Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn đạo đức ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.24 KB, 58 trang )

1
lời cảm ơn
Đề tài: Sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở
tiểu học đợc chúng tôi bắt đầu triển khai từ tháng 9/2003 và hoàn thành vào
tháng 5/2004. Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học này, bản
thân tôi đã gặp không ít những khó khăn, thử thách. Tuy nhiên, với sự nỗ lực
của bản thân và sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục tiểu họcTrờng Đại học Vinh, các thầy cô giáo ở trờng Tiểu học Lê Lợi, trờng Tiểu học
Lê Mao của Thành phố Vinh, gia đình và bạn bè đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt
tình, khoa học của thầy Trởng khoa Giáo dục tiểu học PGS.TS Phạm Minh
Hùng (ngời trực tiếp hớng dẫn đề tài), tôi đã hoàn thành bản luận văn này theo
đúng kế hoạch đề ra. Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn
sự giúp đỡ, hớng dẫn, chỉ bảo quý báu đó của các thầy cô giáo, gia đình và bạn
bè.
Do thời gian có hạn, hoàn cảnh gia đình khó khăn, vả lại năng lực bản
thân còn hạn chế, nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi
mong tiếp tục nhận đợc sự đóng góp ý kiến và giúp đỡ của các thầy cô giáo,
các bạn và những ai quan tâm đến đề tài này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Vinh, 5/2004
Sinh viên thực hiện
Trịnh Đình Minh
Lớp 41A 2 - Khoa

GDTH
Trờng Đại
học Vinh.

A. Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
1. Bớc sang thế kỷ XXI, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai
của thế giới tiếp tục phát triển mạnh nh vũ bão, dẫn đến sự bùng nổ thông tin.




2
Nhờ đó, chất lợng cuộc sống của con ngời trong xã hội Cách mạng siêu công
nghiệp cũng đợc nâng cao một cách rõ rệt. Trong thời đại văn minh trí tuệ
ngày nay thì kiến thức là quyền lực và máy móc sẽ xử lý dòng vật liệu vật
lý, con ngời sẽ xử lý dòng thông tin và sự vật, máy móc sẽ thực hiện công việc
hàng ngày, con ngời sẽ thực hiện công việc trí thức và sáng tạo(1). Để có thể
hoà nhập đợc với guồng quay chóng mặt của sự phát triển xã hội thì con ngời,
với t cách vừa là một thực thể tự nhiên vừa là một thực thể xã hội, phải có sự
phát triển toàn diện. Muốn vậy, ngành giáo dục phải có mục tiêu, phải có nội
dung, phơng pháp giáo dục thích hợp để đào tạo ra những con ngời mới vừa
hồng, vừa chuyên nh lời Bác Hồ hằng mong mỏi.
2.Trớc tình hình mới của đất nớc cũng nh của nhân loại, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng cộng sản Việt Nam đã khởi xớng
đờng lối đổi mới đất nớc một cách toàn diện và sâu sắc. Sự nghiệp Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc đòi hỏi ngành giáo dục nớc ta phải đào tạo
những con ngời thông minh, tự chủ, năng động, sáng tạo đáp ứng yêu cầu của
sự phát triển kinh tế - xã hội. Con ngời mới, con ngời xã hội chủ nghĩa vừa
phải tích cực thu thập thông tin, vừa phải biết cách xử lý thông tin và đặc biệt
là phải có năng lực tự học sáng tạo để có thể học suốt đời. Thực tiễn đó đòi
hỏi các ngành, các cấp, các cơ quan chức năng phải đổi mới mạnh mẽ phơng
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nếp t duy
sáng tạo của ngời học. Từng bớc áp dụng các phơng pháp tiên tiến và phơng
tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự
nghiên cứu cho học sinh(2).Tinh thần của đổi mới phơng pháp dạy học là lấy
học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực nhận thức của ngời học, theo
phơng châm thầy thiết kế, trò thi công, thầy tổ chức, trò thực hiện. Khẩu
hiệu mới của cách dạy học này là nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn, hiệu quả
hơn.

3. Trong hệ thống giáo dục quốc dân thì giáo dục tiểu học đợc coi là
bậc học nền tảng, bậc học cơ sở góp phần rất quan trọng trong việc tạo cơ sở
ban đầu cho sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con ngời Việt
Nam. Giáo dục đạo đức là một trong những mặt trọng tâm của nhà trờng tiểu
học, bởi vì những chuẩn mực đạo đức trang bị cho các em sẽ là nền móng của
nhân cách, là cái gốc của con ngời. Cũng bởi lẽ đó mà môn Đạo đức ở tiểu
học có vai trò quan trọng trong việc trang bị cho học sinh những hiểu biết đơn
giản, cốt lõi về những chuẩn mực đạo đức thiết yếu. Nhng lâu nay, môn học
này cha đợc coi trọng, cha mang lại hiệu quả giáo dục cao. Bởi vì việc dạy học
cha tạo ra cho học sinh những cảm xúc, tình cảm đạo đức, cha rèn luyện để các


3
em thống nhất giữa nhận thức, thái độ và hành vi tơng ứng. Sở dĩ có điều này
vì trong quá trình dạy học, giáo viên cha sử dụng các phơng pháp dạy học
thích hợp, tối u mà vẫn còn nặng sử dụng các phơng pháp dạy học truyền
thống theo kiểu thụ động, một chiều, lấy giáo viên làm trung tâm.
4. Cùng với đổi mới nội dung, phơng pháp dạy học, tất yếu phải đổi
mới phơng tiện, đồ dùng dạy học. Nghị quyết 40/2000/QH 10 đã khẳng định:
Đổi mới nội dung, chơng trình, sách giáo khoa, phơng pháp dạy học phải đợc
thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học. Khi có
đồ dùng dạy học thích hợp thì lợng thông tin truyền đạt cho học sinh cũng tăng
lên và thời gian lên lớp cũng rút ngắn hơn, đồng thời giảm đợc công sức trong
dạy và học. Đối với quá trình dạy học môn Đạo đức thì đồ dùng dạy học lại
càng trở nên có ý nghĩa hơn. Tuy nhiên, thực tiễn dạy học môn Đạo đức ở tiểu
học hiện nay cho thấy, việc sử dụng đồ dùng dạy học cha có hiệu quả. Đồ
dùng dạy học chủ yếu đợc sử dụng nh một công cụ, phơng tiện để minh họa
cho lời giảng của giáo viên mà cha đợc sử dụng nh một nguồn tri thức phong
phú cần khai thác. Trong giờ học, việc sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên
tập trung vào hoạt động của ngời thầylà chủ yếu, học sinh là ngời thụ động

theo dõi, quan sát, ghi nhớ và tái hiện. Sự tiếp cận của học sinh chỉ mang tính
chất hình thức bề ngoài. Đặc biệt, nhiều giáo viên vẫn cha ý thức đợc vị trí,vai
trò của đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức nên cha chú trọng tới
việc sử dụng nó. Tình trạng dạy chay, dạy suông hay còn gọi là dạy từ
miệng đến tai vẫn còn phổ biến. Điều đó dẫn đến kết quả chất lợng dạy học
không cao, không phát huy đợc tính tích cực nhận thức của học sinh. Để phát
huy đợc vai trò của đồ dùng dạy học trong việc nâng cao chất lợng dạy học
môn Đạo đức ở tiểu học thì vấn đề cơ bản nhất là trang bị đồ dùng dạy học và
sử dụng đồ dùng dạy học. Trong đó vấn đề sử dụng đồ dùng dạy học có ý
nghĩa quyết định. Sử dụng đồ dùng dạy học nh thế nào cho phù hợp, hiệu quả
để nâng cao chất lợng dạy học môn Đạo đức ở tiểu học đang là vấn đề bức xúc
và cấp thiết đặt ra cho mỗi trờng tiểu học nói chung và ngời giáo viên tiểu học
nói riêng.
Xuất phát từ những lý do về mặt lý luận cũng nh về mặt thực tiễn đã
nêu ở trên, chúng tôi đã chọn đề tài: Sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy
học môn Đạo đức ở tiểu học để nghiên cứu.
II. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao hiệu quả và chất lợng dạy học môn Đạo đức ở tiểu học.
III. Khách thể và đối tợng nghiên cứu
1.Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn Đạo đức ở tiểu học.


4
2. Đối tợng nghiên cứu: Vấn đề sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy
học môn Đạo đức ở tiểu học.
IV. Giả thuyết khoa học
Nếu lựa chọn và sử dụng hợp lý đồ dùng dạy học thì có thể nâng cao đợc hiệu quả và chất lợng dạy học môn Đạo đức ở tiểu học.
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã giải quyết các
nhiệm vụ cơ bản sau:

1.Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
2.Xây dựng quy trình sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo
đức ở tiểu học.
3. Thực nghiệm s phạm.
VI. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn trong việc nghiên cứu quy trình sử dụng đồ dùng dạy
học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu học trên một số lớp của bậc tiểu học.
VII. Phơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng các phơng
pháp nghiên cứu sau:
1.Các phơng pháp nghiên cứu lý luận:
Đọc, phân tích - tổng hợp, khái quát hoá, trừu tợng hoá... các tài liệu có
liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu.
2. Các phơng pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phơng pháp quan sát.
- Phơng pháp điều tra.
- Phơng pháp thực nghiệm s phạm.
- Phơng pháp thống kê toán học.
....
Trong đó, phơng pháp điều tra và phơng pháp thực nghiệm s phạm là
chủ yếu.


5

B. Phần nội dung nghiên cứu
Chơng I
Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
I.Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu


1.Lý luận về đồ dùng dạy học
1.1. Khái niệm về đồ dùng dạy học
Vấn đề thiết bị dạy học nói chung, đồ dùng dạy học nói riêng là một
trong những vấn đề cơ bản nhất của lý luận dạy học. Các nhà giáo dục đều
thừa nhận có 4 thành tố không thể thiếu trong quá trình dạy học là: Mục tiêuNội dung-Phơng pháp-Thiết bị dạy học. Trong đó, thiết bị dạy học là phơng
tiện để tổ chức quá trình nhận thức.
Trong dạy học ngời ta thờng dùng các thuật ngữ: Thiết bị dạy học, phơng tiện dạy học, đồ dùng dạy học... có tác giả còn dùng các thuật ngữ khác
nh: Phơng tiện trực quan, phơng tiện kỹ thuật dạy học, đồ dùng trực quan...v.v.
Các thuật ngữ trên tuy khác nhau về ngôn từ, cách diễn đạt và đợc sử
dụng trong những văn cảnh nhất định, nhng chúng có những điểm tơng đồng
về mặt bản chất khái niệm, về cái gốc của khái niệm. Nói cách khác, những
thuật ngữ này tuy khác nhau về ngoại diên nhng cơ bản giống nhau về nội
hàm. Muốn hiểu rõ điều này chúng ta cần chiết tự các từ ngữ : Thiết bị, phơng
tiện và đồ dùng theo nghĩa chung nhất, khái quát nhất. Thật vậy, theo cuốn Đại
từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Nh ý thì thiết bị, phơng tiện, đồ dùng
đều là những danh từ chung. Trong đó, thiết bị là khái niệm chỉ máy móc, các
đồ dùng cho hoạt động nói chung, phơng tiện là cái dùng để tiến hành công
việc gì,còn đồ dùng là vật để sử dụng trong sinh hoạt, hoạt động hàng ngày,
thờng do con ngời tạo ra. Nh vậy, thiết bị dạy học, phơng tiện dạy học và đồ
dùng dạy học đều là những khái niệm chỉ những đối tợng vật chất đợc sử dụng
nh một công cụ để phục vụ cho quá trình dạy học nhằm đạt đợc mục đích giáo
dục đã đề ra. Trong đó, thiết bị dạy học là khái niệm chung nhất, bao hàm cả
phơng tiện dạy học và đồ dùng dạy học. Còn phơng tiện dạy học thì bao hàm
đồ dùng dạy học.
Cũng theo tác giả Nguyễn Nh ý thì trực quan là một động từ chỉ sự
nhận thức trực tiếp bằng các giác quan của con ngời mà không qua suy luận
của lý trí. Theo cách hiểu này thì khái niệm đồ dùng dạy học lại có nghĩa rộng
hơn, bao quát hơn khái niệm đồ dùng trực quan.



6
Thiết nghĩ, chúng ta cần xem xét các khái niệm : Thiết bị dạy học, phơng tiện dạy học và đồ dùng dạy học với t cách là một trong 4 thành tố cơ bản
của quá trình dạy học theo quan điểm của lý luận dạy học hiện đại nh đã nói ở
trên. Vấn đề này đã có nhiều tác giả trong và ngoài nớc quan tâm, nghiên cứu
nh : Lê Minh Luân, Trần Quốc Đắc, Trần Đức Vợng; Nguyễn Trọng Phúc, Vũ
Trọng Rỹ, Tô Xuân Giáp, Đinh Quang Báo, Võ Chấp; Lê Ngọc Bảo, Trần
Doãn Quới... A.N.Leonchiev, K.G.NojKo, N.N.Babanxki, T.A.Llina...v.v.
Theo Trần Đức Vợng thì: Thiết bị dạy học là những phơng tiện vật
chất cần thiết giúp giáo viên và học sinh tổ chức quá trình giáo dục, giáo dỡng
hợp lý, có hiệu quả các môn học ở nhà trờng (3).
Theo tác giả Nguyễn Trọng Phúc thì: Phơng tiện dạy học là một tập
hợp nhũng đối tợng vật chất đợc giáo viên sử dụng với t cách là những phơng
tiện điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh và đối với học sinh phơng
tiện còn là một nguồn tri thức phong phú để lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ
năng, hình thành kỹ xảo(4).
Khi nói đến vấn đề đồ dùng dạy học, ít có tác giả trong nớc cũng nh
ngoài nớc đi sâu vào nghiên cứu một cách hệ thống. Các tác giả hầu nh mới
nghiên cứu về thiết bị dạy học, phơng tiện dạy học nói chung chứ cha đi thẳng
vào việc nghiên cứu đồ dùng dạy học. Khái niệm đồ dùng dạy học cũng đợc
hiểu thông qua các khái niệm rộng hơn là phơng tiện dạy học và thiết bị dạy
học . Khi bàn đến khái niệm đồ dùng dạy học cũng có nhiều quan điểm khác
nhau.
Theo quan điểm điều khiển học thì đồ dùng dạy học là những công cụ
làm tăng giá trị lợng tin tức; trao đổi thông tin nhanh, nhiều và hiệu quả hơn.
Theo quan điểm lôgic thì đồ dùng dạy học là những công cụ, phơng
tiện mà giáo viên và học sinh sử dụng trong quá trình dạy học, là cầu nối giữa
ngời dạy và ngời học.
Theo bản chất các yếu tố của quá trình dạy học thì đồ dùng dạy học là
đối tợng vật chất chứa đựng tính mục đích dạy học, chứa đựng nội dung dạy
học và là công cụ định hớng cho việc lựa chọn, vận dụng các phơng pháp dạy

học cũng nh hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lý.
Mặc dù cha có quan điểm thống nhất về định nghĩa, khái niệm đồ dùng
dạy học, nhng các tác giả đều thừa nhận rằng đồ dùng dạy học có những dấu
hiệu đặc trng sau:
- Nó phản ánh những đối tợng vật chất phục vụ cho hoạt động dạy của
giáo viên và hoạt động học của học sinh.


7
- Nó phản ánh công cụ, phơng tiện để trao đổi thông tin giữa giáo viên
và học sinh, trong đó giáo viên sử dụng để minh họa cho lời giảng của mình và
điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh.
- Nó phản ánh một nguồn tri thức phong phú, sinh động mà học sinh
cần khai thác để lĩnh hội tri thức,rèn luyện kỹ năng và hình thành kỹ xảo.
Nh vậy có thể hiểu, đồ dùng dạy học là tập hợp những đối tợng vật chất
đợc giáo viên sử dụng để minh họa bài dạy và điều khiển hoạt động nhận thức
của học sinh, còn đối với học sinh nó vừa là nguồn tri thức, vừa là công cụ, phơng tiện giúp học sinh phát hiện và chiếm lĩnh tri thức, từ đó rèn luyện kỹ năng
, hình thành kỹ xảo, đảm bảo việc thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học để đạt đợc mục đích dạy học đã đề ra.
1.2.Vai trò của đồ dùng dạy học đối với việc dạy học ở tiểu học
Đồ dùng dạy học có một vị trí rất quan trọng trong quá trình dạy học,
đặc biệt là quá trình dạy học ở tiểu học. Thực tiễn dạy học cho thấy việc sử
dụng các phơng pháp dạy học không thể tách rời việc sử dụng các đồ dùng dạy
học. Các phơng pháp dạy học đợc thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của các đồ dùng
dạy học nhất định, trong những hình thức tổ chức dạy học nhất định, với những
thủ pháp hết sức phong phú, đa dạng. Đồ dùng dạy học là công cụ lao động
của giáo viên và học sinh, có tác dụng tích cực đối với quá trình lao động của
thầy và trò.
Với t cách là công cụ lao động của giáo viên và học sinh, đồng thời là
một yếu tố không thể thiếu đợc trong quá trình dạy học, đồ dùng dạy học giữ
một vai trò hết sức to lớn đối với việc dạy học ở tiểu học.

- Đồ dùng dạy học là nguồn thông tin rất phong phú và sinh động . Nó
cung cấp cho chúng ta những thông tin chính xác, đầy đủ về các hiện tợng, đối
tợng, quá trình đợc nghiên cứu. Vì vậy, khi sử dụng đồ dùng dạy học một cách
hợp lý, hiệu quả thì sẽ góp phần nâng cao chất lợng dạy học, khắc phục chủ
nghĩa hình thức trong tri thức của học sinh.
- Sử dụng đồ dùng dạy học có tác dụng trực quan hoá nội dung bài học,
tạo ra hình ảnh rõ nét về các cơ cấu, quá trình phức tạp và trừu tợng. Từ đó
hình thành cho học sinh những biểu tợng đầy đủ, chính xác nhất, về các sự vật,
hiện tợng trong tự nhiên và xã hội. Do vậy sẽ tạo thuận lợi trong việc hình
thành các khái niệm cho học sinh. Đây là một vai trò rất quan trọng của đồ
dùng dạy học, vì nó đảm bảo cho việc vận dụng phơng pháp trực quan có hiệu
quả, cũng nh đảm bảo nguyên tắc trực quan trong dạy học ở tiểu học.
K.D.USinxki đã nhận xét: Hình ảnh đợc giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí
nhớ chúng ta là hình ảnh mà chúng ta thu nhận đợc bằng trực quan và hình ảnh


8
nào đợc khắc sâu vào trì nhớ chúng ta thì cũng đợc chúng ta nhớ kỹ, hiểu sâu
những t tởng của nó(5).
- Sử dụng đồ dùng dạy học sẽ giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một
cách cụ thể, sinh động và lý thú. Đồng thời củng cố, mở rộng, khắc sâu kiến
thức đã đợc lĩnh hội. Qua đó góp phần hoàn thiện tri thức, rèn luyện kỹ năng
cần thiết và hình thành kỹ xảo tơng ứng.
- Sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học ở tiểu học có tác dụng đẩy
mạnh hoạt động nhận thức của học sinh, giúp học sinh tự khám phá chiếm lĩnh
tri thức. Bởi vì , đồ dùng dạy học là chất xúc tác của quá trình dẫn thông tin
( Makiguchi) và khắc phục kiểu dạy học truyền thụ những mãnh tri thức chết
( Makiguchi) cho học sinh. Việc sử dụng đồ dùng dạy học sẽ góp phần phát
triển trí tuệ, giáo dục nhân cách cho học sinh, đồng thời nó kích thích hứng thú
nhận thức, phát triển năng lực quan sát, năng lực phân tích, tổng hợp và phát

triển năng lực t duy trừu tợng cho học sinh.
- Sử dụng đồ dùng dạy học có tác dụng hợp lý hoá quá trình hoạt động
của giáo viên, giúp giáo viên tổ chức, điều khiển quá trình nhận thức của học
sinh một cách tích cực, chủ động. Đồng thời giảm nhẹ việc trình bày, giảng
giải của giáo viên để có thể tập trungvào việc hớng dẫn, hỗ trợ quá trình hoạt
động của học sinh. Do đó tiến độ của giờ học diễn ra nhanh hơn vì nhiều hoạt
động dạy - học đã đợc bản thân đồ dùng dạy học thực hiện, giáo viên và học
sinh không phải mất nhiều thời gian cho những công việc thuần tuý kỹ thuật,
dành nhiều thời gian cho hoạt động sáng tạo.
- Sử dụng đồ dùng dạy học cũng có tác dụng hợp lý hoá quá trình hoạt
động của học sinh. Bởi vì, việc thay đổi hoạt động học tập từ chỗ nghe lời thầy
giảng giải, ghi chép sang chỗ đợc tri giác và hoạt động với đồ dùng dạy học sẽ
làm giảm bớt sự căng thẳng, mệt mỏi giúp cho quá trình học tập có hiệu quả
hơn.
- Sử dụng đồ dùng dạy học sẽ khắc phục đợc những khoảng cách giữa
lý thuyết và thực tiễn, làm dễ dàng quá trình nhận thức của học sinh, chuyển từ
đối tợng mang tính chất trừu tợng sang cụ thể. Đồng thời, nó tạo ra sự hợp tác,
hiểu biết giữa thầy và trò về nội dung cần truyền đạt của thầy.
- Ngoài ra, sử dụng đồ dùng dạy học còn tạo điều kiện thuận lợi cho
việc lựa chọn và sử dụng hợp lý, hiệu quả các phơng pháp dạy học cũng nh
hình thức tổ chức dạy học, từ đó phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh.
1.3. Nguyên tắc sử dụng đồ dùng dạy học


9
Để có thể phát huy đợc vai trò của đồ dùng dạy học, nâng cao hiệu quả
sử dụng chúng, cần phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
- Sử dụng đồ dùng dạy học đúng mục đích.
Mỗi tiết học, mỗi môn học đều đặt ra mục đích, yêu cầu dạy học nhất
định. Mục đích dạy học quy định hoạt động dạy- học của giáo viên và học

sinh, quy định những loại hình đồ dùng dạy học cần sử dụng. Ngợc lại, hoạt
động dạy- học của giáo viên và học sinh khi đợc tiến hành bằng các phơng
pháp dạy- học cụ thể kèm với những loại hình đồ dùng dạy học tơng ứng cũng
có tác dụng mạnh mẽ đến mục đích dạy học. Mục đích dạy học đề ra có đạt đợc hay không và đạt đợc đến mức độ nào là phụ thuộc vào phơng pháp dạyhọc và đồ dùng dạy học mà giáo viên và học sinh sử dụng. Mỗi đồ dùng dạy
học đều có chức năng riêng và cũng đều có thế mạnh và hạn chế nhất định,
nên chúng ta phải lựa chọn và nghiên cứu sử dụng đúng mục đích, phù hợp với
quá trình dạy học. Thực tiễn dạy học cho thấy không có một loại đồ dùng dạy
học nào là vạn năng, là tuyệt đối về chức năng cả. Sử dụng đồ dùng dạy
học đúng mục đích nghĩa là đồ dùng dạy học phải tiêu biểu, phục vụ thiết thực
cho bài dạy, là nguồn tri thức quan trọng cho học sinh tìm tòi, phát hiện. Tránh
tình trạng sử dụng đồ dùng dạy học không phù hợp với nội dung hoặc sử dụng
sai mục đích làm cho học sinh mệt mỏi, phân tán chú ý.
- Sử dụng đồ dùng dạy học đúng lúc. Nghĩa là, phải sử dụng đồ dùng
dạy học đúng vào thời điểm cần thiết nhất để giáo viên khai thác, cung cấp
một cách hợp lý và học sinh quan sát, tiếp cận nội dung một cách thuận lợi
trong trạng thái tâm lý phù hợp nhất. Mỗi bớc lên lớp (kiểm tra bài cũ, nêu vấn
đề bài mới, phát triển bài mới, tổng kết, ôn tập, luyện tập...), khi đồ dùng dạy
học đã đợc sử dụng xong nên cất đi trớc khi sử dụng một đồ dùng dạy học
khác. Tránh tình trạng đa ra hàng loạt đồ dùng dạy học cùng một lúc làm phân
tán sự tập trung chú ý của học sinh, phơng hại tới quá trình tiếp thu kiến thức
của các em. Tuy nhiên, có những đồ dùng dạy học cần trng bày thờng xuyên ở
lớp để học sinh quan sát, củng cố kiến thức nh bảng mẫu chữ cái. Đồ dùng dạy
học đợc sử dụng có hiệu quả cao nếu đợc xuất hiện đúng vào lúc nội dung và
phơng pháp dạy học cần đến.
- Sử dụng đồ dùng dạy học đúng chỗ. Nghĩa là, mỗi loại đồ dùng dạy
học cần đợc xác định vị trí trình bày ở một nơi hợp lý nhất trên lớp, phù hợp
với góc nhìn (không quá cao, không thấp quá), đảm bảo đủ ánh sáng (không bị
tối, không bị loá mắt), đảm bảo yêu cầu về an toàn và các yêu cầu kỹ thuật
khác, giúp học sinh ngồi ở mọi vị trí trong lớp đều có thể quan sát dễ dàng và
tiếp nhận đợc thông tin bằng các giác quan khác nhau.



10
- Sử dụng đồ dùng dạy học đúng mức độ, cờng độ. Nghĩa là, nội dung
và phơng pháp sử dụng đồ dùng dạy học phải đúng với đặc trng phơng pháp
dạy học từng môn học và phù hợp với trình độ tiếp thu kiến thức của học sinh,
phù hợp với tính vừa sức tự vơn lên phát triển của các em. Bởi vì, mỗi đồ
dùng dạy học đều tiềm ẩn những nội dung kiến thức khác nhau. Có những kiến
thức tái hiện lại nội dung đợc trình bày trong sách giáo khoa, song cũng có
những kiến thức bổ sung, mở rộng làm rõ thêm một số chi tiết giúp cho học
sinh hiểu một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những kiến thức cần tiếp thu. Đồ
dùng dạy học phải đợc sử dụng đúng mức độ, phù hợp với mục đích, yêu cầu
bài học và cần có sự kết hợp chặt chẽ với các phơng pháp dạy học, hình thức tổ
chức dạy học khác nhau nhằm kích thích hứng thú học tập của các em, giúp
các em tiếp nhận kiến thức một cách tích cực, chủ động, sáng tạo. Tránh tình
trạng sử dụng đồ dùng dạy học quá lâu, khai thác kiến thức từ đồ dùng dạy học
quá cao, quá sâu, học sinh không tiếp thu đợc; tránh khai thác những tình tiết
quá rộng, quá xa, sa đà vào những chi tiết vụn vặt không giúp ích gì cho việc
nắm vững nội dung kiến thức cơ bản của bài học. Khi sử dụng đồ dùng dạy
học cũng cần tránh sử dụng quá nhiều lần một loại hình trong một tiết học,
làm ảnh hởng đến các bớc của một giờ lên lớp, gây tâm lý nhàm chán cho học
sinh.
- Sử dụng đồ dùng dạy học đợc trang bị hay tự làm kết hợp với việc
khai thác, sử dụng cơ sở vật chất ngoài xã hội. Bởi vì, hệ thống thông tin từ
nguồn cơ sở vật chất của xã hội rất phong phú, sinh động, trong khi đó nhà trờng không thể trang bị đợc.
Trên đây là 5 nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ khi sử dụng đồ dùng dạy
học. Muốn thực hiện tốt 5 nguyên tắc này thì giáo viên cần phải xác định rõ vị
trí, vai trò của các đồ dùng dạy học đợc sử dụng cũng nh phải nắm chắc đợc
cấu tạo, nguyên lý hoạt động của nó. Trên cơ sở đó giáo viên cần dự kiến các
tình huống có thể xảy ra và các hoạt động trên lớp khi sử dụng để có thể xử lý

tốt và đảm bảo tiến trình sử dụng đồ dùng dạy học. Một vấn đề đặt ra lúc này
là sử dụng đồ dùng dạy học phải đáp ứng yêu cầu cần và đủ theo đặc trng
môn học. Cần tức là đáp ứng đợc sự cần thiết của việc giảng giải nội dung kiến
thức, nếu thiếu những đồ dùng dạy học này hiệu quả của tiết dạy sẽ không cao,
không đạt yêu cầu nh mong muốn. Còn đủ tức là có số lợng đồ dùng dạy học
cần thiết để tiến hành bài dạy. Khi sử dụng đồ dùng dạy học, giáo viên cần có
sự gợi mở, hớng dẫn khéo léo để các em biết quan sát một cách có chủ định.
Có nh vậy mới phát huy đợc tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh,


11
đồng thời phát huy hết tác dụng, chức năng của đồ dùng dạy học trong dạy học
bộ môn.
1.4. Đặc điểm của đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức ở tiểu học
Hiện nay, trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu học, ngời ta thờng sử
dụng các loại đồ dùng dạy học nh: Sách giáo khoa Đạo đức, Vở bài tập Đạo
đức, hình vẽ, tranh ảnh, phiếu học tập, bảng phụ, giấy vẽ, bút màu, một số
dụng cụ để cho học sinh thực hành ...v.v.Theo tinh thần đổi mới phơng pháp
dạy học thì trong dạy học môn Đạo đức có khuyến khích sử dụng thêm các
loại đồ dùng dạy học hiện đại khác nh: Băng hình, băng cát-sét, đĩa mềm vi
tính, phim đèn chiếu, phim chiếu bóng, con rối, mô hình, mẫu vật...để thu
hút,hấp dẫn, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức ở tiểu học có những đặc điểm
riêng, phù hợp với đặc trng môn học.
- Đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức vừa là những vật dùng để minh
họa cho truyện kể đạo đức, tình huống đạo đức... vừa là nguồn thông tin phong
phú, sinh động có thể cung cấp cho học sinh hệ thống các chuẩn mực hành vi
đạo đức và chuẩn mực pháp luật phù hợp với đặc điểm nhận thức các em.
- Đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức thể hiện những cách ứng xử
đúng đắn của các em trong các mối quan hệ với bản thân, gia đình, nhà trờng,

cộng đồng - xã hội và môi trờng tự nhiên.
- Đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức là những định hớng, chỉ dẫn
giúp học sinh khai thác nội dung truyện kể, rút ra bài học đạo đức (tranh ảnh,
phiếu học tập...) hoặc giúp học sinh ghi nhớ bài học đạo đức (bảng phụ, giấy
khổ lớn...) hoặc giúp học sinh thực hành, luyện tập, liên hệ với thực tế (các
dụng cụ cho học sinh tiến hành trò chơi, đóng vai, đóng kịch...).
- Đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức làm cho việc giảng dạy trở nên
trực quan hơn, cụ thể hơn. Vì vậy, nó tăng cờng thêm cho học sinh khả năng
tiếp thu tri thức đạo đức, hình thành tình cảm, niềm tin và hành vi đạo đức.
- Đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức rút ngắn thời gian giảng dạy
của giáo viên mà việc lĩnh hội kiến thức của học sinh lại nhanh hơn. Đồng
thời, nó giải phóng ngời thầy giáo khỏi một khối lợng công việc nhất định và
tạo điều kiện cho việc hình thành hành vi, thói quen đạo đức của học sinh, do
đó nâng cao chất lợng dạy học.
- Đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức dễ dàng gây đợc hứng thú và sự
chú ý của học sinh, tạo cho các em có những tình cảm đạo đức tích cực.


12
- Đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức giúp học sinh nắm bắt nhanh
nội dung truyện kể đạo đức và tạo cho các em khả năng kể chuyện hay, sáng
tạo (tranh ảnh, hình vẽ...)
- Đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức ở tiểu học còn là những công cụ
giúp giáo viên có thể kiểm tra, đánh giá một cách khách quan khả năng lĩnh
hội tri thức đạo đức, hình thành hành vi, thói quen đạo đức và tình cảm đạo
đức của học sinh (phiếu kiểm tra...).
Những đặc điểm trên của đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức thể hiện
chức năng riêng của nó đối với môn học Đạo đức ở tiểu học, thể hiện sự phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lý của các em và phù hợp với đặc trng môn học.
2. Mục tiêu, nội dung chơng trình môn Đạo đức ở tiểu học

2.1. Mục tiêu môn Đạo đức ở tiểu học
Mục tiêu giáo dục thờng có hai nội dung, đó là: Mục tiêu số lợng và
mục tiêu chất lợng. Mục tiêu của giáo dục tiểu học đã đợc xác định rõ tại Điều
23- Luật Giáo dục- 1998: Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con
ngời Việt Nam XHCN, bớc đầu xây dựng t cách và trách nhiệm công dân,
chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
Mục tiêu giáo dục tiểu học lại đợc cụ thể hoá ở từng môn học. Trong
đó, mục tiêu của môn Đạo đức đợc xác định nh sau:
- Về kiến thức: Môn Đạo đức ở tiểu học giúp học sinh có những hiểu
biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với
lứa tuổi trong quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trờng, cộng đồng
- xã hội, môi trờng tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện các chuẩn mực đó.
- Về kỹ năng: Môn Đạo đức ở tiểu học giúp học sinh từng bớc hình
thành kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những ngời xung
quanh theo chuẩn mực đã học; kỹ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng
xử phù hợp chuẩn mực trong các mối quan hệ và tình huống đơn giản, cụ thể
của cuộc sống; biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện.
- Về thái độ: Môn Đạo đức ở tiểu học giúp học sinh từng bớc hình
thành thái độ tự trọng, tự tin vào khả năng của bản thân, có trách nhiệm với
hành động của mình; yêu thơng, tôn trọng con ngời; mong muốn đem lại niềm
vui, hạnh phúc cho mọi ngời; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng tình
với cái ác, cái sai, cái xấu.
2.2 Nội dung chơng trình môn Đạo đức ở tiểu học


13
Giáo dục đạo đức là một mặt giáo dục đợc Đảng và Nhà nớc ta đặc biệt
quan tâm: Một là do con ngời là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới

đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội(6); Hai là do điều đặc biệt đáng
lo ngại là trong một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo
đức, mờ nhạt về lý tởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập
nghiệp vì tơng lai của bản thân và đất nớc(7). Hiện nay, khi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc đang đợc đẩy mạnh thì giáo dục đạo đức lại
càng phải coi trọng hơn bao giờ hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: Dạy
cũng nh học phải chú trọng cả đức lẫn tài. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái
gốc rất quan trọng.
Giáo dục đạo đức sẽ giúp cho nhân cách thế hệ trẻ phát triển đúng về
mặt đạo đức, tạo cơ sở để các em ứng xử đúng đắn trong các mối quan hệ của
cá nhân với bản thân, với gia đình, với nhà trờng, với cộng đồng- xã hội và với
môi trờng tự nhiên. Giáo dục đạo đức giúp cho mỗi học sinh có đợc các phẩm
chất đạo đức tốt đẹp và bền vững. Giáo dục đạo đức có nhiệm vụ cung cấp cho
học sinh những tri thức đạo đức, xây dựng cho các em những động cơ đạo đức
đúng đắn và tình cảm đạo đức tốt đẹp, trên cơ sở đó rèn luyện cho các em hành
vi và thói quen phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội.
ở tiểu học, môn Đạo đức là một môn học rất cần thiết và chiếm một vị
trí quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh. Theo Quyết định
2957/GD-ĐT ký ngày 14/10/1994 của Bộ trởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về
mục tiêu và kế hoạch giáo dục tiểu học thì Đạo đức là một trong 9 môn học bắt
buộc ở tiểu học. Nội dung chơng trình môn Đạo đức ở tiểu học bao gồm một
số điểm cơ bản sau:
2.2.1. Nội dung chơng trình môn Đạo đức ở tiểu học bao gồm một hệ
thống các chuẩn mực hành vi đạo đức và chuẩn mực pháp luật đợc lựa chọn từ
các chuẩn mực ứng xử của học sinh trong một loại tình huống nhất định.
- Việc lựa chọn các chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật cũng nh
việc xây dựng chơng trình phải tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
+ Đảm bảo tính mục tiêu giáo dục tiểu học, nghĩa là các chuẩn mực
hành vi đạo đức và pháp luật đợc chọn phải nhằm chuẩn bị những cơ sở ban
đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách ngời công dân, ngời lao động tơng lai.

+ Đảm bảo tính truyền thống và tính hiện đại, tính dân tộc và tính nhân
loại trong mỗi hành vi ứng xử.


14
+ Đảm bảo thoả mãn yêu cầu đạo đức trong từng loại hoạt động, từng
mối quan hệ của học sinh khi học xong bậc tiểu học.
+ Đảm bảo tính cụ thể và tính vừa sức cố gắng đối với học sinh.
+ Đảm bảo tính đồng tâm của các chuẩn mực hành vi từ lớp dới lên lớp
trên.
- Hệ thống các chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật đợc đa vào chơng trình quán triệt nội dung đạo đức xã hội chủ nghĩa mà Bác Hồ đã đúc kết
lại trong 5 điều dạy của Ngời đối với Thiếu niên và Nhi đồng: 1) Yêu Tổ quốc,
yêu đồng bào; 2) Học tập tốt, lao động tốt; 3) Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt; 4) Giữ
gìn vệ sinh thật tốt; 5) Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm. Đồng thời, nó đợc xây
dựng trên các mối quan hệ cơ bản (quan hệ của học sinh đối với bản thân;
quan hệ của học sinh đối với gia đình; quan hệ của học sinh đối với nhà trờng;
quan hệ của học sinh đối với cộng đồng, xã hội và quan hệ của học sinh đối
với môi trờng tự nhiên) và các hoạt động chính của học sinh (hoạt động học
tập, hoạt động vui chơi, hoạt động sinh hoạt tập thể...) .
Nội dung chơng trình môn Đạo đức ở tiểu học theo chơng trình CCGD
đợc cụ thể hoá thành 15 bài đạo đức ở mỗi lớp, còn theo chơng trình 2000 nó
đợc cụ thể hoá thành 14 bài đạo đức, mỗi bài tơng ứng với một hành vi. Mỗi
bài biểu dơng một thái độ, một hành vi, một cách ứng xử, một việc làm phù
hợp đạo đức, nhằm hình thành nên một ý thức đạo đức nhất định cho học sinh.
Các chuẩn mực hành vi đợc đa vào từng lớp phải phù hợp với trình độ nhận
thức của học sinh.
ở giai đoạn 1 (lớp 1 - 3) do nhận thức của các em còn mang đậm màu
sắc cảm tính, trực giác nên chơng trình cung cấp cho học sinh những chuẩn
mực hành vi cụ thể, đơn giản.
ở giai đoạn 2 (lớp 4 - 5) do nhận thức của học sinh phần nào đã mang

tính khái quát nên chơng trình cung cấp cho học sinh những chuẩn mực hành
vi tơng đối khái quát cho nhiều tính huống.
Do đó, chơng trình đạo đức ở tiểu học đợc cấu tạo đồng tâm theo các
hoạt động hoặc từng mối quan hệ. Nó đợc nâng dần từ đơn giản đến phức tạp,
từ dễ đến khó, từ gần đến xa, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng cho phù hợp với
trình độ nhận thức của học sinh từ lớp 1 đến lớp 5.
2.2.2. Kiến thức đạo đức đợc trình bày trong sách giáo khoa trên cả
kênh hình và kênh chữ.
- Đối với học sinh lớp 1 còn rất nhỏ, các em bắt đầu học chữ, do đó mà
kiến thức đạo đức đợc thể hiện chủ yếu qua kênh hình. Kênh hình đóng vai trò


15
quan trọng và đợc thể hiện bằng tranh với màu sắc đẹp, chứa đựng lợng thông
tin, phản ánh những ý hoặc những tình huống cơ bản của truyện kể một cách
trực quan sinh động.
- Đối với học sinh các lớp 2, 3, 4, 5 đã biết đọc và biết viết nên kiến
thức đạo đức đợc thể hiện bằng kênh chữ là chủ yếu. Truyện kể đã đợc in trọn
vẹn với khối lợng dài ngắn khác nhau, với mức độ khó dễ khác nhau... tuỳ
thuộc vào yêu cầu đối với từng lớp, các em còn có thể đọc và hiểu nội dung
truyện kể. Còn kênh hình ở đây rất đơn giản, mỗi truyện kể chỉ có một bức
tranh (hình) đơn giản, với màu sắc hài hoà dùng để minh hoạ cho truyện kể.
2.2.3. Nội dung bao trùm, cốt lõi của chơng trình đạo đức ở tiểu học là
lòng nhân ái.
Lòng nhân ái đợc thể hiện trớc hết với những ngời thân trong gia đình
các em, rồi đến bạn bè, đến họ hàng, hàng xóm, cao hơn nữa là với xã hội và
thế giới.
Đồng chí Lê Duẩn đã căn dặn: Thầy giáo vừa dạy học cho học sinh tri
thức vừa phải rèn luyện con ngời. Và đồng chí đã nhấn mạnh thêm: Nói đến
rèn luyện con ngời trớc hết là nói giáo dục lòng nhân ái của con ngời. Vì lòng

thơng ngời là đạo lý của cuộc sống, là đạo lý làm ngời... Cái gốc của đạo đức,
của luân lý là lòng nhân ái... Nếu trong trờng học của chúng ta chỉ dạy cho học
sinh hiểu một số kiến thức mà không dạy cho các em lòng ngời thì đó là một
điều rất tai hại(8).
3. Đặc điêm tâm sinh lý của học sinh tiểu học
Các thành tựu tâm lý học hiện đại đã khẳng định rằng: Trẻ em không
phải là ngời lớn thu nhỏ lại, trẻ em là trẻ em, trẻ em là con đẻ của thời đại
và khả năng bỏ ngỏ của trẻ em (học sinh) còn lớn hơn thực có của ngời lớn
(giáo viên). Vì vậy, giáo dục phải xuất phát từ trẻ em, vì trẻ em và đi đến sự
hình thành, phát triển nhân cách toàn diện của trẻ em. Học sinh tiểu học là
một phạm trù tơng lai, là thực thể hồn nhiên, tiềm tàng khả năng phát triển,
là nhân cách đang hình thành.
3.1. Đặc điểm về mặt giải phẫu sinh lý của học sinh tiểu học
Thể lực của trẻ em ở lứa tuổi học sinh tiểu học phát triển tơng đối êm ả
và đồng đều. Các nhà khoa học đã xác định rằng, đối với trẻ em 7 tuổi trọng lợng não bằng 1.250g, trẻ em 9 tuổi bằng 1.300g, còn ngời lớn khoảng 1.360g.
Nh vậy, trong lợng não của trẻ em ở lứa tuổi học sinh tiểu học đã đạt đợc gần
90% trọng lợng não của ngời lớn. Điều này chứng tỏ rằng bộ não của học sinh
tiểu học đã khá phát triển, chức năng của não đang dần dần hoàn thiện, chức


16
năng phân tích, tổng hợp của vỏ não đang đợc phát triển, các mối quan hệ giữa
hai quá trình hng phấn và ức chế đang đợc thay đổi dần theo hớng quá trình ức
chế trở nên mạnh hơn. Vì vậy, các em có thể tích cực tìm tòi, khám phá, phát
hiện một số tri thức ở mức độ nhất định.
3.2. Đặc điểm về mặt hoạt động nhận thức của học sinh tiểu học
Quá trình nhận thức của học sinh tiểu học cũng tuân theo quy luật nhận
thức chung của loài ngời, đó là: Từ trực quan sinh động đến t duy trừu tợng và
từ t duy trừu tợng đến thực tiễn(9).Tuy nhiên, quá trình nhận thức của các em
có nét độc đáo riêng, mang màu sắc riêng. Bởi vì, trong hoạt động nhận thức,

các em sẽ tìm ra tri thức mới với t cách là cái mới cá nhân chứ không phải là
cái mới của nhân loại và đối tợng nhận thức của các em không phải là toàn bộ
tri thức của khoa học mà là tri thức của môn học, do vậy những tri thức này đã
đợc gia công về mặt s phạm. Vả lại, trong quá trình nhận thức, các em đã có
vai trò chủ đạo của giáo viên và sự hợp tác với bạn bè.
Trớc khi bớc chân vào nhà trờng tiểu học, học sinh đã đợc sống trong
môi trờng văn hoá trớc nhà trờng, đó là: Môi trờng văn hoá gia đình và môi trờng văn hoá mẫu giáo. Nếu nh ở mẫu giáo , hoạt động chủ đạo của các em là
vui chơi thì ở tiểu học, hoạt động chủ đạo của các em là học tập. Đây là một bớc chuyển có tính chất bớc ngoặt trong đời sống tâm lý của các em. Hoạt động
chủ đạo học tập này sẽ tạo ra cái mới trong cấu trúc tâm lý các em, quy định
chiều hớng phát triển tâm lý của các em.
Nét cơ bản trong hoạt động nhận thức của học sinh tiểu học là nhận
thức cảm tính chiếm u thế. Tức là nhận thức của các em còn mang tính trực
quan, cụ thể. Điều đó đợc thể hiện rất rõ trong các quá trình tâm lý của học
sinh nh: Tri giác, chú ý, trí nhớ, t duy, tởng tợng.
- Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học còn mang tính đại thể, ít đi sâu
vào bản chất, vào chi tiết và mang tính không chủ định. Các em khó phân biệt
chính xác sự giống nhau hay khác nhau giữa các sự vật, hiện tợng. Về tri giác
độ lớn, các em có khó khăn khi phải quan sát các vật có kích thớc quá lớn hoặc
quá bé. Về tri giác thời gian, các em khó hình dung ngày xa, thế kỷ...v.v.
ở giai đoạn 1 (lớp 1 - 3), tri giác của các em đợm màu sắc cảm xúc, số
lợng các chi tiết tri giác ít, trẻ chú ý tới những chi tiết ngẫu nhiên mà cha có
khả năng tổng hợp, khả năng quan sát tinh tế, việc tri giác thiếu mục đích,
không có kế hoạch rõ ràng.
ở giai đoạn 2 (lớp 4 - 5), học sinh đã biết tìm ra các dấu hiệu đặc trng
cho sự vật, biết phân biệt các sắc thái khác nhau của các chi tiết, biết phân tích
và suy luận mỗi khi tri giác, biết đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tợng để đi


17
đến so sánh, tổng hợp, suy luận, khái quát, thấy đợc mối liên hệ giữa các sự

vật, hiện tợng đó.
Từ đặc điểm tri giác của học sinh tiểu học đã nêu ở trên, trong giáo dục
chúng ta vận dụng phơng châm: Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy
không bằng một làm.
- Chú ý: Đặc điểm cơ bản của sự chú ý ở học sinh tiểu học là chú ý
không chủ định vẫn chiếm u thế, khả năng điều khiển của ý chí còn rất hạn
chế, cùng một lúc các em cha chú ý đợc nhiều đối tợng. Các em dễ di chuyển
chú ý từ đối tợng không hấp dẫn sang đối tợng có sức hấp dẫn hơn. Sức tập
trung và độ bền vững của chú ý không cao và phụ thuộc vào đối tợng chú ý,
mức độ hoạt động với sự vật. Nhiều công trình nghiên cứu về chú ý khẳng
định: Sức tập trung chú ý của các em chỉ kéo dài trong một thời gian nhất định
(30 -35 phút) và sự chú ý của học sinh đối với việc thực hiện những hành
động bên ngoài thờng bền vững hơn sự chú ý đối với việc thực hiện các hành
động trí tuệ(10).
- Trí nhớ: ở học sinh tiểu học, cả ghi nhớ có chủ định và không chủ
định đều đang phát triển. Ghi nhớ có chủ định của các em phát triển mạnh.
Tuy vậy, ở lứa tuổi này, ghi nhớ không chủ định vẫn giữ vai trò quan trọng.
ở giai đoạn 1 (lớp 1 - 3), ghi nhớ không chủ định vẫn còn chiếm u thế,
các em chỉ ghi nhớ nhanh những gì mình thích, những gì gây đợc ấn tợng
mạnh mẽ, gây đợc xúc cảm. Các em dễ nhớ, chóng thuộc về các sự vật, hiện tợng này nhng cũng rất mau quên vì các em thờng ghi nhớ theo kiểu máy móc.
Các em thờng học thuộc bài vở một cách học vẹt, học gạo, học thuộc
nguyên si từng câu chữ mà cha biết sử dụng ghi nhớ có điểm tựa, cha biết cách
phân chia tài liệu, dùng hình vẽ, sơ đồ để hỗ trợ cho việc ghi nhớ.
ở giai đoạn 2 (lớp 4 - 5), ghi nhớ có chủ định, ghi nhớ có ý nghĩa của
các em phát triển mạnh hơn, năng lực ghi nhớ cũng tăng dần. Tuy nhiên, ghi
nhớ của các em vẫn còn mang đậm tính trực quan, hình tợng.
Nhìn chung, học sinh tiểu học có trí nhớ tốt. Các em có khả năng nhớ
đợc nhiều điều, thậm chí cả những điều các em không hiểu. Với các em việc
ghi nhớ các tài liệu bằng đồ dùng trực quan, vật thật đem lại hiệu quả cao hơn.
Giáo viên cần hớng dẫn cho các em biết ghi nhớ có ý nghĩa, phải hiểu những

điều mình ghi nhớ để tránh học vẹt.
- T duy: T duy của học sinh tiểu học chuyển dần từ tính cụ thể, trực
quan sang tính trừu tợng, khái quát.


18
ở giai đoạn 1 (lớp 1 - 3), t duy của các em còn mang đậm tính trực
quan cụ thể, còn ở giai đoạn những thao tác cụ thể (J.Piagic). Các thao tác t
duy ở học sinh lứa tuổi này nh: Phân tích - tổng hợp, so sánh, trừu tợng hoá,
khái quát hoá còn rất sơ đẳng, đang trong giai đoạn phân tích trực quan - hành
động khi tri giác đối tợng. Hầu hết các em thờng dựa vào các dấu hiệu tác
động mạnh đến các giác quan nh màu sắc, hình dạng, kích thớc, nghĩa là trẻ
chỉ mới biết dựa vào những dấu hiệu bên ngoài để phân loại và khái quát.
Đến giai đoạn 2 (lớp 4 - 5), t duy của các em đã mang tính chất khái
quát, trừu tợng hơn. Các em đã dần dần chuyển từ nhận thức các bề mặt bên
ngoài của sự vật, hiện tợng sang nhận thức đợc những thuộc tính, những dấu
hiệu bản chất bên trong của sự vật, hiện tợng vào t duy. Các em đã có thể phân
tích đợc đối tợng mà không cần đến những hành động thực tiễn đối với đối tợng đó. ở lứa tuổi này, học sinh có khả năng phân biệt đợc những dấu hiệu
khía cạnh khác nhau của đối tợng dới dạng ngôn ngữ. Nh vậy, t duy trừu tợng
(t duy từ ngữ - lôgíc), t duy lý luận ở học sinh lớp 4, lớp 5 đã có sự phát triển
nhất định. Đó là những cơ sở giúp học sinh nắm đợc khái niệm khoa học, hình
thành đợc những khái quát sơ đẳng đầu tiên về các chuẩn mực đạo đức.
- Tởng tợng: Tởng tợng của học sinh lứa tuổi tiểu học còn tản mạn, ít
có tổ chức. Hình ảnh của tởng tợng còn đơn giản, hay thay đổi, cha bền vững.
Tởng tợng của học sinh tiểu học ở giai đoạn 1 (lớp 1 - 3) còn mang tính trực
quan cụ thể. Càng về những năm cuối bậc tiểu học, tởng tợng của các em càng
gần hiện thực hơn, khái quát hơn, trừu tợng hơn và sáng tạo hơn, vì vốn tri thức
và vốn kinh nghiệm sống của các em đã phong phú hơn. Các em lớp 4 - 5 đã
có khả năng nhào nặn, gọt giũa những hình tợng cũ để sáng tạo ra hình tợng
mới. Tởng tợng của các em đã mất dần, thoát ly khỏi những ấn tợng trực tiếp.

Tính hiện thực của tởng tợng đã gắn liền với sự phát triển của t duy và ngôn
ngữ. Kết hợp với khả năng so sánh, phân tích và tổng hợp của mình, các em có
thể tạo ra đợc biểu tợng ký ức và cả biểu tợng tởng tợng.
Từ những đặc điểm trên của tởng tợng, giáo viên cần tổ chức cho học
sinh quan sát sự vật, hiện tợng cụ thể. Việc sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy
học ở tiểu học nói chung và ở môn Đạo đức nói riêng là rất cần thiết và có ý
nghĩa đặc biệt. Giáo viên cần cố gắng sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học và
tài liệu học tập.
3.3. Đặc điểm về mặt nhân cách của học sinh tiểu học
- Tính cách: Học sinh tiểu học thờng dễ bị kích động bởi những kích
thích bên trong và bên ngoài. Do vậy, trẻ có hành vi bột phát. Các em rất hồn
nhiên và có tính vị tha. Hồn nhiên trong mối quan hệ với ngời lớn, với thầy cô


19
giáo, với bạn bè. Chính sự hồn nhiên đó cho nên các em rất cả tin, tin vào sách
vở, tin vào ngời lớn, tin vào năng lực của bản thân. Đặc biệt, đối với các em thì
thầy cô giáo là thần tợng của mình, lời thầy nói là chân lý, việc thầy làm là
chuẩn mực. Tuy nhiên, chúng ta thấy những niềm tin đó còn mang tính cảm
tính, cha có lý trí soi đờng.
- Tự đánh giá và đánh giá: Học sinh tiểu học tự đánh giá và đánh giá
còn mang nặng màu sắc cảm tính, cha biết căn cứ vào chuẩn để đánh giá. Các
em thờng đánh giá dựa theo hình thức bề ngoài mà cha đi sâu vào nội dung
bên trong. Chính vì thế, việc giáo dục cho các em biết tự đánh giá và đánh giá
là rất quan trọng và cần thiết. Khi đã biết tự đánh giá đúng mực nó sẽ là sức
mạnh tinh thần giúp các em cố gắng tự mình vơn lên mọi khó khăn trong học
tập và cuộc sống.
- Tình cảm: Với học sinh tiểu học tình cảm có vị trí đặc biệt, vì nó là
khâu trọng yếu gắn liền nhận thức với hành động của các em. Nhà thơ Tố Hữu
đã nhận định: Tình cảm, đó là đặc tính cơ bản của tuổi cấp I, là cái đẹp nhất

làm cho các em nhớ lâu nhất(11). Đặc trng cơ bản trong đời sống tình cảm
của các em là rất dễ xúc động, sống nhiều bằng tình cảm. Tình cảm của các
em mang tính cụ thể, trực quan và giàu cảm xúc. Tình cảm của các em dễ nảy
sinh nhng cũng không bền vững. ở lứa tuổi học sinh tiểu học, tình cảm thẩm
mĩ, tình cảm đạo đức, tình cảm trí tuệ đang hình thành và phát triển. Các em
suy nghĩ bằng hình thù, màu sắc, âm thanh và xúc cảm (K.D.Usinxki). Đối
tợng gây xúc cảm cho các em thờng là những sự vật, hiện tợng cụ thể, sinh
động. Vì ở các em hệ thống tín hiệu thứ nhất (tức là tín hiệu do sự vật, hiện t ợng tác động vào não gây ra) còn chiếm u thế hơn so với hệ thống tín hiệu thứ
hai (tức các tín hiệu ngôn ngữ - tín hiệu của tín hiệu). Xúc cảm tình cảm của
các em gắn liền với đặc điểm trực quan, hình ảnh cụ thể khi giảng bài của giáo
viên, đồ dùng dạy học đẹp, hấp dẫn, màu sắc rực rỡ. Do đó, những bài giảng
khô khan, khó hiểu nặng về lý luận không gây cho học sinh những xúc cảm
tích cực, thậm chí làm cho các em mệt mỏi, chán chờng. Từ những đặc điểm
này của tình cảm học sinh tiểu học chúng ta thấy, trong quá trình dạy học môn
Đạo đức có thể khơi dậy ở trẻ xúc cảm học tập qua việc tổ chức các hoạt động
học tập cho các em bằng các phơng pháp và đồ dùng dạy học thích hợp, từ đó
phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh, nâng cao hiệu quả dạy học.
- Hứng thú: ở lứa tuổi học sinh tiểu học thì hoạt động học tập là hoạt
động chủ đạo của các em. Do vậy, hứng thú học tập dần dần chiếm u thế so với
hứng thú vui chơi. Đặc biệt, các em rất tò mò muốn khám phá cái mới lạ của
thế giới xung quanh. Muốn cho công tác giáo dục đạt kết quả thì việc gây
hứng thú cho học sinh trong từng tiết học, từng môn học là việc làm cần thiết
không thể thiếu đợc. K.D.Usinxki đã nhận định: Một sự học tập mà chẳng có


20
hứng thú gì cả, chỉ biết hành động bằng sức mạnh cỡng bức thì giết chết mất
lòng ham muốn học tập của cá nhân (12). Muốn tạo hứng thú học tập cho các
em thì ngoài việc sử dụng các phơng pháp, hình thức tổ chức dạy học hợp lý
còn phải nhờ đến vai trò của đồ dùng dạy học. Đồ dùng dạy học là một điều

kiện không thể thiếu đợc trong việc đảm bảo chất lợng dạy học ở tiểu học.
II. Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu

Chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát thực trạng nhận thức của giáo
viên tiểu học về vai trò của đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu
học, thực trạng sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu
học và điều tra kết quả học tập của học sinh.
- Mục đích điều tra, khảo sát:
Nhằm đánh giá thực trạng nhận thức của giáo viên tiểu học về vai trò
của đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức và thực trạng sử dụng đồ
dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở trờng tiểu học, từ đó xác lập cơ sở
thực tiễn cho việc xây dựng quy trình sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học
môn Đạo đức ở tiểu học.
- Đối tợng điều tra, khảo sát:
+ Ban Giám hiệu trờng tiểu học Lê Lợi và trờng tiểu học Lê Mao: Gồm
5 ngời.
+ Giáo viên tiểu học: Gồm 50 ngời, ở trờng tiểu học Lê Lợi, trờng tiểu
học Lê Mao trên địa bàn Thành phố Vinh- Nghệ An.
+ Học sinh tiểu học: Gồm 120 em, ở trờng tiểu học Lê Lợi, trờng tiểu
học Lê Mao trên địa bàn Thành phố Vinh- Nghệ An.
- Nội dung điều tra, khảo sát:
Chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát trên một số vấn đề sau:
+ Thực trạng nhận thức của giáo viên tiểu học về vai trò của đồ dùng
dạy học trong dạy học môn Đạo đức.
+ Thực trạng sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở
tiểu học (phân tích, đánh giá việc sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên: Mức
độ sử dụng, cách thức sử dụng, hiệu quả sử dụng)
+ Chất lợng học tập môn Đạo đức của học sinh tiểu học.
- Phơng pháp điều tra, khảo sát:
+ Điều tra bằng ankét.

+ Phơng pháp quan sát.
+ Dự giờ học môn Đạo đức.
+ Trò chuyện, phỏng vấn giáo viên.


21
1. Thực trạng nhận thức của giáo viên tiểu học về vai trò của đồ
dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu học
Bảng 1: Kết quả nhận thức của giáo viên tiểu học về vai trò của đồ
dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu học.
TT
1
2
3
4

Vai trò của đồ dùng dạy học trong dạy học
môn Đạo đức ở tiểu học

Làm cho giờ học nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả
Làm cho giờ học hấp dẫn, linh động, lý thú nhờ kích
thích đợc hứng thú học tập của học sinh
Phát huy đợc tính tích cực, độc lập và sáng tạo của
học sinh
Các ý kiến khác

Số
ý kiến
10


Tỷ lệ
(%)
20

12

24

25
3

50
6

Qua kết quả điều tra chúng tôi thấy, ở câu trả lời: Làm cho giờ học
nhẹ nhàng, tự nhiên và hiệu quả có 10 giáo viên đồng ý, chiếm tỷ lệ 20%. ở
câu trả lời: Làm cho giờ học hấp dẫn, sinh động, lý thú nhờ kích thích đợc
hứng thú học tập của học sinh có 12 giáo viên đồng ý, chiếm tỷ lệ 24%. ở
câu trả lời: Phát huy đợc tính tích cực, độc lập và sáng tạo của học sinh có
25 giáo viên đồng ý, chiếm tỷ lệ 50%. Đây là vai trò cơ bản nhất, khái quát
nhất và quan trọng nhất của đồ dùng dạy học. Còn lại có 3 giáo viên có các ý
kiến khác, chiếm tỷ lệ 6% trong tổng số giáo viên đợc điều tra.
Nh vậy, hầu hết giáo viên đã nhận thức đúng về vai trò của đồ dùng dạy
học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu học.
2. Thực trạng sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo
đức ở tiểu học.
2.1. Mức độ sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở
tiểu học hiện nay.
Bảng 2: Các mức độ sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo
đức ở tiểu học

TT
1
2
3

Mức độ
Thờng xuyên
Đôi khi
Cha bao giờ

Ngời sử dụng
38
12
0

Tỷ lệ %
76
24
0

Qua bảng trên ta thấy, trong tổng số giáo viên đợc điều tra thì có 38 ngời thờng xuyên sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức, chiếm
76%; 12 ngời đôi khi sử dụng chiếm 24% và không có giáo viên nào cha bao
giờ sử dụng, chiếm tỷ lệ 0%.


22
Từ kết quả này ta thấy, nhìn chung giáo viên đã có ý thức trong việc sử
dụng đồ dùng dạy học vào dạy học môn Đạo đức ở tiểu học.
2.2. Cách thức sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức
ở tiểu học hiện nay

Qua điều tra và dự giờ của giáo viên, chúng tôi nhận thấy rằng: Mặc dù
giáo viên tiểu học đã nhận thức đúng vai trò của đồ dùng dạy học trong dạy
học môn Đạo đức ở tiểu học và đã có ý thức sử dụng nó nhng nhìn chung đa số
giáo viên còn lúng túng trong việc sử dụng, cha có cách thức, quy trình sử
dụng đồ dùng dạy học rõ ràng, khoa học. Thông thờng giáo viên căn cứ vào
nội dung bài dạy rồi yêu cầu học sinh quan sát đồ dùng dạy học, sau đó đặt
câu hỏi cho học sinh trả lời. Vì vậy, hệ thống câu hỏi còn lộn xộn, cha lôgic
nên việc khai thác kiến thức của học sinh từ nguồn tri thức này còn gặp nhiều
khó khăn. Các kiến thức mà các em phát hiện đợc từ đồ dùng dạy học cha có
hệ thống, cha sâu sắc, thậm chí còn cha chính xác về mặt khoa học. Khi sử
dụng đồ dùng dạy học giáo viên còn cha nêu rõ mục đích và kế hoạch cho
học sinh quan sát, làm việc với đồ dùng dạy học đó.
Vì vậy, khi trả lời câu hỏi: Theo đồng chí sử dụng đồ dùng dạy học có
hiệu quả cần phải có những điều kiện gì? thì phần lớn các giáo viên đều trả lời:
Phải có quy trình chặt chẽ; phải chuẩn bị bài một cách chu đáo, có kế hoạch cụ
thể; phải có đầy đủ đồ dùng dạy học.
2.3. Hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên trong dạy học
môn Đạo đức ở tiểu học hiện nay
Qua điều tra và dự giờ của giáo viên, chúng tôi nhận thấy rằng: Hầu
hết các giáo viên đều sử dụng đồ dùng dạy học với ý nghĩa chủ yếu là phơng
tiện minh họa cho bài giảng của thầy. Chẳng hạn, giáo viên chỉ dùng tranh ảnh
minh hoạ cho truyện kể đạo đức khi kể chuyện là chính. Giáo viên hầu nh chỉ
quan niệm đồ dùng dạy học là phơng tiện bổ trợ đơn thuần cho lời giảng của
mình nên cha có mục đích sử dụng rõ ràng. Hoạt động của học sinh trên lớp
chủ yếu đóng vai trò là ngời tiếp nhận nghe giảng, quan sát, ghi nhớ và tái hiện
thông tin đã đợc thầy giáo truyền đạt. Vì vậy, không khí lớp học trở nên buồn
tẻ, không phát huy đợc tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong
quá trình nhận thức.
Nh vậy, thực tiễn dạy học môn Đạo đức ở tiểu học hiện nay cho thấy,
hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học cha cao , do đó cha nâng cao đợc chất

lợng dạy học của môn này.
3. Nguyên nhân của thực trạng


23
Theo chúng tôi, tồn tại những thực trạng trên là do các nguyên nhân
sau đây:
3.1. Về phía giáo viên
- Vì việc sử dụng đồ dùng dạy học đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị công
phu, tỉ mỉ, sáng tạo, phải mất nhiều thời gian, thậm chí còn tốn kém nên nhiều
giáo viên cha đầu t thời gian và công sức vào việc su tầm, tự làm cũng nh sử
dụng đồ dùng dạy học. Nhiều giờ dạy đạo đức giáo viên vẫn còn dạy chay,
dạy suông. Vì vậy, hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học cha cao.
- Nhiều giáo viên cha nắm vững lý luận về đồ dùng dạy học nên khi sử
dụng còn lúng túng, cha có quy trình cụ thể. Nhiều giáo viên sử dụng đồ dùng
dạy học còn sai mục đích, sai nội dung kiến thức.
- Trình độ, năng lực s phạm của nhiều giáo viên tiểu học còn hạn chế.
Hơn nữa, giáo viên cha biết cách tự làm đồ dùng dạy học, năng lực và kỹ thuật
làm đồ dùng dạy học còn hạn chế nên cha tự trang bị phơng tiện, đồ dùng dạy
học cho mình và cho học sinh đợc. Nhiều giáo viên tiểu học còn cha yêu nghề,
yêu trẻ nên cha nhiệt huyết với công việc.
- Một số giáo viên còn xem nhẹ môn Đạo đức ở tiểu học, xem nó là
môn phụ nên không đầu t vào giờ dạy và không chú ý đến hiệu quả giờ dạy.
Giáo viên chỉ dạy tiết 1 (tiết cung cấp tri thức đạo đức mới) mà ít chú ý tới tiết
2 (tiết thực hành). Điều này tất yếu dẫn đến việc giáo viên ít quan tâm đến vấn
đề sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu học.
- Nhiều giáo viên cha thích ứng đợc với yêu cầu đổi mới phơng pháp
dạy học hiện nay, đồng thời cũng cha ý thức đợc việc đổi mới phơng pháp dạy
học phải đợc tiến hành đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới đồ dùng dạy học.
- Giáo viên lên lớp chủ yếu truyền đạt cho học sinh những kiến thức đã

quy định trong chơng trình mà ít đầu t thời gian cho các em hoạt động, tự
chiếm lĩnh tri thức của bài học. Giáo viên cha có sự tìm tòi, trau dồi kiến thức,
tự nghiên cứu để nâng cao trình độ.
3.2. Về phía chỉ đạo của các cấp quản lý giáo dục
- Việc bồi dỡng nâng cao kiến thức, năng lực chuyên môn cho giáo
viên còn ít. Tuy có tổ chức bồi dỡng chuyên đề, phổ biến sáng kiến kinh
nghiệm nhng hình nh chỉ mang tính chất hình thức, nhất là đối với những môn
học nh: Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội, Nghệ thuật... Vì thế không tạo điều kiện
cho giáo viên tự học, tự tìm tòi, tự nâng cao trình độ tay nghề.
- Sự chỉ đạo của các cấp quản lý cha sát sao, vẫn còn xem nhẹ môn
Đạo đức ở tiểu học, đồng thời cha có sự khuyến khích giáo viên tự làm đồ


24
dùng dạy học, tự su tầm t liệu phục vụ cho việc dạy học nói chung và dạy học
môn Đạo đức ở tiểu học nói riêng. Do vậy, vấn đề tự trang bị và sử dụng đồ
dùng dạy học ít đợc giáo viên quan tâm.
3.3. Về phía cơ sở vật chất
Hiện nay , cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học ở các trờng tiểu học
còn rất hạn chế. Phơng tiện, đồ dùng dạy học ở các trờng tiểu học còn thiếu về
số lợng và kém về chất lợng nên cha đáp ứng đợc nhu cầu sử dụng của giáo
viên và học sinh, cha đảm bảo điều kiện cho việc tiến hành đổi mới phơng
pháp dạy học hiện nay. Đặc biệt là đồ dùng dạy học cho môn Đạo đức ở tiểu
học còn rất thiếu thốn, nhất là đồ dùng học tập phân phát cho học sinh.
Những nguyên nhân trên đây ảnh hởng không nhỏ tới chất lợng và hiệu
quả dạy học môn Đạo đức ở tiểu học.
Tóm lại: Trong chơng I, chúng tôi đã phân tích cơ sở lý luận và thực
tiễn của vấn đề nghiên cứu. Từ sự phân tích đó cho phép khẳng định sự cần
thiết sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu học. Để có
thể đáp ứng đợc phần nào yêu cầu này, chúng tôi đã xây dựng và đề xuất quy

trình sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu học. Vấn đề
này chúng tôi sẽ trình bày cụ thể ở chơng II.

Chơng II
Quy trình sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học
môn Đạo đức ở tiểu học
I. Cơ sở để xây dựng quy trình sử dụng đồ dùng dạy học
trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu học

Khi xây dựng quy trình sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn
Đạo đức ở tiểu học, chúng tôi căn cứ vào những cơ sở sau đây:
1. Căn cứ vào mục tiêu, nội dung chơng trình môn Đạo đức ở tiểu
học.
Mục tiêu và nội dung dạy học có mối quan hệ chặt chẽ với phơng tiện,
đồ dùng dạy học. Mục tiêu và nội dung dạy học là cơ sở để lựa chọn và sử
dụng đồ dùng dạy học. Ngợc lại, đồ dùng dạy học là phơng tiện để thực hiện
mục tiêu và truyền tải nội dung dạy học đến ngời học. Việc lựa chọn và sử
dụng đồ dùng dạy học phải xuất phát từ mục tiêu cụ thể của từng bài học, từng
môn học và phải đi đến mục tiêu đó. Lựa chọn và sử dụng đồ dùng dạy học
cũng phải căn cứ vào nội dung bài học, môn học thì mới đảm bảo đợc sự phù
hợp và tính chính xác. Chính vì vậy, khi xây dựng quy trình sử dụng đồ dùng


25
dạy học trong dạy học phải dựa vào mục tiêu và nội dung dạy học. Nhng mỗi
một môn học lại có mục tiêu và nội dung chơng trình khác nhau nên quy trình
sử dụng đồ dùng dạy học phải cụ thể, đúng với đặc trng môn học. Do vậy, quy
trình sử dụng đồ dùng dạy học trong môn Đạo đức ở tiểu học phải phù hợp với
mục tiêu, nội dung chơng trình của môn học này. Nghĩa là, khi thực hiện xong
quy trình này thì học sinh cũng đã chiếm lĩnh đợc một phần nhất định tri thức

đạo đức, hình thành hành vi đạo đức và tình cảm đạo đức tơng ứng.
2. Căn cứ vào đặc trng của phơng pháp dạy học và hình thức tổ
chức dạy học môn Đạo đức ở tiểu học.
Phơng pháp và phơng tiện luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, không tách
rời nhau trong quá trình dạy học. Phơng pháp học quy định đồ dùng dạy học
và ngợc lại sự lựa chọn phơng pháp dạy học nào lại liên quan đến đồ dùng dạy
học. Hình thức tổ chức dạy học cũng phụ thuộc nhiều vào đồ dùng dạy học. Tổ
chức dạy học theo hình thức lớp bài hay ngoài trời... là còn tuỳ thuộc vào điều
kiện cơ sở vật chất, phơng tiện - đồ dùng dạy học. Nh vậy, sử dụng đồ dùng
dạy học phải phù hợp với đặc trng phơng pháp và hình thức dạy học của từng
môn học. Điều này cho phép khẳng định rằng, việc xây dựng quy trình sử dụng
đồ dùng dạy học trong dạy học môn đạo đức ở tiểu học phải căn cứ vào đặc trng của phơng pháp, hình thức tổ chức dạy học môn học này. Vì trong mỗi bớc,
mỗi hoạt động của quy trình đều có sự hiện diện của phơng pháp dạy học tơng
ứng.
3. Căn cứ vào đặc điểm, nội dung và chức năng của đồ dùng dạy
học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu học.
Mỗi một môn học thì có những thể loại và chủng loại đồ dùng dạy học
nhất định. Có những đồ dùng dạy học dùng chung cho nhiều môn nhng cũng
có những đồ dùng dạy học chỉ dùng riêng cho một môn nào đó. Mỗi loại đồ
dùng dạy học có những đặc điểm, nội dung và chức năng riêng. Đồ dùng dạy
học trong môn Đạo đức có những đặc trng riêng, khác với đồ dùng dạy học
trong các môn khác nh: Toán, Nghệ thuật, Tự nhiên và Xã hội... Do đồ dùng
dạy học của mỗi môn học có đặc điểm, nội dung và chức năng khác nhau nên
có cách sử dụng khác nhau. Chính vì thế mà khi xây dựng quy trình sử dụng
đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu học phải dựa trên những
đặc trng của loại đồ dùng dạy học môn này.
4. Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học.
Quy trình sử dụng đồ dùng dạy học trong dạy học môn Đạo đức ở tiểu
học phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học. Do đặc điểm
nhận thức của các em là trực quan, cụ thể nên quy trình này phải đợc xây dựng



×