Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Tìm hiểu nông dân nông nô tây âu trong sự đối sánh với nông dân tá điền phương đông thời trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.98 KB, 63 trang )

Lời cảm ơn!
Để hoàn thành khóa luận này trong quá trình nghiên cứu em đã nhận đợc sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của thầy giáo-giáo viên hớng dẫn ThS. Hoàng
Đăng Long và sự góp ý chân thành, động viên của thầy cô giáo trong khoa
Lịch sử, sự động viên khích lệ của ngời thân và bạn bè.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng để hoàn thành khóa luận, song do trình
độ bản thân còn hạn chế nên khó tránh khỏi thiếu sót. Kính mong các thầy cô
giáo và bạn bè góp ý để khóa luận đợc hoàn thiện hơn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới tất cả các thầy cô giáo, ngời
thân và bạn bè.
Vinh, tháng 5 năm 2010
Sinh viên
Bùi Thị Chiến


Môc lôc
Trang


A. Mở Đầu
1. Lí do chọn đề tài
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mac-lênin trong tiến trình lịch sử xã hội
loài ngời ứng với mỗi thời kì lịch sử là một chế độ xã hội tơng ứng. Trong tiến
trình ấy ứng với thời trung đại là sự tồn tại của chế độ phong kiến. ở phơng
Tây chế độ phong kiến ra đời từ năm 476, khi đế quốc Tây La Mã bị giệt vong
và kết thúc lúc cách mạng t sản Nê-đéc-lan bùng nổ ở nửa sau thế kỉ XVI. Còn
ở phơng Đông, chế độ phong kiến điển hình nhất là ở Trung Quốc và nó đợc
mở đầu bằng sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất đất nớc vào năm 221 TCN,
kết thúc bằng cuộc cách mạng Tân hợi năm 1911. Đây là thời kì có nhiều nội
dung lịch sử quan trọng thu hút việc nghiên cứu của giới nghiên cứu lịch sử.
Đặc biệt trong đó có nghiên cứu vấn đề ngời nông dân.
Hai giai cấp cơ bản của xã hội phong kiến là địa chủ phong kiến và nông


dân. Trong đó giai cấp địa chủ phong kiến chiếm hầu hết ruộng đất trong xã
hội còn giai cấp nông dân bị mất hết ruộng đất. Trên cơ sở ấy giai cấp địa chủ
phong kiến bóc lột nông dân bằng địa tô và các hình thức cỡng bức siêu kinh
tế khác. Nếu nh lực lợng sản xuất chính trong xã hội phong kiến Tây Âu là
nông nô thì trong xã hội phong kiến phơng Đông là nông dân tá điền. Cũng đã
có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu những vấn đề liên quan về hai
tầng lớp này. Nh chuyên đề Ngời nông dân trong xã hội phong kiến Tây Âu;
Đặc điểm phong trào nông dân Tây Âu thời trung đại của Đặng Đức An.
Năm 1976 trờng Đại học s phạm Hà Nội I đã dịch cuốn Tuyển tập luận văn
phong trào nông dân Trung Quốc thời phong kiến, Tuy nhiên cha có một
công trình nghiên cứu khoa học nào chuyên sâu nghiên cứu về hai tầng lớp
này khi đặt nó trong sự đối sánh. Mà lịch sử phơng Đông và phơng Tây vốn dĩ
vừa có những điểm tơng đồng vừa có những nét khác biệt nhau. Vì thế đề tài
này góp phần bổ sung một cách đầy đủ hơn cho khoa học lịch sử khi nghiên
cứu về ngời nông dân lĩnh canh trong xã hội phong kiến, làm sáng rõ hơn một
trong những điểm giống và khác nhau của lịch sử phơng Đông, phơng Tây
thời trung đại. Đây chính là cơ sở khoa học để tôi chọn đề tài này.
Bên cạnh đó, trên thực tế khi tìm hiểu đề tài này còn cho ta thấy đợc vai
trò, vị trí của quan trọng của lực lợng sản xuất chính trong xã hội mà ở mỗi
hình thái kinh tế xã hội đều tồn tại, chẳng hạn nh nô lệ trong xã hội chiếm hữu

3


nô lệ, vô sản trong xã hội t bản. Từ đó ta có thể so sánh đợc lực lợng sản xuất
chính trong xã hội này với lực lợng sản xuất chính trong xã hội khác. Giai cấp
bị trị (nông nô Tây Âu, tá điền phơng Đông) tồn tại trong mối liên hệ với giai
cấp thống trị (lãnh chúa phơng Tây, địa chủ phơng Đông). Vì thế nhận thức đợc những nét căn bản về đời sống, thân phận của họ chính là cơ sở, là điều
kiện để chúng ta hiểu rõ hơn về giai cấp thống trị bóc lột họ. Hiểu rõ hơn tại
sao họ lại đấu tranh để chống lại giai cấp thống trị, giải phóng thân phận.

Mặt khác, tìm hiểu đề tài này cũng có một ý nghĩa hết sức to lớn đối với
thực tiễn học tập môn lịch sử. Khi học tập lịch sử ngoài việc hiểu rõ kiến thức
lịch sử còn có một yêu cầu hết sức quan trọng nữa, đó là trên cơ sở những kiến
thức cụ thể đó ta phải biết hệ thống hoá, đặt nó trong sự phân tích, so sánh đối
chiếu để nắm vững bản chất của vấn đề, thấy đợc sự phát triển của lịch sử. Bởi
thế, tìm hiểu đề tài này giúp chúng ta có sự liên hệ, so sánh với các thời kì
khác nhau và liên hệ, so sánh giữa các khu vực, quốc gia trong cùng một thời
kì lịch sử, từ đó nâng cao tầm nhận thức của mình.
Với những lí do khoa học và thực tiễn trên tôi đã chọn vấn đề Tìm hiểu
tầng lớp nông nô Tây Âu trong sự đối sánh với tá điền phơng Đông thời
trung đại" làm đề tài của mình trong khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề phơng thức sản xuất nói chung và các vấn đề về giai cấp nông dân
trong xã hội phong kiến nói riêng đã đợc nhiều sử gia trong và ngoài nớc quan
tâm nghiên cứu. Năm 1978, nhiều nhà sử học qua nhiều năm nghiên cứu đã
biên soạn đợc bộ giáo trình lịch sử thế giới trung đại. Những năm gần đây,
một bộ giáo trình mới đợc viết tốt hơn, hoàn chỉnh hơn đã ra đời phục vụ tốt
hơn cho việc học tập, giảng dạy ở khoa sử các trờng s phạm. Tuy nhiên với
tính chất là một bộ giáo trình, tài liệu học tập của sinh viên nghành sử thì nội
dung chủ yếu của nó là đề cập đến tất cả các mặt từ chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hoá ở thời trung đại, chứ nó không đi sâu vào tìm hiểu giai cấp nông dân
trong xã hội phong kiến. Năm 1976, trờng Đại học s phạm I Hà Nội đã dịch
cuốn Tuyển tập luận văn phong trào nông dân Trung Quốc thời phong kiến,
(Trích trong Trung Quốc phong kiến xã hội nông dân chiến tranh về vấn đề
thảo luận tập, nxb Tam Liêm Th Điếm, Bắc Kinh, 1962); Trơng Tú Bình, Một
trăm sự kiện Trung Quốc, nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1998; Nguyễn Gia
Phu, Lịch sử Trung Quốc, nxb GD, 2001; Đặng Đức An cũng có một hệ thống

4



chuyên đề giảng dạy Đặc điểm của phong trào nông dân Tây Âu thời trung
đại, Phong trào nông dân Tây Âu thời trung đại, Ngời nông dân trong xã
hội phong kiến Tây Âu.
Bằng nhiều cách tiếp cận các nhà nghiên cứu đã bớc đầu khái quát, từ đó
đi vào tìm hiểu, nghiên cứu về giai cấp nông dân (mà trọng tâm chủ yếu là
nông nô và tá điền), đời sống, thân phận của họ qua mỗi thời kì cũng nh
phong trào đấu tranh của họ trong thời trung đại. Dựa trên cơ sở tập hợp, xử lý
những tài liệu trên chúng tôi sẽ đi sâu vào tìm hiểu đời sống, thân phận của
ngời nông nô Tây Âu trong sự đối sánh với nông dân tá điền phơng Đông.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Lịch sử của giai cấp nông dân là một nội dung lớn đặt ra nhiều vấn đề
nghiên cứu tìm hiểu, thế nhng do khả năng hạn chế, với mức độ khoá luận, tôi
chỉ đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài này là tập trung vào những ngời
nông nô Tây Âu và tá điền phơng Đông (chủ yếu là nông dân tá điền Trung
Quốc) và những kiến thức liên quan. Để từ đó làm sáng rõ quá trình hình
thành, thân phận, đời sống và phong trào đấu tranh của họ có những điểm
giống nhau và khác nhau nh thế nào? Phạm vi nghiên cứu của đề tài này khá
rộng, gần nh xuyên suốt cả thời trung đại ở phơng Đông và phơng Tây. Đây
cũng là một khó khăn khi thực hiện đề tài.
4. Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu.
Có thể nói nguồn tài liệu để tham khảo về thời trung cổ là rất ít. Đối với
khoa học xã hội khi nghiên cứu về bất cứ vấn đề nào thì các tác phẩm của
những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn tài liệu quan trọng. Đề tài
này có những tác phẩm đề cập tới nh: T bản; Nguồn gốc của gia đình của
chế độ t hữu và của nhà nớc của Các Mác và Ăngghen; Bàn về nhà nớc;
Sự phát triển của chủ nghĩa t bản ở Nga của Lênin. Trong đó Mác Ăngghen, Lênin khi đề cập đến xã hội t bản đã đề cập đến chế độ nông nô ở
Tây Âu. Mặc dù cha có tác phẩm nào chuyên bàn về vấn đề nông nô, nhng
những vấn đề cơ bản của chế độ nông nô đã đợc đề cập đến trong những tác
phẩm của họ. Đây là nguồn tài liệu chính cho đề tài.

Đặc biệt những tiểu luận tốt nghiệp đại học nh: Tìm hiểu giai cấp nông
dân và phong trào nông dân Trung Quốc thời cổ - trung đại, Nhận xét đặc
điểm phong trào nông dân Trung Quốc thời trung đại, đã giúp tôi rất nhiều
trong quá trình tìm hiểu đề tài.

5


Từ trớc đến nay chỉ có những tác phẩm bàn về chế độ phong kiến, trong
đó có đề cập đến một chút ít về ngời nông nô Tây Âu, nông dân tá điền phơng
Đông và phong trào đấu tranh của họ chứ không có tác phẩm nào chuyên sâu
về ngời nông nô và tá điền, đặc biệt là tìm hiểu họ mà đặt trong sự đối sánh.
Vì thế khi thực hiện đề tài này chúng tôi cũng gặp một số khó khăn.
Để nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng phơng pháp tổng hợp, hệ thống,
kết hợp su tầm chọn lọc và xử lí tài liệu. Phơng pháp lịch sử, phơng pháp
lôgíc, phơng pháp so sánh đợc sử dụng chủ yếu để thực hiện đề tài này. Trên
cơ sở đó không phải là mong muốn có những đóng góp mới vào khoa học lịch
sử mà chỉ là từ chổ khái quát hoá, hệ thống hoá để đối chiếu so sánh vấn đề
lịch sử.
5. Bố cục đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo khoá luận đợc
bố cục làm 3 chơng chính sau:
Chơng 1: Khái quát quá trình hình thành tầng lớp nông nô Tây Âu đối
sánh với sự xuất hiện tá điền phơng Đông thời trung đại.
Chơng 2: Thân phận và đời sống của nông nô Tây Âu trong sự đối sánh
với thân phận và đời sống của tá điền phơng Đông
Chơng 3: Vài nét về phong trào đấu tranh của nông nô Tây Âu trong sự
đối sánh với phong trào nông dân tá điền phơng Đông trung đại.

6



B. nội dung
Chơng 1
Khái quát quá trình hình thành tầng lớp nông nô
Tây Âu đối sánh với sự xuất hiện tá điền Phơng đông
thời Trung đại
1.1. Quá trình hình thành nông nô Tây Âu
1.1.1 Nguồn gốc của tầng lớp nông nô Tây Âu
1.1.1.1 Sự suy sụp của nền kinh tế chiếm hữu nô lệ ở Tây bộ đế quốc La Mã
Trong hai thế kỷ I - II, đế quốc La Mã phát triển đến đỉnh cao của chế độ
chiếm hữu nô lệ, nhng đồng thời mâu thuẫn giai cấp sâu sắc bên trong và
những cuộc thất trận liên tiếp bên ngoài đã làm cho nền kinh tế La Mã lâm vào
tình trạng bế tắc, dấu hiệu của sự suy vi xuất hiện. Lãnh thổ của đế quốc La
Mã không thể mở rộng hơn đợc nữa, không những thế còn bị đe dọa La Mã
phải quay về lo phòng thủ để đối phó với các cuộc khởi nghĩa của nô lệ và các
cuộc tấn công của các tộc ngời Giecmanh. Nguồn lợi lớn của đế quốc là của
cải và nô lệ nhờ những cuộc chiến tranh xâm lợc và cớp bóc thì nay không còn
nữa. Giai cấp chủ nô ra sức bòn chiếm đất đai, bóc lột nô lệ và các tầng lớp
nông dân bị thống trị. Nông dân mất hết ruộng đất, đa số biến thành vô sản lu
vong thoát li sản xuất. Dân số giảm xuống một cách nhanh chóng, cảnh nghèo
đói lan tràn khắp mọi nơi. Đế quốc La Mã bớc vào thời kỳ khủng hoảng toàn
diện. Điều đó biểu hiện ở những mặt sau:
Bọn chủ nô, địa chủ, quý tộc sống trên sức lao động của nô lệ, dùng nô lệ
để cày cấy nhng không hề quan tâm đến đời sống của nô lệ và không chú ý gì
đến cải tiến phơng pháp canh tác. Chúng chiếm đoạt toàn bộ thành quả lao
động của nô lệ nhng không đảm bảo công cụ, t liệu sinh hoạt tối thiểu cho họ
làm cho năng suất lao động và hiệu quả lao động nô lệ hết sức thấp kém. Trên
thực tế dù mâu thuẫn với bọn chủ nô và họ có đấu tranh với chủ nô để biểu thị
ý nguyện của mình nhng sau đó họ vẫn chấp nhận chế độ xã hội đơng thời,

chấp nhận thân phận hẩm hiu, nhiều thiệt thòi của mình. Bởi vậy quan hệ sản
xuất chiếm hữu nô lệ mới tồn tại lâu dài nh thế.
Bị ngợc đãi, bị xem nh loài trâu, ngựa, bị dùng roi rọt để cỡng bức lao
động, ngời nô lệ giờ đây đã chán ngán với kiếp sống khổ sở mình. Vì thế trong
mỗi con ngời họ đã không thể có tin thần tự giác và hứng thú sản xuất, tình

7


trạng đó không thể nào nâng cao năng suất lao động đợc. Mặt khác, lao động
nô lệ đợc sử dụng phổ biến đã gạt bỏ lao động của ngời tự do trong sản xuất
dẫn đến sức sản xuất xã hội ngày càng giảm sút. Lao động của nô lệ lúc này
cũng chỉ đủ để nuối sống bản thân họ, không còn tạo ra sản phẩm d thừa nh trớc nữa. Bọn chủ nô vì thế không thể bóc lột họ dù là rất ít. Thậm chí đôi khi nô
lệ còn cố tình phung phí, phá hoại kinh tế của chủ nô vào lúc gieo hạt hoặc lúc
thu hoạch mùa màng. Côlumen, một nhà văn La Mã đã viết nh sau: Nô lệ đã
làm cho năng suất lao động giảm sút nghiêm trọng. Họ bị cỡng bách làm việc
nh thân trâu ngựa và sống một cuộc đời khổ ải không khác gì loài vật. Họ cày
cấy bừa bãi, khi gieo hạt họ cố ý gieo lung tung làm lãng phí rất nhiều hạt
giống họ gặt lúa đem về sân nhà chủ mà không chú ý xem lúa đã chín cha.
Thậm chí trong khi gánh lúa về nhà chủ họ tìm cách thu giấu lúa đi hoặc cố ý
làm rơi vãi lúa ở dọc đờng [6, 238]
Phơng thức sản xuất chiếm hữu nô lệ không thể làm cho kỹ thuật canh tác
tiến bộ hơn. Công cụ mà chủ nô giao cho nô lệ dùng để sản xuất hết sức thô
kệch, nặng nề để cho nô lệ khó phá hỏng. Bởi vì chỉ trong điều kiện giá cả nô
lệ rẻ mạt, nô lệ có thể mua về một cách dễ dàng thì việc sử dụng nô lệ mới có
lợi cho bọn chủ nô. Nhng rõ ràng lúc bấy giờ nguồn nô lệ càng cạn kiệt mà giá
nô lệ lại rất đắt. Bởi vậy chế độ nô lệ không thể thúc đẩy kỹ thuật canh tác tiến
bộ lên đợc, vì chủ nô chỉ nghĩ đến việc bóc lột sức lao động của nô lệ mà
không thiết nghĩ tới việc cải tiến kỹ thuật sản xuất.
Với những biểu hiện trên, rõ ràng nguy cơ phá sản do sự khủng hoảng của

quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ đang đến gần. Biểu hiện rõ cho sự khủng
hoảng đó là sự ra đời của chế độ lệ nông.
1.1.1.2. Sự xuất hiện của chế độ lệ nông trong Tây bộ đế quốc La Mã.
Tiền thân của chế độ nông nô thời trung đại
Một mặt việc sử dụng lao động tập thể của nô lệ theo quy mô lớn trên các
đại điền trang không còn có lợi cho bọn chủ nô nữa vì không những số nô lệ
giảm sút dần mà sự phá hoại sản xuất của họ cũng càng ngày tăng lên. Mặt
khác bọn chủ nô lại sợ nô lệ sống tập trung đông đảo trong các trại ấp sẽ dễ
dàng nổi dậy uy hiếp tính mạng và tài sản của chúng. Dần dần buộc chủ nô
phải thay đổi phơng thức bóc lột bằng cách cấp nhà ở riêng cho nô lệ và chia
nhỏ điền trang ra thành từng khoảnh giao cho nô lệ cày cấy. Đồng thơì chủ nô
cung cấp cho nô lệ công cụ, gia súc để họ tự sản xuất và đến mùa thu hoạch nô

8


lệ phải nộp hoa lợi cho chủ. Bằng cách đó nô lệ đã biến thành lệ nông nghĩa là
họ vẫn chịu thân phận của nô lệ song cách sản xuất thì mang dáng dấp của
nông nô thời phong kiến. Chế độ lệ nông ra đời.
Không chỉ nô lệ lĩnh canh ruộng đất của chủ nô để sản xuất bị biến thành
lệ nông mà nhiều nông dân tự do bị phá sản, dân nghèo thành thị, ngời thuộc
các man tộc đến sống trên lãnh thổ Tây bộ đế quốc La Mã cũng đợc lĩnh
canh ruộng đất của địa chủ chủ nô và họ cũng biến thành lệ nông.
Những ngời lĩnh canh ruộng đất của địa chủ chủ nô đều có nghĩa vụ nộp
một phần hoa lợi thu đợc hàng năm cho chủ đất. Ngoài ra họ còn phải tới làm
cho chủ một số ngày lao dịch không đợc trả công có nơi từ 2 - 3 ngày trong
một tuần lễ, có nơi 6 - 12 ngày trong một năm. Ngời ta gọi mối quan hệ đó là
chế độ lệ nông. Những ngời lĩnh canh ruộng đất của chủ đất đợc gọi bằng một
tên chung là Lệ nông. Chế độ lệ nông dần phát triển, đặc biệt từ thế kỷ III trở
đi nó đợc phổ biến khá rộng rãi trên toàn lãnh thổ của đế quốc. Theo Ăngghen

lệ nông ấy là tiền thân của chế độ nông nô thời trung đại [7, 488]
Vì lợi ích của bọn đại địa chủ chủ nô hơn nữa vì sợ để mất nguồn thu từ tô
thuế, nhà nớc La Mã hết sức ngăn ngừa lệ nông bỏ trốn, nên chủ trơng cho họ
định c trên những đám ruộng nhất định. Sắc lệnh của Hoàng đế Adrien (117 138) và Antôni (138 - 161) quy định: Cấm chủ nô không có quyền giết hại lệ
nông mà có quyền truy bắt và trừng trị những lệ nông trốn khỏi trang viên của
chủ, lệ nông không đợc quyền rời bỏ ruộng đất của chủ để đi nơi khác. Sắc
lệnh của Hoàng đế Conxtantinuxơ (332) quy định: Nô lệ hay lệ nông chạy trốn
bắt đợc phải trả cho chủ cũ. Một số sắc lệnh khác lại quy định: Nông dân tự do
đã sống trong một địa phơng trong một thời gian nào đó bị mất quyền rời bỏ
địa phơng đó đi nơi khác. Nh vậy nông dân tự do suốt đời bị giữ lại ở một địa
phơng, suốt đời chịu sự bảo hộ của địa chủ, trớc sau đều bị rơi xuống địa vị
lệ nông. Pháp luật đã cột chặt họ vào ruộng đất. Khi chủ bán ruộng đất đi thì
đồng thời bán cả gia đình ngời lệ nông canh tác trên mảnh đất ấy. Để bảo vệ
nguồn nhân lực đang khan hiếm, bọn chủ nô ngăn cấm những cuộc hôn nhân
giữa những ngời lệ nông không cùng chủ. Thậm chí những cuộc hôn nhân đó
không đợc coi là hoàn toàn hợp lệ mà chỉ đợc coi là một trờng hợp cùng ăn
chung ở chung với nhau mà thôi cũng nh hôn nhân giữa những ngời nô lệ vậy.
Ngoài nghĩa vụ đối với chủ lệ nông còn phải nộp thuế và làm nghĩa vụ lao dịch
với nhà nớc.

9


Canh tác trên ruộng đất của chủ, lệ nông phải nộp phần lớn hoa lợi cho
chủ nhng họ cũng đợc hởng một phần hoa lợi trên ruộng đất, tuy ít ỏi nhng
cũng đảm bảo cho họ một cuộc sống dễ chịu hơn đời làm nô lệ. Điều mà chủ
nô quan tâm là cuối vụ thu hoạch anh ta phải nộp 1/3 hoa lợi thu hoạch cho họ.
Bởi vậy nếu tăng năng suất lao động lên cao thì phần sản phẩm mà lệ nông đợc
hởng sẽ nhiều hơn, đời sống của họ sẽ đỡ cực hơn.
Nh vậy, tuy trên danh nghĩa lệ nông đợc chút ít tự do, song trong thực tế

hàng ngày lệ nông cũng bị ngợc đãi nh nô lệ, lệ nông không khác gì nô lệ là
mấy Nói đúng ra, họ không phải là ngời nô lệ nhng cũng không phải là ngời
tự do [26, 241]. Họ vẫn bị cột chặt vào ruộng đất, không đợc kết hôn với ngời
tự do. Họ chỉ đợc quyền chiếm hữu mà không có quyền sở hữu tài sản. Nhng
những gì mà lệ nông đợc hởng dù sao cũng đảm bảo cho họ một mức sống dễ
chịu hơn nô lệ. Đây chính là nguyên nhân khiến cho chế độ lệ nông có thể tạo
ra một năng suất lao động lớn hơn chế độ chiếm hữu nô lệ. Không những thế
phơng thức quản lý, lối làm ăn canh tác có phần tiến bộ hơn chế độ chiếm hữu
nô lệ.
Lợi dụng tình trạng hỗn loạn của xã hội và địa vị đặc quyền của mình,
bọn đại địa chủ đã tổ chức ra những lực lợng vũ trang riêng để củng cố trang
trại của chúng và biến các trang trại thành đồn luỹ kiên cố. Trong những khu
vực do chúng kiểm soát chúng nghiễm nhiên trở thành những ông vua con. Thế
lực của chúng ngày càng mạnh có xu hớng thoát ly khỏi quyền kiểm soát của
chính quyền trung ơng. Hoàng đế La Mã đã từng âm mu hạn chế khuynh hớng
cát cứ của bọn địa chủ chủ nô bằng cách ban bố một số pháp lệnh giảm bớt
quyền bảo hộ của địa chủ chủ nô đối với c dân trong địa hạt của chúng, cấm
lập nhà tù riêng, cấm tổ chức quân đội riêng. Nhng những biện pháp này đều tỏ
ra vô hiệu. Nếu gọi lệ nông là tiền thân của nông nô thời trung đại thì cũng có
thể gọi tên đại địa chủ này là tiền thân của lãnh chúa phong kiến trong tơng lai.
Tóm lại, từ thế kỷ thứ IV, chế độ chiếm hữu nô lệ ở đế quốc La Mã đã bớc
vào giai đoạn khủng hoảng, suy tàn. Mầm mống của phơng thức sản xuất mới Phơng thức sản xuất phong kiến đã bắt đầu nảy sinh trong lòng xã hội chiếm
hữu nô lệ dới hình thức chế độ lệ nông. Tuy nhiên bớc chuyển từ chế độ chiếm
hữu nô lệ sang chế độ phong kiến không diễn ra một cách bằng phẳng mà nó
đợc thực hiện bằng một cuộc cách mạng đó chính là cao trào khởi nghĩa của nô

10


lệ, lệ nông và dân nghèo, trong những thế kỷ IV, V trên khắp bờ cõi của đế

quốc La Mã.
1.1.2. Quá trình nông nô hoá nông dân công xã nông thôn Maccơ.
1.1.2.1. Vài nét về quá trình thành lập vơng quốc của ngời Giecmanh.
Ngời Giecmanh là một trong những bộ tộc lớn thuộc chủng tộc Arian, họ
sống ở vùng phía Bắc biên giới của La Mã. Trớc khi xâm nhập vào lãnh thổ
Tây bộ La Mã, c dân Giecmanh ở trình độ mạt kỳ nguyên thuỷ. Nên ngời La
Mã gọi họ bằng cái tên khinh miệt là man tộc.
Cuối thế kỷ thứ II đầu thế kỷ thứ III, cùng với sự phát triển kinh tế và gia
tăng dân số nhanh chóng, ngời Giecmanh đã đặt ra yêu cầu mở rộng thêm đất
đai để sinh sống. Vì thế, một số bộ lạc ngời Giecmanh đã di c vào lãnh thổ đế
quốc La Mã, nh ngời Vi-di-gốt (Tây Gốt), ngời Ô-xtơ-rô-gốt (Đông Gốt), ngời
Phrăng, ngời Ănglôxắcxông họ thờng tập kích vào các biên cơng và tự nhận
mình làm đồng minh của ngời La Mã trong phong trào khởi nghĩa của đế
quốc La Mã. Giữa họ và ngời La Mã đã từng có quan hệ trao đổi, mua bán và
những cuộc xung đột ở vùng biên giới. Nhiều nô lệ, lệ nông ở đế quốc La Mã
có nguồn gốc là các tù binh ngời man tộc bị bắt trong các cuộc chiến tranh ở
biên giới.
Lúc bấy giờ, những ngời La Mã còn đủ sức mạnh để chế ngự đợc những
man tộc đã vào sống trong lãnh thổ của mình và ngăn chặn đợc các cuộc
xâm lợc từ ngoài tới. Nhng rõ ràng, lãnh thổ La Mã không còn là khu vực đóng
kín đối với bộ lạc ngời Giecmanh nữa. Đến giữa thế kỷ thứ IV, các bộ lạc du
mục Hung nô ào ạt xông vào cớp phá tàn sát c dân Đông Nam Âu gây ra sự rối
loạn khắp trong và ngoài đế quốc La Mã. Các bộ lạc ngời Giecmanh ở ngoài
lãnh thổ đế quốc La Mã vội vã di c vào trong lãnh thổ tạo nên cuộc di chuyển
lớn giữa các tộc ngời trong hai thế kỷ IV và V.
Cuộc di c lớn của các tộc ngời đúng vào lúc đế quốc La Mã già cỗi, mục
ruỗng, suy sụp nghiêm trọng trong tình trạng bần cùng hoá phổ biến, công thơng nghiệp và nghệ thuật thụt lùi, số dân giảm sút, thành thị tiêu điều, nông
nghiệp sút kém [11, 486 - 487] không còn đủ sức ngăn cản, chống đỡ
những cuộc xung đột, chống phá của ngời man tộc. Nô lệ, lệ nông, dân
nghèo bị áp bức, bóc lột nặng nề, họ chờ đón những ngời man tộc nh những

vị cứu tinh của mình, họ đã chạy sang phía những ngời man tộc, một số tham

11


gia vào quân đội Giecmanh, mở cửa thành của ngời La Mã cho ngời man tộc
tràn vào. Sau đó ngời Giecmanh đã dễ dàng xâm nhập vào Tây La Mã, chiếm
hết những vùng này đến vùng khác, lập ra những vơng quốc của họ. Vơng
quốc man tộc đợc thành lập đầu tiên là vơng quốc Vi-di-gốt (Tây gốt) năm 419
chiếm miền nam xứ Gôlơ và Tây Ban Nha. Tiếp đó là vơng quốc Văng Đan
chiếm Bắc Phi và các quần đảo phía Tây Địa Trung Hải, vơng quốc
Buốcgôngđơ ở miền đông nam Gôlơ, vơng quốc Phrăng ở miền đông bắc xứ
Gôlơ
Thế là đến giữa thế kỷ thứ V, phần lớn đất đai trên lãnh thổ phía tây của
đế quốc La Mã đã thuộc về ngời Giecmanh. Năm 416 một tên tớng ngời
Giecmanh là Ôđôacrơ đã làm chính biến lật đổ hoàng đế cuối cùng của Tây La
Mã là Rômulútôguxtulút rồi tự xng làm vua, đồng thời cũng xoá bỏ bộ máy
chính quyền tối cao của đế quốc Tây La Mã. Sự kiện này đánh dấu sự diệt
vong của đế quốc La Mã. Tây âu bớc sang một thời đại mới, thời đại phong
kiến.
1.1.2.2. Sự xuất hiện của công xã Maccơ và quá trình nông nô hoá ngời
nông dân công xã.
Cùng với quá trình xâm nhập của tộc ngời Giecmanh là việc đánh dấu sự
diệt vong của đế quốc La Mã-một đế quốc hùng cờng từng chinh phạt muôn
phơng. Và cũng từ đây đánh dấu một sự thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu kinh
tế, xã hội ở Tây Âu. Có thể nói chế độ chiếm hữu nô lệ của đế quốc La Mã và
chế độ công xã nguyên thủy của ngời Giecmanh đã tan rã để nhờng chỗ cho
một thiết chế xã hội mới ra đời trên cơ sở kết hợp mầm mống quan hệ sản
xuất mới với kinh nghiệm của ngời ngoại tộc.
Cuộc xâm nhập của ngời man tộc đã tiêu diệt hoàn toàn các điền trang

của chủ nô La Mã sử dụng sức lao động của nô lệ, lệ nông và phá huỷ hầu hết
các đô thị hoạt động công thơng nghiệp. Mọi hoạt động kinh tế ở các vơng
quốc man tộc đều tập trung ở nông thôn, lấy trồng trọt và chăn nuôi làm cơ
sở, thủ công nghiệp làm nghề phụ trong nền kinh tế.
Trong quá trình chinh phục La Mã, ngời Giecmanh đã chiếm đợc rất
nhiều ruộng đất của ngời La Mã. Với những công cụ lao động và phơng thức
canh tác đã có sự cải tiến, các gia đình có thể cày cấy riêng rẽ, sản phẩm thu đợc đủ nuôi sống gia đình họ. Vì thế ruộng đất cày cấy chiếm đoạt đợc của địa
chủ, chủ nô La Mã, ngời Giecmanh đem phân chia cho các gia đình cá thể.

12


Trong thời gian di c và chiến tranh lâu dài, các thành viên thị tộc của các thị
tộc khác nhau của ngời Giecmanh thờng bị xáo trộn, họ sống lẫn với nhau
không theo quan hệ huyết thống nữa mà theo quan hệ láng giềng. Những ngời
này sống với nhau trong các làng xóm lập thành các công xã nông thôn
Maccơ. Điều đó cũng đồng nghĩa với chế độ công xã nguyên thuỷ của ngời
Giecmanh đợc xây dựng trên cơ sở quan hệ huyết thống đã bị tan rã. Lúc này
một bộ phận của ngời La Mã tự do những ngời nô lệ, lệ nông đợc giải phóng
cũng tham gia vào tổ chức công xã nông thôn. Mỗi một gia đình trong công xã
nông thôn đợc chia phần ruộng đất cày cấy gọi là đất phần. Nhng các gia
đình này không có quyền sở hữu hoàn toàn với mảnh đất phần này họ không
thể mang bán đổi truyền cho con gái. Sau mùa màng những ruộng đất cày cấy
này để làm bãi chăn nuôi công cộng. Tất cả mọi c dân trong làng đều nuôi
chung gia súc tại bãi cỏ đó. Rừng rú, đồng cỏ, đất hoang, nguồn nớc là sở hữu
công cộng. Những thành viên công xã đợc tự do đốn gỗ, săn thú, đánh cá, tát
nớc tại những đất đai công cộng đó. Những ngời nông dân công xã không thể
nào sống hoàn toàn riêng rẻ mà cần hợp tác tơng trợ nhau để cùng sản xuất,
bởi vậy trong công xã nông thôn vừa có tính chất cá thể vừa có tính chất tập
thể. Những ngời nông dân công xã phải nộp thuế, làm nghĩa vụ binh dịch, lực

dịch cho vua man tộc.
Đến cuối thể kỷ VI, công xã nông thôn dần tan rã, chế độ t hữu ruộng đất
của ngời man tộc dần xuất hiện do sự có mặt của hiện tợng nhợng bán ruộng
đất. Bởi thế cũng từ đây ruộng đất bắt đầu trở thành tài sản riêng của ngời đợc
phân phối, có thể đem mua bán, đổi chác hay đem di tặng cho con cháu, tức là
họ đã có quyền sở hữu ruộng đất. Phần ruộng đất mà nông dân cày cấy biến
thành ruộng đất thuộc sở hữu của họ, đợc tự do nhợng lại hay mua bán. Nh thế
gọi là Alơ hay đất tự do. Sự xuất hiện của ruộng đất Alơ không tránh
khỏi làm cho công xã nông thôn dần tan rã đồng thời sự phân hoá giai cấp
trong xã hội ngày càng sâu sắc. Ph Ăngghen đã nhận xét rằng: Alơ có nghĩa
là không tạo ra khả năng, mà còn tạo ra tính tất yếu sự chuyển biến thành cái
trái ngợc với quyền bình đẳng nguyên thủy trong chiếm hữu ruộng đất. Từ khi
xuất hiện Alơ tài sản ruộng đất có thể đợc tự do mua bán, ruộng đất biến thành
hàng hoá từ khi đó, sự xuất hiện chế độ chiếm hữu ruộng đất lớn chỉ còn là vấn
đề thời gian mà thôi [16, 16]

13


Trên thực tế chế độ ruộng đất phong kiến đã đợc hình thành, đó là kết quả
của quá trình phong kiến hoá tức là quá trình giai cấp địa chủ thế tục cũng nh
giáo hội tìm cách chiếm đoạt ruộng đất của nông dân và biến nông dân công
xã tự do và các tầng lớp nhân dân lao động trở thành nông dân phụ thuộc hay
nông nô. Cũng trong quá trình đó xã hội dần dần phân hoá thành hai giai cấp
chính lãnh chúa và nông nô. Lãnh chúa là những kẻ thống trị và chiếm hữu
ruộng đất trong tay còn nông nô là ngời bị bóc lột, bị lệ thuộc chặt chẽ vào
lãnh chúa.
Trong các vơng quốc của ngời Giecmanh thì nổi bật lên là vơng quốc
Frăng. ở đây quá trình phong kiến hoá diễn ra điển hình, rõ nét nhất.
Dới triều đại Mêrô-vanh-giêng của vơng quốc Frăng việc ban cấp ruộng

đất cho quý tộc, quan lại và giáo hội cơ đốc giáo ngày càng nhiều. Việc ban
cấp này thờng không kèm theo một điều kiện nào cả. Thế lực của quý tộc quan
lại mạnh hay yếu là căn cứ vào số lợng ruộng và số lợng ngời thân thuộc của
chúng. Bọn quý tộc chủ ruộng đất lúc này không thoả mãn với số ruộng đất và
ngời thân thuộc đợc cấp, luôn tìm cách mở rộng những thái ấp của chúng ở
những địa phơng tìm cách khống chế nông dân công xã bên cạnh. Thông thờng
chúng tổ chức các cuộc đột kích và dùng nhiều thủ đoạn khác nh xử án nông
dân, đẩy nông dân ra mặt trận... làm cho họ phải phá sản, kiệt quệ cuối cùng
phải nhờng lại ruộng đất cho quý tộc. Trong công xã nông thôn sự phân hoá
giai cấp cũng dần xuất hiện. Những xã viên giàu có lợi dụng những khó khăn,
thiếu thốn của nông dân nghèo cho những ngời này vay mợn gia súc, thóc
giống, lơng thực và bắt họ lao động trên ruộng đất của chúng để trừ nợ. Nếu
ngời nghèo không thể trả nợ đúng hạn chúng sẽ tớc đoạt ruộng đất của họ, dần
dần họ trở thành những chủ sở hữu ruộng đất lớn. Nhiều ngời nông dân không
chịu sự áp bức bóc lột của nhà vua, của bọn thân binh quan toà của nhà vua
đành phải từ bỏ thân phận tự do của mình nhận sự bảo hộ của những tên quý
tộc lớn hoặc giáo hội ở bên cạnh (bằng cách giao quyền sử hữu ruộng đất của
mình cho tên quý tộc đó rồi lĩnh canh lại ruộng đất đó phải nộp tô thuế, làm
một số việc khác cho tên quý tộc). Nh vậy quý tộc lớn lại có thêm nhiều ruộng
đất và nông dân phụ thuộc trong khi đó số nông dân nộp tô thuế đi phu, đi lính
cho nhà nớc giảm đi. Kết quả là thế lực của đại quý tộc càng lớn mà quyền lực
của nhà vua càng giảm đi.

14


Đến thế kỷ thứ VIII, trong chính sách ban cấp ruộng đất có một sự thay
đổi quan trọng, sự thay đổi ấy gắn liền với việc tổ chức lại lực lợng quân đội.
Lúc đó vơng quốc Frăng đang bị ngời Arập, Tây Ban Nha đe doạ nên Saclơ
Macten đã tiến hành một cuộc cải cách quân sự quan trọng gọi là cải cách Bênê-phi-xi-um, có nghĩa là vật ban cấp, ta có thể dịch là thái ấp. Khác với chính

sách ban tặng ruộng đất trớc kia, chính sách phong tặng ruộng đất của Salơ
Macten là chính sách ban cấp kèm theo điều kiện phục vụ quân sự, đất phong
đợc sử dụng suốt đời chứ không đợc truyền cho con cháu. Nếu bồi thần (ngời
đợc phong đất) không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quân sự (mỗi năm 40 ngày)
thì ruộng đất sẽ bị thu hồi.
Với lối phân phong này khởi đầu các đất phong không phải là sở hữu có
thể thừa kế. Theo quy định nếu tôn chủ (ngời phong đất) chết thì ruộng đất
phải trả lại cho ngời kế thừa của tôn chủ. Sau đó bồi thần muốn nhận lại thái ấp
thì phải làm lễ phân phong lại. Nếu bồi thần chết mà con cháu của ngời này đã
đến tuổi trởng thành và muốn thừa kế thái ấp thì phải làm lễ phân phong lại.
Mục đích của lễ phân phong lại là để khẳng định quyền hạn và nghĩa vụ của
tôn chủ mới và bồi thần mới. Khi làm lễ phân phong lại, bồi thần phải nộp cho
tôn chủ một khoản lễ vật, khoản lễ vật này không có quy định thống nhất có
khi là một số tiền tơng đơng với toàn bộ thu hoạch trong một năm của thái ấp
đợc phong. Về sau những quy định này dần bị bãi bỏ. Nh vậy là trên thực tế
đất phong đã dần biến thành một sở hữu thừa kế thực sự
Việc thực hiện chế độ phân phong này càng làm cho nông dân phá sản nhiều
hơn. Từ đây nông dân công xã đã chịu sự thống trị và điều khiển trực tiếp của quý
tộc đợc nhà vua ban cấp, nghĩa vụ của nông dân không những không giảm nhẹ
mà còn tăng thêm và nông dân không những phải tham gia đóng góp vào những
cuộc chiến tranh do nhà vua tổ chức và điều động bồi thần của vua tham gia mà
còn phải phục dịch không thời hạn cho bọn quý tộc địa phơng tham lam, tàn bạo
của mình. Cũng vì thế mà quá trình mất đất và nông nô hoá của nông dân từ thời
kỳ này trở về sau càng tân tiến hơn trớc nữa.
Đến giữa thế kỷ thứ IX, tuy từng bồi thần vẫn phải làm nghĩa vụ quân sự nhng đất phong biến thành những lãnh địa có thể truyền cho con cháu, chứ không đợc chuyển nhợng mua bán mà thôi. Lãnh địa Bê-nê-phê-xi-um không có quyền
thừa kế đã chuyển thành lãnh địa Phê đum cha truyền con nối, cũng có thể gọi là

15



phiép hay phêốt. Với hình thức lãnh địa này thế lực của các lãnh chúa không
ngừng phát triển và chế độ ruộng đất phong kiến Tây âu đã đợc hình thành.
Do thi hành chế độ phân phong ruộng đất của Saclơ Macten cho đến
Saclơmanhơ cùng với việc chiếm đoạt ruộng đất của những kẻ giàu có đã dẫn
đến sự hình thành giai cấp phong kiến đông đảo. Đây là giai cấp ít đợc học văn
hoá nhng lại có tin thần thợng võ cao. Họ lấy việc chiến đấu làm nghề nghiệp,
lấy săn bắn thi võ làm trò tiêu khiển, lấy việc đấu kiếm làm biện pháp giải
quyết xích mích, mâu thuẫn. Chính giai cấp phông kiến ấy là cơ sở của chính
quyền nhà vua, để bên trong thì đàn áp các thế lực chống đối, bên ngoài thì
gây chiến tranh để mở rộng lãnh thổ.
Song song với việc hình thành giai cấp địa chủ phong kiến là quá trình nông
nô hoá những thành viên trong công xã Maccơ. Khi mới chinh phục Gôlơ dân
Frăng là ngời tự do. Họ là những thành viên công xã Maccơ (họ có ruộng đất
riêng). Đến đầu thể kỷ VII, công xã Maccơ tan rã, phần lớn thành viên công xã
biến thành những ngời nông dân tự do có mảnh ruộng của riêng mình. Ngoài
những ngời nông dân Frăng tự do ra lúc bấy giờ còn có những ngời lao động
nông nghiệp làm việc trong các trang viên của các địa chủ ngời Frăng cũng nh
các địa chủ La Mã cũ. Về thân phận họ không thuần nhất mà bao gồm nhiều
loại nh lệ nông, nông dân nửu tự do, nô lệ. Trong 3 loại này lệ nông là tầng lớp
đông đảo nhất đợc nhận một phần đất do chủ giao cho họ, có nghĩa vụ phải
nộp tô, nộp thuế thân, phải làm lao dịch và không đợc rời ruộng đất. Nô lệ làm
việc trong trang viên chia làm 2 loại. Loại thứ nhất gồm những đầy tớ làm các
công việc hầu hạ trong nhà lãnh chúa và những ngời làm các nghề thủ công nh
thợ làm bánh mì, thợ đóng xe, thợ kim hoàn... làm việc trong các xởng của lãnh
chúa họ bị coi là tài sản của chủ và có thể bị mua bán. Loại thứ 2 là những nô lệ
đợc cấp ruộng đất họ phải nộp địa tô và không đợc rời bỏ ruộng đất. Nộp tô xong
số sản phẩm còn lại thuộc quyền sở hữu của họ. Thế là về danh nghĩa họ vẫn là nô
lệ nhng thực chất họ đã biến thành nông nô. Còn nông dân nửa tự do là những
ngời có địa vị cao hơn nô lệ nhng thấp hơn lệ nông. Họ cũng đợc giao cho một
mảnh đất để canh tác và truyền mảnh đất ấy từ đời này sang đời khác. Cùng

với sự phát triển của phơng thức bóc lột phong kiến, sự khác biệt giữa 3 loại
lực lợng lao động nông nghiệp ngày càng ít. Họ biến dần thành một tầng lớp
có thân phận giống nhau đó là tầng lớp nông nô.

16


Đối với nông dân tự do họ là tầng lớp đông đảo nhất trong giai cấp nông
dân nhng tình hình đó không duy trì đợc lâu do các nguyên nhân nh thiên tai,
mất mùa, gia súc chết không canh tác đợc phải nộp thuế khá nặng nề, phải từ bỏ
ruộng đất quê hơng để đi làm nghĩa vụ binh dịchnhiều nông dân bị phá sản
phải bán ruộng đất của mình. Sau khi không còn t liệu sản xuất nữa, nông dân chỉ
còn cách là lĩnh canh ruộng đất của lãnh chúa để cày cấy và biến thành nông dân
lệ thuộc.
Những nông dân cha mất ruộng đất, phần nhiều không chịu nổi sự hạch
sách của các quan lại và sự o ép của lãnh chúa, nên phải đem ruộng đất của
mình hiến cho địa chủ thế tục hoặc giáo hội để nhờ họ che chở rồi xin họ nhận
lại mảnh đất ấy để cày cấy. Sau khi hiến ruộng rồi nhận lại mảnh ruộng đất ấy
để cày cấy ngời nông dân không những đã mất quyền sở hữu với đất đai của
mình mà bản thân cũng không còn là ngời tự do nữa. Họ đã biến thành một loại
nông dân lệ thuộc tơng tự nh lệ nông hay nông dân nửa tự do và đến đời con
cháu họ thì hoàn toàn biến thành nông nô. Cũng nh c dân lao động bản địa đến
đây phần lớn nông dân tự do ngời Frăng đã biến dần thành nông nô. Phơng
Đông trung đại cũng tồn tại một bộ phận nông dân nh vây (nông dân lĩnh canh
hay tá điền). Cụ thể quá trình xuất hiện của nông dân tá điền ở Phơng Đông nh
thế nào dới đây chúng ta cùng tìm hiểu.
1.2. Quá trình xuất hiện nông dân tá điền phơng Đông
1.2.1. Sự tan rã của công xã nông thôn
Nh chúng ta đã biết vào khoảng thiên niên kỷ thứ IV TCN đến thiên niên
ký thứ III TCN loài ngời đã bớc vào giai đoạn quá độ từ xã hội cộng sản

nguyên thuỷ sang xã hội có giai cấp. Trong giai đoạn quá độ đó trên thế giới
xuất hiện một loại hình tổ chức xã hội mới. Đó là công xã nông thôn là hệ quả
đầu tiên của sự phát triển lực lợng sản xuất.
Công xã nông thôn là một tổ chức có tính chất biệt lập với thế giới bên
ngoài. Mặc dù vậy trong công xã nông thôn có sự phân công lao động nhất
định, trong đó có những gia đình chuyên làm nghề nông, có những gia đình
làm nghề thủ công, có những gia đình làm nghề buôn, chăn nuôi. Nhng sự
phân công này không rõ ràng. Công xã nông thôn là một đơn vị kinh tế tự
nhiên bởi ở đó luôn có sự kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp và thủ công
nghiệp điều này đã tạo ra một đặc điểm nổi bật của công xã nguyên thuỷ. Sự
kết hợp này vừa đợc thực hiện trong gia đình vừa thực hiện trong cộng đồng

17


công xã. Đối với từng hộ gia đình đàn ông thờng làm nghề nông nh cày bừa và
những việc nặng nhọc còn đàn bà chỉ làm những việc trong nhà nh trông nom
con cái, chuẩn bị bữa ăn cho gia đình, gieo mạ Đối với toàn công xã thì sự
phân công dựa theo nghề nghiệp, nghĩa là bên cạnh những gia đình làm nghề
nông thì có những gia đình làm thủ công phục vụ cho công xã. Do vậy những
gia đình làm nghề nông có thể đem sản phẩm nông nghiệp để đổi lấy sản phẩm
thủ công nghiệp và ngợc lại. Sự trao đổi diễn ra trong công xã để đảm bảo cuộc
sống cho từng gia đình mà họ không phải thực hiện trao đổi với bên ngoài.
Trong công xã nông thôn ruộng đất trong toàn quốc trên danh nghĩa là
thuộc về thiên tử, nh sách xa đã nói: Dới bầu trời rộng lớn, không nơi nào
không phải là đất của nhà vua, trong phạm vi lãnh thổ, không ngời nào không
phải là thần dân của nhà vua [7, 274]. Nhng thực chất thì ruộng đất do các
công xã chiếm giữ. Nhà nớc đã áp dụng chế độ phân chia ruộng đất theo
khoảnh. Theo đó ruộng đất cày cấy tuỳ theo tốt xấu mà phân phối cho nông
dân công xã theo thời hạn nhất định. Nông dân cày cấy một phần ruộng đất

một phần khác để đất nghỉ lấy lại độ tơi xốp màu mỡ và cứ nh thế ruộng đất
theo vài năm lại đợc phân phối lại một lần, ruộng của hộ này đổi cho ruộng
của hộ kia. Còn rừng rú, sông ngòi, ao hồ là tài sản chung của thôn xã, mọi ngời đếu có thể đi kiếm củi, bắt cá và đi săn trong phạm vi thôn xã. Nhà cửa, vờn
tợc là tài sản t hữu của nông dân công xã. Đây chính là chế độ tỉnh điền ở
Trung Quốc thời Tây Chu.
Nhng kể từ khi sử dụng công cụ bằng sắt, sức kéo trong sản xuất nông
nghiệp trở nên phổ biến thì không những tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai
khẩn đất hoang, tát cạn đầm hồ đắp đê điều, đào mơng, rãnh tới nớc và thoát nớc, mà còn tạo điều kiện mới cho nâng cao năng suất lao động trong nông
nghiệp. Do đó ngời ta không cần phải chia lại ruộng đất theo định kỳ, căn cứ
vào chất đất tốt hay xấu nh trớc đây nữa mà công xã bây giờ cứ giao hẳn từng
mảnh ruộng đất cho từng gia đình nông dân nhận lấy cày cấy làm ăn trong thời
hạn dài. Vì thế nông dân công xã có thể tuỳ ý sản xuất canh tác trên mảnh đất
mình đợc sử dụng mà không sợ năm sau công xã đem chia lại cho ngời khác.
Do đó nông dân gắn bó lâu dài với mảnh ruộng của mình. Điều này khuyến
khích nông dân sản xuất, đầu t vào sản xuất nên năng xuất lao động sẽ tăng.
Cùng với quá trình khai thác đất hoang, ruộng nông dân vỡ hoang cũng biến
thành ruộng t của họ ngày một nhiều. Mặt khác, đây cũng chính là thời điểm

18


mà thế lực của bọn quý tộc cũng lớn mạnh lên dần, ruộng công xã cũng dần
dần bị chúng chiếm đoạt làm ruộng t. Tổ chức công xã nông thôn (chế độ tĩnh
điền) dần tan rã. Chế độ t hữu về ruộng đất xuất hiện và ngày càng phát triển.
1.2.2. Sự xuất hiện của chế độ t hữu ruộng đất
Nh vậy, do công cụ sản xuất đợc cải tiến và dân số lao động tăng dần lên
ngời ta có khả năng khai khẩn thêm nhiều đất hoang. Một số nông dân khai
phá thêm một số ít ruộng đất ngoài phần đất đợc chia tạo nên sự chênh lệch về
tài sản trong hàng ngủ nông dân. Hơn nữa do kỹ thuật sản xuất tiến bộ việc đầu
t công sức lao động vào ruộng đất cũng khác nhau, việc định kỳ chia lại ruộng

đất. Vì vậy đến thời Xuân Thu một số nông dân cũng có ruộng đất riêng.
Thời Tây Chu vì ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nớc nên không đợc mua bán, nhng đến thời Xuân Thu hiện tợng mua bán ruộng đất đã xuất
hiện , sách tả truyện chép: Ngời Nhung Địch đến ở, dùng vật quý đổi lấy đất,
đất có thể mua bán
Hiện tợng mua bán ruộng đất ra đời là kết quả tất yếu của chế độ ruộng
đất thuộc quyền sở hữu t nhân đồng thời thúc đẩy ruộng t phát triển nhanh
chóng. Năm (654 TCN) nớc Tấn thi hành chế độ viên điền cố định nông dân
vào ruộng đất đã giao cho nông dân sử dụng, bãi bỏ lệ hàng năm chia lại
ruộng đất. Sau khi chế độ t hữu ruộng đất phát triển, số lợng ruộng đất cho
nông dân chiếm hữu không giống nhau nữa, hình thức thu thuế không thích
hợp nên đợc thay đổi thuế mới đánh vào từng mẫu ruộng. Năm 594 TCN, nớc
Lỗ thực hiện chế độ thuế mới, theo diện tích ruộng đất, căn cứ theo số lợng
mẫu ruộng mà nông dân chiếm hữu để đánh thuế. Về sau các nớc khác cũng
bắt chớc nớc Lỗ. Chế độ thuế mới căn bản là thu hiện vật, nhng sau các su dịch
khác vẫn không bãi bỏ. Việc đó chứng tỏ nớc Lỗ chính thức thừa nhận sự
chênh lệch về ruộng đất trong hàng ngũ nông dân và quyền t hữu ruộng đất của
nông dân là hợp pháp. Năm 350 TCN nớc Tần thi hành luật cải cách Thơng
Ưởng tuyên bố xoá bỏ chế độ sở hữu ruộng đất của công xã nông thôn, thừa
nhận chế độ t hữu về ruộng đất, quyền tự do mua bán ruộng đất phá tỉnh điền
phá bờ ruộng, mở rộng diện tích trồng trọt, phát triển sản xuất nông nghiệp.
Nhà nớc trực tiếp thu thuế của nông dân theo diện tích trồng trọt, khuyến khích
nông dân cày cấy, dệt vải. Nhà nào sản xuất nhiều thì đợc miễn su dịch, bỏ
ruộng đất công cày cấy để đi buôn hoặc lời lao động đến nỗi nghèo khổ thì
phạt làm nô lệ nhà quan.

19


Những chính sách ấy của các nớc càng tạo điều kiện cho ruộng t phát
triển, ngời ta có thể tiến hành mua bán ruộng đất, ngời giàu tậu ruộng cho

nông dân lĩnh canh để nộp tô. Nh thế quan hệ phong kiến bóc lột bắt đầu ra
đời. Từ đó ruộng đất càng tập trung vào tay các địa chủ lớn, nông dân nhiều
ngời bị mất ruộng đất: Nhà giàu ruộng liền bờ bát ngát, ngời nghèo không có
tấc đất cắm dùi
Vậy là do sự phát triển của sức sản xuất, tổ chức công xã nông thôn bị tan
rã, đồng thời với nó là sự xuất hiện của chế độ t hữu ruộng đất. Điều này tất
yếu dẫn đến trong xã hội có sự phân hoá giai cấp mạnh mẽ. Xuất hiện tầng lớp
địa chủ đó là những ngời chiếm hữu ruộng đất. Ngoài quý tộc, quan lại, thân vơng đợc ban cấp ruộng đất trở thành địa chủ, thì do chính sách mua bán ruộng
đất nên một bộ phận nhỏ nông dân sản xuất giỏi, thơng nhân có điều kiện mua
ruộng đất cũng trở thành địa chủ. Phải nói rằng giai cấp địa chủ chiếm hữu một
số lợng ruộng đất lớn. Ví nh ở thời Đờng một công thần tên là Lý Tịch đợc vua
Đờng ban cho 1000 khoảng ruộng. Ngoài số ruộng đất đợc ban thởng các địa
chủ còn tìm cách chiếm thêm ruộng đất. Vì vậy lúc bầy giờ có một số đại địa
chủ đợc gọi là ông nhiều ruộng (L Tùng Nguyên), kẻ nghiện đất (Lý Bành
Niên). Hiện tuợng tập trung ruộng đất vào tay giai cấp địa chủ thời Nguyên lại
càng kinh khủng, trong đó các thân vơng quý tộc Mông Cổ đợc vua ban cho rất
nhiều ruộng đất. Đã thế bọn địa chủ còn tự mình chiếm đoạt ruộng đất của
dân, có kẻ nh An Tây Vơng đã chiếm đến hơn 100 nghìn khoảnh. Nhân tình
hình đó bọn chủ Hán tộc cũng đua nhau chiếm đoạt ruộng đất, có nơi nh Phúc
Kiến 5/6 ruộng đất của cả huyện Sùng An thuộc về địa chủ. Đầu thời Minh,
Chu Nguyên Chơng có quy định các công thần, công hầu, thừa tớng đợc ban
cấp nhiều nhất 100 khoảnh còn thân vơng thì đợc 1000 khoảnh. Nhng đến đời
Minh các thân vơng, công chúa thờng đợc ban cấp hàng nghìn, hàng vạn
khoảnh nh Phúc Vơng đợc 20.000 khoảnh, quan hoạn Ngụy Trung Hiền đợc
ban 10.000 khoảnh, bọn phú hào ở địa phơng cũng chiếm hữu hàng trăm mẫu
ruộng. Nh vậy thời phong kiến ruộng t ngày càng phát triển và số lợng tập
trung vào tay bọn địa chủ ngày càng một nhiều.
Một số nông dân vẫn giữ phần đất của mình và biến thành nông dân tự
canh, đa phần nông dân mất ruộng phải đi cấy rẽ, làm thuê tức họ phải lĩnh
canh ruộng đất của địa chủ để cày cấy, nộp tô cho địa chủ và trở thành tá điền.


20


Đây cũng chính là bớc đánh dấu quá trình xác lập quan hệ sản xuất phong kiến
ở Phơng Đông mà đặc trng đó là quan hệ giữa địa chủ và tá điền.
Nh vậy với sự xuất hiện của chế độ t hữu ruộng đất đã dẫn tới tình trạng
một số chiếm hữu nhiều ruộng đất trong xã hội thành giai cấp địa chủ, phần
lớn nông dân mất ruộng phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ và trở thành tá
điền. Nông dân tá điền họ vốn là những ngời nông dân tự do trong công xã
nông thôn nhng do họ có qúa ít ruộng đất hay vì điều kiện hoàn cảnh mà họ
phải bán ruộng đất vì thế họ phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ để cày cấy.
Họ có nghĩa vụ phải nộp tô cho chủ ruộng mà từ thời Chiến Quốc đã nêu ra
tiền lệ bằng 5/10 thu hoạch. Nói chung mức địa tô ấy đợc duy trì trong suốt
chế độ phong kiến Trung Quốc. Tuy địa vị kinh tế của họ trớc sau không thay
đổi, nhng về thân phận thì tuỳ theo từng thời kỳ mà có nhiều khác nhau.
Thời Tây Hán loại nông dân tá điền này vẫn là thần dân của nhà nớc, nhng
từ thời Đông Hán đến Nam Bắc triều đại bộ phận nông dân tá điền trở thành
điền khách, bộ khúc của chủ điền trang, do vậy mức độ lệ thuộc vào địa chủ
cũng hơn trớc, trái lại đối với nhà nớc họ không phải chịu nghĩa vụ gì cả.
Thời Đờng, Tống nông dân cày cấy ruộng đất của điền trang gọi là trang
khách, sự lệ thuộc của họ vào chủ có phần giảm xuống, quan hệ giữa chủ điền
trang và trang khách thuần tuý là quan hệ địa chủ - tá điền. Họ đợc lập hộ tịch
riêng gọi là khách hộ. Thời Tống số khách hộ chiếm khoảng 35% số lợng
nông dân.
Nhng đến thời Nguyên cùng với quá trình cớp đoạt ruộng đất và nô dịch
nông dân của bọn địa chủ Mông Cổ và Hán tộc, tá điền phải nộp tô nặng hơn
trớc và bị lệ thuộc chặt chẽ vào địa chủ. Pháp luật triều Nguyên quy định nếu
địa chủ đánh chết tá điền thì bị phạt đánh 107 gậy trong khi đó nếu đánh chết
nô tỳ thì bị phạt 87 gậy.

Trong hai loại nông dân nói trên, nông dân tự canh là đối tợng bóc lột và
là nguồn lao dịch chủ yếu của nhà nớc, còn nông dân tá điền là đối tợng bóc
lột chủ yếu của giai cấp địa chủ. Vì vậy, nhà nớc muốn duy trì đến mức tối đa
tầng lớp nông dân tự canh còn bọn địa chủ thì muốn chiếm đoạt ruộng đất của
nông dân và bắt họ lệ thuộc vào mình. Do đó đã dẫn tới sự giành giật ruộng đất
và nông dân giữa nhà nớc phong kiến và giai cấp địa chủ mặc dù giai cấp địa
chủ là cơ sở của nhà nớc phong kiến và nhà nớc phong kiến là chính quyền của
giai cấp địa chủ.

21


Tóm lại, đều là những ngời lĩnh canh ruộng đất cả nông nô Tây Âu và tá
điền phơng Đông đều có một quá trình hình thành riêng. Vậy thân phận và đời
sống của họ nh thế nào? Giữa họ có điểm gì tơng đồng, khác biệt chơng 2 sẽ
giải quyết vấn đề này.

22


Chơng 2
Thân phận và đời sống của nông nô Tây Âu trong sự
đối sánh với thân phận và đời sống của tá điền Phơng
Đông
Xã hội loài ngời từ khi có giai cấp và nhà nớc là xã hội có sự phân chia kẻ
giàu ngời nghèo, kẻ thống trị ngời bị trị. Cùng với chế độ nô lệ, chế độ đã đạt
đến mức độ phát triển cao nhất của nó trong thời đại văn minh thì cũng diễn ra
cuộc phân chia lớn đầu tiên của xã hội thành giai cấp bóc lột (chủ nô) và giai
cấp bị bóc lột (nô lệ) sự phân chia đó vẫn tiếp tục tồn tại trong suốt thời đại văn
minh. Chế độ nô lệ là hình thức bóc lột đầu tiên chỉ riêng thế giới cổ đại mới

có. Tuy nhiên một hình thái kinh tế xã hội ra đời bao giờ cũng tồn tại trong
mình nó những tàn d của hình thái kinh tế xã hội trớc nó và những mầm mống
của hình thái kinh tế xã hội sau nó. Với quy luật đó từ thế kỷ thứ III đến thế kỉ
thứ V, trong lòng xã hội chiếm hữu nô lệ đã nảy sinh những mầm mống của
quan hệ sản xuất phong kiến. Đây cũng là lúc trong xã hội chiếm hữu nô lệ
xuất hiện mâu thuẫn sâu sắc giữa quan hệ sản xuất cũ và lực lợng sản xuất
mới. Sự ra đời của tầng lớp lệ nông là sản phẩm của mối mâu thuẫn không điều
hoà đợc ấy. Chính tầng lớp này đã góp phần làm tan rã phơng thức sản xuất
chiếm hữu nô lệ. Hay nói cách khác đó là bớc quá độ để xã hội chiếm hữu nô
lệ bớc sang xã hội phong kiến.
Song hành với sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ ở đế quốc La Mã, sự
xâm nhập của bộ tộc Giecmanh là sự ra đời của chế độ phong kiến Tây Âu.
Trong xã hội đó thay thế cho giai cấp chủ nô, kẻ thống trị xã hội là quý tộc
phong kiến. Họ là những ngời nắm trong tay t liệu sản xuất để bóc lột giai cấp
bị trị. Mà cụ thể ở đây giai cấp quý tộc phong kiến chiếm hữu t liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội: ruộng đất và ngời sản xuất chủ yếu: nông dân nông nô.
Vậy tại sao những ngời nông dân công xã Maccơ canh tác tự do trên đất
đai của họ lại có thể biến thành ngời lệ thuộc lãnh chúa phong kiến dới hình
thức nông nô?
Quá trình phong kiến hoá đã biến tất cả giai cấp và tầng lớp trong xã hội
thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội Tây Âu, lãnh chúa và nông nô. Đó là
quá trình tròng vào cổ những ngời nông dân công xã một sự lệ thuộc hoàn
toàn mới. Những ngời nông nô không chỉ xuất thân từ nông dân công xã mà họ

23


còn có nguồn gốc là lệ nông, nô lệ của xã hội chiếm hữu nô lệ cũ. Dù xuất
thân từ giai cấp nào cuối cùng với quá trình phong kiến hoá mà cụ thể là quá
trình nông nô hoá của xã hội Tây âu thời sơ kỳ trung đại đã trở thành một giai

cấp duy nhất ngời sản xuất chủ yếu của xã hội phong kiến- nông dân nông nô.
Thời sơ kỳ và đầu trung kỳ, do lực lợng sản xuất còn thấp nên đặc trng
kinh tế của thời kỳ này là kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Nông nô là ngời sản
xuất chính nuôi sống cả xã hội. T liệu sản xuất chính là ruộng đất hầu hết tập
trung vào tay giai cấp phong kiến thế tục và giáo hội, biến thành những lãnh
địa truyền từ đời này sang đời khác. Lãnh chúa giao ruộng đất cho nông nô cày
cấy và họ phải nộp địa tô cho lãnh chúa. Đây chính là phơng thức bóc lột của
lãnh chúa đối với nông nô. Trên thực tế ngời nông nô chỉ có quyền chiếm hữu
ruộng đất mà không có quyền sở hữu ruộng đất. Vì vậy thân phận của họ bị lệ
thuộc, cột chặt vào lãnh chúa vào ruộng đất. Sự lệ thuộc này đã đợc Các Mác
phân tích nh sau: Vào thời Trung đại mù tối Châu Âu chúng ta không thấy
con ngời độc lập mà thấy tất cả mọi ngời điều lệ thuộc lẫn nhau nông nô và
lãnh chúa, ch hầu với tên chủ phong kiến, ngời thế tục và thầy tu. Sự lệ thuộc
đó của bản thân con ngời vừa đặc trng cho quan hệ xã hội của đời sống vật
chất vừa đặc trng cho tất cả lĩnh vực khác của đời sống dựa trên sự lệ thuộc đó.
Và chính vì xã hội dựa trên sự lệ thuộc đó của bản thân con ngời nên tất cả các
quan hệ xã hội đều là quan hệ giữa ngời với ngời. Do đó các thứ lao động khác
nhau và sản phẩm của các thứ lao động ấy đều không mang một bộ mặt h ảo
nào khác ngoài tính hiện thực của mình. Những lao động đó biểu hiện dới hình
thức công dịch thuế má và nộp tô hiện vật, ở đây hình thái kinh tế tự nhiên của
lao động, tính riêng biệt của lao động chứ không phải tính chung, tính trìu tợng
nh trong xã hội hàng hoá, cũng đồng thời là hình thái xã hội của họ [3, 112
-113]
Còn ở phơng Đông, với sự tan rã của công xã nông thôn và sự xuất hiện
của chế độ t hữu ruộng đất đã bớc đầu đánh dấu sự ra đời của chế độ phong
kiến. Cùng xã hội phong kiến nhng quan hệ phong kiến ở đây thuộc loại hình
khác phơng Tây.
ở phơng Đông có hai hình thức sở hữu ruộng đất, sở hữu nhà nớc (quốc
hữu) và sở hữu t nhân (t hữu). Do vậy giai cấp nông dân gồm nhiều loại nông
dân canh tác ruộng đất của nhà nớc do làng xã giao cho, nông dân lĩnh canh

ruộng đất của địa chủ ngoài ra còn có nông dân tự cày cấy trên ruộng đất của

24


mình. Nhng nhìn chung xu thế ruộng đất t hữu ngày càng chiếm u thế nên
quan hệ chủ yếu trong xã hội phong kiến phơng Đông vẫn là quan hệ địa chủ
với tá điền. Cũng giống nh nông nô Tây Âu, tá điền phơng Đông cũng nhận
ruộng đất của địa chủ để cày cấy và nộp tô cho địa chủ. Tuy nhiên thân phận
và đời sống của họ vừa có nét chung vừa có nét riêng.
2.1 Đời sống kinh tế
2.1.1 Sống trong khuôn khổ nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc
Có thể nói rằng đặc trng kinh tế của tầng lớp nông nô Tây Âu và tá điền
phơng Đông trung đại là một nền kinh tế mang tính chất tự nhiên, tự cấp, tự
túc.
Nền kinh tế của chế độ phong kiến Tây Âu gồm hai bộ phận: kinh tế của
lãnh địa phong kiến và kinh tế cá thể của từng bộ phận nông nô. Cả hai bộ
phận này đều do ngời nông nô trực tiếp sản xuất lấy.
Đặc trng của kinh tế tự nhiên đợc thể hiện ở chỗ ở đây có sự kết hợp chặt
chẽ giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp trong mỗi lãnh địa. Ngời nông nô
vừa là ngời sản xuất nông nghiệp nhng đồng thời cũng là một ngời thợ thủ
công. Trong từng hộ gia đình nông nô đều tự sản xuất ra những thứ cần thiết
đảm bảo cho cuộc sống của gia đình mình. Cụ thể nông nô tự sản xuất ra bánh
mì, sợi tơ lụa, quần áo, các công cụ lao động Những sản phẩm mà nông nô
làm ra là để phục vụ cho nhu cầu tại chỗ chứ không phải để trao đổi, mua bán,
tức nó không trở thành hàng hóa. Có thể thấy rằng mọi thứ cần thiết cho cuộc
sống của mình ngời nông nô đều tự sản xuất ra trên đất phần của mình.
Ngời tá điền phơng Đông cũng vậy, nền sản xuất của họ là tự sản tự tiêu.
Mỗi hộ nông dân tá điền đều trồng một ít lúa, một ít đậu, lạc, khoai, sắn,
bông Trong những dịp nông nhàn đàn bà kéo tơ, diệt vải, may quần áo, đàn

ông thì rèn đúc công cụ sản xuất. Ví nh sự sản xuất trong một điền trang thời
Đông Hán: Trong các điền trang không chỉ đơn thuần trồng các loại ngủ cốc
mà còn trồng các thứ cây nhằm cung cấp nguyên liệu cho các nghề thủ công
nh dâu, đay Ngoài ra ở đây còn có vờn cây ăn quả, ao thả cá, bãi chăn nuôi,
ở đây cũng có nghề thủ công nh: nuôi tằm, dệt lụa, dệt vải, nhuộm, may, nấu
rợu, làm công cụ, binh khí Có thể cung cấp đủ nhu cầu hàng ngày cho chủ
điền trang (địa chủ) và trang dân (tá điền).

25


×