Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Truyện ngắn võ thị hảo trong bối cảnh đổi mới của truyện ngắn việt nam sau 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.28 KB, 98 trang )

1

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Năm 1986 là cột mốc đánh dấu những biến đổi lớn trong đời sống
chính trị kinh tế xã hội của Việt Nam. Công cuộc đổi mới đã có tác động
sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có văn học nghệ thuật.
Từ sau 1986 văn học nghệ thuật nói chung, văn xuôi Việt Nam nói riêng có
một diện mạo mới, sắc nét mới khu biệt với văn xuôi các giai đoạn trớc đó.
Có thể khẳng định đây là giai đoạn văn học phát triển sôi động nhất - một
giai đoạn đang phát triển và cha hoàn thành. Bởi vậy tìm hiểu, đánh giá về
văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới thực sự là việc làm cần thiết.
1.2. Yêu cầu đổi mới mà đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đặt
ra đã mang đến một luồng gió mới cho văn học. Văn xuôi Việt Nam phát
triển khởi sắc, trong đó truyện ngắn và tiểu thuyết là hai thể loại gặt hái đợc nhiều thành công. Truyện ngắn với u thế của thể loại tự sự cỡ nhỏ tỏ ra
khá phù hợp với việc diễn tả đời sống phức tạp của con ngời sau chiến
tranh. Sự khác biệt của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 so với truyện ngắn
trớc đó không chỉ ở hệ đề tài chủ đề, cũng không dừng lại ở quan niệm
nghệ thuật về con ngời, mà còn ở cách viết đầy sáng tạo mới mẻ, với những
thử nghiệm táo bạo của nhiều cây bút a khám phá. Làm nên bức tranh đa
dạng nhiều màu sắc của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này là nỗ lực
không ngừng của những ngời nghệ sĩ đợc "cởi trói" trong sáng tạo. Đó là
thế hệ các nhà văn trởng thành trong kháng chiến sớm ý thức đợc sự cần
thiết phải đổi mới của văn học. Tên tuổi của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Kiên, Nguyễn Khải đợc nhắc đến với vai trò của lớp ngời tiên phong. Bên
cạnh đó còn có sự góp mặt của hàng loạt các cây bút trẻ nh Lê Lựu, Dơng
Thu Hơng, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Võ
Thị Hảo... Tiếp cận đặc sắc của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 thông qua


2



những đóng góp của các tác giả, tác phẩm tiêu biểu là một công việc hứa
hẹn nhiều thú vị.
1.3. Võ Thị Hảo xuất hiện trên văn đàn vào những năm đầu của thập
kỷ 90 thế kỷ XX với sáng tác ở thể loại thơ và truyện ngắn. Trong những
năm gần đây chị còn thể nghiệm ngòi bút ở cả tểu thuyết và kịch bản phim.
Truyện ngắn là lĩnh vực mà nhà văn nữ này đã có nhiều thành công, đợc
độc giả hào hứng đón nhận. Nghiên cứu truyện ngắn, đặc biệt là truyện
ngắn trẻ hiện nay rất đợc chú trọng nhng cho đến nay truyện ngắn của Võ
Thị Hảo vẫn cha đợc quan tâm và nghiên cứu một cách có hệ thống. Đây
vẫn là một mảnh đất trống cần đợc khai phá vỡ vạc.
1.4. Tìm hiểu Truyện ngắn Võ Thị Hảo trong bối cảnh đổi mới của
truyện ngắn Việt Nam sau 1986, trớc hết, chúng ta thấy đợc nét riêng của
truyện ngắn Võ Thị Hảo trong bức tranh chung của truyện ngắn Việt Nam
sau 1986. Qua đó góp phần tìm hiểu phong cách truyện ngắn của một nhà
văn nữ trong một giai đoạn văn học có nhiều biến động. Đồng thời, góp
thêm t liệu cần thiết cho việc nghiên cứu học tập giảng dạy văn học sau
chiến tranh trong nhà trờng đợc thuận lợi.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện ngắn Võ Thị Hảo đã và đang đợc độc giả quan tâm đón nhận.
Ngắn gọn, súc tích những câu chuyện mang đậm không khí cổ tích của chị
đã chuyển tải nhiều chiêm nghiệm, suy t về cuộc đời và con ngời. Truyện
ngắn của nhà văn tự nhận mình suốt đời chỉ mơ một giấc dù không tạo ra
những cơn d chấn ồn ào, nhng đã để lại không ít d ba trong lòng ngời đọc.
Tuy nhiên với giới nghiên cứu phê bình, truyện ngắn Võ Thị Hảo cha đợc
chú ý đúng mức. Thực tế chỉ có một số công trình nghiên cứu, bài báo,
phỏng vấn, tiểu luận, quan tâm tới truyện ngắn Võ Thị Hảo.
2.1. Trong Tứ tử trình làng, lời giới thiệu cuốn Truyện ngắn bốn cây
bút nữ , tác giả Bùi Việt Thắng đã nêu đặc điểm nổi bật của truyện ngắn
Võ Thị Hảo trên cơ sở so sánh với truyện ngắn của các tác giả cùng thời.



3

Đó là các tình huống đặc sắc, là những nhân vật "có nét dị dạng khác ngời
nhng tâm hồn họ thánh thiện giàu lòng vị tha và đức hy sinh - hy sinh mình
để cứu rỗi kẻ khác". Do yêu cầu của lời giới thiệu nên tác giả Bùi Việt
Thắng chỉ điểm xuyết những nét độc đáo của truyện ngắn Võ Thị Hảo theo
cảm nhận chủ quan. Vì vậy bài viết cha đi sâu khái quát đợc các phơng
diện khác nh ngôn ngữ, giọng điệu, đề tài...
2.2. Bài viết của Thuỵ Khuê nhan đề Võ Thị Hảo, Vầng trăng mồ côi
đăng trên Sóng từ trờng lại tập trung chú ý đến sắc thái, ý nghĩa của tiếng
cời trong tập truyện Biển cứu rỗi. Với cách đặt vấn đề hấp dẫn: "Mời hai
truyện ngắn với bút pháp chắc nịch, những nhân vật rờn rợn, điên ngời,
trong không khí hậu chiến của một đất nớc muốn vơn lên nhng cứ rũ ra,
gục xuống, ôm bụng cời sằng sặc, cời ằng ặc trong bàn tay đùa dai của tử
thần chơi trò ú tim bóp cổ". Tác giả bài viết đã dẫn dắt ngời đọc đi vào "cõi
cời", "cõi ấy âm u lạnh lẽo, bất trắc , cô tịch và đáng sợ hơn cõi khóc".
Nhận định của Thụy Khuê về tiếng cời, về nhân vật, về bút pháp trong
truyện ngắn Võ Thị Hảo khá sắc sảo. Tuy nhiên đó mới là những đánh giá
ban đầu về một tập truyện cụ thể, do đó cha đủ sức khái quát giá trị đặc sắc
trong sáng tác ở thể loại tự sự cỡ nhỏ dới ngòi bút Võ Thị Hảo.
2.3. Chiến tranh, tình yêu, tình dục trong văn học Việt Nam đơng đại
(Đoàn Cầm Thi, http: // evan.vnexpress.net 27.03.2004) là bài viết có cái
nhìn mới về những đề tài tởng đã cũ trong văn học. Tác giả bài viết giúp
ngời đọc nhận thức đợc nét mới khi đi vào đề tài "chiến tranh", "tình yêu"
của văn xuôi Việt nam sau 1986. Từ Nguyễn Minh Châu, Dơng Hớng, đến
Võ Thị Xuân hà, Võ Thị Hảo, họ đều đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: thế
nào là chiến tranh? và những con ngời trở về từ chiến tranh họ sẽ sống ra
sao? Qua bài viết chúng ta dễ nhận thấy đổi mới trên phơng diện đề tài của

văn xuôi Việt Nam nói chung và truyện ngắn Võ Thị Hảo nói riêng, nhng
cha thấy những đổi mới ở phơng diện hình thức nghệ thuật.


4

2.4. Bài viết của Lơng Thị Bích Ngọc nhan đề Võ Thị Hảo giữa
những trang viết trang đời là cảm nhận của một ngời rất yêu văn Võ Thị
Hảo. Tác giả bài viết đặc biệt nhấn mạnh tính chất hiện thực và sức sống
mạnh mẽ của nhân vật trong sáng tác của nữ văn sĩ xứ Nghệ: "nhân vật của
nhà văn Võ Thị Hảo vẫn đang rảo bớc trên những nẻo đờng. Đằng sau số
phận của những con ngời biết đau, biết yêu, biết nhân hậu là gơng mặt của
đất nớc, là số phận của những ngời dân nớc Việt sau nửa thế kỷ chiến
tranh. Một hiện thực nghiệt ngã đợc chở đi trên lối văn phong ảo thực và
câu chữ ngọt ngào dịu nhẹ".
2.5. Đề tài Đặc điểm đoạn văn kết thúc truyện ngắn Võ Thị Hảo,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh (Tạ Mai Anh, Luận văn Thạc sĩ,
ĐH Vinh, 2002) lại tập trung khai thác đổi mới của Võ Thị Hảo và các tác
giả nữ cùng thời ở góc độ ngôn ngữ học. Đối tợng nghiên cứu của luận văn
là đoạn văn kết thúc trong truyện ngắn của ba tác giả nữ. Từ góc nhìn
ngôn ngữ học, ngời thực hiện đề tài đã khái quát về đặc điểm hình thức, nội
dung ngữ nghĩa của đoạn văn kết thúc trong các truyện ngắn của Võ Thị
Hảo nói riêng và của cả ba tác giả nói chung. Do đặc điểm của đối tợng
nghiên cứu, do nhiệm vụ cụ thể đặt ra nên luận văn chỉ dừng lại ở những
đổi mới của truyện ngắn Võ Thị Hảo trong phạm vi đoạn văn kết thúc.
2.6. Đề tài Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam 1975 - 2000
(Nguyễn Minh Hồng, Luận văn Thạc sĩ, ĐH Vinh, 2002) khai thác một
vấn đề khá lý thú của văn học Việt Nam, đó là vấn đề yếu tố kỳ ảo. Võ Thị
Hảo đợc đánh giá là một trong những tác giả sử dụng thành công yếu tố kỳ
ảo trong truyện ngắn. Luận văn đã tiếp cận truyện ngắn Võ Thị Hảo trên

phơng diện nghệ thuật nhng từ đó đã có nhiều phát hiện mới mẻ về nội
dung. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài tơng đối rộng nên chỉ
một số truyện ngắn của nhà văn đợc chú ý khai thác.


5

Ngoài ra còn một số bài phỏng vấn, trao đổi giữa nhà văn Võ Thị
Hảo với phóng viên các tờ báo, tạp chí. Thông qua các cuộc trao đổi, nhà
văn đã bộc lộ nhiều quan niệm về văn học nghệ thuật.
Nhìn chung, ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu phê bình về
truyện ngắn Võ Thị Hảo còn ít. Hơn nữa các bài viết mới chỉ dừng lại ở cái
nhìn ban đầu, cha có một công trình nào có tính chất quy mô nghiên cứu
về đóng góp của Võ Thị Hảo ở thể loại này. Đề tài Truyện ngắn Võ Thị
Hảo trong bối cảnh đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1986 của
chúng tôi không chỉ dừng lại ở cảm nhận, đánh giá chủ quan mà còn vận
dụng lý thuyết, thực tiễn thể loại để khẳng định một cách khoa học đóng
góp của nhà văn cho truyện ngắn Việt Nam đơng đại.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Tìm hiểu bức tranh chung của truyện ngắn Việt Nam sau 1986.
3.2. Tìm hiểu đóng góp của truyện ngắn Võ Thị Hảo trên một số
phơng diện nội dung
3.3. Tìm hiểu đóng góp của truyện ngắn Võ Thị Hảo trên một số phơng diện hình thức nghệ thuật.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp nhiều phơng pháp nghiên cứu: Phơng pháp phân loạithống kê, phơng pháp cấu trúc - hệ thống, phơng pháp so sánh - đối chiếu,
phơng pháp phân tích tổng hợp.
5. Đóng góp mới của luận văn
Đặt truyện ngắn Võ Thị Hảo trong bối cảnh truyện ngắn Việt Nam
thời kỳ đổi mới để nghiên cứu, lần đầu tiên truyện ngắn Võ Thị Hảo đã đợc
xem xét dới góc độ lý luận và thực tiễn một cách có hệ thống. Trên cơ sở

đó, chúng tôi khảo sát, phân tích, lý giải tơng đối toàn diện, cụ thể, chi tiết
những đổi mới ở các phơng diện nội dung và hình thức nghệ thuật của
truyện ngắn Võ Thị Hảo.
6. Cấu trúc luận văn


6

Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đợc
triển khai trong 3 chơng:
Chơng1: Nhìn chung về bức tranh truyện ngắn Việt Nam sau 1986 và
đóng góp của truyện ngắn Võ Thị Hảo.
Chơng 2: Đóng góp của truyện ngắn Võ Thị Hảo trên một số phơng
diện nội dung.
Chơng 3: Đóng góp của truyện ngắn Võ Thị Hảo trên một số phơng
diện hình thức nghệ thuật.


7

Chơng 1
nhìn chung về Bức tranh truyện ngắn Việt Nam sau
1986 và đóng góp của truyện ngắn Võ Thị Hảo
1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội
Đại thắng mùa xuân năm 1975 là dấu mốc đánh dấu một trang sử mới
cho dân tộc Việt Nam. Chiến tranh kết thúc, hai miền thống nhất trong khúc
ca khải hoàn. Hoà bình lập lại trong niềm hân hoan phấn khởi nhng cũng chứa
đầy những phấp phỏng âu lo. Đất nớc vừa ra khỏi chiến tranh với bao thơng
tích lại oằn mình bớc vào công cuộc kiến thiết thời hậu chiến đầy khó khăn.
Đời sống kinh tế vô cùng phức tạp. Những mặt trái của xã hội không ngừng

bộc lộ, nhiều tiêu cực của cơ chế quản lý bao cấp đã góp phần tạo nên sự trì
trệ. Tâm lý con ngời xuất hiện những hoang mang lo lắng khi đối diện với
những biến động khủng hoảng của xã hội.
Trên thế giới Liên Xô tiến hành chủ trơng cải tổ với chủ trơng "đẩy mạnh
sự phát triển của kinh tế, xã hội của đất nớc", nhằm đa đất nớc thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng và xây dựng một chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân văn, đúng
nh bản chất của nó. Perestroika (trong tiếng Nga nghĩa là cải tổ) do Tổng Bí
th Đảng Cộng sản Liên Xô M.Goocbachôp đa ra vào tháng 6 năm 1987,
không những không giúp Liên Xô thoát khỏi tụt hậu mà càng lún sâu hơn vào
trì trệ. Dẫn đến kết qủa tất yếu là sự sụp đổ của mô hình Chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và các nớc Đông Âu. Là một nớc kiên định xây dựng CNXH, chịu
ảnh hởng sâu sắc từ ngời anh cả Liên xô nhng công cuộc đổi mới của Việt
Nam đợc khởi xớng từ năm 1986 đã không đi vào vết xe đổ. Đại hội Đảng
Cộng sảnViệt Nam lần thứ VI đã phát động công cuộc đổi mới trên mọi lĩnh
vực. Đờng lối chính sách của Đại hội VI đã tác động tích cực đến tất cả các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục Đặc biệt đã mở ra một cánh cửa lớn cho
văn học nghệ thuật. Cuộc gặp gỡ trao đổi thân mật, thẳng thắn giữa Tổng Bí
th Nguyễn Văn Linh với gần 100 văn nghệ sỹ đại diện các ngành nghệ thuật,


8

vào hai ngày 6 - 7/10/1987, đã gián tiếp thúc đẩy sự ra đời Nghị quyết 05 của
Bộ Chính trị. Nếu cuộc gặp gỡ giữa Tổng Bí th Nguyễn Văn Linh với các văn
nghệ sỹ là cuộc gặp gỡ đầu tiên thể hiện t duy mới của ngời lãnh đạo cao nhất
của Đảng với văn học nghệ thuật và với văn nghệ sỹ, thì Nghị quyết 05 của Bộ
Chính trị Ban chấp hành trung ơng Đảng Cộng sản Việt Nam là nghị quyết
đầu tiên về Đổi mới và nâng cao trình độ quản lý văn học nghệ thuật và văn
hoá, phát huy khả năng sáng tạo, đa văn học nghệ thuật và văn hoá phát triển
lên một bớc mới". Những sự kiện chính trị quan trọng nh vậy đã tạo đà cho

văn học nghệ thuật có điều kiện đổi mới. Tinh thần cởi trói" đến với hầu hết
các văn nghệ sỹ. Đổi mới t duy, đổi mới cách nghĩ cách làm", "Nhìn thẳng
vào sự thật, nói đúng sự thật, tự do sáng tạo phải đi đôi với tự do phê
bình" đó là khẩu hiệu thờng gặp trong các cuộc thảo luận, tranh luận lúc
bấy giờ. Các nhà văn mạnh dạn đọc lời ác điếu cho một giai đoạn văn nghệ
minh hoạ". Không còn tình trạng nhà văn phải tự bảo hiểm bằng cách Viết
một câu trung thì phải viết một câu nịnh". Cái hành lang hẹp mà lâu nay văn
nghệ sỹ tự bạt chiều cao cho thấp đi khỏi chạm trần, tự ép khuôn khổ chiều
ngang lại để khỏi kềnh càng" đã đợc phá vỡ. Nhà văn đợc trở lại công việc viết
văn với ý nghĩa đích thực nhất. Họ đợc làm điều mình muốn, viết điều mình
nghĩ, đợc sống trong mọi vấn đề của đời sống để tìm kiếm và thiết lập những
giá trị phong phú của tinh thần con ngời [2]
Biến động của lịch sử đã tác động không nhỏ đến tâm lý của con ngời.
Sống trong hoà bình, không còn phấp phỏng trong cái ranh giới mỏng manh
của sự sống và cái chết, anh dũng và hèn nhát, con ngời trở về với mối quan
tâm thờng nhật của đời sống. Mối quan hệ giữa ngời với ngời bị đo đếm bởi
các nhu cầu về vật chất và tinh thần. Chiến tranh náo động ồn ào mà lại có
cái yên tĩnh giản dị của nó" (Nguyễn Khải). Còn hoà bình dù tiếng súng đã
lặng yên nhng những va đập của quyền lợi lại không hề đơn giản chút nào.
Các giá trị truyền thống đợc xem xét lại, nhiều chuẩn mực bị thay đổi. Giữa
cái guồng quay hà khắc của cơ chế thị trờng, con ngời một mặt bị cuốn và


9

guồng quay ấy, mặt khác lại cố tìm ra cho mình điểm tựa để chống lại sự băng
hoại. Mỗi con ngời là một tiểu vũ trụ đầy bí ẩn giờ đây lại trở nên sâu thẳm
hơn, khó nắm bắt hơn. Khả năng, nhu cầu nhận thức của con ngời cũng không
còn bị khuôn trong những mẫu sẵn có. Lẽ dĩ nhiên điều đó tác động sâu sắc
đến thị hiếu ngời tiếp nhận văn học. Độc giả hôm nay không bằng lòng với

hiện thực khách quan đợc phản ánh, họ đòi hỏi ở nhà văn tinh thần nghiền
ngẫm, suy luận nghiêm túc. Bởi vậy, cái nhìn giản đơn một chiều về cuộc
sống không còn hấp dẫn. Thậm chí ngời đọc mới hôm qua còn mặn mà là thế
bỗng dng hờ hững quay lng lại với văn học nớc nhà vì lối viết không mới mẻ,
vì những vấn đề hiện thực đã quá cũ mòn. Đòi hỏi từ phía ngời tiếp nhận, sự tự
ý thức phải thay đổi từ phía ngời sáng tạo cộng với đờng lối chính sách thông
thoáng đã tạo đà cho văn học Việt Nam chuyển mình mạnh mẽ.
1.2. Bức tranh truyện ngắn Việt Nam sau 1986
Phát triển trong không khí dân chủ, đời sống văn học Việt Nam sau 1986
đã bớc sang "một thời kỳ khác" (Nguyễn Kiên), thời kỳ mà giao lu văn hóa đợc mở rộng. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng đa tới bớc phát
triển mới của văn học nớc nhà. Thông qua giao lu hội nhập, văn học nớc ta có
điều kiện tiếp xúc, lĩnh hội những giá trị đích thực, những thành tựu to lớn của
văn học thế giới. Sự quản lý văn học có chuyên môn và trình độ, tôn trọng tài
năng và cá tính sáng tạo của nhà văn cũng nh có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối
với lao động nghệ thuật đã khiến cho đội ngũ nhà văn tăng lên về cả số lợng
và chất lợng. Bên cạnh những cây bút đã trởng thành qua hai cuộc kháng
chiến, là sự xuất hiện các cây bút trẻ hăm hở xông xáo, đầy tài năng, cá tính
và hoài bão. Không chỉ các nhà văn trong nớc phấn đấu hết mình cho sự
nghiệp cách tân đổi mới nghệ thuật, mà các nhà văn hải ngoại cũng góp phần
không nhỏ vào sự nghiệp chung của đổi mới văn học. Với cơ chế mở của nền
kinh tế thị trờng, số lợng báo chí tăng lên đã tạo thêm "sân" cho sáng tác cũng
nh các cuộc tranh luận văn học. Việc in ấn xuất bản dễ dàng, tác phẩm nhanh
chóng đến đợc với ngời đọc nhờ việc quảng cáo có hiệu quảTất cả những
thuận lợi đó đã tạo điều kiện cho sự ra đời của nhiều tác phẩm mới.


10

Quan niệm về văn học thời kỳ này cởi mở hơn, gắn với cá tính sáng tạo
của ngời viết hơn là những khuôn vàng thớc ngọc cứng nhắc. Có một xu hớng chung, các nhà văn không thần thánh hoá văn chơng, không đặt vào đó

quá nhiều kỳ vọng cao siêu. Văn chơng cũng nh một hiện tợng của đời sống.
Văn chơng sẽ sống cái sức sống tự nhiên của nó. Nhng nh tất cả mọi việc
trên đời này, văn chơng cũng có giới hạn, có sự sáng lên, sự mất đi, có cả cái
cao cả cũng nh cái bình thờng(Lê Minh KHuê) [56].Với tôi văn chơng là
một tôn giáo, nó không mang một màu sắc chính trị nào cả. Nó là nỗi đau là
khát vọng của con ngời (Thái Thăng Long) [56]. Với Phạm Thị Hoài văn chơng là "một trò chơi vô tăm tích và viết là một phép ứng xử, trớc hết là
ứng xử với bản thân mình sau là ứng xử với môi trờng và môi trờng ở đây là
toàn bộ những gì mà tự nhiên và con ngời tạo ra, kể cả những di sản quá khứ
và những tín hiệu mơ hồ về tơng lai [30]. Rõ ràng cách nhìn văn học nh một
công cụ tinh thần, một vũ khí tuyên truyền về cơ bản đã đợc giải tỏa. Văn học
đã đợc nhìn nhận trong bản chất đặc thù của nghệ thuật ngôn từ, xuất phát từ
quan niệm mang tính cá thể của ngời cầm bút. Từ đó chúng ta thấy nhà văn đã
có một tâm thế mới, một vị thế mới, chủ động hơn và tự do hơn trong sáng
tạo.
Trong mối quan hệ với độc giả, nhà văn đã thiết lập đợc mối quan hệ
thân mật bình đẳng và giành quyền kết luận cuối cùng cho bạn đọc đối với tác
phẩm của họ. Theo Nguyễn Thị Thu Huệ "Ngời viết chỉ nên làm một ngời bạn
tâm tình với ngời đọc chứ đừng là ngời dạy ngời đọc vì cha chắc cứ là nhà văn
dã giỏi, đã có văn hoá" [56]. ý kiến của Nguyễn Huy Thiệp cũng xác định rõ
hơn không chỉ quan niệm về văn học, mà còn là mối quan hệ bình đẳng giữa
nhà văn và độc giả "văn chơng chỉ là một bộ phận của đời sống thôi. Mà đã là
đời sống thì phải đối xử nh đời thờng. Huyễn hoặc chính mình, coi mình là
thiên chức, nâng cái nghiệp lên thành thần bí thì ắt sinh ra chứng coi thờng
bạn đọc" [6]. Nhiệm vụ của nhà văn không phải nói ra chân lý mà thức tỉnh ý
thức hớng về chân lý hoặc chí ít cũng là thức tỉnh tình cảm về phẩm giá con


11

ngời. "Nhà văn giữ vai trò là ngời đối thoại, đa ra những nhận xét, đề nghị với

ngời đọc để cùng suy nghĩ tìm kiếm, có thể cả tranh luận" [38]. Ngời đọc
ngày nay không còn thụ động, không tiếp nhận và đánh giá văn học theo
những quan niệm và giá trị quen thuộc tởng nh bất biến, họ không chỉ có
quyền lựa chọn tác giả, tác phẩm mà hơn thế họ còn có quyền tự do đồng sáng
tạo với nhà văn. Ngời đọc trở thành nhân tố quan trọng tạo nên sự "hoàn
chỉnh" cho tác phẩm văn học.
Nằm trong mạch vận động chung của văn xuôi Việt Nam sau 1986,
truyện ngắn với u thế nhỏ gọn của hình thức, sự chuyển tải nhanh nhạy những
vấn đề bức xúc của đời sống xã hội đang có nhiều khởi sắc. Bàn về văn xuôi
sau 1975, Nguyên Ngọc nhận định: "đến đây bỗng thấy một quy luật rất thú vị
về sự phát triển của thể loại văn học. Truyện ngắn bỗng nổi bật lên hàng đầu.
Những năm trớc truyện ngắn gần nh lịm đi, bị đè bẹp dới sức nặng của tiểu
thuyết dã chiến ngồn ngộn. Bây giờ len qua kẽ hở của vô số tiểu thuyết ngổn
ngang kia, nó ngoi lên và bừng nở. Tôi có cảm giác chúng ta đang đứng trớc
một một vụ đợc mùa truyện ngắn. Truyện ngắn đông, nhiều và thật sự có một
số truyện ngắn hay" [47]. Qua một vài con số thống kê, ta có thể thấy đợc tốc
độ phát triển của truyện ngắn. "Chỉ có ba cuộc thi truyện ngắn (của Báo Văn
nghệ, Hội Nhà Văn TPHCM và Tạp chí Văn nghệ Quân Đội tổ chức) sơ bộ đã
có tới gần 7000 truyện dự thi. Nếu tính cả truyện ngắn đăng trên báo, tạp chí
trong năm, con số ấy sẽ lên tới hàng vạn" [30]. Theo Bùi Việt Thắng, "cuộc
thi truyện ngắn 2001 - 2002 do Tạp chí Văn nghệ Quân đội tổ chức có gần
2000 tác phẩm dự thi bằng số lợng truyên ngắn của bốn năm 1978 - 1979,
1983 - 1984" [62]. Điều đó cho thấy tiềm lực rất lớn của thể loại tự sự cỡ nhỏ.
Có thể nói cha bao giờ truyện ngắn lại phát triển phong phú về số lợng lẫn
hiệu quả nghệ thuật nh thời kỳ này. "ở các lĩnh vực khác nh thơ, tiểu thuyết,
ký, kịch bản sân khấu đã có lúc đem lại hứng thú nghệ thuật với độc giả song
cũng có lúc rơi vào sự thờ ơ lãnh đạm bởi không đáp ứng kịp thời phần nào
đời sống tinh thần và thẩm mĩ đang biến đổi và nâng cao trong công chúng.



12

Với truyện ngắn từ sau 1975, nhất là trong thời kỳ đổi mới dờng nh lúc nào
cũng đáp ứng đợc tâm lý thị hiếu của độc giả" [65]. Ngời đọc thích tìm đến
với truyện ngắn bởi nó gần gũi với đời sống hàng ngày, súc tích dễ đọc lại thờng gắn liền với hoạt động báo chí nên tiếp xúc với nó cũng khá dễ dàng,
thuận tiện. Nếu tiểu thuyết chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự toàn vẹn, đầy
đặn và ngồn ngộn của nó thì truyện ngắn lại thờng nhằm khắc hoạ "một lát cắt
của đời sống". Lát cắt ấy đợc nhà văn khám phá trong một khoảnh khắc xuất
thần nào đó, hay là kết quả của một sự chiêm nghiệm đời sống trong phút giây
thoảng qua. Cố nhiên cái xuất thần và thoảng qua ấy chỉ có thể có ở những
con ngời luôn trăn trở, suy t về cuộc sống. "Truyện ngắn tự nó đã hàm chứa
cái thú vị của những điều sâu sắc trong một hình thức nhỏ gọn và truyền dẫn
cực nhanh những thông tin mới mẻ. Đây là thể loại văn học có nội khí một lời
mà thiên cổ, một gợi mà trăm suy" [64].Truyện ngắn thời kỳ đổi mới đi vào
mọi vấn đề của cuộc sống thờng nhật. Đó là nỗi đau của chiến tranh để lại, là
sự mất mát của ngời lính bớc ra khỏi cuộc chiến, là nỗi hận thù của dòng họ,
gia tộc, là cái khắc nghiệt của đói khát và sự cô đơn. Có cả những vấn đề của
cõi tâm linh, tiềm thức và vô thức. Có niềm hân hoan hạnh phúc, có nỗi xót xa
cay đắng... Mọi cảm xúc, mọi cung bậc của đời sống đều sống dậy trong
những câu chữ giản dị. Bao nhiêu phức tạp ồn ào bao nhiêu d vị đắng chát của
cuộc sống thời đổi mới đều đợc truyện ngắn phản ánh chân thực. Những
khoảnh khắc chốc lát đợc ghi lại đủ sức soi tỏ chân xác một phơng diện nào
đó của đời sống, mà ngày mai khi nhìn lại, ta vẫn thấy ở đó có cái nhất thời và
cái vĩnh viễn của một giai đoạn trong guồng quay vô tận của bánh xe lịch sử.
Truyện ngắn giờ đây không còn là "mũi khoan thăm dò nhỏ và nhẹ" (Nguyên
Ngọc) mà đã mang sức nặng của những sự khái quát, qua mỗi câu chuyện có
thể thấy cả một cảnh đời, một kiếp ngời, một vận hội, một thời đại. Dung lợng
truyện ngắn tăng có thể xem là đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Việt Nam
sau1986. Có những truyện ngắn có sức nặng hơn cả một cuốn tiểu thuyết kiểu
nh Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Bớc qua lời



13

nguyền của Tạ Duy Anh, ác mộng của Ngô Ngọc Bội... Thậm chí truyện ngắn
của Phan Thị Vàng Anh thoạt trông thờng nhẹ nhàng nh một ngọn gió hay
một cơn ma nhẹ và buồn, dễ nhầm với một thứ truyện học trò, nhng đọc kỹ lại
nghe chất chứa những xung đột có khi rất dữ dội mà ngời ta cố tình nén lại nh
trong một vở Kịch câm.
Sự chuyển đổi cảm hứng từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời t
đã đem đến cho văn xuôi thời kỳ đổi mới nói chung và truyện ngắn nói riêng
nhiều thay đổi. Không còn sự ngợi ca một chiều đầy nhiệt tình hào sảng nh trớc nữa mà lắng lại những suy t chiêm nghiệm. Thậm chí cảm hứng phê phán,
trào lộng, cảm hứng thân phận cá nhân lại đợc nhấn mạnh nh là những cảm
hứng chủ đạo trong văn học. Khi nhà văn hoà mình vào cuộc sống để mặc cho
những tạp âm va đập vào mình, cùng trải nghiệm và trăn trở với chính cuộc
sống ấy, thì cảm hứng sáng tạo sẽ phong phú hơn đa dạng hơn. Đợc tự do
trong cảm hứng sáng tạo ngời viết truyện ngắn có điều kiện để thể hiện những
tìm tòi thể nghiệm về cách viết.
Cách tân nghệ thuật trong văn xuôi sau 1986 trớc hết phải kể đến những
cách tân trong thể loại truyện ngắn. Nếu trớc đây, cốt truyện đóng vai trò chủ
yếu trong truyện ngắn nói riêng và loại hình tự sự nói chung thì truyện ngắn
hôm nay cốt truyện không còn đóng vai trò độc tôn, chủ đạo. Thậm chí ngời
viết không cần đến cốt truyện. Chi tiết và sự kiện lên ngôi. Có khi không còn
cả sự kiện mà chỉ còn là ngôn ngữ, là cách hành văn, là "bóng chữ" chứ không
phải là chữ. Hiện tợng thờng gặp trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói
riêng ở thời kỳ đổi mới là lối viết theo dòng suy tởng, lối viết phân mảnh rời
rạc và lộn xộn một cách có chủ ý, lối "tiểu tự sự" hớng về các khu vực riêng t,
các uẩn khúc của nội tâm, các dồn nén hoặc buông thả của tiềm thức hay dục
tính...Không còn hoặc không cần nhân vật theo lối có thể hình dung hoặc "sờ
mó" về nó, mà theo lối biểu tợng hoặc chỉ cần một ký hiệu. Hớng vào tiềm

thức hoặc dòng ý thức thay cho kể, tả dẫn truyện ở ngôi thứ ba. Thay logic
thông thờng bằng những nghịch lý và phi lý để thấy cuộc sống đầy những


14

ngẫu nhiên, ngẫu sự. Gia tăng yếu tố kỳ ảo, huyền thoại vừa tạo nên chiều sâu
trong khám phá hiện thực, vừa tạo nên sức hấp dẫn đối với công
chúng...Những thử nghiệm nghệ thuật có cái đã thành công, có cái cha tới
đích nhng nó thực sự tạo nên sự phong phú trong bức tranh vốn nhiều màu sắc
của truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Cùng với việc thay đổi đề tài, không ngừng tìm tòi trong cách viết, đa
dạng trong cảm hứng, truyện ngắn lúc này đã linh hoạt hơn trong bút pháp
sáng tạo. Bút pháp tả thực đợc vận dụng trong sáng tác truyện ngắn thời kỳ
này đã có nhiều thay đổi trong quan niệm so với trớc đây. "Tả thực" không
phải là lối phản ánh chiếu gơng, không dừng lại ở vai trò th ký của thời đại,
mà phải soi chiếu hiện thực từ nhiều phơng diện, nhiều góc độ khác nhau để
đảm bảo tính chân thực và toàn diện. Khi văn học đợc "cởi trói" để hớng tới sự
đa dạng thì bút pháp này có điều kiện phát huy tối đa. Bút pháp phúng dụ,
huyền thoại đợc rất nhiều nhà văn thời kỳ đổi mới sử dụng không chỉ trong
truyện ngắn mà còn có trong tiểu thuyết. Nhiều tác giả rất thành công với bút
pháp này nh Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Võ Thị
Hảo... Sự có mặt của bút pháp phúng dụ, huyền thoại bên cạnh bút pháp tả
thực cho phép nhà văn nhìn sâu hơn vào thế giới, đồng thời tạo ra sự lạ hoá để
thu hút ngời đọc. Tiếp xúc với những tác phẩm sử dụng bút pháp phúng dụ,
huyền thoại ngời đọc có nhiều cảm xúc mới mẻ về một hiện thực nghiệt ngã
và phức tạp qua những huyền thoại giàu chất tởng tợng. Xuất phát từ sự cân
bằng sinh thái văn học sau một thời gian dài quá nghiêm trang, từ nhu cầu giải
toả áp lực của đời sống hiện đại, từ tinh thần dân chủ hoá trong văn học, bút
pháp trào lộng giễu nhại đợc sử dụng trong hầu hết các thể loại của văn học

sau 1986. Trào lộng giễu nhại không đơn thuần nhằm mục đích gây cời, giải
thiêng mà quan trọng hơn đó là hình thức tiếp cận các giá trị đời sống một
cách dân chủ, đa nguyên phi quyphạm. Cùng với bút pháp trào lộng , giễu
nhại, bút pháp tợng trng đợc các nhà văn sử dụng nhằm gia tăng chất lợng ý
nghĩa của văn chơng, đồng thời tăng thêm sức mê hoặc của tác phẩm. Chính
sự đa dạng trong bút pháp sáng tạo đã tạo nên sự đa dạng trong hình thức


15

truyện. Đó là truyện kỳ ảo kiểu Bến trần gian của Lu Sơn Minh, truyện giả cổ
tích kiểu Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp. Truyện dòng ý
thức kiểu Tiệm may Sài Gòn của Phạm Thị Hoài, truyện ngắn kịch kiểu Kịch
câm của Phan Thị Vàng Anh... Sự phân chia gọi tên các hình thức của truyện
ngắn cha có một lý thuyết cụ thể để củng cố khẳng định. Song phải thừa nhận
trong truyện ngắn việt Nam sau 1986 đã và đang có những kiểu truyện ngắn
nh vậy. Điều đó chứng tỏ sức sống của những mảng màu khác nhau ở một bức
tranh đang trong quá trình hoàn thiện.
Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 đã thực sự khẳng định đợc vị trí trong
các thể loại khi đáp ứng đợc nhu cầu của độc giả, khi nó tỏ ra là thể loại có
nhiều u thế trong chiếm lĩnh và phản ánh đời sống."Các nhà nghiên cứu và
bạn đọc đã giành ch truyện ngắn nhiều sự hâm mộ và cách đánh giá u ái nh
"truyện ngắn lên ngôi", "thăng hoa", "đợc mùa", "chân trời của truyện ngắn"
[60,204]. Thời kỳ đổi mới, truyện ngắn đã có những mùa gặt bội thu, đã có
cây sai trái ngọt. Sự khởi sắc đáng mừng của thể loại tự sự cỡ nhỏ không phải
bỗng dng mà có. Đó là một cuộc chạy tiếp sức từ những cây bút tiền trạm nh
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Kiên, Nguyễn Quang Sáng... Cho
đến những cây bút trẻ thuộc thế hệ mới luôn sôi nổi ý nguyện đổi mới cách
viết nh Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Hồ anh Thái, Phan
Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo.... Họ đã dũng cảm chấp nhận đơng đầu với thử

thách khó khăn, vợt lên trên mọi d luận khen chê bằng tài năng và bản lĩnh
của mình để đem lại một lối nghĩ mới, một cách nhìn mới, một phơng thức
miêu tả mới về hiện thực. Văn học giai đoạn này ghi nhận sự hình thành của
nhiều phong cách truyện ngắn đặc sắc. Đó là Nguyễn Minh Châu với những
trang văn "làm trào nớc mắt", là Nguyễn Khải với cái nhìn từng trải suy t pha
chút dí dỏm, là Nguyễn Huy Thiệp với cái nhìn hiện thực sắc lạnh và đầy tinh
thần phê phán, là Phạm Thị Hoài với những cách tân hình thức táo bạo. Đội
ngũ tác giả với sự tiếp nối các thế hệ cầm bút đã góp phần không nhỏ trong


16

việc kế thừa và cách tân thể loại, làm cho truyện ngắn ngày càng mới mẻ và
phong phú hơn.
1.3. Vị trí của truyện ngắn Võ Thị Hảo
1.3.1. Vài nét về cuộc đời, con ngời
Võ Thị Hảo sinh năm 1956 ở Diễn Bình, Diễn Châu, Nghệ An, là hội
viên Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1997. Tốt nghiệp Khoa Văn, Đại học Tổng
hợp Hà Nội, năm 1977, chị về làm biên tập rồi Phó tổng biên tập cho Nhà
Xuất bản Văn hoá dân tộc. Năm 1996, chị chuyển sang công tác tại Báo Phụ
nữ Thành Phố Hồ Chí Minh làm trởng văn phòng đại diện cho báo này tại Hà
Nội. Từ Báo Phụ nữ Thành Phố Hồ Chí Minh chị chuyển sang đảm nhận vị trí
Trởng ban th ký toà soạn cho Báo Gia đình và Xã hội năm 2000. Rồi chị
chuyển sang làm cho Tạp chí Vì Trẻ thơ. ở vị trí này không lâu, Võ Thị Hảo
lại đột ngột trở về Báo Phụ nữ Thành Phố Hồ Chí Minh nơi trớc đó chị đã kiên
quyết ra đi. Cuối năm 2006, chị xin nghỉ hu "non" để dành thời gian cho công
việc viết lách và đầu t kinh doanh. Cùng với hai cô con gái Uyên Ly và Hạnh
Ly, hiện nay chị đang làm giám đốc của Công ty Văn hoá và Truyền thông Võ
Thị. Rẽ hớng sang kinh doanh nhng chị vẫn không quên nghiệp viết, sau
những tập truyện ngắn và tiểu thuyêt Giàn thiêu, chị đang tập trung hoàn

thành cuốn tiểu thuyết thứ hai mang tên Dạ tiệc quỷ và cho ra mắt độc giả một
số kịch bản phim.
Võ Thị Hảo sinh ra và lớn lên trên mảnh đất xứ Nghệ khắc nghiệt. Sự cằn
cỗi và hà khắc của thiên nhiên đã tạo cho con ngời sinh ra trên mảnh đất gió
Lào nóng bỏng này, một tính cách chịu đựng bền bỉ, kiên cờng. Đặc tính của
con ngời xứ Nghệ đã theo Võ Thị Hảo trên mọi nẻo đờng đời cũng nh trên
hành trình làm báo, viết văn. Vợt lên sự thiếu thốn chật vật của thời kỳ bao
cấp, những khúc mắc trong cuộc sống gia đình, chị vẫn luôn giữ cho ngọn lửa
đam mê văn chơng âm ỉ cháy. Ngọn lửa ấy thôi thúc chị viết, chị viết nhiều,
sáng tạo nhiều và bắt đầu nổi tiếng trên văn đàn bởi những truyện ngắn khác
lạ, một trong số đó phải kể đến Ngời sót lại của Rừng Cời. Đây là truyện ngắn


17

đã gây xôn xao d luận khi mở ra cho ngời đọc một cách nhìn mới về cuộc
chiến đã qua. Truyện ngắn của chị đợc dịch ra nhiều thứ tiếng (Anh, Pháp,
Nhật, Trung Quốc). Một số tờ báo của Nhật, Mỹ... đã viết về chị với t cách là
một cây bút nữ gặt hái đợc nhiều thành công ở thể loại truyện ngắn trong thời
kỳ đổi mới. Điều đó chứng tỏ giá trị của tác phẩm cũng nh năng lực của tác
giả.
Một ngời phụ nữ nhỏ bé và khiêm nhờng, đó là nhận xét của những ngời
đã từng tiếp xúc với chị. Thế nhng khi đọc những bài báo, những truyện ngắn
của chị ta lại phát hiện ra phía sau vẻ bề ngoài dịu dàng, nhỏ nhẹ ấy là một ngời phụ nữ mạnh mẽ quyết đoán. Chị không thể im lặng trớc cái xấu, sẵn sàng
phản kháng và đấu tranh đến cùng để chống lại cái ác. Với cơng vị là một nhà
báo, Võ Thị Hảo bất chấp hiểm nguy lên tiếng đòi quyền bình đẳng cho
những ngời phụ nữ bị ngợc đãi ở Sa Moa, đòi lại công bằng cho ngời dân bị
mất đất ở Sơn Tây... Bạn bè thờng nói về nhà báo Võ Thị Hảo với một niềm tự
hào: "Trông dịu nhẹ vậy mà viết báo đanh đá lắm. Nói gì là sát cánh, đo ván
luôn". Có một cái gì đó nh bật dội lên một cách mạnh mẽ trong những trang

viết của chị khiến ngời đọc không thể thờ ơ. Trên những trang văn dờng nh chị
đợc tự do hơn để yêu thơng hờn giận. Cái cảm giác bất lực trớc hiện thực khi
làm báo đã dựoc văn chơng hoá giải. Điều đó có thể lý giải tại sao có nhiều
lúc chị "viết văn nh cầu nguyện", tìm đến văn chơng để nơng náu trớc những
cơn bão lũ của cuộc đời nh một tín đồ tìm đến với đấng tối linh. Bản tính của
một ngời quyết đoán vẫn song hành cùng nét nhạy cảm nữ tính ở chị. Chị truy
tìm đến tận cùng căn nguyên của mọi nỗi bất hạnh ở con ngời, cùng khóc,
cùng cời, cùng xót xa với số phận của các nhân vật. Vợt lên trên những định
kiến xã hội, những khen, chê, tốt, xấu, chị sống và làm theo sự lựa chọn của
mình, làm theo những gì mình cho là đúng, là đích thực. Chị đã dám sống,
dám viết và đã tỏ bày quan niệm sống của mình trên từng trang viết thấm đẫm
mồ hôi và nớc mắt, với mong muốn tột cùng cống hiến cho đời những suy
nghĩ trung thực nhất, dũng cảm nhất.


18

Không cho rằng văn chơng là một cuộc chơi hay một trò giải trí, chị
quan niệm văn chơng là nơi có thể đem đến cho chị niềm vui đợc chia sẻ cảm
thông với cuộc đời, đợc trả những món nợ ân nghĩa, "Văn chơng sẽ cứu rỗi tất
cả". Chị đã viết trong nhọc nhằn và xót xa, trong hạnh phúc và hân hoan. Luôn
cảm thấy viết vừa là đam mê, vừa là trách nhiệm, Võ Thị Hảo nh là một ngời
chân trần lặng lẽ mang ánh sáng của mình kiên nhẫn đi trong thăm thẳm đời
sống, ngụp lặn trong dòng đời bộn bã để sống và viết và sáng tạo. Chị không
còn thời gian cho những thú vui nhỏ nhoi mà bất cứ ngời phụ nữ nào cũng
giành một phần thời gian để chiều chuộng chính mình. Cảm giác mắc nợ, có
lỗi với mọi ngời, với cuộc đời luôn thôi thúc chị viết. Chị nói về cái đợc, cái
mất trong văn chơng: "Tôi không tìm kiếm điều gì khi viết ăn, tôi chỉ sống
theo số phận của mình. Viết văn, tôi đợc sống nhiều kiếp, đợc viết cho mình,
đợc khóc cời. Thiên đờng, địa ngục, ngời và ma quỷ, thiên thần hỗn độn... nh

thế, tôi đã đợc quá nhiều khi tôi viết văn. Nếu tính chuyện mất, thì tôi mất đi ít
nhiều khả năng làm lành với cuộc sống và phải nhận lĩnh kiếp nạn của những
kẻ không thể im lặng trớc nỗi đau của ngời khác" [24].
Không chỉ miệt mài sáng tạo, Võ Thị Hảo còn rất nghiêm khắc với bản
thân trong lao động nghệ thuật. Chị luôn luôn tâm niệm "điều quan trọng để
trở thành một ngời viết có t tởng độc lập là không chấp nhận những lối mòn".
Và "nhà văn không đợc phép lừa dối chính mình, không làm những điều mà
chính mình đang dối trá để cầu lợi... Sống dối là nguy hiểm, viết dối lại càng
nguy hiểm hơn" [25]. Thực tế, những truyện ngắn của chị đã là bằng chứng
hết sức thuyết phục cho quan niệm về nghề văn. Đặt bên cạnh những truyện
ngắn cùng thời bao giờ ta cũng có thể nhận ra nét riêng của Võ Thị Hảo khi ở
giọng kể, khi ở cái tên, khi ở những đoạn kết hay tình huống độc đáo... Càng
viết chị càng khẳng định đợc mình, càng đa lại cho độc giả, những ngời yêu
mến chị, niềm tin vào sức sáng tạo và tinh thần lao động nghiêm túc của ngời
phụ nữ dám sống, dám viết và dám cháy hết mình cho văn chơng.
1.3.2. Đóng góp của truyện ngắn Võ Thị Hảo


19

Võ Thị Hảo sáng tác trên nhiều thể loại. Chị bắt đầu làm thơ từ những
năm tháng còn ngồi trên ghế nhà trờng. Nhng sau đó lại chuyển sang viết
truyện ngắn rồi tiểu thuyết và kịch bản phim. Bao giờ ở chị cũng bộn bề công
việc với những dự định về nghề báo, nghiệp văn và còn cả niềm ham thích
trong hội hoạ. Chị đã xuất bản đợc khá nhiều tác phẩm.
- Tập truyện ngắn Biển cứu rỗi, Nhà xuất bản Hà Nội, 1991.
- Tập truyện ngắn Chuông vọng cuối chiều, Nhà xuất bản Lao Động
1994.
- Truyện ngắn chọn lọc Võ Thị Hảo, Nhà xuất bản Hội Nhà văn 1995.
- Tập truyện ngắn Ngậm cời, Nhà xuất bản Phụ nữ, 1998.

- Tiểu thuyết Giàn thiêu, Nhà xuất bản Phụ nữ, 2003.
- 101 cái dại của đàn ông (tái bản), Nhà xuất bản Lao Động và Công ty
Văn hoá và Truyền thông Võ Thị, 2006.
- Kịch bản phim: Con dại của đá, Lời hẹn mùa thu...
Ngày 19 tháng 10 năm 2005, Bộ Tuyển văn gồm năm cuốn sách: Goá
phụ đen, Ngời sót lại của Rừng Cời, Hồn trinh nữ, Những truyện không nên
đọc lúc nửa đêm và tiểu thuyết Giàn thiêu do Công ty Văn hoá và Truyền
thông Võ Thị kết hợp với Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành đã ra mắt bạn đọc.
Đây là lần tái bản có bổ sung một số truyện ngắn mới sáng tác của nhà văn.
Vào làng viết cha lâu nhng tác phẩm của Võ Thị Hảo đã gặt hái đợc một số
thành công đáng kể.
- Tập truyện ngắn Biển cứu rỗi đạt giải thởng cuộcc thi tiểu thuyết do
Nhà xuất bản Hà Nội tổ chức năm 1991 - 1992.
- Giải thởng 5 năm văn học Hà Nội 1990 - 1995
- Tiểu thuyết Giàn thiêu đạt giải thởng cao nhất của Hội Nhà văn Hà Nội
2003 - 2004.
Năm 1989, Võ Thị Hảo viết truyện ngắn đầu tay Ngời gánh nớc thuê,
không lâu sau chị cho ra mắt độc giả tập truyện ngắn Biển cứu rỗi. Sự xuất
hiện này đã nhanh chóng xác định trong lòng độc giả tên tuổi của một nữ văn


20

sĩ góp phần không nhỏ làm nên bức tranh phong phú của truyện ngắn Việt
Nam sau 1986. Xuất hiện vào thời điểm truyện ngắn có nhiều khởi sắc với
những tên tuổi đã thành danh trong công cuộc đổi mới nh Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài... truyện ngắn của Võ Thị Hảo không dễ để cuốn hút ngay ngời đọc bằng cái "lạ" và cái "mới". Nhng chính chiều sâu t tởng và sự thành
công ở một số phơng diện hình thức nghệ thuật đã tạo nên chỗ đứng của
truyện ngắn Võ Thị Hảo.
Truyện ngắn thời kỳ đổi mới hớng vào cuộc sống thờng nhật, khám phá

mọi vấn đề của đời sống ở những chiều kích và góc độ khác nhau. Truyện
ngắn của Võ Thị Hảo cũng không nằm ngoài những đối tợng phản ánh ấy. Chị
đặc biệt hớng ngòi bút của mình đến vấn đề nhân tính và sự bất bình trong xã
hội. Nói về những điều này bao giờ nhà văn cũng đi đến tận cùng bằng cách
phản ánh mọi góc cạnh sâu sắc của vấn đề, không ngại đụng chạm đến những
gì mà d luận cho là "nhạy cảm" theo cách riêng của mình. Đọc truyện của Võ
Thị Hảo, ta không có cảm giác ngột ngạt, khó chịu nh trớc khi cơn bão tràn
qua nh khi đọc truyện của Phạm Thị Hoài hay Nguyễn Thị Thu Huệ. Ngợc lại,
ngời đọc có cảm giác bất an khi luôn dự cảm có bất trắc sẽ xảy ra, tựa nh cảm
giác của một ngời lần đầu tiên bớc chân xuống biển, không dám bớc liều vì sợ
sẽ sa chân xuống một hố sâu nào đó. Bất an, lo sợ nhng vẫn muốn bớc tiếp để
khám phá vì cuộc sống luôn đầy bất ngờ không thể lờng trớc. Ngời viết đã
khéo léo gieo vào lòng ngời đọc sự háo hức chờ đợi thông qua những biện
pháp nghệ thuật hữu ý.
Tính chất bất ngờ trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo trớc hết đợc tạo nên
từ các tình huống đặc sắc. Đúng nh nhận xét của tác giả Bùi Việt Thắng: "Mỗi
ngời viết truyện ngắn thờng có một lối nẻo riêng, với Võ Thị Hảo việc tìm tòi
tình huống truyện là có ý nghĩa nhất" [61]. Không chỉ ở tình huống mà ở ngay
tiêu đề của truyện ngắn ta đã thấy dụng công của ngời viết nhằm gây ấn tợng
với ngời đọc. Những tên truyện thờng hứa hẹn ở phía sau nhiều suy t triết lý và
gợi không khí về một miền cổ tích: Dây neo trần gian, Vũ điệu địa ngục, Làn


21

môi đồng trinh, Hồn trinh nữ... Không khí cổ tích, huyền thoại còn đợc tạo
nên cùng với sự linh hoạt trong các ngôi trần thuật, trong cách xng hô, gọi tên
nhân vật. Chất liệu của cổ tích dân gian đã đợc nhà văn làm sống dậy trong tác
phẩm của mình để tạo nên một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và
hiện đại. Chỉ riêng điều này, ta cũng thấy rõ nét riêng biệt của Võ Thị Hảo

trong số rất nhiều cây bút truyện ngắn xuất sắc lúc bấy giờ.
Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo đã thực sự chuyên
chở đợc t tởng quan niệm về con ngời và cuộc đời của nhà văn. Truyện của chị
ít thấy nhân vật phản diện để ta phải lên án căm hờn. Ngay cả nhân vật biểu
hiện cho cái xấu cũng có nét gì đó rất đáng thơng rất cần đợc thông cảm. Nói
nh vậy không có nghĩa là nhân vật của chị cứng nhắc, ngợc lại đó là thế giới
nhân vật hết sức sinh động, họ vừa là chủ nhân vừa là nạn nhân của cuộc sống.
Nếu nhân vật trong văn Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phơng thờng biến dạng, méo mó về cả nhân hình lẫn nhân tính thì nhân vật trong
sáng tác của Võ Thị Hảo hoặc có nét dị dạng ở vẻ bề ngoài (Rân trong Ngời
đàn ông duy nhất, Hằng trong Làn môi đồng trinh, Tâm trong Máu của lá...),
hoặc sự thờ ơ vô tình của đồng loại đã đẩy họ đến cảnh cô đơn lạc lõng (lão
Nhát trong Vầng trăng mồ côi, những ngời đàn bà trong Trận gió màu xanh
rêu...). Những kẻ khác ngời ấy lại mang trong mình vẻ đẹp của một tâm hồn
thánh thiện giàu lòng vị tha và đức hy sinh. Ngời phụ nữ, những thân phận bé
mọn ngơ ngác lạc lõng với giấc mơ lầm lụi nhọc nhằn, họ bớc sang nền kinh
tế thị trờng để nhận thêm nhiều đớn đau, thua thiệt. Viết về phái nữ bao giờ ta
cũng tìm thấy trong ngòi bút của Võ Thị Hảo sự đồng cảm xót xa đến quặn
thắt. ở đó có bóng dáng, có nỗi niềm của chính chị, một ngời đàn bà với rất
nhiều đam mê khát vọng và không ít khổ đau. Khi cái tôi tác giả hoà lẫn vào
nhân vật để chỉ còn cái tôi của hiện hữu, ngời đọc có điều kiện để "cảm" đợc
thực hơn sự phức tạp của đời sống, của thế giới nội tâm con ngời, nói nh cách
nói của nhà văn "đợc sống nhiều kiếp, đợc biết nhiều cuộc đời". Nếu làm một
phép so sánh về nhân vật nữ trên trang viết của các nữ nhà văn, ngời ta có thể


22

nhận ra nét riêng của nhân vật Võ Thị Hảo. Bớng bỉnh thích khuấy động xung
quanh để khẳng định chính mình là các nhân vận nữ trong truyện ngắn Phan
Thị Vàng Anh. Ngời phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ mạnh

mẽ bạo liệt sẵn sàng đánh đổi tất cả để có đợc hạnh phúc. Còn ở truyện ngắn
của Võ Thị Hảo họ nhẫn nại cam chịu trớc số phận bất hạnh. Có lúc ngang
ngạnh, nổi loạn nhng họ vẫn rất đằm thắm với khát vọng đợc dâng hiến, khao
khát kiếm tìm hạnh phúc cứ rát bỏng trong tâm hồn nhân vật. Ngời đọc không
thể không yêu, không thơng, không thể không đồng cảm với nhân vật dù đó là
một cô gái sa ngã (Vũ điệu địa ngục), một ngời đàn bà nhẹ dạ (Ngời đàn ông
duy nhất) hay một con điếm đã hết thời (Biển cứu rỗi)... Với tình yêu, câu
chuyện muôn thuở của loài ngời, nhà văn không hoài nghi mà ngợc lại đặt
niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của nó. Trong các truyện ngắn: Goá phụ đen,
Tiếng vạc đêm, Khói mang màu nớc biển... ngời ta cảm nhận đợc sự âu yếm
mang chút thánh ca của tác giả khi nói về tình yêu. Điều này đã gieo vào lòng
độc giả niềm hy vọng tin tởng vào những gì còn tốt đẹp trong cuộc đời. Khi
mà con ngời quay quắt với tiền tài, danh vọng, tình yêu cũng nh một thứ đồ có
thể trao đổi buôn bán thì gieo đợc hạt mầm hi vọng ấy quả là một điều đáng
nói.
Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay ghi nhận sự phát triển của dòng
văn học sử dụng yếu tố kỳ ảo. Nhắc đến văn học kỳ ảo thời kỳ này không thể
không thừa nhận những đóng góp của Võ Thị Hảo. Cùng với Nguyễn Huy
Thiệp, Lu Sơn Minh, Lý Lan... Võ Thị Hảo đã góp phần khơi dòng cho văn
học sử dụng yếu tố kỳ ảo phát triển trở lại sau một thời gian dài vắng bóng,
mở ra một không gian mới, một thủ pháp mới để khám phá hiện thực. Ngay ở
dòng truyện ngắn này, cá tính của một nữ nhà văn a khám phá thử nghiệm đã
đợc biểu hiện khá rõ nét.
Ai đó từng nhận xét chí lý rằng văn học đang mang gơng mặt nữ ngày
càng trắc ẩn và khoan dung, ngày càng tinh tế và đằm thắm. Thập niên chín
mơi của thế kỷ qua truyện ngắn đợc mùa vì thế cũng nở rộ một loạt tên tuổi nữ


23


đợc ngời đọc mến mộ nh Y Ban, Nguyễn Thị ấm, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn
Thị Thu Huệ, Lý Lan... Võ Thị Hảo cũng là một trong số những cây bút nữ đã
góp phần làm nên sự khởi sắc của truyện ngắn. Dù cha phải là một cây bút
xuất sắc nhất nhng sẽ thật thiếu sót nếu nói đến truyện ngắn Việt Nam sau
1986 mà không nói đến chị. Không ồn ào, không sắc nét màu mè, không
khiến giới phê bình phải tốn nhiều giấy mực để tranh cãi nhng truyện của chị
lại có sức cuốn hút kỳ lạ đối với ngời đọc. ẩn đằng sau những câu chữ trau
chuốt, lối kể chuyện cuốn hút có duyên, lối văn phong vừa cũ, vừa mới, vừa
quen, vừa lạ là những tâm sự day dứt không nguôi về số phận con ngời, về
cuộc đời và nhân tình thế thái. Đọc truyện của chị thờng buồn, đó là nỗi buồn
có lẫn cả vị ngọt ngào và cay đắng, một nỗi buồn giúp tâm hồn ta trong sáng
hơn. ở một thể loại có tốc độ phát triển khá nhanh từ sau 1975, truyện ngắn
Võ Thị Hảo có nhiều đóng góp tích cực. Về phơng diện nội dung đó là cái
nhìn mới về cuộc đời và con ngời, là cảm hứng sáng tạo cùng với cách khai
thác xử lý đề tài có nhiều mới lạ. Tạo tình huống đặc sắc, gia tăng yếu tố kỳ
ảo, đổi mới ngôn ngữ, giọng điệu, đa dạng trong cấu tạo đoạn kết, đó là những
đóng góp của truyện ngắn Võ Thị Hảo ở phơng diện nghệ thuật. Chính những
đóng góp riêng này đã khẳng định tên tuổi cũng nh vị trí của truyện ngắn Võ
Thị Hảo trong bức tranh truyện ngắn Việt Nam sau 1986. Thành công ở thể
loại tự sự cỡ nhỏ đã đợc tích luỹ để tạo đà cho tiểu thuyết Giàn thiêu ra đời
năm 2003. Đây là tiểu thuyết đánh dấu sự trởng thành trong ngòi bút a thử
thách mạo hiểm. Với tiểu thuyết này, Võ Thị Hảo ít nhất đợc"cho điểm" ở
lòng dũng cảm: Chuyển từ thể loại "tay quen" truyện ngắn sang thể loại tiểu
thuyết. Viết truyện ngắn chính là một bớc chuẩn bị quan trọng để nhà văn xứ
Nghệ này gặt hái đợc thành công trong tiểu thuyết, hứa hẹn cho những dự định
mới trong hành trình sáng tạo của ngời nghệ sĩ.


24


Chơng 2
Đóng góp của truyện ngắn Võ Thị Hảo trên một số phơng diện nội dung
2.1. Cái nhìn mới về cuộc đời và con ngời


25

2.1.1. Cái nhìn về cuộc đời và con ngời trong văn học trớc đổi mới
Từ 1945 đến 1985 văn học Việt Nam trải qua hai thời kỳ. Đó là khoảng
thời gian ba mơi năm văn học sau cách mạng và mời năm văn học sau chiến
tranh. Hoàn cảnh lịch sử của những dấu mốc thời gian trên đã có tác động
không nhỏ đến tình hình phát triển của văn học, đặc biệt là cái nhìn về cuộc
đời, con ngời của ngời nghệ sĩ trong mỗi thời kỳ.
Phát triển trong hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh, đối diện với những
biến cố lớn lao của cách mạng, văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 đã chịu
sự chi phối hết sức chặt chẽ của hiện thực. Vai trò của văn học đợc xác định là
thứ vũ khí t tởng sắc bén tham gia tích cực vào sự nghiệp chung của dân tộc.
Nhà văn không chỉ cầm bút mà còn biết cầm súng và biết luyện cho ngòi bút
chất thép để tăng sức chiến đấu. Họ có nhiều điểm không giống nhau, t duy
nghệ thuật có những sắc thái độc đáo riêng, nhng tất cả đều xuất phát từ lòng
yêu nớc, từ khát vọng cống hiến tài năng sức lực của mình cho sự nghiệp giải
phóng đất nớc. Văn học có nhiệm vụ phục vụ nguyện vọng của dân tộc, lợi ích
của cộng đồng, tập trung mọi cố gắng vào việc giáo dục đào tạo xây dựng
"con ngời mới", phát hiện con ngời cộng đồng trong mỗi cá nhân, chỉ ra sự
vận động tích cực của con ngời và hiện thực theo quan điểm cách mạng.
Đứng trên lập trờng của giai cấp tiên phong cách mạng, ngời nghệ sĩ đã
phản ánh hiện thực cuộc sống với cái nhìn đầy lạc quan. Cuộc đời có đau thơng mất mát, có sự sống và cái chết nhng bao giờ nhà văn cũng vẽ ra trong tác
phẩm của mình một hiện thực hết sức lý tởng. Hiện thực cách mạng với những
vấn đề đợc đặt ra liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc. Đó là hiện thực
của công cuộc đấu tranh giữ nớc, của nông thôn đợc hợp tác hoá, của chủ

nghĩa xã hội, của cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ
và cái lạc hậu ngay trong giai cấp nông dân, công dân - lực lợng nòng cốt của
cách mạng. Cuộc sống lao động và chiến đấu vì một mục đích tối thợng là
giành đợc độc lập tự do cho dân tộc, là quét sạch kẻ thù xâm lăng. Trong mất
mát tối tăm, trong tù ngục xiềng xích bao giờ nhà văn cũng chỉ ra "con đờng
sáng" cho ngời đọc hy vọng tin tởng. Không còn rõ nét cái riêng t đơn lẻ, con


×