Tải bản đầy đủ (.doc) (142 trang)

Tư duy tiểu thuyết trong truyện ngắn nguyễn huy thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.67 KB, 142 trang )

1

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
-------*****-------

Nguyễn Mạnh hà

T duy tiểu thuyết trong truyện
ngắn
Nguyễn Huy Thiệp

luận văn thạc sĩ ngữ văn


2

Vinh 2009
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
-------*****-------

Nguyễn Mạnh hà

T duy tiểu thuyết trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34

luận văn thạc sĩ ngữ văn



Ngời hớng dẫn khoa học: pgs.ts Đinh Trí Dũng

Vinh 2009


3

Lời cảm ơn!

để hoàn thành luận văn, trong suốt quá trình, tôi đã nhận đợc sự
quan tâm và giúp đỡ của nhiều ngời.
Xin đợc bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới PGS. TS Đinh Trí Dũng ngời tận tình, chu đáo hớng dẫn tôi thực hiện đề tài.
Cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn trờng ĐH Vinh, những
ngời thân trong gia đình, những ngời bạn đã sẵn sàng chia sẻ mọi khó khăn
cho tôi.

Hà Tĩnh, ngày 16/12/2009.
Tác giả


4

Mục lục
Trang
Mở đầu.................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài.....................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề.........................................................................................3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................................10
4. Phơng pháp nghiên cứu........................................................................10

5. Đối tợng nghiên cứu và phạm vi khảo sát...........................................10
6. Cấu trúc luận văn..................................................................................10
Chơng 1. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trong bối cảnh đổi mới
của
tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1986.....................................11
1.1. Khái niệm t duy tiểu thuyết................................................................7
1.2.Nguyễn Huy Thiệp - gơng mặt nổi bật của truyện ngắn Việt Nam
sau 1986......................................................................................................8
Chơng 2. Những biểu hiện của t duy tiểu thuyết trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp...............................................................................33
2.1. Một thế giới hiện thực trần trụi, mang đậm chất văn xuôi..............33
2.2. Rút ngắn khoảng cách trần thuật .....................................................74
2.3. Giọng điệu và ngôn ngữ ...................................................................84
2.4. Tính chất đa thanh trong tổ chức văn bản........................................89
Chơng 3. Tổ chức văn bản - một phơng diện độc đáo thể hiện t duy
tiểu thuyết trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ..........................91
3.1. Khái niệm văn bản............................................................................91
3.2. Đặc điểm tổ chức câu văn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. .92
3.3. Những dạng thức tổ chức văn bản truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
...................................................................................................................95
3.4. Văn bản truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ góc độ phong cách. .103
kết luận.........................................................................................121
Tài liệu tham khảo.................................................................123
Phụ lục...........................................................................................137


5

Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài

1.1. Nguyễn Huy Thiệp là hiện tợng văn học xuất hiện sau 1975 ở Việt
Nam. Hiện tợng văn học này dầu đã đợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tuy
nhiên dới một cái nhìn có tính hệ thống, có khả năng bao quát để làm bật rõ thực
chất Nguyễn Huy Thiệp (con đờng tiếp cận từ góc độ t duy có thể nói là khả
quan nhất) vẫn cha thấy có, ngoại trừ luận văn của Lê Thanh Nga - nhìn Nguyễn
Huy Thiệp dới góc độ trần thuật.
1.2. T duy tiểu thuyết là khái niệm xuất hiện nhiều trong nghiên cứu - phê
bình văn học. Nhng, theo những tài liệu mà chúng tôi đọc đợc, hiện vẫn cha có
một sự minh định cần thiết nào. Hầu hết mọi ngời đều tạm ngầm quy ớc với
nhau. Xác định đề tài, trớc hết chúng tôi muốn xác lập các bình diện của khái
niệm và lựa chọn Ngụyễn Huy Thiệp - một tác giả theo chúng tôi thể hiện khá rõ
t duy tiểu thuyết làm đối tợng phân tích. Khi tiến hành nghiên cứu tác giả
Nguyễn Huy Thiệp dới góc nhìn này, cũng là để rõ thêm về khái niệm.
1.3. Từ chỗ triển khai các nội dung quan trọng trong khuôn khổ của đề tài,
đề tài còn hớng tới một hớng đi thông thoáng trong việc nghiên cứu các tác giả
sau 1975, đặc biệt là các tác giả văn xuôi.
2. Lịch sử vấn đề
Trong không khí các nhà văn đang hoà mình vào ngày hội tng bừng của
đất nớc những năm đổi mới, đang nô nức kiếm tìm một hớng đi cho sáng tạo
nghệ thuật, Nguyễn Huy Thiệp lặng lẽ xuất hiện giữa làng văn nh một sự tuyên
chiến với nghệ thuật kinh viện. Mở đầu - tính sự ghi nhận Nguyễn Huy
Thiệp, tháng 06 năm 1987, Tớng về hu ra mắt độc giả trên báo Văn nghệ đã đa
tên tuổi tác giả vào một tầm ngắm quan tâm đặc biệt. Giữa lúc ngời đọc cha
hết bàng hoàng, sửng sốt thì trên tờ báo quen thuộc, ông cho đăng liên tiếp các
truyện: Muối của rừng, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Chút thoáng Xuân
Hơng, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết Điều đặc biệt đối với sáng của Nguyễn
Huy Thiệp là: càng viết d luận càng mạnh, truyện cha ra thì ngời đọc đã kháo
nhau, truyện đăng rồi thì tranh nhau tìm đọc, đọc rồi thì tranh nhau bình phẩm,
bàn tán, chốn phòng văn cũng nh chốn vỉa hè đâu đâu cũng kháo chuyện Văn
đàn thời đổi mới đã khởi sắc bỗng khởi sắc hẳn. [134, 06]. Trong quá trình bình

phẩm về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, ít hoặc nhiều ngời ta đã đề cập đến vấn


6
đề t duy tiểu thuyết. Bởi lẽ, t duy tiểu thuyết - một khái niệm của hệ hình
(paradigme) t duy, chỉ xuất hiện dới thời hiện đại (Milan Kundera). Nguyễn Huy
Thiệp có đợc may mắn sống dới thời điểm thời đại mới mở ra, cách viết của ông
thể hiện rõ sự thay đổi trong t duy về nghệ thuật, về cách nhìn đối với cuộc đời;
một khi t duy thay đổi thì sự mã hoá t duy đó, tức ngôn ngữ, cũng phải thay đổi
theo (ngôn ngữ là sự trực tiếp của t tởng - V.I. Lenin; ngôn ngữ là nơi ẩn chứa
nhãn quan, nơi chuyển tải mạch ngầm t tởng, thái độ của ngời sáng tạo (ý của F.
de Saussure)). Khi tìm hiểu tác phẩm, ngời tìm hiểu không có con đờng nào khác
ngoài việc thông qua lớp vỏ ngôn ngữ, do đó, ít hay nhiều, trực tiếp hay gián
tiếp, ngời tìm hiểu đã đề cập đến vấn đề t duy của ngời sáng tạo. Việc tìm hiểu tơng tự đối với sáng tác Nguyễn Huy Thiệp cũng không ngoại lệ.
Đối với việc tìm hiểu t duy tiểu thuyết, ở đây áp dụng cho trờng hợp
Nguyễn Huy Thiệp, theo chúng tôi có hai con đờng đi đến kết luận: thứ nhất, đó
là cách tìm hiểu trực tiếp t tởng nhà văn, đại khái muốn nói rằng nó muốn nói gì
vậy (Đặng Anh đào) thông qua thế giới của nó, thái độ của nó là nh thế nào; thứ
hai, tìm hiểu gián tiếp, thông qua các tín hiệu, các thủ pháp mà nó (nhà văn một từ trung tính) sử dụng (những thủ pháp đó là có sự thay đổi so với trớc đây).
Dĩ nhiên cách phân chia nh thế chỉ mang tính chất tơng đối, thậm chí, nếu sát
sao có thể cho là khập khiễng, vì khi đề cập vấn đề thứ nhất là đề cập liên quan
đến vấn đề thứ hai và ngợc lại. Tuy nhiên, để dễ hình dung và thể hiện phần nào
đó sự rạch ròi chúng tôi vẫn mạnh dạn tiến hành. Các ý kiến đánh giá về Nguyễn
Huy Thiệp, nh đã nói, ít nhiều đều đề cập đến t duy tiểu thuyết, về cơ bản đã đợc
nhà báo Phạm Xuân Nguyên tập hợp trong cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Thế
nhng, chúng tôi không đủ điều kiện để xem xét hết tất cả các ý kiến (hơn nữa
cũng rất nhiều ý kiến cục bộ chỉ tìm hiểu riêng từng tác phẩm) mà chỉ chọn lọc
một số tiêu biểu.
- Về con đờng thứ nhất:
Mở đầu là bài Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió (09/1987) của

Hoàng Ngọc Hiến - ngời có công giới thiệu Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả Hoàng
Ngọc Hiến đã mạnh dạn chỉ ra bản chất ngời trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp. Theo ông đó là con ngời của cuộc sống hôm nay sòng phẳng, tính toán
phân minh, nhng vẫn lấp lánh những vẻ đẹp ẩn kín. Nói nh thế có nghĩa là
Hoàng Ngọc Hiến đã cho thấy tác giả Nguyễn Huy Thiệp mô tả thế giới đang
diễn ra, cái hiện tại cha hoàn thành. Từ cách nhìn nhận đó, Hoàng Ngọc Hiến đi
tới xây dựng khái niệm Thiên tính nữ đề cao cái tâm ngời viết. Quan điểm
này về sau đợc Nguyễn Đăng Mạnh đối thoại (dới một hình thức đính chính
mềm mỏng) bằng một bài viết đăng trên TC Cửa Việt năm 1992. Nguyễn Đăng
Mạnh khẳng định, cái con ngời mà Nguyễn Huy Thiệp cần tìm đến đó là con ngời hồn nhiên, vô sự với tạo hoá.


7
Tháng 08/1988, vẫn Hoàng Ngọc Hiến, ông viết: T duy tiểu thuyết và
folklore hiện đại, nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp, trong đó
có đoạn: Lòng nhân ái truyền thống có thể gói gọn trong một câu: Hãy thơng
yêu đồng loại nhng lòng nhân ái hiện đại cũng nh những tình cảm hiện đại khác
- chứa chất nghịch lí: Không đợc thơng con ngời nhng Không thể không thơng con ngời [134, 356]. Trên cơ sở áp dụng lí thuyết của M. Bakhtin, ông cho
rằng Nguyễn Huy Thiệp đã dùng t duy tiểu thuyết để xây dựng các nhân vật lịch
sử khiến họ không có khoảng cách với ngời viết dù đó là Gia Long hay Nguyễn
Huệ. Bằng việc chỉ ra những bỗ bã, có khi quá trớn trong tác phẩm, Hoàng Ngọc
Hiến còn đẩy quan điểm của mình lên và cho rằng đó là sự bỗ bã hậu hiện đại,
nói khác đi, đó là thái độ hậu hiện đại, một trạng thái nhân thế đang phổ biến
trên thế giới cũng nh ở Việt Nam.
Greg Lockhart trong bài Tại sao tôi dịch truyện Nguyễn Huy Thiệp ra
tiếng Anh? (1989) đã cho rằng Nguyễn Huy Thiệp có đóng góp cho văn học thế
giới. Tác giả chứng minh bằng việc nêu lên tính chất nhân bản: Anh muốn trình
bày một quan điểm sống mới trong cung cách đối nhân xử thế không chỉ của
từng số phận riêng lẻ, mà còn là của cả dân tộc, rộng ra là của cả thế giới; nêu
lên cách nhìn xã hội Việt Nam và cả thế giới cùng với cách viết của anh ấy rất

là bình đẳng và dân chủ [134, 112].
Nguyễn Thanh Sơn trong bài Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp (1995) lại trớc sau khẳng định Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn viết về thực tại, do đó ông nói:
đọc các truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng giống nh một cuộc vật lộn với
chính bản thân mình. Ông viết, ở một đoạn khác: Ông lôi tuột chúng ta xuống
từ khoảng trống lửng lơ giữa trời và đất, buộc chúng ta phải đối mặt với mình,
với một thế giới không có vua, dạy chúng ta những bài học nông thôn, bắt
buộc chúng ta phải hiểu rằng, trớc khi muốn nhìn lên bầu trời thì phải nhìn mặt
đất đã [134, 119]. Với việc khẳng định Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn viết cuộc
sống trên mặt đất, ông dẫn lại lời Nguyễn Huy Thiệp căm thù sâu sắc những
kết thúc truyền thống, biến nó thành lập luận của mình hay chính xác hơn, ông
căm thù tất cả những bức màn thói đạo đức giả đã căng ra trớc mắt con ngời,
không cho họ nhìn vào sự thật () đó là sự tức giận cần thiết của ng ời cầm bút
trớc sự thiếu vắng của một nền văn hoá chiều sâu, một nền văn hoá mang nặng
cái Tâm của ngời làm văn hoá [134, 121].
- Con đờng thứ hai:
Đặng Anh Đào trong Khi ông tớng về hu xuất hiện đã viết: Cái nhìn dân
chủ hoá của ngời kể chuyện, ở đây chính là chỗ: tin rằng mình không mách nớc
cho ai, lên lớp cho ai, thậm chí, ở nhiều chỗ, đứng thấp hơn nhân vật và bạn đọc
[134, 23]. Mặc dù nhận xét chỉ áp dụng cho truyện Tớng về hu, nhng thực ra đó
là quan điểm thống nhất của Đặng Anh Đào đối với việc nhìn nhận sáng tác


8
Nguyễn Huy Thiệp nói chung khi mà tác giả này liên tục có những bài viết về
Nguyễn Huy Thiệp vẫn trong trờng nhìn đã áp dụng.
Tơng tự nhận xét của Đặng Anh Đào, nhận xét của Trần Đạo cũng chỉ nói
về Tớng về hu, ông tập trung ở lối hành văn: Tớng về hu - một tác phẩm có tính
nghệ thuật thế nhng soi chiếu với toàn bộ sáng tác Nguyễn Huy Thiệp thì ta thấy
đấy lại là cách đánh giá chung. Trần Đạo viết: Lối hành văn tạo nên một thế
giới ngổn ngang sự kiện, sự việc, một thế giới tan rã thành muôn mảnh, một thế

giới chỉ có những hiện tại vụn vặt lơ lửng bên nhau[ 134, 44]. Từ đó ông kết
luận: Tính chất nghệ thuật của Tớng về hu là ở chỗ khơi đợc thế giới Chẳng
giải thích dài dòng, chẳng dùng những tính từ đao búa, chỉ viết những lời ai ai
cũng hiểu đợc, mà tạo đợc cả một bầu không khí điên đầu, cả một thế giới trong
đó không ai có thể hiểu ai [134, 48].
Tác giả Vơng Anh Tuấn viết về truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp, bài
Lịch sử trong quan niệm của Nguyễn Huy Thiệp (9/1988), chỉ ra bản chất lịch sử
(trong văn của tác giả này): Nguyễn Huy Thiệp quan niệm lịch sử cũng chỉ ớc
lệ, có tính tơng đối, có tính hạn chế chủ quan và khách quan do thời đại lịch sử
quy định; Nguyễn Huy Thiệp đã nghiêng về phía dân gian hóa, cá nhân hóa
lịch sử. Đây là quá trình, theo anh, làm cho lịch sử gần đúng hơn, nhng nó
cũng dẫn đến tình trạng là cái lịch sử khả tri đợc trở thành những hiện tợng, sự
kiện đợc cảm nhận bởi từng con ngời cá nhân [134, 339]. Thực chất vấn đề là
tác giả đã chỉ ra độ mở của truyện ngắn, có đợc do sự vận dụng t duy tiểu thuyết
rút khoảng cách với các thần tợng, tức đồng quan điểm với Hoàng Ngọc Hiến,
tạo nên sự đối thoại giữa tác giả và độc giả. Theo cách diễn giải của Thái Hòa:
chính khi ngời đọc phản ứng mạnh mẽ với Nguyễn Huy Thiệp tức cũng tự trình
bày một cách hiểu, một quan niệm về cuộc sống, về văn chơng nghệ thuật [134,
95].
Đặng Anh Đào trong bài Biển không có thuỷ thần đã xây dựng thuật ngữ:
phản cổ tích đối với sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Tiếp đó trong bài: Kiếp
luân hồi của Nguyễn Trãi qua Nguyễn Thị Lộ, Đặng Anh Đào lại xây dựng thêm
một thuật ngữ nữa lịch sử giả. Thực chất hiện tợng phản cổ tích và lịch sử
giả là những dạng khác nhau của hình thức nhại thể hiện tính đối thoại rất rõ
trong quan niệm của ngời sáng tạo với truyền thống, tức là muốn trình bày, bộc
lộ một cách nhìn mới.
Báo Nhân dân số ra ngày 26/ 06/ 1988 có đăng bài của Trần Duy Thanh
với nhan đề Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả Trần Duy Thanh trớc hết
nhận xét truyện Nguyễn Huy Thiệp về mặt dung lợng: có dung lợng một cuốn
tiểu thuyết; thứ hai về bút pháp: đó là bút pháp cô sử: Anh không phân tích sự

kiện hay đào sâu tâm lí, cũng không triết luận dài dòng mà lùi lại phía sau, lẳng


9
lặng trình bày các sự việc, lẳng lặng ném ra các câu đối thoại khiến ngời đọc
lạnh toát ngời trớc tính cách nhân vật [134, 89].
Trong bài: Có nghệ thuật Ba - rốc trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
hay không?(1989), tác giả Thái Hoà trớc sau thống nhất chứng minh trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nghệ thuật Ba - rốc. Ông nêu lên bốn luận
điểm: có một bề rậm rạp và một bề sâu thẳm trong các truyện; sự vận động và
chuyển hoá của các chi tiết trong một chỉnh thể và trong tổng thể; những nghịch
lí về thiện - ác, chân - giả và đẹp - xấu và thế giới là một kịch trờng, ai sắm vai
nào sẽ đợc hởng công vai đó. Những thao tác của Nguyễn Hoà cùng những phân
tích tất yếu đã cho thấy sự nhất quán của ông trong việc khẳng định có nghệ
thuật Ba - rốc trong truyện Nguyễn Huy Thiệp. Một khi thừa nhận truyện
Nguyễn Huy Thiệp có nghệ thuật Ba - rốc cũng có nghĩa là thừa nhận truyện
Nguyễn Huy Thiệp mang cảm quan hậu hiện đại, bởi hậu hiện đại là sự phá vỡ
hệ thống, xé lẻ các tình tiết, sự rời rạc trong ngôn ngữ, trong giao tiếp, trong khi
nghệ thuật Ba - rốc quan niệm thế giới nh một kịch trờng, cảm hứng năng động
chuyển hoá gây cảm giác khác thờng và sự ẩn tàng một chiều sâu cần giải mã,
mà khi tác phẩm mang cảm quan hậu hiện đại có nghĩa là tác phẩm đó thể hiện
t duy không khoảng cách đối với thế giới đợc nhìn ngắm, nói rộng ra, là t duy
tiểu thuyết.
Đông La cũng bắt gặp nhiều nhà nghiên cứu khác ở chỗ khẳng định bút
pháp, lối viết mà Nguyễn Huy Thiệp lựa chọn, chỉ có điều tác giả này lại nhấn
mạnh hơn bằng hai từ ma lực: Về cái ma lực trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp (1999). Tác giả trớc hết nêu lên đặc điểm truyện Nguyễn Huy Thiệp đó là
truyện không có cốt truyện, là chuyện của nhiều vấn đề, cấu trúc ít cái
bóng dáng chặt chẽ, khuôn mẫu truyện ngắn cổ điển, truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp có kết cấu nh kết cấu của tiểu thuyết, nó lỏng lẻo nh chính cái lỏng

lẻo của cuộc sống [134, 138]; tiếp đó tác giả đi đến tìm hiểu cách viết, đó là
cách viết: không dài dòng, lê thê () sự vật, sự việc, cảnh t ợng qua đó xuất
hiện rất nhanh nhng lại đầy ấn tợng và sống động[134, 140]; tác giả ngợi ca
giọng văn Nguyễn Huy Thiệp là giọng triết lí thâm nho. Bằng quan điểm
đánh giá tác phẩm toàn diện, tác giả Đông La đi đến khâu kết bằng việc khẳng
định cái Tâm của ngời viết, theo Đông La cái Tâm của ngời viết là ở chỗ ông
đóng vai trò nh một ngời bác sĩ nhận ra cái banh nhọt của đứa trẻ, rồi nhổ đi và
rắc thuốc vào đấy chứ không phải dỗ đứa trẻ bằng một cái kẹo.
Bên cạnh những bài viết đợc tập hợp trong Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, còn
có nhiều bài viết khác, đợc đăng tải trên các báo, tạp chí, đợc thông qua trong
các hội thảo, in trong sách:
- Các bài viết theo con đờng thứ nhất:


10
Năm 1989, nh một sản phẩm của quá trình làm công tác su tầm, nghiên
cứu văn hoá, Đỗ Lai Thuý viết Con ngời và những cái nhìn con ngời trong văn
hoá chủ yếu tập trung làm rõ những quan điểm (cũng nh những hạn chế) của
Trần Đức Thảo, trong đó ông lấy tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp làm cái nhìn.
Theo Đỗ Lai Thuý: Sự đồng nhất t duy chính trị và t duy nghệ thuật khiến văn
học ta, có thời, cũng phủ nhận con ngời muôn thuở, tính ngời nói chung. [192,
125]. Ông cho rằng Nguyễn Huy Thiệp, bằng cái nhìn con ngời, đã mở ra một
xu hớng vận động mới của văn học Việt Nam, dám nhìn con ngời nh nó vốn
có với những khả năng và hạn chế của nó. Để chứng minh cho luận điểm đa ra,
Đỗ Lai Thuý tập trung vào ngời kể chuyện ở ngôi thứ nhất - ngời kể chuyện vốn
thịnh hành ở thế kỷ XVIII, ông cho rằng đó là cái nhìn con ngời từ bên trong.
Trần Văn Toàn trong bài Nhà văn Viêt Nam - những giới hạn và sứ mệnh
(Ngữ văn học, Tuyển tập của các nhà nghiên cứu trẻ Đại học s phạm Hà Nội, số
01/ 2006, bài viết này cũng đăng trong cuốn: Văn học Việt Nam sau 1975 Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy) đã cố gắng tìm câu trả lời từ truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp. Theo tác giả nhà văn, để đa ra câu trả lời của mình dù

muốn hay không cũng cần phải có một sự đính chính khớc từ, đối thoại với
những câu trả lời đối diện với anh ta từ nhiều hớng và bằng cách trả lời các câu
hỏi này họ để lại trong tác phẩm chân dung tinh thần của mình [195, 27]. Đi
sâu vào phân tích truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, tác giả chỉ ra nhà văn tỏ ra
nghi ngờ năng lực nhận thức hiện thực của văn chơng, nhà văn muốn ngời đọc
tránh những ngộ nhận vơng giả, nhà văn chỉ cho ngời đọc biết thân phận cô đơn
là điều không thể tránh khỏi của giới họ.
- Các bài viết theo con đờng thứ hai:
Phạm Phú Phong, trên TC Sông Hơng số 01/ 2002, viết: Giọng điệu văn
chơng Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả Phạm Phú Phong cho rằng giọng điệu văn chơng Nguyễn Huy Thiệp là giọng đa thanh. Ông chứng minh luận điểm của mình
bằng hai nội dung chính: thông qua việc tác giả sử dụng hình ảnh, thái độ, quan
niệm, ngữ cảnh và thông qua giọng điệu của nhân vật. Ông kết luận: Mỗi
truyện của anh không chỉ gây một ấn tợng duy nhất mà từ hệ thống hình tợng
đến giọng điệu văn chơng đã tạo đợc một mạch t tởng - nghệ thuật phát triển
theo cấp số nhân [145].
Cũng trên tạp chí đó, số 05/ 2003 Nguyễn Đăng Điệp - một ngời nghiên
cứu đã quá quen với thao tác đi tìm giọng điệu, đã triển khai một bài viết khá
dài, nhan đề: Cuốn theo chiều văn Nguyễn Huy Thiệp. Tác giả cho rằng giọng
điệu trong văn Nguyễn Huy Thiệp là giọng đa thanh. Để đi đến kết luận đó, tác
giả xây dựng những luận điểm tiền đề: trớc hết là kết cấu chung của tác phẩm kết cấu mang sức nén của tiểu thuyết trờng thiên; tiếp đó, theo lôgic trò chơi mà


11
tác giả đa ra - Nguyễn Huy Thiệp tự thiết lập một mô hình nghệ thuật riêng,
không giống truyền thống, viết những gì cảm thấy; rồi, bằng ngôn ngữ quan
phơng tiếp cận đối tợng theo lối suồng sã.
Lê Huy Bắc, trong hội thảo Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề
nghiên cứu và giảng dạy tổ chức năm 2005 tại trờng ĐHSP Hà Nội, có tham
luận nhan đề: bậc hiền triết - con chó xồm hay kĩ thuật nhại của Nguyễn Huy
Thiệp. Thao tác mà Lê Huy Bắc triển khai trong tham luận của mình là đi tìm

các biểu hiện của nghệ thuật nhại, từ nghệ thuật nhại đó, nh một sự tất yếu, tác
giả đi đến kết luận - một thao tác tìm hiểu - nhãn quan của Nguyễn Huy Thiệp
(cũng là cái cách nhìn của Lê Huy Bắc?). Tác giả viết: Nhân gian nhìn lên tởng
tợng ra mọi thứ để trời là trời mây là mây. Hơn thế nữa mây có lúc mang hình
thù ngời hay bất cứ vật thể nào mà con ngời thấy tơng đồng. Nh thế vũ trụ và cả
các nguyên tắc sống xung quanh ta đều xuất phát từ một hay nhiều ý niệm nhất
định nhằm để phục vụ cuộc sống con ngời với ớc vọng sao cho sống tốt đẹp hơn.
Nhân sinh là bất biến. Chỉ có quan niệm về nhân sinh mới thay đổi.[117, 326].
Tác giả triển khai tiếp, một cách triển khai khá thú vị, dựa trên một đoạn văn của
Nguyễn Huy Thiệp: đám mây có thể là bậc hiền triết nhng thoáng chốc lại có
thể là con chó xồm.
Trên website www.tienve.org, Châu Minh Hùng viết bài: Cuộc tìm kiếm
hình thức đa thanh mới của văn xuôi hiện đại qua tổ chức truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp, trong đó có đoạn: trong lòng cuộc sống không có cuộc đối
thoại nào hoàn tất khi các quan niệm, t tởng cá nhân luôn có ý thức nổi loạn,
chống lại quan niệm t tởng chung [87]. Từ đó tác giả chỉ ra tính không hoàn tất
của đối thoại. Trên cơ sở lí luận chung ấy, áp dụng cho trờng hợp Nguyễn Huy
Thiệp, tác giả khái quát lên ba vấn đề cơ bản: thứ nhất, nhà văn đứng ngang hàng
với nhân vật; thứ hai: thế giới cuộc sống trong truyện Nguyễn Huy Thiệp là một
thế giới không có tôn ti, trật tự; thứ ba: thế giới đợc nhìn nhận sự thật bên trong
của con ngời.
Nh vậy, trớc hết, có thể thấy rằng, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thu hút
khá nhiều cây bút, có nhiều quan điểm bổ sung cho nhau, có những quan điểm
trái ngợc nhau (nhất là những bài viết về bộ ba truyện lịch sử, ở đây chúng tôi
không nêu hết vì yêu cầu tập trung của đề tài). Các bài viết cũng gặp nhau ở chỗ:
khẳng định cái tài của Nguyễn Huy Thiệp, khẳng định Nguyễn Huy Thiệp là ngời thay đổi cách viết, thay đổi cách nhìn đối với cuộc đời, đối với văn học những biểu hiện quan trọng của t duy, đối với Nguyễn Huy Thiệp, do tính thời
đại, là t duy tiểu thuyết. Tuy nhiên, một sự nghiên cứu hệ thống, tập trung dới


12

một cái nhìn nhất quán vẫn cha thấy có. Với việc hiểu khái niệm (t duy tiểu
thuyết), cùng với việc lĩnh hội kết quả của những nhà nghiên cứu đi trớc, chúng
tôi mạnh dạn đi vào khai thác vấn đề.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định khái niệm t duy tiểu thuyết.
- Khảo sát, phân loại các biểu hiện của t duy tiểu thuyết trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp trên hai nội dung chính: những biểu hiện của t duy tiểu
thuyết trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp; tổ chức văn bản - một phơng diện
độc đáo thể hiện t duy tiểu thuyết trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành đồng thời các phơng pháp:
- Phơng pháp thống kê - phân loại.
- Phơng pháp so sánh - đối chiếu.
- Phơng pháp phân tích - miêu tả.
5. Đối tợng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
- Với đề tài T duy tiểu thuyết trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng
tôi chọn đối tợng nghiên cứu là t duy tiểu thuyết và t duy tiểu thuyết trong truyên
ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
- Phạm vi khảo sát của chúng tôi là những truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp trong Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Anh Trúc tuyển chọn),
Nxb Văn hoá - Thông tin, 2002; bổ sung thêm 5 truyện ngắn trong tuyển tập
cùng tên do Đỗ Hồng Hạnh tuyển chọn, Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2005.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn của chúng tôi chia làm ba chơng:
- Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trong bối cảnh đổi mới của tiểu thuyết,
truyện ngắn Việt Nam sau 1986.
- Những biểu hiện của t duy tiểu thuyết trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp.
- Tổ chức văn bản - một phơng diện độc đáo thể hiện t duy tiểu thuyết
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.



13

Chơng 1
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trong bối cảnh đổi mới
của tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1986
1.1. Khái niệm t duy tiểu thuyết
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết và khái niệm truyện ngắn
1.1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết và truyện ngắn là hai thể loại khác nhau trong loại hình tự sự.
Tiểu thuyết là thể loại có nguồn gốc xa xa khi con ngời biết ý thức về cá nhân.
Nó là thể loại xuất hiện khá sớm. Tuy nhiên, đến ngày nay vẫn còn quá nhiều
định nghĩa về nó. Một cách chung nhất có thể hiểu về tiểu thuyết là: tác phẩm
tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không
gian [67, 328].
Vẫn một quan điểm tơng tự với nhóm tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn
học, trong giáo trình Lí luận văn học tập 2, nhóm tác giả Trần Đình Sử, Phơng
Lựu, Nguyễn Xuân Nam định nghĩa tiểu thuyết: là hình thức tự sự cỡ lớn đặc
biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong
hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời,
những bức tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt
giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng (tr. 225).
Lại Nguyên Ân cũng đa ra định nghĩa không khác với hai quan điểm trên
dù rằng ông dùng lời lẽ khác: là tác phẩm tự sự trong đó sự trần thuật tập trung
vào số phận cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần thuật
ở đây đợc khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để
truyền đạt cơ cấu của nhân cách [7, 313].
Nh vậy, có thể thấy rằng đặc điểm nổi cộm của tiểu thuyết đó chính là tính
quy mô của nó. Quy mô này do bản chất phản ánh của thể loại quy định: nó là

thể loại tồn tại dựa trên sự khai thác con ngời cá nhân. Đặc tính này đã quy
định các phạm trù quan trọng khác nh kết cấu, cốt truyện, nhân vật, không gian,
thời gian. Đây chính là nguyên nhân khiến Henri Bénac khái quát ngắn gọn:
tiểu thuyết là câu chuyện kể trải dài trên một độ dài thời gian, cho phép tờng
thuật lại sự diễn biến của một nhận thức, khác với truyện ngắn, truyện ngắn
không trình bày tâm lí đầy đủ của các nhân vật [17, 724].
1.1.1.2. Khái niệm truyện ngắn


14
Khái niệm truyện ngắn cũng nh khái niệm tiểu thuyết là có rất nhiều định
nghĩa. Thoạt kỳ thuỷ truyện ngắn là chuyện kể ngắn về một cuộc phiêu lu đợc
kể lại lần đầu tiên cho những ngời cùng thời nghe (tin, tin thời sự trong báo chí)
[17, 611]. Truyện ngắn đợc hiểu là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ [67, 370], [7, 345],
là hình thức ngắn của tự sự [160, 240]. Nội dung của nó bao trùm hầu hết các
phơng diện của đời sống: đời t, thế sự hay sử thi, nhng cái độc đáo của nó là
ngắn. Truyện ngắn đợc viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không
nghỉ [67, 370].
Chính vì lí do nh vậy mà truyện ngắn thờng hớng tới việc khắc hoạ một
hiện tợng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm
hồn con ngời [160, 241]. Câu chuyện đợc kể trong truyện ngắn thờng cũng chỉ
diễn ra trong một thời gian không gian hạn chế để nhằm nhận ra một điều gì
đó sâu sắc về cuộc đời và tình ngời [67, 371]. Và, kết cấu của nó cũng thờng
không nhiều tầng nhiều tuyến [7, 347]. Yêu cầu của việc viết đối với truyện
ngắn tối cần là phải súc tích, chi tiết cô đọng. Tôi tin rằng một truyện ngắn có
thể là cốt lõi đến độ không thừa dù chỉ là một dấu phẩy (Gi. Borges) [15, 11].
Nh vậy, đặc điểm quan trọng nhất của truyện ngắn là sự tập trung: ít sự
kiện, ít nhân vật, ít miêu tả, nhng tất cả các chi tiết đều góp phần làm cho câu
chuyện đạt tới hiệu quả mong muốn, đều duy trì sự hồi hộp chờ đợi của ngời
đọc [17, 612].

1.1.1.3. Những khác biệt và tơng đồng giữa truyện ngắn và tiểu thuyết
Hẳn nghe t duy tiểu thuyết trong truyện ngắn... ai cũng không khỏi ngạc
nhiên và tự hỏi: chuyện gì đang xảy ra? Tiểu thuyết là tiểu thuyết, truyện ngắn là
truyện ngắn. Đã là t duy tiểu thuyết thì bao giờ chả phải nói đến sự vận dụng nó
trong nội bộ thể loại tiểu thuyết. Nói nh vậy không sai, nhng xem ra không tránh
khỏi thiển cận. Khái niệm t duy tiểu thuyết, trong cách hiểu của chúng tôi,
không bó hẹp trong khuôn khổ thể loại - nơi cơ sở hình thành khái niệm (t duy
tiểu thuyết). Nói t duy tiểu thuyết đã vợt thoát khỏi phạm vi thể loại tiểu thuyết
thì lí do nào đảm bảo cho nh vậy? Nghĩa là, với truyện ngắn ở đây, điều gì giữa
truyện ngắn và tiểu thuyết có những tơng đồng để nhìn thấy khái niệm t duy tiểu
thuyết trong nó. Một thao tác tất yếu phải tiến hành đó là đối sánh tiểu thuyết và
truyện ngắn. Trong tiến hành thao tác đối sánh, những u việt của thể loại tiểu
thuyết cũng đợc nêu lên - điều phải bàn trớc khi có những luận chứng về t duy
tiểu thuyết.


15
Phân biệt truyện ngắn và tiểu thuyết thiết nghĩ cần dựa trên hai căn cứ: thứ
nhất căn cứ vào định nghĩa thể loại; thứ hai căn cứ vào các đặc trng thuộc về thi
pháp của hai kiểu (thể) loại.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học tái bản năm 2006 của nhóm tác giả Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, thể loại là: dạng thức của tác
phẩm văn học, đợc hình thành và tồn tại tơng đối ổn định trong quá trình phát
triển lịch sử của văn học, thể hiện sự giống nhau về cách tổ chức tác phẩm, về
đặc điểm của loại hiện tợng đời sống đợc mô tả và về tính chất của mối quan hệ
của nhà văn đối với các hiện tợng đời sống ấy [67, 299]. Định nghĩa này có hai
đặc điểm: thứ nhất, chỉ dạng thức của tác phẩm văn học hình thành và tồn tại tơng đối ổn định trong quá trình phát triển của lịch sử văn học; thứ hai, thể hiện ở
sự giống nhau về: cách thức tổ chức tác phẩm, đặc điểm loại hiện tợng đời sống
đợc mô tả, tính chất của mối quan hệ giữa tác giả và hiện tợng đời sống đợc mô
tả. Vậy thì nếu áp dụng định nghĩa này để phân biệt tiểu thuyết và truyện ngắn

chúng ta chỉ thấy chúng khác nhau ở cách thức tổ chức tác phẩm (tức là các đặc
điểm khác đều giống nhau). Mà ngay từ cách thức tổ chức tác phẩm (giữa
truyện ngắn và tiểu thuyết) cũng đang có nguy cơ xoá nhoà ranh giới bởi lẽ quy
định của phơng thức viết (yêu cầu thời hiện đại) yêu cầu tiểu thuyết phải dồn nén
trong lúc truyện ngắn gia tăng tính đa thanh, tính mở.
Cũng ở công trình vừa nêu, các tác giả định nghĩa về truyện ngắn (ở trang
370): tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm các
phơng diện của đời sống: đời t, thế sự hay sử thi, nhng cái độc đáo của nó là
ngắn. Truyện ngắn đợc viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không
nghỉ, định nghĩa tiểu thuyết (trang 328): tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng
phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết
có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức
xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa
dạng. Theo hai định nghĩa này thì truyện ngắn và tiểu thuyết về căn bản khác
nhau ở một bên tự sự cỡ nhỏ, một bên tự sự cỡ lớn (tự sự cỡ nhỏ, cỡ lớn chỉ
là một cách nói) theo đó sẽ khác nhau về độ dài (dung lợng). Nếu nh theo những
điều nêu trên thì truyện ngắn và tiểu thuyết xem ra khó phân biệt (Nguyên Ngọc
khi đọc (ông đã dịch ra tiếng Việt) tác phẩm của Milan Kundera, chịu ảnh hởng
t tởng của ông này, đã khẳng định truyện ngắn và tiểu thuyết không phân biệt
nhau). Phải thừa nhận một thực tế, truyện ngắn và tiểu thuyết có nhiều điểm
chung, nhng t duy trên nét lớn, chúng ta cũng có thể nhận thấy những điểm phân
biệt (theo quan niệm này (sự khác biệt) mà Thuận - tác giả trẻ đang sống tại


16
Paris (đã viết các tiểu thuyết Phố Tầu, Pari 11- 8, T mất tích) đã kịch liệt phản
đối Nguyên Ngọc bằng một loạt bài in trên website: http:// Vietnamnet.vn):
Thứ nhất, về việc phản ánh đời sống: tiểu thuyết và truyện ngắn đều phản
ánh đời sống dới góc độ đời t, nhng tiểu thuyết đi sâu phản ánh số phận cuộc đời
còn truyện ngắn thiên về một đoản khúc, một nhát cắt. Chính vì đặc điểm này

mà dẫn đến sự khác biệt về ngoại diên của tiểu thuyết và truyện ngắn: tiểu thuyết
số lợng câu chữ thờng nhiều (dài), thậm chí bề bộn (Sông Đông êm đềm, Chiến
tranh và hoà bình); truyện ngắn số lợng câu chữ ít (ngắn). Belinski nói: "tiểu
thuyết là sử thi của đời t. Nếu hiểu theo Belinski thì cũng phải nhận thấy rằng
ông đang chỉ ra một dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận
của một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Chúng ta từng
biết tiểu thuyết hình thành khi vận mệnh con ngời, mối liên hệ của nó với đời
sống nhân dân đợc ý thức và đó là một hình thức để khớc từ khỏi sử thi, khỏi anh
hùng ca. Điều này giải thích vì sao tiểu thuyết thế giới đã để lại một gia tài đồ sộ
với những tên tuổi Stendhal, H. Balzac, V. Hugo, L. Tolstoi, M. Solokhov một nền tiểu thuyết cổ điển rực rỡ. Ngay cả khi nó thoát khỏi phạm trù cổ điển
của nó, nó đi tìm hình thức mới thì cũng mang theo một điệu bộ cồng kềnh. Có
thể thấy trong tiểu thuyết M. Proust, James Joyce. ở Việt Nam, nói về sự phản
ánh số phận con ngời của tiểu thuyết có thể lấy dẫn dụ khá dễ, nh những sáng tác
của các nhà văn hiện thực 1930 - 1945: Ngô Tất Tố (Tắt đèn - số phận chị Dậu),
Nguyễn Công Hoan (Bớc đờng cùng - số phận anh Pha), Vũ Trọng Phụng (Số đỏ
- sự vơn lên của thằng Xuân), Nguyên Hồng (Bỉ vỏ - cuộc đời Tám Bính). Còn
truyện ngắn phản ánh một nhát cắt đời sống? điều này có thể thấy ngay trong
cách định nghĩa của các nhà văn, chẳng hạn Tô Hoài: truyện ngắn là cách ca
lấy một khúc đời sống [135, 08], có ngời đã ví von khá thú vị: trong trận võ
đài xảy ra giữa cái văn bản hấp dẫn và độc giả của nó, truyện ngắn thắng nhờ cú
đo ván (còn tiểu thuyết thắng nhờ đánh kéo dài để lấy điểm) (Julio Cortázar) và:
một truyện ngắn hay thì phải gọn sắc, thấu cáy, và không khoan thứ ngay từ câu
đầu tiên [27]. Một loạt tác giả cùng tác phẩm của họ có thể kể tên ra đây: A.P.
Chekhov (Anh béo và anh gầy - gặp gỡ tình cờ giữa anh béo và anh gầy nơi nhà
ga), ở Việt Nam: Nam Cao (Một bữa no - bà lão một lần thăm cháu ăn quá no),
Nguyễn Tuân (Chữ ngời tử tù - Huấn Cao cho viên quản ngục chữ trong tù),
Nguyễn Quang Sáng (Chiếc lợc ngà - sau tám năm ông Sáu về thăm nhà (bé Thu
không chịu nhận ba, khi nhận ra ba thì đúng lúc ông Sáu phải trở lại chiến tr-



17
ờng), Nguyễn Minh Châu (Bến quê - Nhĩ ốm nặng không đi đến bến sông Hồng
đợc) vv
Thứ hai: trên cơ sở tái hiện cuộc sống dới góc độ đời t, cả truyện ngắn và
tiểu thuyết đều thể hiện chất văn xuôi. Nhng, ở tiểu thuyết là sự bề bộn, sự phức
tạp. Nó có thể khai thác mọi ngõ ngách của cuộc đời, không giới hạn không gian
thời gian, nó đi sâu vào đời sống nội tâm con ngời, phát hiện những mâu thuẫn
phức tạp, thậm chí còn khai thác nó nh một quá trình, nó chấp nhận mọi kiểu
ngôn ngữ có thể Ta có thể thấy rất nhiều kiểu ngôn ngữ trong Số đỏ (Vũ
Trọng Phụng) mà Đỗ Đức Hiểu gọi là những lớp sóng ngôn từ, ngôn ngữ của
me Tây, ngôn ngữ của lang băm, ngôn ngữ của bọn đầu đờng xó chợ, kể cả ngôn
ngữ đầy tính chất khẩu ngữ cũng đợc đa vào, ví dụ: đéo mẹ, tí tì ti vv Còn
truyện ngắn do chỗ nó tái hiện một nhát cắt nào đó của đời sống nên chất văn
xuôi không phức tạp nh tiểu thuyết. Chất văn xuôi thờng chỉ giới hạn trong một
phạm vi không gian, thời gian nào đó, giới hạn trong một khoảnh khắc nào đó,
chẳng hạn: giới hạn trong không gian một con đò nh Sang sông của Nguyễn Huy
Thiệp, không gian chật chội của ga tàu nh Anh béo và anh gầy của Sê khốp.
Chính trong chất văn xuôi này mà ta nhận thấy truyện ngắn và tiểu thuyết còn
khác nhau ở: một bên (tiểu thuyết) phản ánh tâm lí, thậm chí quá trình tâm lí còn
một bên chỉ tái hiện hiện thực với t cách là một mảnh cắt nào đó bắt chộp đợc.
(Dĩ nhiên điều này trong xu thế hiện đại, nhất là khi trào lu tiểu thuyết Mới ở
Pháp đợc khởi xớng cũng cha hoàn toàn).
Thứ ba: tiểu thuyết và truyện ngắn đều có khả năng tổng hợp thể loại. Tiểu
thuyết thể hiện điều này rất rõ. Trong tiểu thuyết có thể bắt gặp thơ, hình thức trữ
tình, ký, tự truyện, th từ, mẫu quảng cáo, mẫu tin. Truyện ngắn cũng thể hiện
tính chất tổng hợp nhng nó năng động hơn (Vơng Trí Nhàn) do chỗ nó là thể
loại ngắn, nó chỉ tái hiện một khúc đoạn trong đời sống (thông qua nhân vật,
nhân vật trong một tình huống nào đó sẽ biểu hiện ra bên ngoài thế giới bên
trong của mình, chẳng hạn sự vui mừng (nhân vật đọc thơ, truyện ngắn có thơ, ví
dụ Ma, Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp), sự ngạc nhiên trớc cảnh đẹp (qua con

mắt nhân vật, truyện ngắn xen hình thức trữ tình ví dụ Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn
Thành Long), nó thờng phụ thuộc lớn vào trạng huống tâm lí nhất định của tác
giả (chẳng hạn khi tác giả đang say sa, chìm trong cái đẹp, cái nên thơ, truyện
ngắn đẫm chất trữ tình, hay khi tác giả muốn biến tấu một khúc đoạn đau khổ


18
nào đó tác giả đã qua, truyện ngắn giàu chất ký vv), nó có thể thoát ra khỏi
trạng huống đó và kết thúc.
Thứ t: truyện ngắn và tiểu thuyết trần thuật với khoảng cách gần. Đặc
điểm này trên thực tế không giúp phân biệt đợc truyện ngắn và tiểu thuyết. Bởi lẽ
đó là một tiêu chí về cơ bản phân biệt tiểu thuyết (và qua đó là truyện ngắn) với
sử thi. Sử thi trong quá trình miêu tả, ngời miêu tả luôn phải giữ một khoảng
cách với điều đợc miêu tả, đó là tâm thế của cháu con đối với đấng, bậc, nói theo
M. Bakhtin đó là độ lùi sử thi. Còn tiểu thuyết là cái nhìn xoi mói, có thể lật
đối tợng theo mọi bề để mô tả, có thể phỉ báng nó, có thể phân xuất trong nó
những lớp sóng nội tâm (tiểu thuyết phức điệu của Ph. Dostoievsky, chẳng hạn
Anh em nhà Cazamadop). Còn truyện ngắn dù thờng tác giả đứng bên ngoài
quan sát nhng cũng không tôn đối tợng thành những kẻ bề trên, thậm chí còn mô
tả một cách trần trụi, đó là cha kể đến những truyện ngắn mà các tác giả đã đi
vào nội tâm nhân vật để đan lồng các bè ngôn ngữ, chẳng hạn truyện ngắn Chí
Phèo của Nam Cao. Tuy nhiên tinh ý cũng có thể thấy: tiểu thuyết do chỗ u tiên
phản ánh số phận, cuộc đời nên với khoảng cách trần thuật gần nó tái hiện đợc
nội tâm nhân vật, phản ánh đợc nội tâm nhân vật; còn truyện ngắn thì điều này
không cơ bản và không nhất thiết.
Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Những kết quả so sánh có đợc trên đây
chỉ mang tính chất tơng đối chứ cha hẳn đã là sự phân biệt rạch ròi, quy những
điểm có đợc về hệ thống thi pháp hết sức chặt chẽ (của mỗi thể loại). Có thể do
những nhập nhằng thể loại nh phân tích ở đây mà M. Bakhtin dù từng khẳng
định: tôi cho rằng có tồn tại ở mức độ cao vấn đề về thể loại nh ng cũng không

quên trớc sau: tôi từ chối đa ra định nghĩa thể loại [103].
1.1.2. Khái niệm t duy tiểu thuyết
T duy tiểu thuyết là khái niệm đợc dùng nhiều trong phê bình - nghiên cứu
văn học. Tuy nhiên, một sự minh định cần thiết về nó vẫn cha thấy đợc xuất
hiện. Với việc nhận ra điều đó, trong bài viết này, chúng tôi cố gắng xác định
một số đặc điểm.
Khái niệm t duy tiểu thuyết không chỉ dùng ở phạm vi tiểu thuyết với t
cách là thể loại đã sản sinh ra khái niệm (nghĩa hẹp). Khái niệm t duy tiểu thuyết
còn đợc hiểu là hệ hình (paradigme, cách hiểu và vận dụng của Trần Đình Sử) t
duy (theo nghĩa rộng). Theo sự xác định của Milan Kundera khái niệm này ra
đời trong thời hiện đại. Thời hiện đại không chỉ bắt đầu với Descartes mà còn
bắt đầu với Cervantès và Rabelais [131, 331]. Dĩ nhiên cách hiểu ở đây của


19
Kundera là rất biện chứng khi ông này quan niệm tiểu thuyết khác với chúng ta
và nhiều ngời từng hiểu. Nói đến t duy tiểu thuyết là nói đến tâm thế trớc hiện
thực hiện hữu, nó là cái nhìn xoá bỏ khoảng cách (không chỉ hiểu ở nghĩa vật
chất là khoảng không gian) giữa chủ thể và đối tợng. Nói một cách dễ hiểu, nếu
t duy sử thi biểu hiện một khoảng cách lí tởng giữa chủ thể và đối tợng - theo M.
Bakhtin là khoảng cách sử thi [10] biểu hiện tâm thế của kẻ cháu con trớc ông
cha, đấng, bậc - thì t duy tiểu thuyết xoá bỏ điều đó. Trớc khi đi vào những biểu
hiện của nó, chúng ta hãy cùng đặt ra câu hỏi và lí giải: tại sao lại có điều nh
vậy?
T duy tiểu thuyết cũng nh t duy sử thi có nguồn gốc từ triết học đời sống,
nghĩa là khi có nhận thức về con ngời, về cuộc sống. Suy đến cùng, triết học đó
bắt nguồn từ lao động (dẫn dụ gốc: từ loài vợn, nhờ lao động mà con ngời sinh ra
đợc xem nh minh chứng dễ thấy). Chính lao động đã làm cho bộ óc của con ngời
ngày càng hoàn thiện và những chân trời bồi đắp vẫn mở ra mãi mãi. Đến lợt nó,
bộ óc lại phục vụ cho chân tay làm thành một mối quan hệ quấn quyện. Và, kẻ

chịu dao động đến tận cùng vẫn là kẻ u t kia. Do đó có thể đa ra một phán đoán
phản ánh trực tiếp rằng: t duy sử thi và t duy tiểu thuyết có cùng cơ sở là (nguyên
lí) t duy của con ngời bắt nguồn từ hành động, trong đó, nhạy cảm và đặc thù
nhất là hành động sáng tạo khoa học. Dĩ nhiên khi chúng tôi nói t duy sử thi, ở
trờng hợp này, là nói t duy sử thi hiểu theo nghĩa hệ hình t duy, dới một thời đại
đã khai sáng. T duy sử thi có nguồn gốc từ những khám phá cơ học của khoa
học. Mầm mống của câu chuyện này bắt nguồn từ trong cội rễ của những phát
hiện của Newton - các định luật cơ học về chuyển động và tơng tác giữa các vật
thể trong không gian - để đến lúc Laplace nghiên cứu về thiên văn và kết luận:
nếu biết trớc trật tự vũ trụ tại một thời điểm nhất định sẽ có thể tiên đoán chính
xác trật tự vũ trụ tại bất cứ thời điểm nào khác [115] nguyên lí này đợc ngời ta
thừa nhận và gọi tên là nguyên lí tất định. Chính điều này đã làm cho bộ óc tham
khám phá của con ngời thêm đợc cổ suý. Ngời ta kì vọng về việc hiểu trọn vẹn
về đối tợng, có thể tách đối tợng khỏi mình để ngắm nghía và kết luận về nó. Đó
chính là nguyên nhân dẫn đến cái nhìn duy lí về sự vật - hiện tợng, về con ngời một bớc đột phá của diễn trình t duy nhân loại (trên cơ sở tạo nên bộ mặt của nửa
cuối thế kỉ XIX và nửa đầu XX với những thành quả khoa học kĩ thuật) và những
hậu hoạ khủng khiếp nó mang lại. Tác giả cuốn Cuộc phiêu lu t tởng văn học Âu
châu thế kỉ XX 1900 - 1959 đã diễn tả lại tâm lí của ngời Tây âu trớc khi họ bớc
vào cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, họ hồn nhiên cảm tởng nh đi picnic trong
sự kì thú và khám phá mãi đến khi chứng kiến sự không đùa giỡn của đạn bom


20
họ mới vỡ lẻ và hoảng loạn. Đó cũng là nguyên nhân để văn học thế giới xuất
hiện những hiện tợng nh J. P. Sartre, Albert Camus, Ph. Kafka - những nhà văn
hiện sinh đau đớn trớc thân phận con ngời. Nhng những lí thuyết cơ học lập tức
bị phản bác bởi những khám phá của ngành lợng tử mà đại diện là W.
Heisenberg. W. Heisenberg nêu lên nguyên lí về tính bất định (của thế giới lợng
tử). Nguyên lí này về sau đợc Niels Bohr ủng hộ và bảo vệ. Nguyên lí bất định
nói rằng: bạn không thể tiên đoán chính xác vị trí của một hạt cơ bản tại một

thời điểm cho trớc giống nh các nhà thiên văn tiên đoán chính xác vị trí của một
ngôi sao tại một thời điểm cho trớc [115]. Nguyên lí bất định là sự khẳng định
tính tơng đối của giá trị và theo đó là sự phá vỡ hệ thống. Điều mà các nhà lợng
tử đem đến cho nhân loại là nhận thức về cái tơng đối của giá trị. Chúng ta biết
đỉnh cao của t duy duy lí là cuộc khủng hoảng làm sầu não lòng ngời và để từ đó
ngời ta nhận thức ra rằng chỉ còn nỗi đau, những trạng thái tâm lí của con ngời là
hằng số. Con ngời tự nghiền ngẫm lại mình - điều này cho thấy cá nhân rất quan
trọng. Một khi cá nhân đợc tôn lên ở ngôi vị thì hẳn nhiên ý thức về dân chủ
(theo nghĩa đích thực của khái niệm) sẽ đợc khải thị. Cùng với việc mọi giá trị có
thể đặt câu hỏi, còn lại chỉ là nỗi buồn khắc khoải riêng của thân phận ngời, ý
thức tự tôn, tự nhìn nhận lại mình của con ngời lên cao hơn bao giờ hết. Cùng
trong thời gian đó, phát hiện con ngời của bác sĩ Freud (khám phá ra tiềm
thức, những ẩn ức) đã cộng thêm vào chấn động và hoang mang của lòng ngời
làm cho ngời ta tin rằng không thể có một sự hiểu biết tận cùng về con ngời đợc.
(Tình hình trong ngành vật lí lợng tử cũng chứng tỏ điều hoài nghi này: Einstein
bằng việc đa ra thuyết tơng đối: Thuyết tơng đối đặc biệt (1905) và thuyết tơng
đối tổng quát (1916) khẳng định sự xác định (chống lại nguyên lí bất định) do
vậy ông bắt buộc phải vào cuộc với một ngời khổng lồ sừng sững Niels Bohr khi
ông này cảm thấy đã bị tổn thơng lòng tự trọng khoa học. Kết quả của sự ăn
miếng trả miếng ở Niels Bohr là Einstein liên tiếp thất bại bởi những thí nghiệm
tởng tợng của ông không thành công đợc. Sự nghiệp đang dở dang thì Einstein
qua đời. Quan điểm mà Einstein giữ vững trong cuộc tranh luận bất hủ với Niels
Bohr là việc ông cho rằng cái bất định (mà ngời khác gọi) kia chỉ là sự rối loạn lợng tử. Dù vậy đi chăng nữa (trên thực tế đến nay cuộc tranh luận vẫn cha ngã
ngũ) thì về bản chất sự tác động đến lòng ngời cũng không khác nhau là mấy hoài nghi, đặt lại giá trị, chứng minh bằng những giá trị mới sâu sắc hơn).
Với sự tác động trên đây, t duy tiểu thuyết đợc hiểu trên các biểu hiện (đối
sánh với t duy sử thi): 1, T duy sử thi khẳng định sự tất định, t duy tiểu thuyết thì
ngợc lại khẳng định sự bất định. Đối với t duy sử thi: Mỗi khi khẳng định sự tất


21

định lập tức chúng ta hiểu ngay rằng đã tách biệt chủ thể và khách thể, bên trong
và bên ngoài, xấu và tốt, nói rộng ra, đó là sự phân cực và lỡng giá, khẳng định
một chân lí đúng, chân lí độc tôn. Hẳn ai trong chúng ta cũng biết tuyên ngôn
nổi tiếng của Descartes: Tôi t duy vậy tôi tồn tại. Mà đã nói: tôi t duy tức là
tôi t duy về cái gì đó. Cái gì đó ở đây, trong quan điểm Descartes, tách khỏi
chủ thể một cách cơ giới. T duy sử thi bằng việc tách biệt các giá trị, tạo dựng
khoảng cách nh trên đã chứng tỏ rõ ràng rằng mọi sự vật có sự hoàn tất khép kín.
Đối với t duy tiểu thuyết thì ngợc lại không khẳng định sự hoàn tất khép kín, từ
đó không khẳng định sự phân cực, biệt lập các giá trị mà xem các giá trị chỉ có
tính chất tơng đối, do đó đa đến quan niệm tính đa chân lí, hay tính đa nguyên.
Bùi Văn Nam Sơn, một trí thức thành danh dới nền Tây học, trực tiếp là nền triết
học Đức, trong Tơng lai của khai sáng ở một mối quan tâm khác cũng khẳng
định: xã hội đợc khai sáng không đồng nghĩa với đại đồng, đại thuận, đại
trị, trái lại xem tranh chấp và bất đồng là hình thức bình thờng của giao tiếp xã
hội; các yêu sách về tính chính đáng (legitimationen) tối hậu, chung tất cả là
không thể có đợc [76, 83]. T duy tiểu thuyết quan niệm rằng khó có thể lờng trớc những biến động của cuộc đời, của ngoại giới (xin lu ý đây không phải là một
quan niệm bi quan mà có từ thực chứng) nhất là những biến động trong lòng ngời, điển hình cho điều đó là những biến thái đang diễn ra trong kiếp hiện sinh. 2,
Đối với t duy sử thi vì khẳng định tính hoàn tất khép kín, tức là nhìn nhận
khoảng cách giữa chủ thể và ngoại giới nên con ngời có tính đại diện. Tính đại
diện ở đây biểu hiện nh những công thức cơ giới: một ngời xem ngắm coi nh kết
quả xem ngắm của nhiều ngời (bởi lẽ sự vật đợc hoàn tất, con ngời đợc cơ cấu
hoàn tất); một ngời - đối tợng xem ngắm là sự đại diện cho nhiều ngời, cho tập
thể (vì lẽ đó mới có cái gọi là con ngời đại diện cho phẩm tính cộng đồng). Về
cách nhìn này trong văn học, ở thể loại sử thi đợc gọi là khoảng cách sử thi:
khoảng cách thời gian giữa thời đại đợc nói trong tác phẩm và thời đại phản ánh
nó vào tác phẩm (theo M. Bakhtin khoảng cách này là hàng triệu năm); khoảng
cách tâm thế, nh đã nói, đó là tâm thế của cháu con đối với cha ông, đấng, bậc.
Chính vì đặc thù này (đặc thù của loại hình) mà phải chăng ngời ta mặc nhiên
thừa nhận t duy sử thi thành một khái niệm của hệ hình (kiểu t duy)? Và tiểu
thuyết cũng vậy? Đặc điểm của tiểu thuyết là phản ánh cái đang diễn ra, cái hiện

thực cha hoàn thành, vì miêu tả cái đang diễn ra nên nó không có khoảng cách
nh sử thi. Và có lẽ bởi vậy (sự liên đới khái niệm) mà nhà bác học M. Bakhtin dù
chỉ nghiên cứu tiểu thuyết nhng đã phải trả giá bằng những tháng ngày đen tối bị
lu đày trong một bối cảnh nhạy cảm của nớc Nga dới thời xô viết? Tất nhiên


22
cách nghiên cứu của M. Bakhtin, xin nhấn mạnh, là nghiên cứu dới cái nhìn đồ
chiếu triết học (nhiều ngời gọi ông là nhà triết học chứ không phải nhà nghiên
cứu văn học thuần nghĩa). Nói những điều này có nghĩa là về khái niệm đang
bàn, hiểu theo nghĩa rộng, có nguồn gốc từ trong thể loại, loại hình văn học nghĩa hẹp. Trở lại với việc đối sánh t duy tiểu thuyết và t duy sử thi. Nh đã nói t
duy tiểu thuyết nhìn nhận sự vật tơng đối, con ngời cũng tơng đối với vô vàn giá
trị, khoảnh khắc, do đó t duy tiểu thuyết đa đến sự giác ngộ về cá nhân, thức tỉnh
ý thức bình đẳng và dân chủ; t duy tiểu thuyết không khẳng định khoảng cách
tuyệt đối cơ giới giữa chủ thể và sự vật, từ đó thừa nhận giá trị đợc nhìn thấy là
giá trị tơng đối, có góp phần của màu sắc cá nhân, của sự cảm thụ cá nhân. Điều
này đã dẫn đến hệ quả là sự phong phú của tính cách mà phản ánh rõ nét nhất là
trong văn chơng: nhiều cách viết của nhiều ngời; có thể viết về một đối tợng nhng ở mỗi cây bút là mỗi sự khám phá khác biệt, không trùng lặp. Từ đó lại dẫn
đến hệ quả tất yếu là sự mở rộng đề tài, chủ đề trong tác phẩm văn học. Điều này
đã giải toả mối lo âu không đâu tiểu thuyết đã chết nhân vật đã chết của sự
phát triển lên đến đỉnh cao t duy duy lí trớc đó. 3, T duy sử thi nhấn mạnh tính
hệ thống, tính mạch lạc tuân thủ nên giọng điệu ở đó là giọng điệu sùng kính,
linh thiêng, việc thuật sự việc chỉ đơn giản là thuật sao cho đúng, cho thật, cho
hay, tức là yếu tố cảm nhận, sáng tạo cá nhân không đợc chú trọng. Còn t duy
tiểu thuyết do phá vỡ tính hệ thống, nhìn nhận các yếu tố đơn lẻ có khi ngẫu
nhiên, sự không lờng trớc nên giọng điệu ở đây là giọng điệu xoi mói, mỉa mai
pha chút xót xa, cay đắng. Cuộc đời không bao giờ có câu nói cuối cùng, câu nói
của tôi về cuộc đời chỉ là một cách cảm, nghĩ của riêng cá nhân tôi mà thôi. Nh
vậy ở đây yếu tố cá nhân sáng tạo đợc đề cao (tôn sự chủ động, những trực cảm
cá nhân lên). Điều này bắt gặp rất rõ ràng trong văn chơng.

Trên cơ sở quan niệm là hệ hình t duy và đã tiến hành thao tác phân xuất,
ta hãy cùng phóng chiếu vào các tác phẩm văn chơng để cùng nhận diện các biểu
hiện của nó. Trớc hết cần khẳng định rằng khi đã là hệ hình t duy thì không cứ
riêng gì tiểu thuyết mà với hầu hết thể loại đều vận dụng t duy tiểu thuyết, chẳng
hạn thơ, kịch, truyện. Đối với thơ đó là sự lộn ngửa đối tợng ra mà nói - xin đợc
lấy riêng ở văn học Việt Nam - sự đa vào thơ những sắc thái thông tục nh tiếng
nớc đái của phụ nữ trong bồn cầu (Ngọn cỏ - Nguyễn Thị Hoàng Bắc) hoặc thơ
của nhóm Mở Miệng (Bùi Chát, Lí Đợi); trong kịch có thể thấy ở kịch Nguyễn
Huy Thiệp; ở truyện ngắn có thể thấy ở hàng loạt truyện ngắn của các tác giả
viết sau 1975: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh
1, Biểu hiện đầu tiên cần chú ý của t duy tiểu thuyết là sự trần thuật không


23
khoảng cách, nói khác đi là sự trần thuật ở điểm nhìn hiện tại, ở cái cha hoàn
thành/ 2, Giọng điệu và ngôn ngữ: nh đã nói, giọng điệu đó là giọng điệu xoi
mói, giễu cợt, có sắc điệu xót xa, là chất giọng của đời thờng của ngôn ngữ đời
thờng vốn sinh động và giàu sắc thái, không thuần khiết/ 3, biểu hiện thứ ba của
t duy tiểu thuyết trong văn chơng là sự bất định, nói rõ hơn đó là những dự cảm
của tác giả về cuộc đời (theo Milan Kundera là sự hiển minh của lỡng lự), của
cái tôi thử nghiệm (vì trên đời này có rất nhiều cái tôi) của tác giả trong hành
trình tác phẩm; có thể bắt gặp trong tác phẩm những bất trắc, những sự không
đoán lờng, những chân thật của cõi lòng kiếp hiện sinh. Với việc khẳng định tính
đa chân lí, xoá bỏ khoảng cách, khẳng định cá nhân nh đã nói trên, t duy tiểu
thuyết đã làm cho văn học mở rộng đề tài, chủ đề, tránh đợc sự nhàm chán đơn
điệu, tác phẩm trở nên phong phú - đây là một trong những hệ quả khả thi của t
duy tiểu thuyết/ 4, biểu hiện thứ t đó là sự tự do, kết cấu mở của tác phẩm: kết
cấu mở đợc hiểu là việc nhà văn tạo ra tác phẩm của mình giống nh cuộc sống
anh ta miêu tả nó cứ tự nhiên tuôn chảy, độc lập với anh ta(Koginov) [41] cái
gốc rễ của kết cấu mở là: cuộc sống đang diễn tiến; nh vậy, kết cấu mở là sự mở

rộng biên giới khỏi tác phẩm, tác phẩm kết thúc không phải là đã có sự hoàn tất
cũng nh cuộc sống không bao giờ hoàn tất vậy (điều này có sự tơng đồng với
thuyết liên văn bản - cho thấy nhân loại đã phát triển đến đỉnh cao của nhận
thức: mỗi văn bản là sự ghép nhập của những văn bản có trớc và sau nó, nó nh là
một bản hoa ghép (lí thuyết của Kristeva năm 1966); lí thuyết liên văn bản phản
bác lại thuyết văn bản đã tỏ ra độc tôn trớc đó rằng, văn bản, sự sáng tạo cũng
chỉ có giá trị tơng đối (ở đây chúng tôi không có dịp bàn kĩ)). Kết cấu mở của tác
phẩm có liên quan chặt chẽ đến tính bất định, đặc điểm đợc nêu ra trớc đó/ Và
chính kết cấu ấy đã làm nên đặc điểm thứ năm: tính đa thanh. Tính đa thanh của
tác phẩm là dĩ nhiên vì: thứ nhất, nhà văn phản ánh cuộc sống tại thời điểm hiện
tại trong một trạng huống tâm lí nhất định của anh ta mà cuộc sống thì không
đứng yên do đó một sự vật - hiện tợng ở thời điểm này thì thế này nhng ở thời
điểm khác thì thế khác; thứ hai, nh đã nói, không có chân lí phổ quát, do đó yếu
tố cá nhân, trạng thái tâm lí, những cảm nhận khó nắm bắt của cá nhân đợc chủ
trọng do đó có sự đối thoại tất yếu với ngời khác dù muốn dù không (bởi ngời
khác cha hẳn đã nghĩ nh anh, kể cả cố hiểu anh đến mấy cũng không thể trùng
khít trong suy nghĩ và diễn giải); thứ ba, có thể biểu hiện trên hai bình diện: nhà
văn khắc hoạ nhân vật trong tác phẩm, nhng là con ngời không hoàn tất kiểu nh
lão Khúng của Nguyễn Minh Châu, Thuỷ của Nguyễn Huy Thiệp (vì không có
một sự hoàn tất nào một khi đã thay đổi tâm thế, một khi con ngời bình đẳng trớc


24
con ngời; nhà văn dù tạo nên nhân vật nhng câu hỏi về nó cha hẳn đã một bề
trong kiểm soát - đây đợc xem nh hệ quả tất yếu của quá trình viết: các quan hệ
đời sống không tách biệt chằn chặn và, sự bất lực, những giới hạn của ngôn ngữ tức, nhà văn vẫn không thôi đối thoại với nó)/ nhà văn sáng tạo nên nhân vật của
mình bao giờ cũng có những toan tính phản ánh, trong khi không phải mọi vấn
đề đều cho phép ông ta nói ra một cách mồn một, ông ta buộc lòng phải sử dụng
lối nói ám dụ, nhng đây không phải là ám dụ theo lối ớc lệ cổ điển (kiểu phúng
dụ), mà ám dụ vợt thoát từ sự xoi mói về nhân vật, vỗ vai nhân vật (lão Khúng

của Nguyễn Minh Châu - một biểu tợng về ngời nông dân, Nguyễn Huy Thiệp
mợn đề tài dục tính kiến giải về văn hoá), sắc thái ám dụ có khi còn nhiều bình
diện nên ngời đọc khó đa ra câu hỏi cuối cùng, thậm chí còn tự buộc mình vào
cuộc đối thoại với nhà văn mà gã này đa ra một cách nửa vời, nh trêu ngơi.
Giống nh phản ứng dây chuyền, tính đa thanh của tác phẩm lại dẫn đến hệ quả
tất yếu: sự đồng sáng tạo - một khái niệm của tiếp nhận văn học. Ngời đọc, trớc
hết, nhìn trên lí luận chung, là một mắt khâu trong việc tạo thành tác phẩm văn
học: từ văn bản đến tác phẩm văn học. Nh vậy, tác phẩm văn học nếu nhìn trong
quá trình, phụ thuộc khá lớn vào sự đánh giá của ngời đọc. Khi tiếp cận tác
phẩm, với những tác phẩm đa thanh trong sự quan tâm của chúng tôi, ngời đọc
buộc lòng phải đặt mình vào cuộc đối thoại mà nhà văn tạo dựng dù muốn dù
không. Ngời đọc đa ra kiến giải về nhân vật, về cuộc đối thoại trong tác phẩm
nhng đó là kiến giải của một trong những kiến giải. Kiến giải đó, thậm chí, gây
bất ngờ cho kẻ chủ trơng (nhà văn). Vậy là, sự giàu có của tác phẩm hẳn nhiên đợc tính đến. Ngoài ra, một câu chuyện thú vị khác trong chiều diễn suy cũng xin
đợc kể: từ việc hiểu nhân vật, hiểu cuộc đối thoại, ngời đọc mang tham vọng
tìm hiểu nhà văn, tìm hiểu xem ông ta muốn nói gì. Tất nhiên lại là một công
đoạn không mấy dễ dàng, những đối cực sẽ xuất hiện. Và, vậy là anh ta lại tự đặt
mình vào trong cuộc đối thoại bất tận với nhà văn, một con ngời tồn tại thực
bằng sinh thể sinh học (điều này giúp ta hiểu vì sao nhà văn nhà thơ (dĩ nhiên họ
muốn nói gì cũng là qua tác phẩm) bị quản thúc, chẳng hạn Đặng Hoàng Hng,
Nguyễn Huy Thiệp một thời).
Trên đây là những thuyết minh của chúng tôi về t duy tiểu thuyết - một
khái niệm hiểu trên hai nghĩa trong đó bao quát là nghĩa chỉ hệ hình t duy: nó là
một kiểu t duy xuất hiện và phát triển ở thời hiện đại.
1.2. Nguyễn Huy Thiệp - gơng mặt nổi bật của truyện ngắn Việt Nam sau
1986
1.2.1. Bức tranh chung của tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam sau 1986


25

Sau năm 1975, hiện thực đất nớc có nhiều thay đổi. Tình hình đó đã khiến
văn học nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng chuyển sang một hớng đi mới.
Nhen nhóm từ một số tác phẩm của một số nghệ sĩ, nở rộ sau 1986 với mốc quan
trọng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, văn học Việt Nam đã dần định hình
một xu hớng tiếp cận và khám phá hiện thực mới. Mở đầu, khi bối cảnh sử thi
đã không còn, một hiện thực mới thế chỗ, yêu cầu cấp bách cần phải thay đổi đã
bắt buộc các nhà văn phải dùng lối nói trực diện để thông cáo và tuyên ngôn.
Mùa ký - phóng sự ra đời vì thế. Xin đợc nói rằng, trớc khi đề cập một số thành
tựu nổi bật của truyện ngắn, tiểu thuyết thì cần phải đề cập đến mùa ký - phóng
sự này. Vì: nó đợc xem nh bớc đệm để các nhà văn giã từ vũ khí với những
cách viết thiếu chân thực đời thờng. Các tác phẩm ký - phóng sự nổi bật có thể
kể: Tháng ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải), Rất nhiều ánh lửa (Hoàng Phủ Ngọc
Tờng), Suy nghĩ trên đờng làng (Hồ Trung Tú), Cái đêm hôm ấy ... đêm gì?
(Phùng Gia Lộc), Ngời không cô đơn (Minh Chuyên), Tiếng kêu cứu của một
vùng văn hoá (Võ Văn Trực)... Các tác phẩm ký - phóng sự đã tạo nên một sức
mạnh thuyết phục thúc đẩy hai thể loại anh em là tiểu thuyết và truyện ngắn phát
triển.
Bắt đầu từ những năm đầu 80, tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam bớc vào
chuyển đổi. Những tác phẩm đánh dấu mốc quan trọng có lẽ là: tập truyện ngắn
Bến quê (1985, Nguyễn Minh Châu), Đứng trớc biển (1982), Cù lao Tràm
(1985) (Nguyễn Mạnh Tuấn), Mùa lá rụng trong vờn (1985, Ma Văn Kháng),
Thời xa vắng (1986, Lê Lựu), sau đó là Tớng về hu, Con gái thuỷ thần, Không có
vua, Những bài học nông thôn những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Thiên
sứ (1989, Phạm Thị Hoài), rồi Nỗi buồn chiến tranh (1990, Bảo Ninh), Bến
không chồng (Dơng Hớng), Mảnh đất lắm ngời nhiều ma (Nguyễn Khắc Trờng).
Các tác giả nổi bật kế tiếp có thể kể: Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình
Phơng, Thuận, Nguyễn Ngọc T... Nhìn một cách khái quát nh vậy để thấy đợc
thành tựu của tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam và thấy đợc chỗ đứng của
Nguyễn Huy Thiệp trên văn đàn. Nguyễn Huy Thiệp là tác giả truyện ngắn (ngời
ta vẫn gọi ông nh vậy) nhng đã để lại dấu mốc quan trọng đối với tiểu thuyết,

truyện ngắn nói chung. Dù đến sau nhng ông có công đẩy cách tiếp cận hiện
thực lên một tầm mới - với nghĩa hiện thực vốn có, hiện thực nh tôi thấy, đồng
thời đa vào đó một cách viết khá táo bạo và phù hợp. Nghĩa là, ông kế thừa
những ngời trớc đó chỉ có điều cách làm của ông có vẻ triệt để hơn, táo bạo hơn.
Sau Nguyễn Huy Thiệp, các tác giả văn xuôi dù ít dù nhiều cũng bị ám ảnh bởi


×