấy hai kiểu: Đoạn văn bình thờng và đoạn văn đăc biệt.
2.2.1.1 Đoạn văn bình thờng
Là đoạn văn có nội dung tơng đối trọn vẹn và có hình thức tơng đối ổn
định (có từ hai câu trở lên). Đoạn văn bình thờng chiếm số lợng chủ yếu trong thể
loại truyện ngắn.

17


Ví dụ:
Cái nhà anh Hoàng ở nhờ có thể gọi là rộng rãi. Ba gian nhà gạch sạch
sẽ. Hàng hiên rộng ở ngoài, sân gạch, tờng hoa. Một mảnh vờn giồng rau tơi rời
rợi, xinh xắn lắm.
(Đôi mắt - Nam Cao)
Trong đoạn văn bình thờng, các câu có cấu tạo đa dạng : câu phức, câu
đơn, câu đặc biệt (nh đọan văn trên), câu ghép
Giữa các câu trong đoạn văn bình thờng có mối liên hệ chặt chẽ theo những
kiểu cấu trúc nhất định. Xét từ góc độ quan hệ đó ta có thể thấy loại đơn vị ngôn ngữ
này gồm có các kiểu: song hành, móc xích, diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp .
- Đoạn văn song hành
Là đoạn văn mà các câu trong đoạn ngang hàng với nhau về mặt nội dung
và giống nhau về mặt chức năng đều hớng tới bộc lộ một tiểu chủ đề. Đây là
đoạn văn không có câu chủ đề vì thế mỗi câu trong đoạn có độ độc lập khá cao.
Ví dụ:
Lúc ấy, trong nhà đã tối bng, Mị rón rén bớc lại, A Phủ vẫn nhắm mắt,
nhng Mị tởng nh A Phủ đơng biết có ngời bớc lạiMị rút con dao nhỏ cắt lúa,
cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần

đến lúc gỡ đợc hết dây trói ở ngời A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào
đợc một tiếng Đi ngay rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khụy xuống, không bớc
nổi. Nhng trớc cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
(Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
Đây là đoạn văn mà các câu trong đó sắp xếp theo kiểu liệt kê diễn đạt
quan hệ thời gian trớc sau. Các câu trong đoạn văn có vai trò ngang nhau và đều
hớng tới bộc lộ tiểu chủ đề: bằng lòng thơng cảm và khát vọng sống mãnh liệt đã
thôi thúc Mị giải thoát cho A Phủ.

18


Ngoài kiểu liệt kê diễn đạt quan hệ thời gian còn có kiểu liệt kê diễn đạt
quan hệ đồng thời, liên tởng
- Đoạn văn móc xích
Là đoạn văn mà một hoặc một số bộ phận ở câu trớc sẽ đợc lặp lại ở câu
sau. Sự lặp lại đó đợc biểu hiện bằng phép lặp từ hoặc phép thế đại từ. Với kiểu
đoạn này các câu dờng nh móc nối vào nhau, câu sau làm nhiệm vụ phát triển t tởng cho những câu trớc.
Ví dụ:
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi
ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm hoặc xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối,
hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu
cạnh con nớc lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thơng.
Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào nh một trận bão. ở chỗ
vết thơng, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi
dần dần bầm lại, đen và đặc quện lại thành từng cục máu lớn.
(Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành)
Cũng nh đoạn văn song hành, đoạn văn móc xích không có câu chủ đề.
Các câu ở đoạn văn trên móc nối với nhau bằng các phép thế, phép lặp. Câu sau
triển khai ý, bổ sung hoặc giải thích ý cho câu trớc và đều hớng tới bộc lộ tiểu

chủ đề: sức sống tràn trề, mãnh liệt của rừng xà nu dù phải chịu sự tàn phá khốc
liệt bởi đạn đại bác của giặc.
- Đoạn văn diễn dịch
Là đoạn văn trình bày theo cách đi từ khái quát đến cụ thể, từ cái chung
đến cái riêng. Câu đầu là nòng cốt, là câu chủ đề, là đầu mối của mọi liên kết
(nhất là nội dung) trong toàn đoạn. Những câu sau là sự phát triển chủ đề theo hớng cụ thể hóa.

19


Ví dụ:
Tôi thơng hai cô nh hai con vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh, khi chiều giăng
lới qua muôn gốc cây.(1) Buổi chiều của hai cô mờ nhạt và kéo dài; hai cô lẫn
trong mù sơng.(2) Đáng tội nghiệp nhất là hai cô không sầu t, không có một nỗi
buồn chán nản ghê gớm, nó xui ta cầu xin cái chết.(3) Không hai cô là hai cô gái,
chỉ biết buồn mờ , buồn lặng nhng buồn lâu.(4) Hai cô là hai cánh đồng.(5)
(Tỏa nhị Kiều - Xuân Diệu)
ở đoạn văn trên, câu đầu tiên là câu chủ đề, câu khái quát nội dung toàn
đoạn: Tôi thơng hai cô nh hai con vật ngẩn ngơ trong rừng lạnh, khi chiều giăng
lới qua muôn gốc cây. Đó là nỗi lòng thơng cảm của Xuân Diệu trớc cuộc sống
buồn tẻ, mờ nhạt của hai cô gái. Các câu sau làm nhiệm vụ triển khai làm rõ cho
nội dung này. Trong đó có những từ ngữ biểu hiện rõ nhất để hớng tới chủ đề nh:
mờ nhạt và kéo dài; lẫn trong mù sơng(2); đáng tội nghiệp nhất, không sầu t,
không có một nỗi buồn chán nản ghê gớm, xui ta cầu xin cái chết(3); buồn mờ,
buồn lặng, buồn lâu(4); hai cánh đồng(5).
- Đoạn văn quy nạp
Đoạn văn quy nạp đợc thiết lập ngợc chiều với đoạn văn diễn dịch. Nghĩa
là những ý nghĩa riêng, cụ thể đợc trình bày ở những câu đứng trớc. Câu cuối
cùng là tiêu điểm hớng về của các câu trớc nó. Nh vậy câu cuối cùng là câu chủ
đề là câu nòng cốt.

Ví dụ:
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng.(1) Mặt hắn chun
ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ.(2) Bữa cơm từ đấy không ai
nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau.(3) Một nỗi tủi
hờn len vào tâm trí mọi ngời.(4)
(Vợ nhặt - Kim Lân)

20


Câu cuối của đoạn văn trên mang ý nghĩa khái quát nội dung toàn đoạn.
Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi ngời. Ba câu trớc là những biểu hiện cụ thể
nỗi tủi hờn của các thành viên trong gia đình ấy: câu (1),(2) là của Tràng; câu
(3) là của cả 3 ngời. Những từ ngữ ở 3 câu trên biểu hiện rõ nhất cho nội dung ở
câu chủ đề là: gợt một miếng bỏ vội vào miệng (1); mặt hắn chun ngay lại, miếng
cám đắng chát, nghẹn bứ trong cổ (2); không ai nói câu gì, cắm đầu ăn cho xong
lần, tránh nhìn mặt nhau(3).
- Đoạn văn tổng - phân - hợp
Kiểu trình bày của đoạn văn này bắt đầu bằng việc nêu vấn đề có tính chất
tổng hợp, khái quát (tổng), tiếp theo là lời phân tích hoặc giải thích hoặc nêu ra các
dẫn chứng minh họa cụ thể (phân), cuối cùng lại tổng hợp khái quát nâng cao hoặc
mở rộng thêm vấn đề đợc nêu ra ban đầu (hợp). Nh thế ở đoạn văn tổng -phân hợp sẽ có trên 2 câu chủ đề. Các câu chủ đề đợc sắp xếp liên tiếp hoặc gián cách.
Tuy nhiên các câu chủ đề này không hoàn toàn giống nhau về ý mà câu chủ đề sau
thờng đợc mở rộng và khái quát hơn về ý so với câu nêu chủ đề trớc.
Ví dụ:
Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.(1) Buồn thay cho đời!(2)
Có lí do nào nh thế đợc?(3) Hắn đã già rồi hay sao?(4) Ngoài bốn mơi tuổi
đầu(5) Dẫu sao, đó không phải tuổi mà ngời ta mới bắt đầu sửa soạn.(6) Hắn
đã tới cái dốc bên kia cuộc đời.(7) ở những ngời nh hắn, chịu đựng biết bao
nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà cha bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi

là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã h hỏng nhiều.(8) Nó là một cơn ma gió cuối thu
cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến.(9) Chí Phèo hình nh đã trông trớc
thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói
rét và ốm đau.(10)
(Chí Phèo - Nam Cao)
Trong đoạn văn trên câu đầu tiên Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn
cô độc là câu mang nội dung khái quát. Những câu tiếp theo (từ câu (2) đến câu
(9)) có nhiệm vụ phân tích, giải thích cho câu đầu. Còn câu cuối cùng Chí Phèo

21


hình nh đã trông trớc thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này
còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau có nhiệm vụ tổng hợp lại và mở rộng thêm
nội dung mà câu đầu đã nêu. Ngoài nỗi sợ già nua và cô độc Chí còn sợ đói rét
ốm đau và trong những cái đó thì cái đáng sợ nhất là cô độc. Câu chủ đề này vừa
để mở rộng ý vừa để nhận xét đánh giá. Nh vậy, đoạn văn trên có 2 câu chủ đề:
câu(1) và câu (10). 2 câu này không phải thể hiện 2 chủ đề mà cùng thể hiện một
chủ đề Chí Phèo đã thức tỉnh về mặt tâm lí Chí đã biết sợ: già nua, đói rét, ốm
đau và cô độc.
Trong các văn bản khác nh văn bản khoa học, văn bản nghị luận ngời ta
hay sử dụng đoạn văn kiểu này còn ở văn bản nghệ thuật mà cụ thể trong thể loại
truyện ngắn các nhà văn rất ít sử dụng đoạn văn tổng - phân - hợp. Bởi trong đoạn
văn kiểu này thờng thể hiện chất lí trí, sự chính xác nhiều hơn là những cảm
xúc mang tính đặc trng của văn chơng.
2.2.1.2. Đoạn văn cấu tạo đặc biệt
Khác với đoạn văn bình thờng, đoạn văn đặc biệt chỉ đợc cấu tạo từ 1 câu:
câu bình thờng hoặc câu đặc biệt ( câu đặc biệt này cấu tạo từ 1 cụm từ hoặc 1 từ)
đứng tách ra trong hình thức một đoạn văn. Trong văn bản chúng xuất hiện bất
thờng, đứng tách biệt nhằm những mục đích khác nhau của ngời viết. Đoạn văn

này xuất hiện nhiều nhất trong văn bản nghệ thuật và thờng mang đậm màu sắc
phong cách của tác giả.
- Đoạn văn đặc biệt một câu
Ví dụ:
Cánh cửa đề lao mở rộng.
Sáu ngời né mình tiến vào nh một bọn thợ nề, thận trọng khiêng cái thang
gỗ đặt ngang trên vai.

22


Trái với phong tục nhận tù mỗi ngày, hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù
mới vào với cặp mắt hiền lành. Lòng kiêng nể tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi.
Khi kiểm điểm phạm nhân, ngục quan lại còn có biệt nhỡn đối riêng với Huấn Cao...
(Chữ ngời tử tù - Nguyễn Tuân)
Ví dụ trên có 3 đoạn văn. Hai đoạn văn đầu là hai đoạn văn đặc biệt - cấu
tạo từ một câu bình thờng (đoạn văn thứ nhất cấu tạo từ 1 câu đơn 2 thành phần,
đoạn văn thứ 2 đợc cấu tạo từ 1 câu ghép). Dụng ý nghệ thuật đằng sau việc tách
thành hai đoạn văn là để nhấn mạnh sự đối lập giữa hoàn cảnh tù đày cánh cửa
đề lao mở rộng với t thế đàng hoàng bình thản của sáu ngời tù sáu ngời tù né
mình tiến vào nh một bọn thợ nề, thận trọng khiêng cái thang gỗ đặt ngang vai.
Nghệ thuật tơng phản, đối lập đợc Nguyễn Tuân sử dụng triệt để ngay cả ở cách
dùng đoạn văn đặc biệt nhằm mục đích đề cao khí phách của Huấn Cao.
Nh vậy trong văn bản có sự đan xen giữa đoạn văn bình thờng và đoạn văn
đặc biệt (nh ví dụ trên). Sự xuất hiện ít hoặc nhiều một kiểu loại đoạn văn xét về
mặt cấu tạo là do sự chi phối của đặc trng thể loại và phong cách tác giả.
- Đoạn văn đặc biệt là một câu đơn đặc biệt
Chẳng hạn, có những đoạn văn đợc cấu tạo là một câu đặc biệt có dạng là
một cụm từ (cụm danh từ, cụm tính từ, cụm động từ).
Ví dụ:

Vì thế mà sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài.
Khi đó đang đói rừng. Hổ, gấu cứ từng đêm ra phá rừng, bắt mất nhiều bò
ngựa. Nhà thống lí Pá Tra lúc nào cũng đầy ngựa trong tàu trớc cửa, đầy lng trâu
bò đứng chen chân trong cột cửa, và dê, chó, lợn nằm quanh nhà, ngày nào cũng
lũ lợt hàng mấy chục con đi nơng ăn, bây giờ gặp khi rừng đói thế này, mỗi khi bò
ngựa đi nơng, A Phủ phải ở lại trông. A Phủ phải ở lều luôn hàng tháng ngoài nơng, đêm đến lại dồn bò ngựa về nằm chầu nhau ngủ xung quanh lều.
(Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)

23


Đoạn văn thứ nhất đợc cấu tạo từ một câu đơn đặc biệt chỉ có 1 cụm động
từ sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài, và có thêm quan hệ từ vì thế mà đứng
trớc. Đó là một câu đặc biệt đứng tách ra thành một đoạn văn phục vụ cho ý đồ
nghệ thuật của tác giả. Việc sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài vừa là kết quả của
mâu thuẫn của trai làng này làng khác. Vừa để ngời đọc ghi nhớ tới nguyên
nhân khiến A Phủ phải đi ở trừ nợ. Đồng thời ẩn ý sự thua thiệt của ngời dân
trong mối quan hệ với kẻ thống trị.
Có thể, đoạn văn đặc biệt có dạng là một từ
Đây là đoạn văn có cấu tạo với hình thức câu là một từ: từ đơn, từ ghép, từ
láy đứng tách ra dới hình thức một câu - đoạn văn.
Ví dụ:
Từ chiều, lại bắt đầu trở rét.
Gió.
Ma
Não nùng.
(Anh Sẩm - Nguyễn Công Hoan)
Ví dụ trên có 4 đoạn văn thì 3 đoạn văn sau là đoạn văn đặc biệt câu - một
từ. Trong đó, có hai đoạn văn đợc cấu tạo từ một câu - một từ đơn Gió, Ma và
một đoạn văn đợc cấu tạo từ một câu đơn đặc biệt - một từ láy Não nùng. Dụng

ý của tác giả là muốn tập trung khắc họa về sự khắc nghiệt, lạnh giá, não nùng
của ma của gió của thiên nhiên nhằm gây ấn tợng cho ngời đọc ngay từ đầu tác
phẩm về một điều gì đó không bình thờng sẽ xảy ra. Đó là dự cảm về cuộc mu
sinh khốn khổ bi đát của anh Sẩm mù trong một xã hội thiếu tình ngời.

24


2.2.2 Dựa vào chức năng đoạn văn
Mỗi văn bản thờng chứa nhiều đoạn văn. Trong đó có những đoạn văn chỉ
giữ một chức năng riêng, nhng cũng có nhiều đoạn văn cùng thực hiện một chức
năng nhất định. Chức năng của đoạn văn phụ thuộc vào vị trí, vào dụng ý nghệ
thuật của tác giả. Nhìn chung, nhiều nhà ngôn ngữ học đồng ý với cách phân loại
đoạn văn trong văn bản nói chung và trong văn bản nghệ thuật nói riêng (trong
đó có truyện ngắn) là: đoạn văn mở đầu, đoạn văn triển khai, đoạn văn chuyển
tiếp và đoạn văn kết thúc.
2.2.2.1 Đoạn văn mở đầu
Đoạn văn mở đầu là nơi mở ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm. ấn tợng
ban đầu của ngời đọc đối với tác phẩm chính là đoạn mở đầu. Không chỉ có chức
năng tạo ấn tợng nh tạo tình huống đặc biệt, dẫn dắt câu chuyện có duyên gợi
sự hứng thú khám phá cho ngời đọc mà câu đoạn mở đầu còn có chức năng tạo
khung - nền chung cho truyện (giới thiệu hoàn cảnh, khung cảnh, sự kiện, nhân
vật).
- Các kiểu mở trong đoạn văn mở đầu
Thông thờng ở thể loại truyện ngắn, đoạn văn mở đầu có hai kiểu: kiểu mở
đầu trực tiếp và kiểu mở đầu gián tiếp.
+ Kiểu mở trực tiếp
Là kiểu mở truyện đi thẳng vào vấn đề của cốt truyện. ở kiểu này đoạn mở
đầu có thể trùng với phần trình bày của cốt truyện nh phần cao trào của truyện,
điểm mở nút của truyện, hay một thời điểm đặc biệt nào đó của nhân vật

Ví dụ:
Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rợu xong là hắn chửi. Bắt đầu
hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng
chả sao: đời là tất cả nhng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ
Đại, nhng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: chắc nó trừ mình ra! . Không ai lên

25


×