Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Tìm hiểu chính sách đối ngoại của trung quốc ở đông nam á từ sau chiến tranh lạnh đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.34 KB, 66 trang )

Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

tìm hiểu chính sách đối ngoại của trung quốc
đối với đông nam á từ sau chiến tranh lạnh đến nay
---------------------------------

Phần mở đầu
I - lý do chọn đề tài:

Sau chiến tranh lạnh cùng với sự sụp đổ của "trật tự hai cực Ianta", thế
giới bớc vào quá trình hình thành một trật tự thế giới mới với sự hiện diện của
các nớc lớn và các trung tâm quyền lực: Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản, Nga, Trung
Quốc... Trong đó Trung Quốc nh là một cờng quốc đang trổi dậy ở Châu á và
có xu hớng tác động đến sự thay đổi thế cân bằng của Châu á - Thái Bình Dơng trong tơng lai.
Trong sự biến chuyển của tình hình quốc tế thập kỷ qua, xu thế nhất cực
hay đa cực vẫn cha đợc xác định, nhng đối với Trung Quốc thì một thế giới đa
cực là mong muốn và là mục tiêu của họ trong đó họ muốn mình sẽ là một cực
với vị trí nhất định trên trờng quốc tế.
Xuất phát từ mục tiêu chiến lợc đó, trong sự biển đổi của tình hình thế
giới hiện nay, Trung Quốc đã thực hiện điều chỉnh chính sách đối ngoại đối
với các nớc Đông Nam á, điều này đã đa đến những tác động không nhỏ tới
khu vực trong những năm qua.
Sự điều chỉnh chính sách của Trung Quốc đối với Đông Nam á từ sau
chiến tranh lạnh đến nay đợc các nhà lãnh đạo Trung Quốc khẳng định những
mục tiêu trên kinh tế, vì môi trờng hoà bình... nhng vấn đề đặt ra là, trên thực
tế thì những mục tiêu đó chỉ là một mặt trong chính sách của Trung Quốc ở
Đông Nam á. Những tranh chấp vẫn thờng xuyên diễn ra và ngày càng có
phần căng thẳng giữa Trung Quốc với các nớc Đông Nam á với thái độ cứng
rắn của Trung Quốc, những nguy cơ đe dọa đến tình hình an ninh và môi trờng


hoà bình của Đông Nam á đợc gia tăng... đợc xuất phát từ mục tiêu nào trong
1


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

chính sách của Trung Quốc? Phải chăng đó là sự ngẫu nhiên, bột phát hay là
những phép tính chiến lợc của Trung Quốc?
Một câu hỏi lớn không dể giải đáp đang đặt ra với tất cả chúng ta là sự
điều chỉnh chính sách của Trung Quốc với các nớc Đông Nam á từ sau chiến
tranh lạnh đến nay đã diễn ra nh thế nào? Nội dung và thực chất của nó là gì?
Trong sự điều chỉnh đó, cái gì bất biến cái gì là khả biến? Đó là những vấn đề
quan trọng và hết sức cấp thiết đang đợc đặt ra đối với giới nghiên cứu các nớc Đông Nam á nói chung và Việt Nam nói riêng!
Chính sách chính trị - ngoại giao của Trung Quốc đối với Đông Nam á
trong thập kỷ qua đã và đang tác động trực tiếp và phức tạp đến khu vực. Vì
vậy xét trên bình diện: chính trị - ngoại giao, việc nghiên cứu đề tài này là một
nhu cầu thực tiễn và khoa học. Trên cơ sở đó sẽ góp phần tích cực giúp cho
việc xác định đối sách đúng đắn của các nớc Đông Nam á với Trung Quốc.
Nhất là Việt Nam, một nớc đã từng có bề dày quan hệ với Trung Quốc từ
trong lịch sử, đã từng có không ít những biến cố phức tạp qua những lần "điều
chỉnh" chính sách của Trung Quốc, thì hơn bao giờ hết, chúng ta càng cần
thiết phải nghiên cứu sự điều chỉnh chính sách của Trung Quốc đối với Đông
Nam á trong thời kỳ hiện nay.
II - Lịch sử vấn đề:

"Chính sách của Trung Quốc đối với các nớc Đông Nam á sau chiến
tranh lạnh" là một vấn đề mới với những sự kiện lịch sử vẫn còn đang trong
quá trình tiếp diễn.

Đã có không ít các nhà nghiên cứu trong và ngoài nớc quan tâm đến
vấn đề này, song mới chỉ là bớc đầu với những bài viết, bài bình luận, thờng
là nghiêng về mặt này hoặc mặt khác của vấn đề.

2


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc trên cơ sở nhìn nhận về bình diện thế
giới đã khẳng định chính sách mở cửa đối ngoại để phát triển của Trung Quốc
từ thời Đặng Tiểu Bình là một sự hoà nhập hợp quy luật vì "Sự phát triển của
Trung Quốc không thể tích khỏi thế giới". Lu Vĩnh Đoạn trong" Kinh tế Châu
á bớc vào thế kỹ XXI" cũng đã đề cập đến một phần nhng không nhiều về hớng phát triển kinh tế, chính trị của Trung Quốc hiện tại và tơng lai.
Các nhà nghiên cứu phơng Tây có sự chú ý đặc biệt đến Trung Quốc từ
sau chiến tranh lạnh đến nay, nhng cũng chỉ mới dừng lại ở mặt này hay mặt
khác của vấn đề nh: Những biến đổi kinh tế và xu hớng địa chính trị qua tình
hình thế giới năm 1993 - 1994 - 1996 và việc đánh giá " Trung Quốc trên bàn
cân. Gần đây nhất, G.Klinworth trong" Đông Nam á - Trung Quốc mối quan
hệ đang mở ra" đã nói đến sự tiến triển trong quan hệ Trung Quốc - Đông
Nam á... Nhng tất cả cũng mới chỉ là những bài viết phục vụ cho quân sự, nên
nó thiên về chính sách quân sự của Trung Quốc.
Hiện nay, trên các tài liệu đặc biệt phục vụ nghiên cứu đã có những bài
biết ngắn nh: "Những u tiên chính sách và quan hệ gần đây nhất của Trung
Quốc với Đông Nam á" của Robert Sutter và "Các mối quan hệ đang biến đổi
của Trung Quốc với Đông Nam á, Nam á và Trung á " của Ross Munrô, đã
khái quát đợc xu hớng điều chỉnh chính sách của Trung Quốc với Đông Nam
á nhng trên quan điểm của các nhà nghiên cứu phơng Tây, ít nhiều có những

đánh giá xa với phơng pháp luận mác xít.
Đối với các nhà nghiên cứu Việt Nam, các đề tài nghiên cứu về vấn đề
này khá phong phú, nhng nhìn chung cũng chỉ mới hớng mũi nhọn nghiên cứu
vào quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc với các nớc ASEAN. Đó là Nguyễn Minh
Hằng với "Quan hệ kinh tế đối ngoại Trung Quốc thời mở cửa". Lê Hồng Phục Đỗ Đức Thịnh với: "Một số vấn đề về kinh tế đối ngoại của các nớc đang phát
triển Châu á"... đã khái quát đợc quan hệ đối ngoại của Trung Quốc hiện nay
3


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

với các nớc về kinh tế, trong đó đề cập đến quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc với
ASEAN nhng chỉ mới là hệ thống dữ liệu khái quát.
Năm 1999 ở nớc ta đã tiến hành một số cuộc hội thảo nh: "Chính sách
của Trung Quốc với các nớc ASEAN và Việt Nam" tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh. Về "Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc " tại Trung tâm
nghiên cứu Trung Quốc và đặc biệt là cuộc hội thảo quốc tế: "ASEAN hôm
nay và ngày mai" tại Viện nghiên cứu Đông Nam á có cả sự tham gia của các
nhà nghiên cứu Trung Quốc và phơng Tây. Qua các cuộc hội thảo đó, vấn đề
chính sách đối ngoại, quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc với ASEAN một lần
nữa đợc quan tâm, song cũng mới chỉ dừng lại ở những bài tham luận ngắn có
tính chất lớt qua một cách khái quát và cũng chủ yêú thiên về quan hệ kinh tế.
Nhìn chung, vấn đề chính sách chính trị - ngoại giao của Trung Quốc đối
với Đông Nam á từ sau chiến tranh lạnh đến nay vẫn đang là một vấn đề mới mẻ
vã lại nó là vấn đề khá nhạy cảm. Cha có công trình nào nghiên cứu vấn đề này
một cách chuyên sâu, do tính phức tạp của những sự kiện đang diễn ra từ nó. Vìi
vậy chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài này với hy vọng nghiên cứu một cách có giới
hạn vào vấn đề còn nhiều bở ngỡ đó là "Tìm hiểu chính sách chính trị - ngoại

giao của Trung Quốc đối với Đông Nam á từ sau chiến tranh lạnh đến nay", trên
cơ sở tiếp thu có chọn lọc những thành tựu nghiên cứu của những ngời đi trớc và
trên những sự kiện lịch sử thực tế đã và đang diễn ra.
III - đối tợng và phạm vi nghiên cứu đề tài:

* Đối tợng nghiên cứu của đề tài là:
Chính sách của Trung Quốc đối với Đông Nam á từ sau chiến tranh
lạnh đến nay (từ 1989 - 2000) trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao.
*Phạm vi nghiên cứu của đề tài:

4


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

Để phục vụ cho việc nghiên cứu nội dung chính đó, đề tài đi vào
nghiên cứu các vấn đề nh: Chính sách của Trung Quốc với các nớc Đông
Nam á trớc 1989; những nhân tố tác động đến sự điều chỉnh chính sách
của Trung Quốc sau chiến tranh lạnh. Bên cạnh đó, để có cái nhìn tổng thể,
sâu sắc về chính sách này của Trung Quốc, đề tài đã nghiên cứu về chính
sách chính trị - ngoại giao của Trung Quốc với các nớc lớn và các nớc láng
giềng. (Nam á, Trung á). Qua cái nhìn tổng thể, toàn diện đó, đề tài sẽ rút ra
đợc nội dung và thực chất chính sách này của Trung Quốc đối với Đông Nam á
một cách chính xác và khoa học hơn, song song với nó là sẽ thấy đợc khác biệt
trong sự điều chỉnh chính sách của Trung Quốc thời kỳ mới này với từng khu
vực.
- Về thời gian: Trên cơ sở tìm hiểu quá trình vận động của chính sách
Trung Quốc đối với Đông Nam á trớc chiến tranh lạnh, lấy mốc từ năm 1949,

đề tài giành trọng tâm nghiên cứu phạm vi thời gian từ sau chiến tranh lạnh đến
nay (1989 - 2000).
IV - Phơng pháp nghiên cứu:

"Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Đông Nam á sau
chiến tranh lạnh" là một vấn đề lịch sử. Để hoàn thành đề tài này chúng
tôi dựa vào quan điểm của Đảng từ về những vấn đề quốc tế, về chính
sách đối ngoại, để nghiên cứu và làm cơ sở cho việc đánh giá và kết luận
vấn đề. Trong phơng pháp, chúng tôi sử dụng phơng pháp lịch sử và phơng
pháp logic để nghiên cứu những sự kiện hiện t ợng lịch sử. Trên cơ sở su
tầm, phân loại và chọn lọc nguồn t liệu phong phú và xác thực để tìm ra
nội dung và thực chất của chính sách đối ngoại Trung Quốc ở Đông Nam
á từ 1989 đến nay.
Ngoài ra để làm rõ hơn nội dung, đề tài còn sử dụng một số phơng
pháp nghiên cứu cụ thể khác: phơng pháp giả định chứng minh.
5


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp
V - Cấu trúc của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần tài liệu tham khảo, và mục lục,
luận văn gồm 3 chơng.
Chơng I: Vài nét về chính sách của Trung Quốc đối với Đông Nam
á trớc năm 1989 và sự chuyển hớng của nó sau chiến tranh lạnh:
Chơng II: Chính sách của Trung Quốcđối với Đông Nam á từ 1989 đến
nay.
Chơng III: Đông Nam á trớc tác động của chính sách đối ngoại của

Trung Quốc.

Phần nội dung:
Chơng I
Vài nét về chính sách của Trung Quốc đối với Đông Nam á
trớc năm 1989 và sự chuyển hớng sau chiến tranh lạnh

6


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

I - Vài nét về chính sách của Trung Quốc đối với Đông Nam
á trớc năm 1989:

Từ sau năm 1949, nớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa bắt đầu công
cuộc xây dựng đất nớc, cũng là thời kỳ Trung Quốc phải bảo vệ sự tồn tại của
mình trong bối cảnh thù địch đợc tạo ra bởi cuộc chiến tranh lạnh trên thế giới
đã lan rộng ở Châu á. Vì vậy, chính sách của Trung Quốc ở giai đoạn này
luôn có hai mục tiêu hàng đầu là củng cố an ninh quốc gia và nâng cao địa vị
trên trờng quốc tế với t cách là một nớc lớn.
Do những tác động của sự phân chia quyền lực chính trị trong chiến
tranh lạnh và việc theo đuổi những mục tiêu chiến lợc của mình, nên chính sách
của Trung Quốc đối với Đông Nam á thời kỳ này rất phức tạp, tạo nên mối quan
hệ giữa Trung Quốc với các nớc Đông Nam á đầy quanh co, uốn khúc.
1/ Chính sách của Trung Quốc với các nớc Đông Dơng:
Vào đầu những năm 50, Trung Quốc đứng trớc mối nguy cơ an ninh cả
từ phía bắc và phía nam. ở phía Bắc, Trung Quốc phải đối phó với cuộc chiến

tranh của Mỹ ở Triều Tiên và ở phía Nam là cuộc chiến tranh tái xâm lợc
Việt Nam của thực dân Pháp. Mặt khác, đây là thời kỳ Mỹ thi hành chính
sách thù địch với Trung Quốc và tiến hành kế hoạch bao vây cô lập Trung
Quốc. Trong bối cảnh đó, để đảm bảo an ninh cho mình, Trung Quốc đã chi
viện cung cấp vũ khí cho ba nớc Đông Dơng vào cuối cuộc kháng chiến chống
Pháp với mong muốn Trung Quốc sẽ đứng ra làm ngời chi phối cuộc thơng lợng với Pháp. Thực hiện kế hoạch này, Trung Quốc nhằm đạt hai mục đích:
Thứ nhất là nhằm đảm bảo an ninh cho Trung Quốc ở phía Nam, thứ hai là
nhằm thực hiện mu đồ nắm Đông Dơng để có vai trò của nớc lớn trong việc
giải quyết những vấn đề quốc tế mà trớc hết là ở Châu á. Đặc biệt trong giai
đoạn này, Trung Quốc đã bắt tay với Liên Xô, coi Liên Xô là đồng minh lớn

7


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

nhất để chống lại Mỹ và Phơng Tây. Cho nên, mặc dù chính sách đối ngoại
của Trung Quốc theo thuyết của Mao Thạch Đông, muốn thực hiện mu đồ "nớc lớn", nhng quan hệ của Trung Quốc với Đông Dơng lại đầy khả quan và
triển vọng.
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào
Đông Dơng, nhằm biến Đông Dơng thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân
sự của Mỹ ở Đông Nam á. Vào cuối những năm 60, việc sa lầy trong chiến
tranh xâm lợc Việt Nam, một mặt làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng
chính trị - xã hội của nớc Mỹ, mặt khác đã làm suy yếu thêm vị trí của Mỹ
trên trờng quốc tế. Trớc tình thế tuyệt vọng đó, sau khi lên cầm quyền, Nich
Xơn đã đề ra một chiến lợc mới đối với Đông Dơng. Ních Xơn đã tìm cách
khai thác những bất đồng trong quan hệ hai nớc Liên Xô - Trung Quốc, tiến
hành thơng lợng với Liên Xô, thoả hiệp với Trung Quốc nhằm cô lập Đông Dơng.

Xuất phát từ bối cảnh đó, Trung Quốc đã đi từ chính sách chống Mỹ
công khai đến thoả hiệp với Mỹ để chống lại Liên Xô. Đỉnh cao của sự thoả
hiệp trên giữa Trung Quốc với Mỹ là việc ký kết "Thông cáo Thợng Hải"
tháng 12/1972. Một trong những nội dung của "Thông cáo Thợng Hải" là:
Mỹ và Trung Quốc công nhận quyền lợi của nhau ở vùng Châu á- Thái Bình
Dơng, đặc biệt là ở Đông Nam á. Trung Quốc chấp nhận sẽ giúp đỡ Mỹ trong
chiến lợc của Mỹ ở Việt Nam và Đông Dơng. Trung Quốc sẽ liên minh với
Mỹ nhằm chống lại Liên Xô và các nớc xã hội chủ nghĩa.
Sự thoả hiệp với Mỹ của Trung Quốc là một bớc có ý nghĩa quyết định
đối với việc triển khai âm mu bành trớng của Trung Quốc, trớc hết là ở Đông
Dơng.
Sau khi ký "Thông cáo Thợng Hải", Trung Quốc đã ngừng viện trợ,
ngừng giúp đỡ Việt Nam, đồng thời tìm mọi cách kiềm chế Việt Nam thống
nhất đất nớc, cản trở việc thi hành hiệp định Pari, âm mu thi hành chính sách
8


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

giữ cho Việt Nam không thắng không bại, bị chia cắt lâu dài lệ thuộc vào
Trung Quốc.
Sau hiệp định Pari tháng 1/1973, Trung Quốc đã từng bớc đẩy mạnh
hơn nữa những hành động nhằm chống phá Cách mạng Việt Nam. Trung Quốc
đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa để khống chế Việt Nam từ mặt biển; đồng thời
tăng cờng những hành động khiêu khích và lấn chiếm đất đai ở những tỉnh biên
giới phía bắc Việt Nam nhằm duy trì tình hình căng thẳng ở biên giới Việt Trung để phân tán lực lợng của Cách mạng Việt Nam. Mặt khác, Trung Quốc
"nuôi dỡng" và sử dụng bè lũ Pôn Pốt -Iêng Xary để thi hành chính sách chống
Việt Nam, từng bớc nắm trọn Campuchia dới chế độ Pôn pốt - Iêng Xari để

chuẩn bị bàn đạp tấn công Việt Nam từ phía Tây nam.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam năm 1975 đã đánh đổ hoàn toàn
chính quyền tay sai của Mỹ, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nớc. Đây
không chỉ là thất bại nặng nề của Mỹ mà còn là một thất bại lớn của Trung
Quốc trong việc thực hiện mu đồ bành trớng của mình. Chính vì vậy mà Trung
Quốc đã tiến tới công khai thi hành chính sách thù địch chống Việt Nam.
Sau khi đã có một quá trình thực hiện những kế hoạch ngấm ngầm tạo nên
sự chuẩn bị khá kỹ lỡng. Trung Quốc đã thực hiện cuộc tấn công quy mô
vào biên giới Việt Nam theo hai hớng từ phía Tây Nam ngày 22/12/1978
và từ phía Bắc ngày17/2/1979, tạo nên cuộc chiến tranh biên giới vô cùng
căng thẳng. Trung Quốc còn dùng Hoa kiều làm "đạo quân thứ năm" gây
ra vụ "nạn kiều", xúi giục ngời Hoa ở Việt Nam trở về Trung Quốc nhằm
phá rối an ninh của Việt Nam sau giải phóng, đã đa đến không ít khó khăn
cho cách mạng Việt Nam.
Hai nớc Lào và Campuchia cũng ở tầm nhìn truyền thống trong chiến lợc "chủ nghĩa đại dân tộc" của Trung Quốc, nhng với Campuchia, tình hình
có nhiều phức tạp hơn, tạo cho Trung Quốc nhiều thời cơ hơn.

9


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

Từ 1960, Trung Quốc đã tìm cách nắm các lực lợng Campuchia, thi
hành chính sách rất phức tạp đối với Campuchia,. Đến năm 1970, Trung Quốc
từng bớc từ chỗ tiến hành hậu thuẫn cho các lực lợng chống đối trong Chính
phủ lật đổ Nôrôđôn Xihanuc, đa Lonnon lên cầm quyền, biến đảng Khmer
thành một đảng phụ thuộc vào Trung Quốc, đến chỗ dùng bọn Pôn pốt - Iêng
Xari để phá hoại cách mạng ba nớc Đông Dơng, nhằm biến Campuchia, thành

một căn cứ, một bàn đạp để khống chế Đông Dơng. Sau năm 1975, khi
Campuchia đã giải phóng, Trung Quốc đã xây dựng nên một chế độ diệt chủng
có một không hai trong lịch sử loài ngời, nhằm thông qua đó để hoàn toàn kiểm
soát Campuchia và chống Việt Nam từ phía Tây Nam.
Sang thập kỹ 80, cách mạng các nớc Đông Dơng đã giành đợc thắng lợi
quyết định, Trung Quốc thực hiện đờng lối cải cách mở cửa, đa quan hệ
Trung Quốc và ba nớc Đông Dơng đến chỗ có phần dịu hơn, nhng trên thực tế,
chính sách "nớc lớn" t tởng "đại dân tộc" của Trung Quốc vẫn đợc thể hiện rõ
ràng qua quá trình đàm phán với Việt Nam, quá trình lợi dụng tình hình phức
tạp ở Campuchia đề tăng cờng ảnh hởng đối Đông Dơng cũng nh khu vực
Đông Nam á.
2/ Chính sách của Trung Quốc đối với các nớc Đông Nam á khác:
Mặc dù có những nét khác biệt, nhng chính sách của Trung Quốc với
các nớc Đông Nam á khác cũng cùng chung một điểm xuất phát từ t tởng chỉ
đạo chủ nghĩa đại dân tộc và chiến lợc chủ nghĩa nớc lớn của những nhà cầm
quyền Trung Quốc trong thời kỳ này. Cụ thể là trớc hết Trung Quốc muốn
thôn tính ba nớc Đông Dơng, dùng Đông Dơng làm bàn đạp, bành trớng
xuống các nớc Đông Nam á khác. Điều này đợc thể hiện rõ qua khẳng định
của Chủ tịch Mao Trạch Đông trong cuộc họp của Bộ chính trị, Ban Chấp
hành Trung ơng Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 8/1965: "Chúng ta phải
giành cho đợc Đông Nam á bao gồm cả Thái Lan, Miến Điện, Malaixia và
Singapore..."
10


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

Trong những năm 50, 60, do chính sách "nhất biên đảo" và chính sách

"hai tuyến", nên Trung Quốc rất hạn chế quan hệ đối ngoại với các nớc Đông
Nam á ngoài Đông Dơng, nhất là với hai nớc Thái Lan và Philippin thuộc
khối liên minh quân sự SEATO có tính chất xâm lợc của Mỹ. Với Inđônêxia
thì sự kiện 30/9/1965 đã tạo ra một khoảng cách vô cùng lớn giữa Inđônêxia
và Trung Quốc. Nhìn chung trong thời kỳ này, Trung Quốc hầu nh không có
quan hệ ngoại giao với các nớc Đông Nam á ngoài Đông Dơng, có chăng thì
mới chỉ là quan hệ với cộng đồng ngời Hoa ở các nớc này để phục vụ mục
đích chiến lợc của họ là sử dụng lực lợng Hoa Kiều để làm công cụ nội lực ở
Châu á - Thái Bình Dơng.
Từ thập niên 70 Mỹ ngày càng lúc sâu vào thất bại trong chiến tranh
Việt Nam và cuối cùng là sự thất bại hoàn toàn, buộc Mỹ phải rút khỏi
Đông Dơng, chấm dứt vai trò dùng sức mạnh của Mỹ ở Đông Nam á.
Cùng với sự rút lui của Mỹ, là sự giải thể của khối liên minh quân sự
SEATO năm 1996. Từ 1971 Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thay Đài Loan đại
diện ở Liên hiệp quốc. Trong tình hình đó, Trung Quốc thực hiện điều chỉnh
chính sách của mình: một mặt, chuyển từ chính sách "hai tuyến" sang chính
sách "một tuyến", bắt tay hợp tác với Mỹ nhằm mục đích thay Mỹ lấp khoảng
trống quyền lực ở Đông Nam á; mặt khác thực hiện thiết lập quan hệ ngoại
giao với, với Malaixia năm 1975, với các ASEAN, Thái Lan và Philippin,
năm 1990 với Inđônêxia và Singapore. Nhng ở thời kỳ này do mục đích chiến
lợc của Trung Quốc là nhằm xây dựng quan hệ với các nớc ASEAN để cô lập
Đông Dơng, lợi dụng tình hình căng thẳng ở Campuchia để khắc sâu thêm
mâu thuẩn đối đầu giữa các nớc trong ASEAN và Đông Dơng. Nên quan hệ
giữa Trung Quốc với ASEAN cha thực sự cởi mở các nớc ASEAN vẫn còn
cảnh giác với Trung Quốc. Song có một số nớc lại có quan hệ chặt chẽ đặc
biệt với Trung Quốc nh Thái Lan, Malaixia trên cơ sở cùng đứng về phía lực l-

11



Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

ợng Pônpốt - Iêng Xari để cùng với Trung Quốc chống lại cách mạng Việt
Nam và Đông Dơng.
Đến thập kỷ 80, Trung Quốc thấy không thực hiện đợc mục tiêu chiến lợc của mình ở Đông Dơng. Bên cạnh đó, do việc thực hiện chính sách cải cách
mở cửa, Trung Quốc rất cần thu hút vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý... Đó
chính là động cơ để Trung Quốc hớng tới tăng cờng cải hiện quan hệ hợp tác
với các nớc ASEAN, coi đây là hớng mở cửa quan trọng của Trung Quốc ở
Châu á - Thái Bình Dơng. Tuy vậy, trong thời kỳ này, quan hệ giữa Trung
Quốc và các nớc ASEAN vẫn chỉ là bớc đầu, rất dè dặt và mang tính chất
quan hệ kinh tế đơn thuần.
Chính sách của Trung Quốc với các nớc Đông Nam á trong những năm
trớc 1989 là xuất phát từ những mục tiêu chiến lợc của Trung Quốc, thực hiện
t tởng chủ nghĩa nớc lớn, bành trớng, bá quyền bằng mọi hình thức. Chính vì
vậy mà chính sách đối ngoại của Trung Quốc nh những nớc cờ lắt léo, đầy
quanh co và phức tạp, điều chỉnh theo những biến đổi của tình hình quốc tế.
Sự xoay vần ấy đã tạo nên sự thất thờng trong chính sách của Trung Quốc đối
với khu vực Đông Nam á.

II - Những nhân tố tác động đến chính sách đối ngoại của
Trung Quốc sau chiến tranh lạnh:

1/ Tình hình quốc tế:
Sự kết thúc của chiến tranh lạnh vào cuối thập kỷ 80 đã khiến cho tình
hình thế giới chuyển sang một thời kỳ mới. Sự thay đổi lớn đó đã làm cho mục
tiêu, phơng hớng, sách lợc, chiến lợc phát triển của nhiều nớc bị đảo lộn. Trong
bối cảnh đó, các nớc đều ra sức tìm cho mình một con đờng mới để có thể tiếp
tục phát triển trong thế giới đầy biến động sau "chiến tranh lạnh".

12


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

Cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh đã thay đổi rất nhanh chóng. Xu
thế đối đầu về chính trị, quân sự trên phạm vi toàn cầu tạm thời dịu đi thay
vào đó là một thế giới với nhu cầu đối thoại củng cố hoà bình phát triển kinh
tế, để khẳng định mình. Đặc biệt là thành quả của cuộc Cách mạng khoa học
kỹ thuật mở ra một cuộc chạy đua toàn cầu về kinh tế và việc áp dụng khoa
học kỹ thuật vào phát triển kinh tế. Trong điều kiện đó, không một nớc nào có
thể tự vận động phát triển mà không có sự giao lu, liên minh, liên kết với thế
giới bên ngoài. Chính nhu cầu đó đã tạo nên xu hớng quốc tế hoá, toàn cầu
hoá và phát triển các tổ chức liên minh quốc tế trên toàn thế giới nh: Khối thị
trờng Châu Âu, khối ASEAN, Khối liên minh kinh tế Mỹ - Canađa... Tình
hình và xu thế phát triển mới của thế giới nh vậy đã buộc các nớc muốn tồn
tại và phát triển thì tất yếu phải điều chỉnh chính sách của mình, đặt sự phát
triển kinh tế lên mục tiêu hàng đầu, trong đó hợp tác là cách thức chủ yếu, là
điều kiện quan trọng.
Mặt khác trong xu thế toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới, các quốc
gia ngày càng lệ thuộc nhiều hơn vào nhau, an ninh của mỗi nớc nằm trong
nền an ninh chung và có ổn định thì mới phát triển lên đợc. Tuy vậy, hoà bình
ở nhiều khu vực vẫn bị đe dọa, thậm chí ở nhiều nơi, xung đột quân sự vẫn
diễn ra vô cùng ác liệt. Đó là những mâu thuẩn về sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp
lãnh thổ... Đặc biệt trong các cuộc xung đột, mâu thuẩn đó, ít nhiều luôn có sự
tham gia của các thế lực thể hiện xu thế của việc hình thành cán cân thế giới
mới. Vì vậy mà vấn đề càng phức tạp hơn. Xuất phát từ tình hình đó, các nớc
buộc phải xác định cho mình hớng và khu vực để hợp tác nhằm phát triển,

đảm bảo an ninh và tạo sự ảnh hởng của mình.
Nh vậy sau chiến tranh lạnh, những chuyển biến trong tình hình
quốc tế đã tạo nên những nhân tố cơ bản buộc các quốc gia, nhất là những
nớc đang nổi lên, ra sức điều chỉnh chiến lợc phát triển của mình, đặc biệt

13


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

là điều chỉnh chính sách đối nội, đối ngoại để hoà nhập với xu thế mới của
thế giới.
2/ Những chuyển biến ở Châu á - TBD sau chiến tranh lạnh:
2.1/ Tình hình Châu á - Thái Bình Dơng:
Sau chiến tranh lạnh, Châu á -Thái Bình Dơng đợc coi là nơi yên bình
nhất, năng động nhất và ổn định nhất của thế giới hiện nay.
Về kinh tế: Sự sôi động và thần kỳ của Châu á - Thái Bình Dơng trớc
hết là ở lĩnh vực kinh tế và tốc độ tăng trởng kinh tế. Qua thống kê của các
nhà nghiên cứu kinh tế, Châu á -Thái Bình Dơng có tốc độ tăng trởng kinh tế
cao nhất thế giới sau chiến tranh lạnh. Mức tăng GDP của Châu á -Thái Bình
Dơng bình quân mỗi năm đạt trên dới 6%, trong khi tốc độ tăng trởng kinh tế
của Bắc Mỹ là 2,4% và Tây Âu 1,5% năm. Theo dự báo của tổ chức kinh tế
thế giới năm 1990 thì tổng sản phẩm của Châu á -Thái Bình Dơng chiếm 1/4
tổng sản phẩm của toàn thế giới và đang tiếp tục phát triển.
Sự xuất hiện và vơn lên của những "con rồng" Châu á nh Nhật Bản,
Hồng Kông, Đài Loan, Sinhgapore.... đã là biểu hiện cho sự phát triển thần kỳ
của kinh tế Châu á - Thái Bình Dơng. Đặc biệt sự kết thúc của chiến tranh
lạnh đã tạo ra môi trờng hoà nhập trong dòng phát triển và hợp tác của Châu

á -Thái Bình Dơng với thế giới, tạo điều kiện cho Châu á -Thái Bình Dơng
hình thành những tiểu khu vực kinh tế: Tiểu khu vực kinh tế Đông Bắc á, tiểu
khu vực kinh tế Hoa Nam, khu vực mậu dịch tự do các nớc ASEAN (APTA).
Đặc biệt để đi sâu vào phát triển hợp tác khu vực. Tổ chức hợp tác kinh tế
Châu á -Thái Bình Dơng (APEC) đã ra đời vào năm 1989 là sự biểu hiện cho
sự phát triển của quá trình nhất thể hoá nền kinh tế Châu á -Thái Bình Dơng.
Sự phát triển kinh tế của Châu á -Thái Bình Dơng trong những năm
qua đã làm tăng vai trò quốc tế của khu vực. Điều này đã tác động lớn đến
chính sách của các nớc nhất là những nớc lớn ở Châu á -Thái Bình Dơng.

14


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

Trung Quốc đang cố gắng chớp thời cơ, tích cực tham gia hoà nhập vào sự
phát triển của thế giới, điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại của
mình nhằm một mặt, phát triển nền kinh tế trong nớc, mặt khác tích cực
tham gia vào việc hoạch định các nguyên tắc hoạt động để khẳng định vị trí
của mình, bên cạnh đó chủ động mở rộng thị trờng để thu hút tốt hơn
nguồn vốn đầu t nớc ngoài hoà nhập vào những thành tựu khoa học tiên tiến,
tiếp cận nhanh với nền kinh tế quốc tế.
Vì an ninh - chính trị: ổn định chính trị và an ninh khu vực là nét nổi
bật tạo nền móng cho sự phát triển về kinh tế của Châu á -Thái Bình Dơng.
Sau chiến tranh lạnh những bất ổn định, nh vấn đề bán đảo Triều Tiên, vấn đề
eo biển Đài Loan, vấn đề Biển Đông, vấn đề Đông Timor... vẫn tiếp diễn, song
nhìn chung hoà bình và phát triển vẫn là xu thế chung của Châu á -Thái Bình
Dơng.

Sự tranh giành bá quyền giữa các nớc lớn vẫn đang diễn ra một cách âm
thầm. Nổi bật là sự cạnh tranh quyền lực giữa Nhật Bản và Trung Quốc, và
quá trình hai bên tập hợp lực lợng vẫn diễn ra từng ngày với một hình thức kín
đáo. Nhật một mặt đẩy mạnh đầu t buôn bán ở Châu á -Thái Bình Dơng và
xem đó nh một phơng tiện để giành quyền lãnh đạo trên thực tế, mặt khác tiếp
tục tìm kiếm vai trò chính trị lớn hơn thông qua ảnh hởng kinh tế và nâng cao
vị trí của mình ở Liên Hiệp Quốc. Đồng thời việc duy trì Hiệp ớc an ninh Mỹ Nhật cũng tạo nên sức mạnh cho Nhật. Đây thực sự là vấn đề có ý nghĩa
không nhỏ tác động đến Trung Quốc, buộc Trung Quốc phải chú ý đến sự điều
chỉnh chính sách của mình.
Đáng chú ý hơn là sau chiến tranh lạnh, sự sụp đổ của Liên Xô đã làm
cho quan hệ hợp tác Mỹ - Trung trong việc chống Liên Xô không còn cần
thiết nữa. Song song với nó là sự cải thiện quan hệ Trung - Nga cho phép
Trung Quốc hớng trọng tâm chú ý đến nơi khác. Và hiện nay, sự rút đi của
Mỹ và Nga đã tạo nên "khoảng trống quyền lực" và tình trạng mất cân bằng
15


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

sức mạnh ở Châu á -Thái Bình Dơng. Những yếu tố đó trở thành cơ hội
quyết định để Trung Quốc điều chỉnh chính sách của mình với hy vọng sẽ là
ngời lấp khoảng trống đó bắt đầu bằng sự tạo ảnh hởng lớn và khẳng định vai
trò của mình ở Châu á -Thái Bình Dơng.
2.2/ Khu vực Đông Nam á sau chiến tranh lạnh:
Nằm trong sự chi phí phối chung của tình hình thế giới, Đông Nam á
sau chiến tranh lạnh đã có sự chuyển mình về mọi mặt. Sự ổn định của chính
trờng đã loại trừ những đối kháng, những căng thẳng trong khu vực, tạo điều
kiện cho Đông Nam á đẩy mạnh sự tăng cờng hợp tác và phát triển trong

khối ASEAN ngày càng đem lại nhiều triển vọng, nhất là về tốc độ tăng trởng
kinh tế.
Về kinh tế, sau chiến tranh lạnh, Đông Nam á đợc đánh giá là khu vực
có tốc độ tăng trởng kinh tế đứng đầu thế giới. Sự mở rộng liên kết của khu
vực, sự mở rộng quan hệ đối ngoại thu hút đầu t, tích cực phát triển kinh tế
công nghiệp... đã tạo điều kiện cho Đông Nam á phát triển kinh tế một cách
nhanh chóng. Trong đó Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia là ba nớc có tốc độ
tăng trởng kinh tế cao nhất đợc ngân hàng thế giới xếp vào hàng các nớc công
nghiệp hoá trổi dậy, trở thành "Ba con hổ" tiếp sau" Bốn con rồng" Châu á.
Trên bán đảo Đông Dơng, trong bối cảnh hoà bình, kinh tế đã phát triển
nhanh chóng. Việt Nam sau khi tiến hành mở cửa và đổi mới cơ chế, kinh tế
liên tục tăng với tốc độ cao, đầu t nớc ngoài liên tiếp hớng vào Việt Nam nh
một thị trờng hấp dẫn.
Lào cũng bắt đầu tiến hành cải cách mở cửa, nền kinh tế Lào tăng trởng
tơng đối nhanh. Campuchia cũng bắt đầu xây dựng lại đất nớc cùng với sự trợ
giúp của cộng đồng quốc tế, đa nền kinh tế từng bớc phát triển.

16


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

Myanmar là nớc từng bế quan toả cảng và bị cô lập song do sự tác động
mạnh mẽ của trào lu mở cửa ở Đông Nam á, cũng mở cửa, hoà nhập với khu
vực.
Sự phát triển nhanh của nền kinh tế Đông Nam á đã thúc đẩy nhanh
quá trình hợp tác kinh tế, hợp tác chính trị của khu vực. ASEAN mở rộng từ
ASEAN 6 lên 10 đã tăng cờng thực lực cho Đông Nam á trong các lĩnh vực,

đặc biệt là địa vị chính trị, kinh tế của khu vực Đông Nam á tại Châu á -Thái
Bình Dơng. Quá trình liên kết có tính khu vực đã đợc ASEAN quyết định tại
Hội nghị cấp cao ASEAN tổ chức lần thứ 4 ở Singapore 1992, xây dựng một
thị trờng thống nhất phi thuế quan: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA:
ASEAN Free Trade Area), đã làm tăng thêm sức hấp dẫn mạnh mẽ của khu
vực.
Hiện nay khu vực Đông Nam á đợc coi là thị trờng đầu t của các nớc
do sự ổn định và hấp dẫn của nó. Nguồn đầu từ bên ngoài và khu vực ngày
càng tăng đã có tác động lớn đối với sự phát triển của Đông Nam á cả về
kinh tế và giao lu về khoa học kỹ thuật.
Sự phát triển kinh tế của các nớc Đông Nam á hiện nay đợc đánh giá
rất cao cả về quy mô và thực lực. Vai trò độc đáo của khu vực với Châu á
-Thái Bình Dơng, ý thức độc lập tự chủ và cùng chung tiếng nói đã ngày càng
nâng cao uy tín và ảnh hởng quốc tế của Đông Nam á, đặc biệt là Đông Nam
á ngày càng tạo nên sức hấp dẫn với thế giới. Tất cả những điều đó đã có tác
động không nhỏ đến chính sách của Trung Quốc sau chiến tranh lạnh. Trung
Quốc với t cách là một nớc lớn đã hớng trọng tâm hợp tác với Đông Nam á.
Đó sẽ là trọng tâm chú ý của thế giới.
Về an ninh chính trị: Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, gần nửa thế kỷ
Đông Nam á là một trọng điểm trong chiến lợc của Mỹ và bên cạnh đó là
hàng loạt các vấn đề bất ổn nh: Vấn đề Campuchia, sự đối đầu ASEAN Đông
Dơng... tình hình đó đã ảnh hởng đến quan hệ hoà bình trong khu vực.
17


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

Sau chiến tranh lạnh, tình trạng căng thẳng trong khu vực từng bớc đợc

giải quyết, tạo thời cơ lịch sử cho Đông Nam á mà hạt nhân là ASEAN với
những thành tựu lớn lao trong quá trình phát triển về chính trị. Những ý tởng
xây dựng Đông Nam á thành một khu vực tự do, hòa bình và trung lập
(ZOPFAN) (A Zone của Peace, Freedom and neutrality) thực chất là nhằm
đảm bảo nền an ninh của khu vực Đông Nam á - đã ra đời từ năm 1971, nay
mới có điều kiện để thực thi.
Để từng bớc đa ZOPFAN trở thành hiện thực, các nớc ASEAN đã tiến
hành ký kết hiệp ớc biến Đông Nam á thành khu vực không có vũ khí hạt
nhân vào năm 1995 (SEAN WFZ). Đây thực sự là một bớc tiến tạo nên tổ
chức có tính chất quốc tế tại khu vực với một lực lợng chính trị quan trọng tại
Châu á - Thái Bình Dơng. Nó khiến cho cục diện Châu á - Thái Bình Dơng,
vốn lấy quan hệ với các nớc lớn làm chủ đạo, nay đã có biến đổi quan trọng.
ASEAN một mặt, xác lập địa vị chủ đạo của mình tại khu vực Châu á - Thái
Bình Dơng khiến các nớc lớn khó lòng can thiệp vào công việc nội bộ của khu
vực, cụ thể việc kết nạp Mianmar tuy bị các nớc phơng Tây và Mỹ phản đối
nhng ASEAN vẫn quyết tâm kết nạp Mianmar, đảm bảo tính liên kết khu vực.
Mặt khác, ASEAN luôn tìm cách cân bằng lợi ích giữa các nớc lớn đối với khu
vực, tạo nên vai trò hoà hoãn xung đột, cân bằng và điều hoà lợi ích giữa các
nớc lớn với nhau.
Để xác lập địa vị chủ đạo trong an ninh khu vực sau chiến tranh lạnh,
khi mà các nớc lớn nh Mỹ, Nga, Nhật, Ôxtrâylia liên tiếp đa ra các phơng án
khung nhằm khống chế an ninh ở Đông Nam á, các nớc ASEAN đã thành lập
một cơ chế an ninh mới, để vừa có thể chống lại sự đe dọa của các nớc lớn,
vừa phát huy vai trò chủ đạo của mình. Bắt đầu từ 1990, qua 4 năm chuẩn bị,
đến 25/7/1994 các nớc ASEAN đã thành lập chính thức "Diễn đàn khu vực
ASEAN" (ARF). Thông qua "diễn đàn ARF" ASEAN đã giành đợc thế chủ
động trong việc điều hoà an ninh khu vực.

18



Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

Nh vậy, Đông Nam á đã đi từng bớc từ tính liên kết khu vực, tạo môi trờng hòa bình, ổn định an ninh, phát triển chính trị, đến chổ khẳng định vị trí và
vai trò độc đáo của mình ở Châu á - Thái Bình Dơng dới hình thức tổ chức
quốc tế có tính khu vực. Tất cả những nhân tố nội tại và tích cực của Đông
Nam á chính là nhân tố quyết định để Đông Nam á ngày càng nâng cao địa vị
quốc tế của mình và Đông Nam á ngày càng trở thành một trọng tâm trong hớng đặt quan hệ ngoại giao của các nớc đặc biệt là với Trung Quốc.
3/ Tình hình Trung Quốc từ sau chiến tranh lạnh:
3.1/ Những chuyển biến về chính trị:
Mọi sự chuyển biến trong xã hội đều đợc xuất phát từ những biến đổi
về lực lợng sản xuất, nhng nếu không có những chuyển biến cách mạng trong
đờng lối chính trị, hệ thống t tởng cho phù hợp với lực lợng sản xuất, thì
không thể gặt hái đợc những thành tựu kỳ diệu trong quá trình phát triển kinh
tế - xã hội.
Về đờng lối đối nội năm 1992, quan điểm của Đặng Tiểu Bình về
"Kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa " đã thắng quan điểm"Kinh tế hàng hoá
xã hội chủ nghĩa có kế hoạch", dẫn tới đờng lối đại hội XIV của Đảng cộng
sản Trung Quốc tháng 10/1992 là: "Mục tiêu cải cách thế chế kinh tế và thiết
lập nền kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa ". Đến tháng 9/1997, đại hội XV
của Đảng cộng sản Trung Quốc đã đa ra vấn đề cải cách "Kinh tế quốc hữu".
{4- Tr15}Đây đợc coi là bớc đột phá mới về quan điểm lý luận và đờng lối cải
cách. Nhng ta thấy rằng trên thực tế, kể từ 1978, Trung Quốc đã từng bớc
chuyển từ "Nền kinh tế kế hoạch tập trung" sang "Nền kinh tế thị trờng xã hội
chủ nghĩa", với mục tiêu kinh tế chiến lợc là: Phát triển sức sản xuất, tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Gắn liền với kinh tế thị trờng, chính sách đối ngoại của Trung Quốc
cũng có sự chuyển biến cơ bản.


19


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

Đờng lối đối ngoại của Trung Quốc từ sau chiến tranh lạnh đợc xây
dựng trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác Lê Nin với t tởng mới của Đặng Tiểu
Bình. Cụ thể là Trung Quốc lấy t tởng nền tảng: " Chủ nghĩa xã hội mang tính
mở cửa" của C.Mác để xây dựng" Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung
Quốc" trong đó đề cao việc giao lu giữa các nớc để thúc đẩy sự phát triển của
sức sản xuất. Lý luận "Chủ nghĩa xã hội mang tính mở cửa" của C.Mác
khẳng định": Bất kỳ một xã hội nào muốn phát triển cũng không thể đóng kín
mà phải mở cửa với bên ngoài, thông qua giao lu với bên ngoài bằng nhiều
hình thức thì mới có thể kế thừa và phát huy đợc những thành quả sức sản
xuất và khoa học kỹ thuật của thế giới. Xây dựng chủ nghĩa xã hội càng cần
thiết phải mở cửa hơn"{25-Tr89}
Trên cơ sở nền tảng t tởng đó, trong thời đại ngày nay, việc giao lu trên
thế giới đã phát triển cha từng có cả về bề rộng lẫn chiều sâu, lý luận" chủ
nghĩa xã hội mang tính mở cửa" của C.Mác đã trở thành sự gợi mở quan trọng
và hết sức đặc biệt với Trung Quốc. Trung Quốc là một nớc đi từ xã hội phong
kiến nữa thuộc địa vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng trên cơ sở nền
kinh tế tự nhiên theo kiểu sản xuất nhỏ, lạc hậu và mang tính tự cấp, tự túc,
mà chủ nghĩa xã hội phải đợc dựa trên cơ sở phát triển lớn, tốc độ tăng trởng
cao của sức sản xuất và nền kinh tế hàng hoá. Chính vì vậy Trung Quốc tất
yếu phải mở cửa đối ngoại để phát triển, khắc phục những điều kiện lịch sử
thì mới có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội và hiện đại hoá đất nớc. Vì vậy từ
hội nghị Trung ơng III khoá XI tháng 12/1978, Đảng cộng sản Trung Quốc đã

khẳng định "chính sách mở cửa đối ngoại là quốc sách cơ bản và lâu dài của
Trung Quốc". {25-Tr36}.
Có thể nói, những chuyển biến trong hệ t tởng, trong đờng lối chính trị
của Trung Quốc đã đa đến những biến đổi cơ bản về chính sách đối nội và
chính sách đối ngoại, đây sẽ là xuất phát điểm, là nền móng cho mọi biến

20


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

chuyển trong xã hội Trung Quốc và biểu hiện của nó trớc hết là trên lĩnh vực
kinh tế.
3.2/ Những chuyển biến về kinh tế:
Trong những năm trớc 1978, những nhà lãnh đạo Trung Quốc đã bất
chấp các quan hệ kinh tế Trung Quốc và thực trạng tình trạng tình hình đất nớc, muốn nhanh chóng đa Trung Quốc đuổi kịp và vợt các nớc khác, từ đó
tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Song chính sách và sự chỉ đạo sai lầm đó đã làm
cho nền kinh tế Trung Quốc bị rối loạn và sa rút nặng nề. Việc thực hiện
chính sách "Ba ngọn cờ hồng" và cuộc " Đại cách mạng văn hoá vô sản" cùng
với những vấn đề phức tạp trong nền chính trị Trung Quốc đã tạo nên sự cản
trở vô cùng lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc. Thực tế đó
đã trở thành mối lo ngại, sự thách thức với Trung Quốc khi họ đối mặt với tình
hình thế giới. Đòi hỏi cấp bách cải cách đất nớc.
Từ sau 1978 với việc thực hiện chính sách cải cách mở cửa, hiện đại hoá
đất nớc, Trung Quốc đã từng bớc đa nền kinh tế của mình biến đổi về chất.
Công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc đã đem đến tốc độ tăng trởng
kinh tế mạnh mẽ cha từng có, mở ra thời kỳ huy hoàng và thịnh vợng nhất
trong lịch sử, đa đất nớc cùng hoà nhập với thế giới hiện đại.

Thành tựu phát triển kinh tế đợc biểu hiện một cách toàn diện trong các
lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, cùng với việc áp dụng khoa học kỹ thuật
tiên tiến và công nghệ hiện đại. Đặc biệt với chính sách "mở cửa", nền kinh tế
của Trung Quốc đã đợc thúc đẩy phát triển nhanh hơn qua quá trình phát triển
giao lu kỹ thuật, kinh tế đối ngoại. Năm 1990 so với 1980, tổng kim nghạch
xuất khẩu của Trung Quốc từ 38,1 tỷ USD tăng lên 115,4 tỷ USD, tăng trởng
gấp ba lần. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 1991 so với 1990 tăng trởng 17,5%,
năm 1990, thực tế thu hút đầu t trực tiếp ngoại thơng là 18,98 tỷ USD {9- tr
474}. Bên cạnh đó việc thu hút một loạt kỹ thuật tiên tiến của nớc ngoài, đã
thúc đẩy sự nâng cao của trình độ kỹ thuật sản xuất trong nớc.
21


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

Sự phát triển kinh tế của Trung Quốc đã nâng cao thực lực của đất nớc
một cách rõ rệt. Tổng giá trị sản xuất quốc dân từ 447 tỷ nhân dân tệ năm
1980 tăng lên 1740 tỷ nhân dân tệ năm 1990, bình quân mỗi năm tăng trởng
9%. Thu nhập quốc dân từ 368,8tỷ nhân dân tệ 447 tỷ nhân dân tệ, bình quân
mỗi năm tăng 8,7%. Tổng giá trị sản xuất quốc dân năm 1991 đạt 1958 tỷ
nhân dân tệ, đứng hàng thứ 3 thế giới, sức tổng hợp của đất nớc đã bớc lên
hàng thứ 6 của thế giới (9- tr 476).
Nổi lên trong sự phát triển của Trung Quốc là những trung tâm kinh tế
mới do chính sách hình thành và phát triển kinh tế khu vực, mở cửa ven
biển... của Nhà nớc. Những trung tâm kinh tế nh Thẩm Quyến, vùng kinh tế
Miền Đông, miền Trung và Miền Tây đang từng ngày nổi lên mới mẽ và đầy
hứa hẹn.
Cùng với sự tiến triển của chính sách mở cửa cải cách, một mặt. Trung

Quốc đã thúc đẩy những nhân tố tiềm tàng nội tại của đất nớc, đa nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ, mặt khác gắn liền với cải cách kinh tế để phát triển, đòi
hỏi Trung Quốc phải mở cửa đối ngoại. Đây là một trong những yếu tố cốt lõi
để Trung Quốc điều chỉnh chính sách của mình nói chung và với khu vực
Đông Nam á nói riêng, nhằm giao lu kinh tế, khoa học kỹ thuật và tạo phạm
vi ảnh hởng để phát triển và khẳng định vị thế của mình trên trờng quốc tế.
III - Sự điều chỉnh chính sách của Trung Quốc đối với Đông
Nam á sau chiến tranh lạnh:

1/ Quan điểm của Trung Quốc về cục diện thế giới sau chiến tranh lạnh:
1.1/ Về cục diện thế giới:
Để định ra chính sách của mình, vấn đề trớc hết là Trung Quốc phân
tích một cách rõ ràng, chính xác về sự biến đổi của cục diện thế giới. Sau
chiến tranh lạnh, Trung Quốc nhận định rằng trật tự thế giới đã thay đổi, cục
diện thế giới có xu hớng phát triển theo chiều đa cực hoá với biểu hiện "nhất

22


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

siêu, đa cờng". Cái gọi là" nhất siêu" là chỉ nớc Mỹ, còn "đa cờng" chỉ các nớc, các khu vực nh Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga. Trong đó, Trung
Quốc muốn xây dựng một thế giới đa cực. Hiện nay thực lực của "đa cờng"
tuy tạm thời cha sánh ngang với Mỹ, nhng khoảng cách thì đang dẫn rút ngắn
lại và xu hớng đa cực vẫn có nhiều u thế hơn với tổng lực của "đa cờng".
Ngoài ra Trung Quốc còn nhận định hệ thống quốc tế hiện nay đang phát
triển theo hớng đa cực hoá và trong cục diện biến động đó, các nớc đang ra
sức tìm kiếm vị trí quốc tế mới của mình. Trong điều kiện đó, Trung Quốc

luôn nhấn mạnh và ủng hộ thế giới đa cực để từ đó tìm kiếm vị trí xứng đáng
của mình trên trờng quốc tế.
Vấn đề thứ hai trong nhìn nhận thế giới, theo Trung Quốc, quan hệ giữa
các nớc lên trên thế giới sau chiến tranh lạnh là vừa cạnh tranh, vừa hợp tác.
Giữa các nớc đã xây dựng mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và thúc đẩy lẫn
nhau, hình thành cơ cấu quyền lực vừa xem trọng nhau, vừa kiềm chế lẫn nhau.
Và trong đó sự cân bằng chiến lợc của năm lực lợng: Mỹ - Trung - Nga - Nhật
- Tây Âu sẽ có ảnh hởng lớn đến hoà bình và ổn định của thế giới.
Trong sự phát triển của thế giới hiện nay, môi trờng hoà bình là một
vấn đề thiết yếu. Trung Quốc trong vấn đề nhìn nhận về an ninh cho rằng sau
chiến tranh lạnh, thế giới tuy vẫn còn tồn tại không ít mâu thuẩn tiềm tàng,
song về cơ bản tình hình quốc tế đang diễn biến trong sự hoà dịu, ít căng
thẳng. Có thể nói là "tổng thể hoà dịu, cục bộ xáo động". Các nớc vẫn đang có
những cạnh tranh lẫn nhau quyết liệt, nhng sự cạnh tranh ấy không còn chỉ là
cạnh tranh quân sự, mà là cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia. Vũ lực
không còn là điều kiện duy nhất bảo vệ an ninh của một nớc, mà chỉ là thủ
đoạn cuối cùng, và thực tế chạy đua vũ trang lại lại thờng tạo nên sự khốn
quẫn về an ninh, tạo tình thế căng thẳng gây tổn hại đến lợi ích quốc gia.
Chính vì vậy, Trung Quốc chủ trơng dùng phơng thức hòa bình để giải quyết
các vấn đề tranh chấp, sử dụng đối thoại và thơng lợng để thúc đẩy sự tin cậy

23


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp

và hiểu biết lẫn nhau, thông qua các kênh song phơng và đa phơng để tìm
kiếm hoà bình và an ninh.

Về phía mình, từ sau chiến tranh lạnh, Trung Quốc cũng nhận thấy sức
mạnh của mình trong chiến lợc địa chính trị và trên trờng quốc tế tăng lên.
Trung Quốc đã trở thành một trong những chủ thể cạnh tranh trên trờng quốc
tế. Đặc biệt từ sau cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu á năm 1997 đến nay,
Trung Quốc cũng khẳng định đợc vị thế của mình hơn ở Châu á - Thái Bình
Dơng.
Với mục tiêu khẳng định mình, tìm kiếm sự tham gia quốc tế tăng cờng
sức mạnh quốc gia, Trung Quốc đã nhìn nhận một cách toàn diện về cục diện
thế giới sau chiến tranh lạnh. Song bên cạnh đó, hiển nhiên việc nhìn nhận và
đánh giá về cục diện khu vực cũng là một vấn đề hết sức quan trọng.
1.2/ Về Cục diện Châu á - Thái Bình Dơng:
Với cục diện Châu á - Thái Bình Dơng, Trung Quốc dễ dàng nhận thấy
sức mạnh của mình trong lĩnh vực địa chính trị cũng nh trong lĩnh vực địa kinh tế. Nền kinh tế của Trung Quốc đã vơn lên cùng với quá trình tiến hành
"Cải cách mở cửa". Điều đó thể hiện rõ trong năm 1998, mức tăng trởng kinh
tế toàn cầu đạt khoảng 2%, trong khi đó Trung Quốc vẫn đảm bảo mức tắc trởng 7,8% theo tính toán, tổng sản phẩm quốc dân GDP của Trung Quốc đạt
1.000 tỷ USD đứng thứ 7 thế giới. Nếu tính sản phẩm quốc dân GNP thì đạt
4.700 tỷ USD, chiếm khoảng 60% của Mỹ và đứng thứ hai thế giới. [17-Tr
28,29]Vì vậy có thể khẳng định rằng, Trung Quốc ngày càng khẳng định đợc
vị trí của mình, nhất là ở Châu á - Thái Bình Dơng.
ở Châu á - Thái Bình Dơng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng nớc này có vị trí là trung tâm sức mạnh chủ yếu, tính theo giá hối đoái thì GNP
của nớc này chỉ kém Nhật Bản, cao hơn ASEAN, Nga, ấn Độ và Hàn Quốc.
Tính theo sức mua của GNP ở Trung Quốc gấp 2,5 lần GNP của 8 nớc: Thái

24


Trơng Thế Anh

Luận văn tốt nghiệp


Lan, Philippin, Malaixia,Lào, Việt Nam, Campuchia và Singapore cộng lại,
gấp 7 lần Hàn Quốc, gấp 1,5 lần Nhật Bản và 2,7 lần so với ấn Độ Trung
Quốc thực sự có thể trở thành một siêu cờng ở Châu á - Thái Bình Dơng {24 Tr 2}.
Với nhìn nhận đó, cùng với sự tăng cờng thực lực kinh tế và quân sự,
triển vọng trở thành một cờng quốc khu vực và thế giới đã thúc đẩy tham vọng
bành trớng cũng nh ảnh hởng kinh tế, chính trị của Trung Quốc ra nớc ngoài
nhất là khu vực Đông Nam á.
Trong khu vực Đông Nam á sau chiến tranh lạnh, Trung Quốc thấy nổi
lên sự cạnh tranh của 4 nớc là Mỹ, Nga, Nhật và Trung Quốc . Trong đó Mỹ
lại muốn kiềm chế không để đối thủ nào cạnh tranh đợc để vơn lên vị trí bá
chủ toàn cầu. Trung Quốc cũng nhận thấy, Nhật Bản là một cờng quốc kinh tế
đứng thứ hai trên thế giới (sau Mỹ), vốn đã có tham vọng thâu tóm Châu á với
chiến lợc xây dựng "Khu vực thịnh vợng chung", nay càng tăng cờng quan hệ
với Châu á - Thái Bình Dơng và Đông Nam á, đồng thời quan hệ chặt chẽ với
Mỹ để đảm bảo lợi ích an ninh. Còn Nga, tuy có khó khăn về kinh tế do khủng
hoảng kéo dài, những vấn nắm lực lợng vũ khí hạt nhân rất mạnh, không thua
kém Mỹ và đang phục hồi về kinh tế, hiện nay Nga đang hớng tới khai thác
vùng Biển Đông song sự sa sút nặng nề về kinh tế khiến Nga trở nên"lực bất
tòng tâm".
Với Trung Quốc, qua tốc độ phát triển kinh tế, qua ảnhhởng lớn về
chính trị sau khi thu hồi Hồng Kông, Ma Cao, sắp tới là Đài Loan và việc gia
nhập WTO... dù hiện nay Mỹ tuy còn mạnh hơn Trung Quốc, nhng do Mỹ
không chỉ đặt trọng tâm chiến lợc ở Châu á mà còn rất nhiều khu vực khác
với những vấn đề đáng quan tâm hơn, trong khi Trung Quốc vì là nớc gần hơn,
có lực lợng hoa kiều đông đảo ở các nớc khu vực này nên rõ ràng là nớc có
nhiều thuận lợi hơn cả. Sự nhìn nhận đó đã trở thành một yếu tố quan trọng
trong việc xác định và điều chỉnh chính sách của Trung Quốc nói chung và

25



×