Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Rèn luyện kỹ năng nói trong tập làm văn miệng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.83 KB, 61 trang )

Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

Mục lục
Trang
3

A

Lời nói đầu
Phần mở đầu

I.

Lý do chọn đề tài

5

1.

Cơ sở lý thuyết

5

2.

Cơ sở thực tiễn

7


2.1. Đối với lớp 2, 3

7

2.2. Đối với lớp 4, 5

8

5

II.

Mục đích nghiên cứu

10

III.

Đối tợng nghiên cứu

10

IV.

Nhiệm vụ nghiên cứu

11

V.


Phơng pháp nghiên cứu

11

VI.

Giả thuyết khoa học

12

VII

Lịch sử vấn đề

12

Phần nội dung

15

Chơng I: Tìm hiểu khả năng diễn đạt lời nói của học sinh trong Tập làm văn
miệng.

15

I.

Quá trình rèn luyện kỹ năng nói

15


1.

Nói trong đời sống hàng ngày

15

2.

Luyện nói trong dạy học

17

II.

Vấn đề luyện nói trong Tập làm văn miệng

19

1.

Điểm qua quá trình rèn luyện kỹ năng nói trong Tập làm văn miệng ở tiểu học

19

2.

Đặc trng cơ bản của Tập làm văn miệng

23


2.1. Thông qua Tập làm văn miệng để đạt mục đích

23

2.2. Thông qua Tập làm văn miệng rèn luyện và phát triển t duy ngôn ngữ

24

2.3. Tập làm văn miệng yêu cầu cụ thể đối với học sinh

24

III.

Những biểu hiện về khả năng diễn đạt lời nói của học sinh Tiểu học qua
các tiết Tập làm văn miệng

25

1

Thực trạng chung của dạy Tập làm văn miệng

25

1.1

Thực trạng dạy và học Tập làm văn miệng lớp 3


25

1.2

Thực trạng dạy và học Tập làm văn miệng lớp 4 và 5.

27

2.

Thực trạng nhận thức của giáo viên trong dạy Tập làm văn miệng

30

Chơng II: Phơng pháp giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nói trong Tập làm
văn miệng
I. Một số phẩm chất cần có trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói
1. Tính tích cực, tự giác
2. Tính độc lập sáng tạo
3. Tính chủ động, bạo dạn và tự tin
4. Phẩm chất và năng lực cảm thụ văn chơng

33
33
33
34
36
37

1



Luận Văn tốt nghiệp
II.
1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
2
2.1
2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.1.4
2.1.5
2.2

Nguyễn Thị Tâm

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả luyện nói trong Tập làm văn miệng
Chuẩn bị bài nói
Văn miêu tả
Văn kể chuyện
Văn thuật chuyện
Văn tờng thuật
Văn viết th
Thực hành giao tiếp
Nhóm các phơng pháp tạo hoạt động song phơng giữa thầy và trò

Sử dụng phơng pháp vấn đáp trao đổi
Sử dụng phơng pháp luyện tập
Sử dụng phơng pháp quan sát
Sử dụng phơng pháp thuyết trình
Sử dụng phơng pháp trình bày trực quan
Nhóm các phơng pháp tác động đến tâm lý trong quá trình rèn luyện kỹ
năng nói

2.2.1 Sử dụng phơng pháp thi đua khen thởng
2.2.2 Sử dụng phơng pháp trò chơi đóng vai
Chơng III: Một số giáo án thực nghiệm
I. Một số giáo án
1. Giáo án Lớp 3 - tuần 31
2. Giáo án Lớp 4 - tuần 27
3. Giáo án Lớp 5 - tuần 29
II. Một số kết quả giảng dạy
1 Đánh giá nhận xét giảng dạy lớp 3
2 Đánh giá nhận xét giảng dạy lớp 4
3 Đánh giá nhận xét giảng dạy lớp 5

C.

Phần kết luận
Phụ lục nghiên cứu

T

39
39
40

41
44
45
47
49
50
50
51
51
52
53
54
54
55
57
57
57
60
63
66
66
67
68
70
72

Lời Nói Đầu
rong cuộc sống, giao tiếp luôn đi đôi với các mối quan hệ xã hội.
Hiểu đợc tầm quan trọng của giao tiếp, biết cách giao tiếp đó là
cả một nghệ thuật đặc biệt trong cuộc sống hiện đại ngày nay.

Nhng giao tiếp bằng hình thức nào ? thì đó là một vấn đề cần

bàn cãi.

Từ lâu, ngời ta đã đề cập đến hai hình thức giao tiếp chủ yếu đó là:
giao tiếp bằng chữ viết - bút ngữ, giao tiếp bằng lời nói - khẩu ngữ. Tuy
nhiên, giao tiếp bằng lời nói xét về lịch sử xuất phát thì nó ra đời sớm hơn
2


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

giao tiếp bằng chữ viết. Xét về vai trò của giao tiếp bằng lời nói. Nó có tầm
quan trọng rất lớn trong đời sống hàng ngày. Bởi lẽ, thông qua lời nói biểu
hiện đợc rõ rất cả các tình huống giao tiếp khác nhau: xng hô, làm quen,
chào hỏi, mời mọc, yêu cầu, đề nghị, đồng ý, chúc tụng, phản đối, xin lỗi,
than phièn, chia buồn, cảm ơn, tiễn biệt ...
Đối với con ngời, để giao tiếp tốt phải trải qua quá trình phát triển,
học tập và rèn luyện cùng với những gì thiên phú cho con ngời. Ngay từ
những ngày đầu đến trờng, việc rèn luyện cho các em học sinh một khả
năng giao tiếp trong cuộc sống không phải là quá sớm. Mà đây là bớc cơ sở
nền tảng, có tính chất quyết định việc hình thành cho các em khả năng
giao tiếp tốt trong học tập và khi ra đời.
Muốn giao tiếp tốt phải nói tốt. Vậy nói tốt là nói nh thế nào và phải
rèn luyện ra sao ? Nói là một trong bốn kỹ năng cần có của học sinh tiểu
học. Do đó đặt ra vấn đề là phải rèn luyện kỹ năng đó nh thế nào và bằng
phơng pháp gì. Điều đó mỗi giáo viên tiểu học cần nắm rõ.
Trớc hết, đề cập đến mục đích dạy học Tiếng Việt nói chung và dạy

học Tập làm văn nói riêng. Để trong quá trình dạy học, giáo viên phải là
ngời có tri thức nhất định về khoa học tự nhiên - xã hội. Có một năng lực
giao tiếp tơng đối, một bản lĩnh s phạm trong dạy học và có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao. Có nh vậy mới có thể đề cập đến vấn đề rèn
luyện kỷ năng cho học sinh thông qua một tiết học.
* Cấu trúc đề tài gồm có ba phần:
Phần I:

Phần mở đầu.

Phần II:

Phần nội dung.

Phần III:

Phần kết luận.

- Phần mở đầu chúng tôi trình bày những vấn đề sau:
I.

Lý do chọn đề tài.

II.

Mục đích nghiên cứu.

III.

Đối tợng nghiên cứu.


IV.

Nhiệm vụ nghiên cứu

V.

Giả thuyết khoa học

VI.

Lịch sử của vấn đề nghiên cứu.

- Phần nội dung gồm có ba chơng.
+ Chơng I: Tìm hiểu về khả năng diễn đạt lời nói của học sinh
tiểu học qua các tiết Tập làm văn miệng với các kiểu bài khác nhau. Đánh
giá thực trạng dạy tiết Tập làm văn miệng nói riêng và phân môn Tập
làm văn nói chung.
+ Chơng II. Trên cơ sở nghiên cứu những phẩm chất cần có của
học sinh trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói để đề ra một số biện pháp

3


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả quá trình rèn luyện kỹ năng nói cho
học sinh tiểu học trong giờ Tập làm văn miệng.

+ Chơng III. Chúng tôi đã thiết kế một số giáo án dạy Tập làm
văn miệng theo hớng tích cực. Đồng thời ghi lại một số kết qủa thu đợc
qua tiến trình lên lớp.
- Phần kết luận: Với đề tài này chúng tôi mong muốn góp phần nhỏ
những hiểu biết của mình vào vốn tài liệu tham khảo cho giáo viên tiểu
học, giáo sinh s phạm tiểu học. Góp phần nâng cao hơn nữa chất lợng dạy
Tập làm văn miệng. Thực hiện mục tiêu: giúp học sinh rèn nói tốt hơn.
Tuy nhiên, đây cũng là lần đầu tiên chúng tôi làm quen với nghiên
cứu khoa học nên chắc hẳn cũng không tránh khỏi những sai sót bỡ ngỡ.
Chúng tôi rất mong đợc sự góp ý, nhận xét của các thầy cô cùng bạn bè
sinh viên thuộc ngành tiểu học.

A- Phần mở đầu
I- Lý do chọn đề tài.

1. Cơ sở lý thuyết.
Giao tiếp bằng ngôn ngữ bao gồm hai hình thức đó là: giao tiếp bằng
ngôn ngữ nói và giao tiếp bằng ngôn ngữ viết. Cùng với sự phát triển của
lịch sử xã hội loài ngời đã tạo nên những môi trờng giao tiếp khác nhau.
Tuỳ thuộc vào bối cảnh và điều kiện giao tiếp. Quá trình giao tiếp trải qua
hai hoạt động chủ yếu: sản sinh và lĩnh hội văn bản. Trong hoạt động giao
tiếp: Ngời nói - sản sinh văn bản vừa là ngời nói và cũng là ngời nghe và
ngợc lại: Ngời nghe - lĩnh hội văn bản vừa là ngời nghe vừa là ngời nói.
Nh vậy giao tiếp là hình thức tiếp nhận thông tin giữa hai đối tợng. Trong
đó hình thức giao tiếp bằng lời nói đã có từ rất sớm, khi xã hội loài ngời
xuất hiện. Những hoạt động của ngời nói là tạo ra văn vản nhằm thông
báo thông tin cần thiết biểu lộ suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ nói và
các cử chỉ điệu bộ trên cơ thể. Cho nên giao tiếp bằng lời nói đóng vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội loài ngời.
Con ngời từ khi còn là một đứa trẻ; mới sinh ra đã đợc tiếp xúc với

hình thức giao tiếp bằng lời nói qua lời ru của mẹ, giọng kể của bà cho đến
khi đến trờng học chữ. Tuy nhiên nếu nh không đến trờng học chữ thì con
ngời cũng nói năng đợc; nói cách khác con ngời có thể giao tiếp bằng lời nói
đợc. Hoặc trong thực tế xã hội đã khẳng định, có những dân tộc có ngôn
ngữ nói chứ không có chữ viết nh: dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mờng ... Điều
đó chứng tỏ giao tiếp bằng lời nói có từ rất sớm và có tầm quan trọng
trong giao tiếp nói chung. Nhng để giao tiếp tốt thì chúng ta phải làm gì ?
làm nh thế nào ? đó là cái đích mà môn Tiếng Việt Tiểu học luôn vơn tới.
Ví dụ: dạy Tiếng Việt bằng giao tiếp: dạy Tiếng Việt đang giao tiếp ... Đặc
4


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

biệt trong đó có phân môn Tập làm văn giúp học sinh giao tiếp trọn vẹn
với các ngôn bản nói ngôn bản viết trọn vẹn.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học với t cách: vừa là một môn khoa học
nghiên cứu về Tiếng Việt; vừa là môn học trang bị cho học sinh một công
cụ giao tiếp và t duy. Tạo cơ sở cho học sinh học tập tốt các môn học khác.
Để thực hiện đợc mục đích nói trên thì đầu tiên và cần thiết phải làm là
rèn luyện các kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết cho học sinh.
Cùng với bảy phân môn khác trong môn Tiếng Việt. Phân môn Tập
làm văn có vai trò cực kỳ to lớn trong việc rèn luyện kỹ năng nói cho học
sinh. Đặc biệt nó là một phân môn có tính chất quyết định chất lợng tiếp
thu trong học môn Tiếng Việt. Tập làm văn nối tiếp một cách tự nhiên các
bài học khác nhau trong môn Tiếng Việt: Tập đọc, Chính tả, Ngữ pháp ...
giúp học sinh có một năng lực tổng hợp, sản sinh ngôn bản nói và viết.
Nhờ năng lực này mà học sinh biết cách sử dụng Tiếng Việt văn hoá làm

công cụ để học tập; giao tiếp; t duy.
Bên cạnh đó, Tập làm văn còn là một phân môn có tính chất thực
hành toàn diện và tổng hợp có chất sáng tạo. Nó mang tính thực hành vì
nhiệm vụ cơ bản của nó, hình thành cho học sinh hệ thống các kỹ năng
trong kỹ năng lớn là tạo lập văn bản dới dạng thức nói và dạng thức viết.
Để hình thành đợc văn bản đòi hỏi phải có kiến thức nhất định về các môn
khoa học khác nhau. Nổi bật là sự vận dụng của lý thuyết hoạt động lời
nói, các hiểu biết về ngôn ngữ, ngữ pháp văn bản, lôgíc, lý luận văn học...
Tập làm văn còn đòi hỏi ở học sinh, huy động vốn kiến thức về văn học,
khoa học thờng thức. Bởi vì Tập làm văn không chỉ vận những hiểu biết lý
luận mà còn có những cảm xúc, tình cảm của mỗi học sinh khi làm bài.
Mặt khác Tập làm văn còn vận dụng nhiều kỹ năng từ dùng từ đặt câu
đến dựng đoạn và tạo lập văn bản. Các kỹ năng này do nhiều phân môn
khác trong mông Tiếng Việt tạo thành. Bài Tập làm văn còn là sản phẩm
không lặp lại của mỗi học sinh trớc một đề bài cụ thể. Điều đó giải thích
cho tính sáng tạo của Tập làm văn và cũng minh chứng một vấn đề, trong
giao tiếp bằng ngôn ngữ nói không ai giống ai, mỗi ngời có một phong cách
khẩu ngữ, một nghệ thuật "nói" khác nhau tuỳ vào năng lực bản lĩnh và
quá trình luyện nói.
Nh vậy, phân môn Tập làm văn còn giúp học sinh sau quá trình rèn
luyện lâu dài và có ý thức, dần dần trẻ tìm ra cho mình một phơng pháp
viết bài. Từ đó học sinh có thể áp dụng cho các kiểu bài văn theo các chủ
đề và theo nhiều loại phong cách khác nhau. Góp phần bổ sung kiến thức
và rèn luyện t duy, hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Một lần
nữa khẳng định kết quả của phân môn Tập làm văn là sự hiểu biết tổng
hợp của học sinh về mọi vật xung quanh. Đồng thời qua đó để thấy đợc t
duy khái quát, khả năng giao tiếp, đánh giá sự tiếp nhận thông tin,
truyền đạt thông tin của học sinh trong thực hành bằng ngôn ngữ.
5



Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

Tóm lại, trong cuộc sống giao tiếp bằng lời nói đóng vai trò rất quan
trọng. Hoạt động nói luôn gắn liền với hoạt động nghe. Đây là nhu cầu
trong các mối quan hệ xã hội. Vậy nói nh thế nào cho ngời nghe hiểu đợc
và thể hiện đợc sự hiểu biết của mình cho ngời khác rõ. Từ đó trong dạy
Tập làm văn miệng ở Tiểu học đã chú trọng việc rèn luyện kỹ năng nói
cho học sinh. Nhng nói nh thế nào ? và rèn luyện nó ra sao ? nó với nghi
thức nào thì cha đợc đề cập đến. Nó chỉ dừng lại ở việc tập nói theo từng
đề bài cụ thể.

2. Cơ sở thực tiễn.
Qua nghiên cứu chơng trình; nội dung; phân phối chơng trình Tập
làm văn 165 tuần chúng tôi thấy rằng: Chơng trình Tập làm văn bắt đầu
từ lớp 2 với các biểu bài đơn giản, mỗi tuần 1 tiết. Ví dụ: điền vào chỗ
chấm, dùng từ đặt câu theo một đề tài nhất định, trả lời câu hỏi theo nội
dung bài tập đọc ... cho đến tuần thứ 5 của lớp 3 thì mỗi tuần cô 2 tiết Tập
làm văn với các biểu bài nâng cao hơn: quan sát tranh trả lời câu hỏi;
quan sát đồ vật, cây cối, con vật - trả lời câu hỏi; kể lại câu chuyện ... và
lớp 4, 5 các kiểu bài văn đợc nâng cao dần thành các thể loại độc lập: miêu
tả, tờng thuật, kể chuyện, thuật chuyện, viết th đơn từ ... Đối với mỗi thể
loại có nhiều đề bài khác nhau. Yêu cầu của mỗi đề bài là phải qua tiết
Tập làm văn miệng. Trong tiết Tập làm văn miệng mục đích cơ bản là
phải rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh.

2.1. Đối với lớp 2, 3:
Mức độ luyện nói đơn giản đó là sự khác nhau giữa các kiểu bài, đề

bài, số lợng câu hỏi và cha hình thành hẳn một tiết Tập làm văn miệng.
Đối với lớp 2. Mỗi đề bài có 3 - 4 câu hỏi trong một tiết học 35 - 40 phút
học sinh vừa luyện nói vừa luyện viết. Đối với lớp 3 cũng vậy tuy số câu
hỏi có nhiều hơn: 4 - 5 câu. Vậy thử hỏi đối với thời gian 35 - 40 phút đã
thực hiện đợc yêu cầu rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh hay cha ? Cho
nên vấn đề đặt ra là cần có biện pháp nâng cao hơn nữa khả năng tập
luyện kỹ năng nói và khả năng diễn đạt lời nói của học sinh. Tạo cơ sở cho
các em học tiếp các lớp trên và giao tiếp tốt khi ra đời.

2.2. Đối với học sinh lớp 4, 5.
Học sinh đợc học các kiểu bài có tính hệ thống và khái quát cao đó là
sự phát huy có kế thừa những kết quả đã đạt đợc của các em ở các lớp trớc
và nhu cầu cũng nh khả năng nhận thức của các em. ở các lớp này có các
thể loại: miêu tả, tờng thuật , kể chuyện, viết th, đơn từ ... Cứ mỗi thể loại
có nhiều đề bài khác nhau và qua tiết tìm ý và lập dàn ý chung của mỗi
thể loại khác nhau. Tất cả các đề bài đều qua tiết Tập làm văn miệng với
thời gian 35 - 40 phút - vừa tìm hiểu đề vừa lập dàn ý chi tiết và vừa
luyện nói. Luyện nói với mục đích chính trong dạy Tập làm văn miệng nh
trên đã và đang là vấn đề cấp thiết. Vậy làm thế nào để nâng cao hơn nữa
khả năng luyện tập kỹ năng nói cho học sinh tiểu học. Mỗi giáo viên cần
6


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

xác định rõ mục đích chính của tiến trình lên lớp; lựa chọn phối hợp các
phơng pháp dạy học khác nhau tạo ra một giờ học tích cực trong dạy Tập
làm văn miệng.

ở lớp 4, 5 hiện nay khi dạy ngời ta chú trọng đến cách tìm ý, lập
dàn bài và lập nói. Đặc biệt chú ý trong dựng đoạn và liên kết đoạn để
chuẩn bị tốt cho bài viết ở tiết sau. Mặt khác còn yêu cầu cao ở tính mạch
lạc, chặt chẽ, trong sáng và có xúc cảm.
Nh vậy, với dung lợng và kiến thức, thời gian tổ chức và hớng dẫn
cũng nh phân phối chơng trình Tập làm văn nh đã nói ở trên nếu thông
qua một tiết Tập làm văn miệng có thực hiện đợc nhiệm vụ chính của nó
hay không ? Có giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nói - sản sinh văn bản dới hình thức nói hay không ? Trong khi đó, với thời gian 35 - 40 phút cho
một tiết Tập làm văn miệng liệu có đủ cho việc cá thể hoá trong luyện nói
hay không ? Khi cha tính đến thời gian giành cho nhận xét, đánh giá, sửa
sai của học sinh và giáo viên cho mỗi sản phẩm nói của từng cá nhân.
Mặt khác, qua các đợt thực tế và thực tập s phạm ở các trờng tiểu
học: Hng Dũng A, Trung Đô, Hà Huy Tập B, Cửa Nam A tại Thành phố
Vinh - Tỉnh Nghệ An, chúng tôi thấy rằng: Hiện nay, thực trạng dạy và
học cần phải áp dụng những buớc cải tiến mới về phơng pháp. Đổi mới phơng pháp trong nhìn nhận đánh giá, đổi mới trong nhận thức của mỗi giáo
viên nâng cao hơn nữa chất lợng dạy học Tập làm văn nói chung và Tập
làm văn miệng nói riêng.
Qua tiếp xúc với giáo viên, học sinh và dự giờ thăm lớp, đặc biệt qua
thực tập giảng dạy một số tiết Tập làm văn miệng ở các lớp 3 lớp 4 và lớp
5. Chúng tôi đã ghi chép đầy đủ các sản phẩm của học sinh trong tiết Tập
làm văn miệng. Đặc biệt khảo sát kỹ một số bài nói của học sinh lớp 4, 5
chúng tôi nhận thấy rằng: Kết quả của bài luyện nói cha phản ánh thực
chất quá trình luyện nói của các em học sinh. Mà các bài nói của các em
chỉ là những sản phẩm chép lại, đọc lại bài viết đã chuẩn bị sẵn ở giấy
nháp giống nh trình bày một bài học thuộc lòng. Vậy đây có phải là một
giờ luyện nói theo đúng nghĩa của nó hay không ? hay chỉ là một bài tập
học thuộc lòng" của học sinh.
Thực tế lên lớp của một tiết Tập làm văn miệng hiện nay rất cứng
nhắc. Giáo viên tiến hành nh sau: Kiểm tra tình hình chuẩn bị bài của
một số học sinh. Học sinh tự bổ sung dàn ý. học sinh trình bày bố cục của

một bài văn một số học sinh nhận xét chung chung giáo viên nhận xét bổ
sung nhng rất hời hợt cha đa ra phơng pháp giải quyết thích hợp với tiến
trình đi nh vậy thì bài luyện nói trong giờ học Tập làm văn miệng hiệu
quả rất thấp, giờ học không sôi nổi, sinh động. Công việc mà một số học
sinh làm chỉ mới đơn thuần là trả lời các câu hỏi và đọc lại bài viết một
cách máy móc, chứ không phải các em độc lập suy nghĩ, chủ động trình
bày một bài văn nói sáng tạo, tự tin vào khả năng của mình. Cách tổ chức
7


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

lên lớp, phân chia thời gian chứng tỏ giáo viên cha xác định rõ đặc trng,
tính chất và nhiệm vụ cơ bản trong dạy Tập làm văn miệng.
Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy rằng, công việc đọc lại bài văn nó chỉ
dành riêng cho những em bạo dạn trong lớp. Nhng hầu hết các bài đọc có
giọng văn gần giống nhau. Các câu văn cha chặt chẽ về nội dung, cha có
chất sáng tạo ở trong đó: Từ cách dùng từ đặt câu ngắt nghỉ câu cho đến
cách diễn đạt ý trong câu, trong đoạn. Cách trình bày bài nói của học sinh
còn ê a, ngắc ngử nhiều lần trong câu, nhiều câu trong đoạn, bởi bản thân
các em cha phân biệt đợc đâu là câu là đoạn để ngừng nghỉ thì dẫn đến
cách trình bày nội dung rất rờm rà, khó hiểu. Bên cạnh đó, cách sử dụng
từ ngữ của học sinh trong văn bản nói còn mang nặng sắc thái viết, cha
nhặt lợm đợc những gì là đặc trng cho văn nói. Đặc biệt trong thể loại văn
kể chuyện lại càng không có sức hấp dẫn lôi cuốn. Khó tìm thấy ở các em
cách diễn đạt phi ngôn ngữ: cử chỉ, điệu bộ sắc thái ... có chăng chỉ biểu
hiện của sắc thái nói: dùng ngôn ngữ âm thanh, không cầm sách nhìn
sách để đọc lại. Nhng yêu cầu của dạy Tập làm văn miệng đâu phải chỉ

dừng lại ở đó.
Với t cách là một giáo viên giảng dạy Tiểu học trong tơng lai. Chúng
tôi không thể không quan tâm đến vấn đề dạy học hiện nay. Đặc biệt là
trong đổi mới các phơng pháp và hình thức tổ chức dạy học nói chung và
dạy Tập làm văn miệng nói riêng. Với mong muốn làm thế nào để nâng
cao hiệu quả dạy Tập làm văn miệng. Góp phần rèn luyện kỹ năng nói cho
học sinh. Giúp các em có một khả năng giao tiếp tốt trong học tập và trong
các mối quan hệ xã hội.
II- Mục đích nghiên cứu

Thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm mục đích:
- Giúp cho giáo viên tiểu học hiểu rõ về đặc trng, tính chất và nhiệm
vụ cơ bản của dạy Tập làm văn miệng.
- Bồi dỡng và phát huy các phẩm chất và năng lực cần có của học
sinh trong quá trình luyện nói. Nâng cao hơn nữa khả năng diễn đạt lời nói
của học sinh. Hình thành ở các em khả năng giao tiếp tốt sau khi ra đời.
- Góp phần bổ sung về mặt lý thuyết về phơng pháp dạy Tập làm
văn miệng trong dạy học tiểu học. Nâng cao hơn nữa trình độ hiểu biết
của mình trong hình thức giao tiếp bằng lời nói.
III- Đối tợng nghiên cứu.

- Hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh qua các tiết Tập làm
văn miệng với các kiểu bài cụ thể:
Miêu tả
Tờng thuật
8


Luận Văn tốt nghiệp


Nguyễn Thị Tâm

Kể chuyện
Thuật chuyện
Viết th.
- Những đặc điểm của học sinh trong quá trình luyện nói và hình
thành kỹ năng nói - giao tiếp.
- Nội dung sách giáo khoa Tiếng Việt - Tập làm văn tiểu học chơng
trình 165 tuần và những sản phẩm nói của học sinh thông qua tiết Tập
làm văn miệng.
IV- nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu về vai trò giao tiếp bằng lời nói trong cuộc sống hàng
ngày và trong học tập.
- Nghiên cứu khả năng sử dụng lời nói của học sinh và thực trạng
dạy học Tập làm văn miệng hiện nay ở Tiểu học.
- Nghiên cứu những phẩm chất cần có của học sinh trong quá trình
rèn luyện kỹ năng nói.
- Thông qua giảng dạy, dự giờ, tiếp xúc trực tiếp với giáo viên học
sinh, có những nhận định về những tồn tại của học sinh và giáo viên trong
dạy - học Tập làm văn miệng.
V- Phơng pháp nghiên cứu

Phơng pháp nghiên cứu chủ yếu là tài liệu và sản phẩm hoạt động
s phạm hiện nay. Chúng tôi nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến việc
dạy học giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nói. Nghiên cứu và đánh giá một
số sản phẩm nói của học sinh qua dự giờ các tiết Tập làm văn miệng ở lớp
3, 4 và 5.
- Phơng pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết:
Tổng hợp các lý thuyết về dạy Tập làm văn: Lý thuyết hoạt động lời

nói, lý thuyết dạy học và phơng pháp dạy học. Đồng thời khái quát lên
thành những biện pháp tích cực trong dạy Tập làm văn miệng cho học
sinh tiểu học.
- Phơng pháp điều tra: Bằng trắc nghiệm test ở phiếu, điều tra về
khả năng nhận thức của giáo viên tiểu học trong dạy Tập làm văn miệng.
- Phơng pháp giả thuyết.
Chúng tôi đa ra một số phơng pháp rà và biện pháp dạy học vào quá
trình lên lớp Tập làm văn miệng để nâng cao hiệu quả quá trình luyện nói
cho học sinh.
- Phơng pháp đánh giá thực nghiệm.
9


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

Trên cơ sở lý thuyết về phơng pháp. Chúng tôi đã thiết kế một số
giáo án và dạy thực nghiệm ở các lớp 3, 4 và 5. Qua đó đánh giá kết quả
đạt đợc bằng xác xuất % để nhận định chiều hớng của quá trình luyện nói.
VI- Giả thuyết khoa học.

Dạy Tập làm văn miệng Tiểu học nếu nh giáo viên biết thiết lập đợc
mối quan hệ chặt chẽ giữa các tiết miệng, tiết viết bài. Cùng với việc tổ
chức tốt quá trình chuẩn bị: tìm hiểu đề, lập dàn ý và tổ chức giao tiếp tốt,
tạo mối quan hệ hiểu biết thông qua hoạt động song phơng giữa thầy cô và
trò thì sẽ đạt hiệu quả cao trong luyện tập kỹ năng nói. Đồng thời giáo
viên nắm chắc các đặc điểm tâm lý của học sinh trong luyện nói thì sẽ
kích thích và khơi dậy những phẩm chất và năng lực của các em trong
giao tiếp bằng lời nói.

VII- Lịch sử vấn đề.

Phơng pháp dạy Tập làm văn ở Tiểu học là một trong những vấn đề
đợc nhiều nhà s phạm và nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm. Song cho
đến nay cha có một công trình nghiên cứu nào đặc biệt đi sâu những phơng pháp giúp học sinh rèn luyện kỹ năng nói thông qua tiết Tập làm văn
miệng.
Tuy nhiên, có một số sách đã đề cập đến việc luyện nói nhng trong
dạy Tập làm văn miệng những rất ít và cha thực sự chú trọng. Chỉ nhắc
đến vấn đề tập nói những ngôn bản theo một đề tài cụ thể để chuẩn bị tốt
cho tiết viết bài. Cha có cuốn sách nào nhấn mạnh đến vai trò ý nghĩa của
luyện nói trong Tập làm văn miệng đối với khả năng giao tiếp bằng lời nói
của học sinh trong học tập cũng nh sau khi ra đời. Họ cha đa ra những
phơng pháp cụ thể trong dạy học Tập làm văn miệng cũng nh tiến trình
lên lớp cụ thể cho một tiết Tập làm văn miệng; có chăng chỉ là cách nói
chung chung cha chỉ ra đợc một cách cụ thể những vấn đề cần giải quyết
để nâng cao hiệu quả luyện nói.
1. Phơng pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học (8)
Tác giả đã chia cuốn sách này thành hai nội dung:
Phần I:

Bàn về vấn đề chung của phơng pháp dạy học Tiếng
Việt ở tiểu học.

Phần II:

Đi sâu vào nghiên cứu phơng pháp dạy học các phân
môn cụ thể.

Cuốn sách này giành một phần rất nhỏ cho vấn đề dath Tập làm
văn đặc biệt vấn đề tập mới cho học sinh tác giả cha chú trọng vào việc

rèn luyện kỹ năng nói khả năng diễn đạt lời nói cũng nh vai trò của lời nói
trong giao tiếp.
2. Phơng pháp dạy học Tiếng Việt (7)
10


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

Cũng trình bày gộp các phơng pháp chung trong dạy học từng phân
môn. Đi sâu vào một số vấn đề chung của dạy học các kiểu bài văn ở tiểu
học: Miêu tả, tờng thuật ... cha đề cập đến phơng pháp rèn luyện kỹ năng
giao tiếp của học sinh trong trong Tập làm văn miệng. Cha nhắc đến dạy
Tập làm văn miệng miệng nh thế nào ? và mục đích của nó ra sao ?
3. Phơng pháp dạy học Tập làm văn (11).
Là cuốn sách đi sâu nghiên cứu dạy Tập làm văn ở tiểu học với
những kiểu bài cụ thể và những ví dụ minh hoạ cụ thể cho một bài viết.
Nhng tác giả cha đa ra một tiến trình chung cho giờ lên lớp Tập làm văn
miệng. Cha tìm ra những những phẩm chất cần thiết của học sinh trong
luyện nói chỉ trình bày sơ qua phần luyện nói cho học sinh lớp 3. Cha nhắc
đến những biện pháp rèn luyện kỹ năng nói do học sinh lớp 4, 5 tác giả chỉ
mới đánh giá sơ bộ về thực trạng dạy học nói chung của giáo viên và học
sinh lớp 3.
4. Phơng pháp dạy học Tiếng Việt (1).
Cuốn sách này nhằm phục vụ cho sinh viên khoa tiểu học. ở phần
phơng pháp dạy Tập làm văn, các tác giả đã gộp các thể loại văn không
phân biệt các kiểu bài ở lớp 2, 3 lhác 4, 5. Do vậy phơng pháp rèn luyện kỹ
năng nói không qua Tập làm văn miệng không đợc bàn kỹ mà chỉ nêu lên
một phần nhỏ cách tìm ý, làm dàn bài tiết miệng, tiết viết, tiết trả bài một

cách chung chung cha đề cập đến cách thức tổ chức cơ bản của giáo viên
và năng lực cần phát huy ở học sinh trong dạy học Tập làm văn miệng.
5. Rèn luyện kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (9)
Đây là một cuốn sách có chú trọng đến hệ thống kỹ năng: nghe đọc,
nói viết của học sinh. Nhng là những vấn đề chung mà tác giả đa ra chứ
không phải đi liền với quá trình dạy Tập làm văn miệng cũng nh trong
phân môn Tập làm văn nói chung.
Nh vậy, vấn đề rèn luyện kỹ năng sử dụng Tiếng Việt thông qua
phân môn Tập làm văn và tiết Tập làm văn miệng ở Tiểu học là một vấn
đề còn bỏ ngõ. Việc tìm ra các phơng pháp dạy học, biện pháp thích hợp
giúp học sinh rèn luyện kỷ năng nói tốt hơn, để biến quá trình luyện nói
thành một nhu cầu giao tiếp trong môi trờng học tập của học sinh. Góp
phần nâng cao hơn nữa chất lợng dạy học Tập làm văn nói chung và dạy
tiết Tập làm văn miệng nói riêng phù hợp với mỗi giai đoạn của học sinh
Tiểu học.

11


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

b- nội dung
Chơng I:

Tìm hiểu khả năng diễn đạt lời nói của học sinh tiểu học
qua các tiết Tập làm văn miệng.
Trong cuộc sống nhu cầu nói của con ngời không thể thiếu đợc. Trừ
những ngời câm, họ không có khả năng phát âm mà chỉ dùng cử chỉ tay

chân để diễn đạt lời nói ý định nói của mình cho ngời nghe thấy và hiểu.
Còn đối với những ngời nói đợc, không đơn thuần là phát âm đúng mà
phải rèn luyện kỹ năng nói của mình qua học tập và thực tế cuộc sống.
Việc rèn luyện kỹ năng nói của mình qua học tập và thực tế cuộc sống.
Việc rèn luyện kỹ năng nói trong Tập làm văn miệng là quá trình thể hiện
khả năng diễn đạt lời nói của học sinh trên những ngôn bản hoàn chỉnh,
trọn vẹn về hình thức và nội dung, thể hiện những hiểu biết của mình vì
một chủ đề một nội dung nhất định.
I- Quá trình rèn luyện kỹ năng nói.

Nói là một hoạt động của con ngời có đợc qua quá trình lao động sản
xuất cùng với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài ngời. Cho nên,
hoạt động nói năng trải qua quá trình rèn luyện và ở những môi trờng
khác nhau của con ngời.

1. Luyện nói trong đời sống hàng ngày.
Từ khi con ngời biết nói, thì nói là một hoạt động mang tính chất
loài và có ngôn ngữ riêng của từng dân tộc. Do đó, đặt ra vấn đề giao tiếp
bằng ngôn ngữ. Nói để đáp ứng nhu cầu trong các mối quan hệ xã hội,
trong cộng đồng ngời. Từ đó nó đợc xác định là một kỹ năng, cho nên con
ngời không ngừng rèn luyện kỹ năng đó.
Quá trình rèn luyện kỹ năng nói không chỉ đơn thuần là rèn luyện
cách phát âm đúng chuẩn các võ vật chất âm thanh. Mà nói nh thế nào ?
nói cách gì ? Để ngời nghe hiểu đợc mình nói và thể hiện đợc những hiểu
biết của mình về xã hội. Cũng có thể là mẹ dạy con tập nói từ những ngày
chập chững biết đi, bằng những tiếng bi bô cho đến khi đi học. Cô giáo rèn
luyện cho các em cách nói đúng câu, ngắt nghỉ đúng chỗ, có cao độ và trờng độ, nói hay đầy đủ và chính xác diễn đạt trọn vẹn ý rõ ràng để hiểu
nói tự nhiên độc lập sáng tạo... đó là cái đích của quá trình luyện nói. Nói
thể hiện qua nhiều hình thức với nhiều nghi thức khác nhau phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh và mục đích giao tiếp. Ví dụ: cũng là hình thức đàm

thoại nhng với mục đích khác nhau thì có các nghi thức khác nhau. Hoặc
cũng là độc thoại nhng với mỗi ngời có nội tâm riêng và thể hiện nội dung
riêng phù hợp với mục đích riêng. Và cũng có thể cùng một nghi thức chào
hỏi, xng hô, làm quen, yêu cầu... Nhng ở các độ tuổi khác nhau có cách xng
12


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

hô khác nhau. Nói nh vậy để chứng tỏ hoạt động nói năng rất đa dạng và
phong phú.
Ví dụ: Trong đoạn hội thoại sau đây ta có thể xác định ngay đâu là
ngời nói, đâu là ngời nghe và hiểu ra ngay nội dung cuộc đàm thoại.
- Mai, Bố cháu có nhà không?
- Tha bác, bố cháu đi rồi ạ!
- Bố về nhà cháu nói với bố là bác đến chơi nhng bố không có nhà nhé !
- Vâng ạ!
Nhng cũng có những cuộc đàm thoại mà ngời nghe không hiểu gì và
có thể hiểu ra nhng nó không đúng với nghi thức của nó. Ví dụ:
- Tha cụ ! "Vợ" cụ có nhà không cụ!
Do đó luôn đặt ra vấn đề rèn luyện kỹ năng nói.
Rèn luyện kỹ năng nói là một yêu cầu luôn đặt ra với mỗi ngời xã
hội. Từ xa xa ông cha ta đã rút ra biết bao câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ,
châm ngôn... để khuyên bảo mọi ngời về việc sử dụng lời nói trong giao
tiếp. Thể hiện lời nói trong giao tiếp cũng là thể hiện văn hoá ứng xử
trong cuộc sống con ngời.
Ví dụ: Câu tục ngữ "Ăn có nhai, nói có nghĩ" trớc khi nói ra một điều
phải suy nghĩ xem mình nói gì ? nói nh thế nào? nói nh vậy ngời nghe có

hiểu không ? và họ sẽ hiểu ý mình định nói không ?... Không nên ăn nói
cẩu thả, thích gì nói đó, ngời ta gọi: "Ăn không nên đọi, nói không lên lời".
Nói nh thế nào cho thuyết phục lòng ngời "Lời nói chẳng mất tiền mua,
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Do vậy mà phải "Học ăn học nói, học
gói học mở"...
Nh vậy, quá trình rèn luyện kỹ năng nói theo đúng nghĩa của nó là
một quá trình lâu dài. Nó đặt ra trong mỗi thời đại với tất cả mọi ngời.

2. Luyện nói trong dạy học.
Ngay nay, khi xã hội càng phát triển. Các mối quan hệ ngày càng
phong phú. Cho nên yêu cầu giao tiếp bằng lời nói ngày một nâng cao,
luyện nói không chỉ dành riêng cho các nhà hùng biện các nhà chính trị
xã hội, ngoại giao, các phóng viên hay phát thanh viên mà ngay cả các
nhà giáo hay những con ngời bình thờng khác cũng đòi hỏi một khả năng
giao tiếp nhất định. Cho nên việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh tiểu
học đã đợc đặt ra ngay từ những ngày đầu đến lớp. Bởi vì nói là một hoạt
động giúp học sinh giao tiếp và t duy trong suốt quá trình học tập và lao
động của các em.
Đối với nghề giáo viên lời nói là một công cụ để dạy học và giáo dục.
Giáo viên phải tiếp xúc với học sinh. Cha mẹ học sinh, bạn bè, đồng
nghiệp và tất cả mọi ngời trong cộng đồng xã hội. Mỗi buổi lên lớp giáo
13


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

viên phải nói để trình bày bài giảng của mình cho học sinh hiểu. Để đánh
giá nhận xét tính đa dạng năng lực của học sinh. Nói để tổ chức điều

khiển lớp hoạt động tích cực... Do đó có thể khẳng định rằng, hiệu quả của
việc dạy học ngoài việc phụ thuộc vào trình độ chuyên môn và nghiệp vụ
còn phù thuộc vào năng lực giao tiếp của mỗi giáo viên.
Rèn luyện kỹ năng nói đối với giáo viên không chỉ đơn thuần là
luyện nói mà nó còn là một năng lực nghiệp vụ s phạm cần có. Khi đó có
thể đặt vấn đề rằng, mỗi giáo viên sẽ giúp học sinh rèn luyện tốt kỹ năng
giao tiếp nói chung và khía cạnh nói nói riêng. ở tiểu học thông qua chín
môn học ít nhiều đều góp phần giúp các em rèn luyện kỹ năng nói của
mình. Đối với môn Tiếng Việt ngay từ buổi đầu tiên các em đã làm quen
với phân môn học vấn đề phát âm đúng ngôn ngữ mẹ để và hiểu từ. Sau
đó các em đợc làm quen dần với tập đọc, học thuộc lòng đều tập trung diễn
đạt lời nói theo cách hiểu của mình một cách có hệ thống có bố cục. Tập
làm văn giúp các em luyện nói, những ngôn bản trọn vẹn, có cảm xúc. Các
em luyện nói đúng nghi thức, phong cách qua ngữ pháp. Rèn nói nó thể
hiện cách hiểu qua từ, ngữ, câu... thể hiện qua các môn học khác, Toán,
Tự nhiên xã hội, Mỹ thuật, Hát nhạc,... luyện cho học sinh nói đúng chính
xác các ngôn ngữ thuộc khoa học nghiên cứu các môn học đó. Đáng chú ý
hơn cả là phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Đây là
điều kiện tốt để học sinh rèn nói tốt với ngôn bản đầu tiên hoàn chỉnh.
Việc luyện nói thông qua Tập làm văn miệng chỉ là một điều kiện cơ
sở cho việc phát triển năng lực giao tiếp. Tuy nhiên đây là bớc đầu tiên
học sinh đợc tham gia thực hành giao tiếp . Từ lớp 2 phân môn Tập làm
văn cha có tiết Tập làm văn miệng. Nhng với hình thức làm gộp trong một
tiết với thời gian trong 35 - 40 phút vừa tổ chức cho học sinh làm miệng
vừa tổ chức cho học sinh làm bài viết. ở lớp 2 hình thức làm miệng chỉ
giúp học sinh hiểu từ điền vào câu. Trả lời câu hỏi trong bài tập đọc hoặc
dùng từ để đặt câu. Do đó luyện nói cho học sinh chỉ là khâu vấn đáp
thông thờng, với những câu đúng"Nói viết phải thành câu, không thành
câu ngời khác không hiểu" khi đến tuần thứ năm của lớp 3 trở đi cứ mỗi
đề bài học sinh phải trả qua tiết làm miệng. Đây là điều kiện để giáo viên

và học sinh cùng giao tiếp bằng lời nói. Giáo viên có thể nhận thấy những
thông tin ngợc từ học sinh. Và học sinh có điều kiện học hỏi dới sự uốn
nắn chỉ bảo của giáo viên. Từ đó giáo viên đề ra những biện pháp khác
nhau trong luyện nói.
Qua mỗi tiết Tập làm văn miệng học sinh có điều kiện để nói từ nói
đúng , nói đủ đến nói hay, độc lập và sáng tạo... tất cả đều phụ thuộc vào
cách tổ chức điều khiển, hứng dẫn của giáo viên. Ngời thiết kế tổ chức
hoạt động giao tiếp trong dạy Tập làm văn miệng là ngời linh hoạt biết
vận dụng lý thuyết hoạt động lời nói vào trong dạy học; sử dụng phối hợp
các phơng pháp dạy học khi lên lớp... đồng thời thông qua Tập làm văn
miệng bồi dỡng học sinh tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc, hớng các em
14


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

tích luỹ vốn hiểu biết về mọi mặt và kiên trì tập luyện kỹ năng nói, thể
hiện những ngôn bản hoàn chỉnh.
Tóm lại, quá trình rèn luyện kỹ năng nói là một quá trình lâu dài,
nó phụ thuộc rất nhiều yếu tố: năng lực, phẩm chất của ngời nói, môi trờng sống và giao tiếp, môi trờng học tập. Tuy nhiên, trong học tập là một
môi trờng tốt cho việc rèn luyện các kỹ năng mới. Khả năng diễn đạt lời
nói của mỗi học sinh còn phụ thuộc vào năng lực tổ chức hoạt động giao
tiếp bằng lời nói của giáo viên, bởi lẽ nói chính là công cụ để ứng xử, giao
tiếp trong cuộc sống con ngời.
II- vấn đề luyện nói trong Tập làm văn miệng.

Rèn luyện kỹ năng nói là một hoạt động diễn ra trong suốt quá
trình sống và phát triển của con ngời. Rèn nói trong cuộc sống hàng ngày,

trong tất cả các môn học, diễn ra trong mọi tiết học ở tiểu học, môn học
rèn luyện kỹ năng sử dụng Tiếng việt nói chung và rèn kỹ năng nói nói
riêng là môn Tiếng Việt.
Tiếng việt là môn học giúp học sinh giao tiếp bằng lời nói tốt trên
ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Do vậy rèn nói tốt trong Tiếng Việt là tạo điều
kiện thuận lợi để tiếp thu kiến thức của các môn học khác. Nâng cao năng
lực t duy và thúc đẩy phát triển các kỹ năng khác...

1. Điểm qua quá trình rèn luyện kỹ năng nói trong Tập làm văn
miệng ở tiểu học.
Với hình thức lên lớp của một tiết Tập làm văn miệng không chỉ là
cơ sở chuẩn bị tốt cho một bài viết hoàn chỉnh và có chất lợng cao. Bên
cạnh đó Tập làm văn miệng còn thực hiện nhiệm vụ cơ bản: Phát triển và
rèn luyện kỹ năng nói, phát triển phong cách khẩu ngữ. Ngoài ra rèn
luyện cho học sinh cách nói trớc đám đông một cách độc lập sáng tạo, chủ
động tự tin và bạo dạn với những cử chỉ điệu bộ đặc trng cho phong cách
nói... theo một chủ đề, một đề tài cụ thể cho trớc. Tất cả những hoạt động
đó đều thể hiện khả năng diễn đạt lời nói của học sinh.
Chơng trình Tập làm văn ở tiểu học đợc bắt đầu từ lớp 2 với các kiểu
bài: điền từ, dùng từ đặt câu, trả lời câu hỏi theo nội dung bài tập đọc. Mỗi
tuần có một tiết Tập làm văn vừa là làm miệng vừa làm bài viết. Tr ớc khi
học sinh viết bài, giáo viên tổ chức hớng dẫn học sinh làm bài miệng. Học
sinh có điều kiện rèn luyện kỹ năng nói thông qua việc trả lời các câu hỏi
giáo viên đa ra và cũng có thể là đọc hiểu câu hỏi, nhận xét cách trả lời
của bạn, yêu cầu học sinh trả lời đúng, đầy đủ câu - hay có sử dụng từ ngữ
sáng tạo.
Ví dụ: Trả lời câu hỏi: Đề bài: Phong cảnh đền Hùng.
1. Đền Thợng nằm ở đâu ? Lăng của các Vua Hùng nằm ở đâu ?
2. Trớc đền có gì đẹp ?
15



Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

3. Đứng trên đỉnh Nghĩa Cơng nhìn ra các phía, ta thấy gì ?
Giáo viên chỉ nêu các câu hỏi học sinh lần lợt trả lời.
Ví dụ: Câu 1: Đền Thợng nằm ở chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Cơng.
Đây là một câu trả lời đúng nhng cha sáng tạo. Mà phải trả lời Đền Thợng
nằm cao tít trên đỉnh núi Nghĩa Cơng. Học sinh đã biết sử dụng từ gần
nghĩa thể hiện cách hiểu từ cùng nghĩa. Cao tít = chót vót. Đó là cách nói
đúng, đủ, sáng tạo.
Sau khi hớng dẫn học sinh làm bài viết. Nh vậy, ta thấy rằng việc
hình thành một tiết Tập làm văn miệng cha rõ ràng nhng đây là cơ sở,
tiền đề để học sinh rèn luyện kỹ năng nói đúng, đủ độc lập và sáng tạo
hơn.
Cơ sở tiền đề của Tập làm văn miệng kép dài đến tuần thứ năm của
lớp 3 thì đã đợc hình thành. Cứ mỗi đề bài có 2 tiết: Làm miệng và làm
viết. Những thể loại văn khác nhau từ lớp 3 đến lớp 5 đều quen thuộc và
gần gũi với các em: Trả lời câu hỏi. Quan sát đồ vật, cây cối, con vật. Kể
lại câu chuyện đơn giản đã làm, đã chứng kiến. ở lớp 4, 5 mức độ khái
quát đã đề ra và yêu cầu tổng hợp từng thể loại: miêu tả, tờng thuật, viết
th, kể chuyện, thuật chuyện, đơn từ...
Trong Tập làm văn miệng giúp học sinh tìm hiểu đề, lập dàn bài chi
tiết cho một đề bài cụ thể, tổ chức luyện nói cho học sinh. Tuy nhiên khâu
chú trọng vẫn là tổ chức giao tiếp để rèn luyện kỹ năng nói. ở lớp 3 trong
tiết Tập làm văn miệng, học sinh sẽ luyện nói dựa vào những câu hỏi hoặc
bố cục có sẵn của một bài văn. Phần mở đầu có những câu hỏi nào, phần
thân bài hay kết luận có những câu hỏi nào. Dựa vào gợi ý để trả lời hoàn

chỉnh thành một bài văn, có bố cục hoàn chỉnh rõ ràng.
Ví dụ: Đề bài: Quan sát cây hoa ở trờng em (hoặc ở nhà)
Học sinh quan sát và trả lời theo những gợi ý của 4 câu hỏi sau:
Câu 1: Cây hoa đó là cây gì ? Cây trồng ở đâu ?)
Câu 2: Cây có đặc điểm gì ? (Thân, cành lá...)
Câu 3: Các bông hoa trên cây đẹp nh thế nào? (màu sắc của cánh
hoa, nhị hoa, hơng thơm của hoa...)
Câu 4: Em đã chăm sóc và bảo vệ cây hoa nh thế nào?
Khi trình bày bài miệng, giáo viên hớng dẫn học sinh vào cách nói
đầy đủ bố cục của một bài văn. Nội dung mở bài sẽ là câu trả lời của câu 1,
thân bài câu 2 và 3, kết luận câu 4- Qua các câu hỏi mỗi học sinh sẽ có
một cây hoa theo quan sát riêng của mình. Do vậy những bài nói rất
phong phú và đa dạng. Giáo viên tạo mọi điều kiện có thể cho học sinh nói
thông qua trả lời từng câu hỏi một hoặc trình bày từng phần từng đoạn
trong bố cục một bài văn, toàn bộ bài văn hoàn chỉnh.
16


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

Bài viết của học sinh là kết quả phán ánh bài làm miệng và bài làm
miệng là thể hiện sự hiểu biết cuả học sinh khi học một kiểu bài văn.
Nghiên cứu một đề ra cụ thể là phản ánh qua kết quả và sản phẩm nói,
viết của các em. Vậy tiết Tập làm văn miệng vừa là "sản phẩm" vừa là
"nguyên liệu" để học sinh cho ra đời những bài viết hay và sáng tạo.
Khả năng khái quát và yêu cầu luyện nói cao hơn là ở các lớp 4, 5.
Bởi yêu cầu của những thể loại: miêu tả tờng thuật kể chuyện ... đều
mang tính khái quát và tổng hợp. Để học sinh nói tốt trong bài làm miệng:

giờ đây không phải là những câu hỏi khô khan, đơn thuần và cụ thể nữa,
mà là những gợi ý mang tính chất định hớng các bớc đi trong từng bố cục
bài văn.
Ví dụ: Tả con vật, tả con mèo.
Mở bài: Giới thiệu con mèo của ai ? nuôi từ bao giờ? tên nó là gì?
Thân bài: Tả hình dáng và đặc điểm con mèo...?
Kết luận: Tình cảm của con ngời đối với con mèo ra sao?...
Để nói một cách đầy đủ theo gợi ý trên, không những học sinh phải
rèn luyện kỹ năng t duy sáng tạo , óc quan sát tinh tế đòi hỏi phải huy
động vốn hiểu biết thực tế cuộc sống. Đồng thời học sinh biết vận dụng
linh hoạt bối cảnh thời gian và không gian sống động có hồn chứ không
chỉ đơn thuần là tả riêng một con mèo tách biệt. Mặc khác huy động trí t ởng tợng cùng với những cảm xúc sáng tạo riêng của mình.
Ví dụ: Tả cảnh sinh hoạt. Đề bài: Tả cảnh nhộn nhịp trong giờ ra
chơi ở sân trờng. Thông qua tiết Tập làm văn miệng, học sinh tìm hiểu để
quan sát, làm dàn bài chi tiết và trình bày bằng ngôn ngữ nói bài làm của
mình.
Để chuẩn bị tốt trong bài làm miệng. Trớc hết học sinh cần đọc kỹ
đề bài, gạch chân dới những từ quan trọng suy nghĩ, tìm hiểu: Quan sát
trực tiếp trên sân trờng cùng với quan sát tranh, tởng tợng những hình
ảnh sinh động. Sau đó ghi ra nháp những gì tìm hiểu đợc... dựa vào những
kết quả quan sát để làm bài chi tiết vào vở, có nh vậy mới trình bày bài
nói một cách đầy đủ.
Ví dụ: Khi nói học sinh cần dựa vào dàn bài chung sau đây.
Đây là một "công thức" ghi nhớ cho học sinh trớc khi rèn luyện kỹ
năng trình bày một bài văn hoàn chỉnh bằng ngôn ngữ nói.
Mở bài:

Giới thiệu địa điểm thời gian diễn ra cảnh sinh hoạt

Thân bài: - Tả những nét chính bao quát khi thoạt nhìn cảnh.

- Tả những hoạt động của ngời trong cảnh.
- Hoạt động của vài cá nhân tiêu biểu, cần tả khung cảnh xen lẫn
với hoạt động của con ngời....
17


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

Kết luận: Cảm nghĩ về cảnh đã tả.
Những dàn ý chỉ mang tính định hớng tơng đối. Học sinh có thể lập
riêng cho mình một dàn ý miễn là hợp lý, đầy đủ bố cục trọng tâm của chủ
đề miêu tả. Khi một bài văn hoàn chỉnh đợc đọc lên, ngời nghe có thể hình
dung ra một bức tranh toàn cảnh sinh hoạt, những hình ảnh màu sắc âm
thanh ... về hoạt động của con ngời vạn vật trong cùng một thời gian,
không gian địa điểm cụ thể nào đó.
Tuy nhiên với thời gian 35 - 40 phút cho một tiết Tập làm văn
miệng ở lớp 4, 5 không thể đủ cho 100% học sinh một lớp (30 - 40 học sinh)
đều có thể trình bày bài nói của mình một cách trọn vẹn. Có thể là trong
tiết làm miệng có khoảng 5 - 10 học sinh trình bày một cách tơng đối đầy
đủ, ngắn gọn theo cách gợi ý chi tiết.
Ví dụ: Quan sát. Đề bài:
Giáo viên phát vấn :

Con gà trống

Câu 1 : Con gà trống của ai nuôi ?

Học sinh A nói: Con gà trống của nhà bạn Minh ở bên cạnh nhà em

nuôi từ lâu, có cả đàn gà.
Học sinh B nhận xét: Đúng, đủ, hay sáng tạo cha ? Hãy nêu cách
quan sát con gà của mình.
- Nhà em có nuôi một con gà trống.
- Con gà này là món qua trung thu năm ngoái của bà ngoại em. Nó
sống cùng với cậu mái Mơ.
Nh vậy, những bài nói tiếp theo đợc bổ sung và hoàn thiện qua
nhiều ý kiến khác nhau của học sinh. Nhìn chung yêu cầu của tiết Tập
làm văn miệng học sinh hoạt động càng nhiều càng tốt. Giáo viên chỉ là
ngời tổ chức hớng dẫn điều khiển nhận xét bổ sung cách nói của học sinh.
Yêu cầu học sinh nói đúng theo một yêu cầu cụ thể. Nói đầy đủ bài văn có
bố cục ba phần. Ngoài ra đòi hỏi các nói độc lập sáng tạo của học sinh trớc
một đề bài cụ thể. Bởi hiện nay, năng lực sáng tạo và cảm xúc văn chơng
của học sinh rất kém. Tình trạng sử dụng các bài văn mẫu rất cứng nhắc
và khuôn sáo, những bài văn có tính chất tham khảo ấy đợc các em đọc lên
nghe rất ráo rỗng rập khuôn, không chứa đựng yếu tố tình cảm của một
học sinh tiểu học.
Tóm lại, quá trình rèn luyện kỹ năng nói trong Tập làm văn miệng ở
tiểu học yêu cầu khác nhau ở các giai đoạn khác nhau điều quan trọng là
trong mỗi giáo viên tiểu học phải xác định đặc trng cơ bản của Tập làm
văn miệng. Làm cơ sở đánh giá năng lực giao tiếp của học sinh từ đó tổ
chức tốt quá trình rèn luyện kỹ năng nói.

2. Đặc trng cơ bản của Tập làm văn miệng.
2.1. Thông qua tiết làm văn miệng để đạt mục đích.
18


Luận Văn tốt nghiệp


Nguyễn Thị Tâm

a) Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh theo yêu cầu đề ra ở môn
Tiếng Việt . Từ mức độ thấp nhất nh: Phát âm đúng, dùng từ ngữ chính
xác, câu đúng ngữ pháp... đến mức độ cao, phát biểu ý kiến trình bày nội
dung sao cho rành mạch, rõ ràng làm cho ngời nghe tiếp nhận một cách
tốt nhất; biết sử dụng giọng nói ngữ điệu: cao độ, cờng độ, trờng độ, đến
điệu bộ tính cách diễn tả hỗ trợ nội dung nói.
b) Chuẩn bị trực tiếp hoặc gián tiếp cho bài Tập làm văn viết theo
chơng trình đề ra. Thông thờng mỗi đề bài Tập làm văn ở lớp 4, 5 đều có
tiết Tập làm văn miệng trớc khi học sinh làm bài viết ở lớp. Do đó, nếu đợc
tập nói và rút kinh nghiệm về nói một đoạn hoặc cả bài học sinh sẽ có cơ
sở để viết bài tốt hơn.

2.2. Thông qua tiết dạy Tập làm văn miệng giúp học sinh rèn luyện và
phát triển t duy ngôn ngữ.
Qua trình bày từng ý theo dàn bài đã chuẩn bị, cách diễn đạt suy
nghĩ của học sinh sẽ đợc rèn luyện và ngày càng nâng cao, hành văn của
học sinh ngày càng mạch lạc, trong sáng, trôi chảy hơn. Việc diễn đạt ý cụ
thể trong dàn bài đỏi hỏi học sinh phải tìm tòi sáng tạo, lựa chọn những từ
ngữ, những hình ảnh, chi tiết và lựa chọn cách diễn đạt sinh động hấp
dẫn bằng những lối so sánh liên tởng... Từ đó góp phần phát triển t duy,
trau dồi ngôn ngữ sáng tạo ở học sinh.

2.3. Tập làm văn miệng yêu cầu cụ thể đối với học sinh.
Chú trọng diễn tả đúng đủ, rõ ý bằng lời nói tự nhiên chân thành và
giản dị cha đòi hỏi các em sự trau chuốt bóng bẩy về từ ngữ nh lời văn bài
viết. Do vậy có thể chấp nhận ở học sinh cách dùng từ ngữ thông dụng có
phần nôm na theo phong cách khẩu ngữ. Tuy nhiên ngôn ngữ mà các em
đa vào bài nói không cho phép tiếng lóng, tiếng điạ phơng. Lời văn cha

thật hay nhng diễn đạt đợc ý muốn nói của các em. Học sinh cũng có thể
dùng nhiều câu ngắn gọn hoặc nhiều câu dài có các từ nói thì, là, mà, và,
nhng... kết hợp với ngôn ngữ nhấn giọng, kéo dài, lên xuống hoặc cùng với
những cử chỉ điệu bộ nét mặt... làm tăng sức gợi tả, gợi cảm của câu nói.
Bên cạnh đó yêu cầu hớng dẫn học sinh nói đúng, nói đủ các câu để khi
viết có dấu chấm câu đầy đủ, tình trạng câu kéo dài không thấy dấu chỉ
thấy các quan hệ từ nối liên tục các vế trong đoạn.
Tóm lại, để tiến hành tốt một tiết Tập làm văn miệng ở tiểu học. Trớc hết phải xác định rõ mục đích yêu cầu của tiết học đó, lựa chọn phơng
pháp phù hợp với đặc trng bộ môn. Có thái độ đúng đắn cũng nh năng lực
giao tiếp để tạo môi trờng giao tiếp hiểu biết tin cậy đối với học sinh. Từ
đó học sinh có điều kiện để tập nói các em nói một cách tự tin bạo dạn, có
sáng tạo trong từng ý kiến riêng của mình.
III- Những biểu hiện về khả năng diễn đạt lời nói của học
sinh tiểu học qua các tiết Tập làm văn miệng.

19


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

Trớc hết, phải đề cập đến đối tợng là học sinh tiểu học nên về mặt t
duy - nhận thức cũng nh các đặc điểm tâm sinh lý khác cha phát triển
hoàn thiện. Do đó trong dạy học nói chung và dạy Tập làm văn nói riêng
phải chú trọng khâu tổ chức, hớng dẫn "đánh động" về mặt tâm lý "khơi
dậy" những hiểu biết nhận thức về vốn sống thực tế của học sinh. Quá
trình rèn nói của học sinh chỉ bắt đầu bằng những câu trả lời qua các câu
hỏi gợi ý hoặc những dàn bài chi tiết để trình bày. phù hợp với học sinh
theo từng độ tuổi của lớp học từ lớp 1 đến lớp 5.


1. Thực trạng chung của dạy Tập làm văn miệng.
1.1. Thực trạng dạy và học Tập làm văn miệng ở lớp 3.
Đối với học sinh lớp 3, lần đầu tiên các em làm quen với tiết Tập làm
văn miệng ở tuần thứ 5. Nhng với tiết miệng nó cũng là tiết trả bài viết,
kỳ trớc. Do đó thời gian bị khống chế trong vòng 35 - 40 phút. Đòi hỏi giáo
viên, học sinh phải làm việc "cật lực" mới có thể đảm bảo đầy đủ nội dung
của tiến trình lên lớp.
Đối với giáo viên khi lên lớp 1 tiết Tập làm văn miệng trớc tiên phải
trả bài viết của học sinh. Đánh giá nhận xét bài viết của học sinh, giới
thiệu nội dung bài mới, phát vấn câu hỏi theo đề bài. Học sinh trả lời và
nhận xét. Có thể cho một vài học sinh trình bày hoàn chỉnh đoạn văn
ngắn với các gợi ý trả lời nói trên . Sau đó dặn dò bài làm viết trong tiết
tới. Vậy cách thức tiến hành nh trên theo hình thức lớp bài 30 - 40 học
sinh, sẽ gây ảnh hởng đối với quá trình luyện nói cũng nh kết quả bài nói
của học sinh.
Thứ nhất: Học sinh sẽ phân tán t tởng bởi cách đánh giá, cho điểm,
nhận xét của giáo viên về bài viết trớc. Cho nên chất lợng tiếp thu bài mới
rất thấp do lớp gây ồn ào đồng thời tâm lý bị điểm kém của học sinh tiểu
học đè nặng trong tiết học dẫn đến giờ học buồn, không sôi nổi hào hứng.
Thứ hai: Thời gian không đủ cho học sinh rèn luyện kỹ năng nói một
cách đầy đủ trọn vẹn . Chính vì vậy hầu hết các tiết Tập làm văn miệng
mới chỉ dừng lại cách trình bày từng phần từng ý của nội dung bài văn,
cha trình bày hoàn chỉnh bố cục trọn vẹn. Nh thế thì cha đạt đợc mục đích
chính của Tập làm văn miệng. Bài nói của học sinh thờng khô khan, rời
rạc không mang tính lô gíc chặt chẽ và mạch lạc, cha hấp dẫn ngời nghe
từ các phơng diện: Phong cách, diễn đạt... tất cả những ảnh hởng đó đều
làm giảm hiệu quả của khả năng liên kết bài văn khi viết đồng thời ảnh
hởng đến khả năng giao tiếp bằng lời nói của học sinh sau này: Đó là cách
nói cộc lốc, khó hiểu, không lôgíc mạch lạc khi diễn đạt một vấn đề nào đó.

Thứ ba: Giáo viên cha có khả năng tổ chức cho học sinh, cha tạo ra
nhu cầu giao tiếp và tình huống nói năng. Đặc biệt cha có sự định hớng
nhanh chóng và đúng đắn nội dung giao tiếp. Đồng thời qua dạy học cũng
thấy rằng: Học sinh cha phát huy đợc năng lực giao tiếp và vốn hiểu biết
20


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

hàng ngày của các em. Dạy học cha thực sự đa học sinh vào quá trình rèn
luyện kỹ năng giao tiếp .
ở lớp 3 các kiểu bài: Quan sát đồ vật, con vật, cây cối kiểu bài kể lại

công việc đơn giản đã làm, kể lại câu chuyện đã học đọc, nghe, kể,... với
các đề bài khác nhau. Một thực tế cho thấy rằng các đề bài cha sát thực
với cuộc sống thực tế của học sinh từng điạ phơng đây là một trong những
bất cập dẫn đến bài nói của học sinh thiếu sinh động. Nó thể hiện rõ qua
cách quan sát để miêu tả, hồi tởng để kể chuyện... không chứa đựng yếu tố
"thực" ý diễn đạt rất ráo rỗng.
Ví dụ: Đối với học sinh lớp 3 ở Thành Phố phần lớn các em cha đợc
quan sát thật kỹ con lợn cho nên khi miêu tả những chi tiết thờng "lố
bịch" không thể có đã đợc các em áp đặt, bịa thêm khi miêu tả con lợn.
Hoặc các em đã bao giờ thấy cây chuối tiêu để có thể hồi tởng trong trí
nhớ của mình từ đó có thể khái quát thành ngôn ngữ nói trình bày trớc
lớp. Chính điều đó dẫn đến hiệu quả bài nói không cao, các em ngại nói, sợ
sai trong lúc miêu tả bằng ngôn ngữ hiện thực.
Ví dụ: Trong kể lại câu chuyện đã đợc học hoặc nghe kể hầu hết lỗi
mắc phải của học sinh là nhầm lẫn giữa mở đầu của câu chuyện kể với mở

đầu một bài văn kể chuyện. Cho nên bài nói cũng nh bài viết thiếu bố cục,
trình bày không trọn vẹn và chặt chẽ.
Ví dụ: Trong kể lại việc làm đơn giản đã làm. Nó khác với cách kể
lại câu chuyện đã đọc, đã học hoặc đã nghe, nó đã có bố cục rõ ràng, có
sẵn tình tiết và chi tiết, có sẵn nhân vật và lời văn.
Còn ở thể loại văn này: Tuy kể lại một việc đơn giản đã làm quen
thuộc nhng đối với học sinh phải tự xây dựng bố cục chi tiết tình tiết nhân
vật... hoàn toàn độc lập sáng tạo. Bài làm của học sinh không còn là việc
dựa vào cái có sẵn để gia giảm thêm bớt. Nhng ở học sinh hầu hết các em
cha thực hiện đợc điều đó, Khả năng độc lập sáng tạo cha cao câu chuyện
của các em kể lại là sự liên kết một loạt các gợi ý trả lời câu hỏi xuất xứ
công việc, nội dung công việc và cảm nghĩ hoặc kết quả công việc đã làm.
Những tình tiết của câu chuyện chỉ mang tính chất liệt kê chung cha
phân biệt đợc đâu là việc chính đâu là việc phụ. Mặt khác các sản phẩm
nói tơng tự nhau cha mang sắc thái cụ thể riêng biệt của từng em: từ bố
cục đến việc lựa chọn các ý, từ cách diễn đạt đến tâm t tình cảm của ngời
kể.

1.2. Thực trạng dạy học Tập làm văn miệng ở các lớp 4, 5.
Chơng trình Tập làm văn ở lớp 4, 5 là một bớc phát triển yêu cầu
cao ở học sinh. Lúc này t duy học sinh có khả năng khái quát trừu tợng.
Học sinh nhận thức về thế giới xung quanh đã khác với cách nhận thức ở
giai đoạn trớc. Do vậy, từ nội dung đến phân phối chơng trình cũng nh yêu
cầu kiến thức tiếp thu và kỹ năng rèn luyện cho học sinh ở lớp 4, 5 khác so
21


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm


với lớp 3. Mỗi tuần học 2 tiết Tập Làm Văn, với các kiểu loại khác nhau:
miêu tả, tờng thuật, kể chuyện... ứng với mỗi kiểu bài có nhiều đề bài
khác nhau. Mỗi đề bài đều đợc tiếnh hành qua tiết Tập làm văn miệng kết
quả cuối cùng của dạy Tập làm văn miệng là hiệu quả của những bài văn.
Bài văn hay là bài văn diễn đạt tốt về yêu ầu nội dung nghệ thuật và cảm
xúc. Để học sinh có đợc kết quả nói trên yêu cầu đặt ra mỗi giáo viên phải
chú trọng các khâu cơ bản từ: xây dựng giàn ý, lập dàn ý chi tiết, trao đổi
ý lời văn qua tiết Tập làm văn miệng. Cách diễn đạt bài văn sinh động, có
nghệ thụat, giàu cảm xúc đợc các em thể hiện và hoàn thiện dần trong tiết
làm miệng các em thể hiện cách diễn đạt bằng ngôn ngữ nói và học tập ở
bạn cách trình bày từ mở bài ... kết bài, đến cách vận dụng các biện pháp
nghệ thuật trong biểu đạt nội dung.
Nhìn chung, thực trạng dạy Tập làm văn miệng ở các lớp 4, 5 hiện
nay chúng tôi có những nhận định sau: Những yêu cầu về kỹ năng đặt ra
chỉ thực hiện đợc 1/3 trong tổng số các nội dung, kiến thức và kỹ năng cần
đạt đợc. Học sinh chỉ dừng lại ở khâu tập diễn đạt bằng miệng dựa vào nội
dung bài văn đã chuẩn bị sẵn trong tập nháp. Nhiều học sinh còn đọc lại
bài viết có sẵn cha có khả năng tự thực hiện hoá một bài nói hoàn chỉnh
trớc lớp. Cách trình bày của học sinh còn rụt rè e ngại, ấp úng khi đứng
lên diễn đạt trớc lớp. Bình quân trong 1 tiết Tập làm văn miệng cha có 1/3
sỉ số lớp đợc tham gia luyện nói. Học sinh cha có một phơng pháp trình
bày bài nói chủ động. Các em còn thụ động khi tiếp thu bài học, cha có
thói quen trong học tập, tự giác tích cực và độc lập. Chất lợng của việc
luyện nói rất thấp.
Bên cạnh đó, kết qủa luyện nói của học sinh còn phụ thuộc vào khả
năng tổ chức hớng dẫn của giáo viên. Khi dạy Tập làm văn miệng ở lớp 4,
5. Giáo viên còn e ngại lúng túng trong xử lý các tình huống trong giao
tiếp. Thao tác chủ yếu của giáo viên thờng phó mặc cho học sinh chuẩn bị
bài văn ở nhà, giáo viên chỉ đọc lên và nhận xét hời hợt, gặng hỏi liên tục

để học sinh dựng đoạn, nhng học sinh vẫn nói theo câu, theo ý, rời rạc, tản
mạn. Giáo viên cha thực sự đa ra một ý kiến xác đáng cho cách diễn đạt
mang tính cá thể tiêu biểu cho cái hay cái đúng, cái sáng tạo cơ bản trong
bài văn nói.
Qua thực tế dự giờ cuối năm ở một lớp học bán trú với sỷ số học sinh
là 26 em. (Lớp 4C Trờng Tiểu học Cửa Nam 1 - Thành Phố Vinh - Nghệ
An) Yêu cầu của kiểu bài kể chuyện. Đề ra: Mợn lời cô bé trong chuyện
"Cô chủ không biết quý tình bạn" đã đọc ở lớp 3 em hãy kể lại chuyện đó.
Thông qua đánh giá các sản phẩm nói của học sinh ở mức độ: nói đúng, đủ
nội dung một bài văn kể chuyện. Chỉ có 12/26 học sinh tham gia luyện nói
chiếm 46% tổng số số hoạt động giao tiếp trong giờ Tập làm văn miệng.
Còn 54% tổng số học sinh cha có khả năng diễn đạt đầy đủ nội dung bài
văn kể chuyện. Trong khi đó cha đề cập đến vấn đề nói "hay" trong văn kể
chuyện- Học sinh cha có khả năng sử dụng các yếu tố phi ngôn ngữ trong
22


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

kể chuyện . Đây cũng là một hạn chế đặc biệt trong văn kể chuyện và
trong rèn nói ở tiểu học.
Trớc thực trạng dạy học nh trên, muốn tiến hành đổi mới phơng
pháp dạy Tập làm văn miệng điều trớc tiên mỗi giáo viên phải xác định rõ
cho mình hớng tổ chức mới trong dạy học. ít nhất là phải tạo ra một khó
khăn hoạt động song phơng giữa thầy và trò: Thầy hỏi trò đáp, thầy thiết
kế trò thi công. Học sinh đóng vai trò chủ thể hoạt động tích cực. Huy
động đến mức tối đa số học sinh tham gia thực hành giao tiếp trong luyện
nói.

Tóm lại, thực trạng dạy học Tập làm văn miệng hiện nay ở tiểu học
nếu nh xem xét thật kỹ thì nó tồn tại rất nhiều. Song chúng tôi có thể
khái quát thành những lỗi cơ bản để lựa chọn những biện pháp khắc phục
có hiệu quả.
1. Học sinh cha có thói quen chủ đọng trong diễn đạt nội dung từng
phàn cũng nh toàn bài luyện nói. Sự thụ động, thói quen ỷ lại trong luyện
nói cũng nh tiếp thu bài học kéo theo hiệu quả các bài nói rất thấp.
2. Học sinh còn rụt rè e ngại trong khi nói trớc lớp các em cha thực
sự tự giác tích cực trong luyện nói. Bài nói không chứa đựng chất sáng tạo
nghệ thuật cảm thụ văn chơng, cha chứa đựng chất chủ quan.
3. Học sinh cha có thói quen làm chủ dàn bài và dựa vào dàn bài để
nói mà thờng đọc lại nội dung bài viết đã chuẩn bị sẽ trong giấy nháp.
4. Số học sinh tham gia luyện nói rất thấp, cha đạt đợc mục đích
luyện nói và dạy học theo hớng giao tiếp nói chung.
5. Trong các văn bản nói của học sinh thờng chứa đựng những lỗi về
ngữ pháp thông thờng: trong dùng từ đặt câu dùng đoạn và tạo lập văn
bản - bài văn...
a) Trong dùng từ:
Phát âm từ sai do không nắm đợc hình thức âm thanh của từ. Dùng
từ sai do không nắm đợc nghĩa của từ. Dùng từ không phù hợp với phong
cách do không hiẻu khả năng kết hợp của từ. Dùng từ sai do không chú ý
đến hoàn cảnh nói năng và do lối viết sáo rỗng.
b) Trong đặt câu:
Câu thiếu thành phần nòng cốt, chấp cấu trúc, không có ngữ điệu
đúng, thể hiện ngắt nghỉ dấu chấm, dấu phẩy do cha xác lập mối quan hệ
chặt chẽ giữa nội dung nói và ý cần diễn đạt. Câu mơ hồ về nội dung ngữ
nghĩa cha diễn đạt hết ý định nói của mình.
c) Trong dựng đoạn: Học sinh cha có khả năng dựng lại thành một
đoạn văn có câu chủ đề. Chỉ là cách liên kết máy móc các câu trong đoạn.


23


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

Ngời nghe có cảm giác đều đều. Do học sinh cha có xác định những chi tiết
chính trong lập dàn bài.
d) Trong liên kết đoạn tạo lập văn bản bài văn các phần của bố cục
bài văn cha tác bạch rõ ràng, cha xác định rõ từng phần chính trong bố
cục do học sinh cha dựa vào dàn bài chung để trình bày bài nói.
Với những tồn tại của học sinh cũng nh giáo viên đã nói ở trên cần có
những biện pháp tích cực nào để khắc phục đồng thời nâng cao chất lọng của
tiết Tập làm văn miệng và hiệu quả quá trình luyện nói của học sinh.

2. Thực trạng nhận thức của giáo viên trong dạy Tập làm văn miệng.
Thực trạng dự giờ thăm lớp và tiếp xúc với giáo viên và học sinh.
Chúng tôi đã đa ra những nhận định. Để khẳng định nhng tồn tại nói
trên một phần xuất phát từ nhận thức nói chung của giáo viên tiểu học
trong vấn đề dạy Tập làm văn miệng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ
nói riêng khi tiến hành lên lớp tiết làm miệng này.
Qua điều tra 44 giáo viên đang trực tiếp dạy học ở 1 trờng tiểu học:
Với 44 phiếu trắc nghiệm có nội dung nh sau:
1. Trong dạy Tập làm văn miệng nhiệm vụ cơ bản là:
a)

Giúp học sinh xác định đề ra và lập dàn ý.

b)


Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh

c)
Chuẩn bị tốt cho bài viết tiết sau
2. Trong tiến trình lên lớp Tập làm văn miệng, phơng pháp nào sau
đây thờng đợc sử dụng.
a)
Quan sát
b)

Trình bày trực quan

c)

Luyện tập

d)

Thuyết trình

e)

Vấn đáp

g)
Tất cả các phơng pháp trên
3. Việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh tiểu học trong Tập làm
văn miệng tập trung vào khâu nào:
a)

Khâu chuẩn bị của học sinh
b)

Tổ chức thực hành giao tiếp

c)
Cả 2 khâu nói trên
4. Trong các phơng pháp sau (cô) đã vận dụng phơng pháp nào
trong dạy Tập làm văn miệng (nhóm các phơng pháp tác động đến tâm lý
học sinh)
a)
Trò chơi đóng vai
b)

Thi đua khen thởng
24


Luận Văn tốt nghiệp

Nguyễn Thị Tâm

c)
Cả hai phơng pháp trên.
5. Yêu cầu nào sau đay quyết định sự thành công bài nói của học sinh.
a)
Hiểu kỹ đề ra và lập dàn ý chung của một bài văn
b)

Bạo dạn tự tin, chủ động sáng tạo khi trình bày.


c)

Viết săn bài văn trong vở nháp.

d)
Cả (a) và (b)
Dựa vào kết quả trên phiếu điều tra ơ 44 giáo viên đang trực tiếp
giảng dạy ở trờng tiểu học. Trong 28 lớp có từ lớp 2 đến lớp 5. Chúng tôi
đánh giá điểm số cho mỗi giáo viên từ 1 đến 5: Nghĩa là thang điểm tối đa
là 5 điểm nếu nh trả lời đúng 5 câu, 4 điểm trả lời đúng 4 câu 3 điểm,
đúng 3 câu 2 điểm, 2 câu... 0 điểm đúng không câu.
Lập bảng phân phối theo chiều nh sau:
Điểm Đi

1

2

3

4

5

Tần số Ti

10

12


14

8

0

Từ bảng trên cho ta thấy một cách trực quan số giáo viên đạt điểm 5
không có, đạt điểm 4 là 8, điểm 3 là 14, điểm 2 là 12, điểm 1 là 10. Ta có
nhận xét sơ bộ về tần số xuất hiện các điểm cao ở các giáo viên không tơng
đơng với tần số xuất hiện các điểm thấp. Từ đó ta tính tỷ số của giáo viên
đạt các điểm tơng xứng
Ti từ 0 đến 4 đợc tính ra phần trăm nh sau: Công
thức:
T
To
10
- Đối với điểm 1 là: T = 44
= 0,1818 <=> 22,72%
- Đối với điểm 2 là:

T1
=
T

12
44

= 0,2727 <=> 27,27%


- Đối với điểm 3 là: T2 = 14
= 0,3181 <=> 31,81%
T
44
- Đối với điểm 4 là: T3 = 8
= 0,2272 <=> 18,18%
T
44
Nh vậy, số giáo viên đạt điểm 3 là nhiều nhất chiếm 31,81% số giáo
viên đạt điểm 4 là ít nhất: Điều này cho thấy số giáo viên nhận thức sâu
sắc về dạy Tập làm văn miệng ở tiểu học rất ít. Phần đa là các giáo viên
chỉ nhận thức về vấn đề này rất hời hợt, qua loa và cơ bản là họ cha thực
sự chú trọng cho việc giảng dạy phân môn tổng hợp này. Hầu hết các giáo
viên chỉ đạt mức điểm trung bình và quá trung bình cho thấy rằng vấn đề
nhận thức về lý luận và khả năng khái quát trong quá trình thực hành
giảng dạy rất mơ hồ: Từ việc xác định mục đích cơ bản của dạy Tập làm
văn miệng cũng nh việc sử dụng các phơng pháp trong tiến trình lên lớp.
Điều này chứng tỏ qua việc xác định điểm trung bình cộng của việc nhận
thức về vấn đề nói trên.

Đi. Ti
T

25


×