Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Quỳnh lưu trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc mỹ 1965 1973

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.78 KB, 64 trang )

phần a: dẫn luận .
1. Lý do chọn đề tài.
Với đại thắng mùa xuân 1975 đã đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch
sử dựng nớc và giữ nớc của dân tộc ta, đánh bại hoàn toàn tên đế quốc hùng
mạnh trên thế giới, non sông gấm vóc thu về một mối . Đồng thời với thắng
lợi này đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, kỷ nguyên đất nớc đợc
độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đến nay đã trải qua 29 mùa xuân,
song những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ không bị lu mờ, mai một bởi thời gian, ngợc lại nó đợc nâng lên với một
tầm vóc mới.
Hoà vào những thắng lợi to lớn của nhân dân cả nớc, Quỳnh Lu tiến
hành cuộc khánh chiến chống Mỹ vô cùng oanh liệt. Với vị thế là huyện điạ
đầu của tỉnh Nghệ An, nơi đây án ngự các huyết mạch giao thông: đờng sắt, đờng biển và đờng bộ có tính chiến lợc Bắc - Nam. Vì thế Quỳnh Lu trở thành
địa bàn chiến lợc quan trọng trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ đối với miền Bắc. Trong thời kỳ (1965 -1973), đế quốc Mỹ đã cho máy
bay và tàu chiến đánh phá ác liệt trên địa bàn huyện. Nhiều loại bom đạn có
tính chất huỷ diệt đợc Mỹ sử dụng phá hoại nhiều cơ sở kinh tế - quốc phòng,
gây nên biết bao hi sinh tổn thất cho huyện. Nhng bom đạn Mỹ không thể huỷ
diệt sức mạnh, ý chí đấu tranh của nhân dân Quỳnh Lu .
Trong bối cảnh chiến tranh ác liệt, dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, nhân dân Quỳnh Lu phát huy cao độ truyền thống đấu tranh anh dũng kiên
cờng, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, đánh bại hành động phá hoại của
giặc Mỹ, góp phần chi viện ngày càng lớn cho chiến trờng miền Nam.
Những thắng lợi to lớn của nhân dân Quỳnh Lu trong hai cuộc chiến
tranh phá hoại đã để lại cho thế hệ mai sau những bài học kinh nghiệm quý
báu, những tấm gơng anh hùng cách mạng gắn với những địa danh lịch sử
trong quá trình đấu tranh bảo vệ quê hơng Quỳnh Lu cũng nh dân tộc Việt
Nam. Đồng thời những thắng lợi này góp phần làm rạng rỡ thêm những trang
lịch sử huyện Quỳnh Lu, luôn xứng đáng với lời ca ngợi "Quỳnh Lu đất mẹ
anh hùng". Chính vì thế việc nghiên cứu lịch sử Quỳnh Lu trong hai cuộc


** 1 **


chiến tranh phá hoại đang là vấn đề đặt ra trên cả hai phơng diện lý luận và
thực tiễn.
Là sinh viên học chuyên ngành Lịch Sử Việt Nam, tôi mạnh dạn chọn
đề tài "Quỳnh Lu trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965 1973)" làm khoá luận tốt nghiệp đại học, với hi vọng góp một phần nhỏ bé của
mình vào việc nghiên cứu lịch sử quê hơng.
2. Lịch sử vấn đề.
Về vấn đề "Quỳnh Lu trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ (1965 - 1973)". Cho đến thời điểm hiện nay cha có một công trình chuyên
sâu nghiên cứu, song tản mạn trong một số cuốn sách viết về Quỳnh Lu cũng
có đề cập đến một khía cạnh nào đó của vấn đề, chẳng hạn nh :
+ Trong cuốn "Quỳnh Lu huyện địa đầu xứ Nghệ" của Hồ Sĩ Giàng nhà
xuất bản Nghệ Tĩnh, Vinh 1990. Tác giả có nêu lên một cách chung chung về
thành tựu của nhân dân Quỳnh Lu trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ .
+ Cuốn "lịch sử Đảng bộ huyện Quỳnh Lu " huyện uỷ UBND huyện
Quỳnh Lu biên soạn, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2000.Tác phẩm
có đề cập đến thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của nhân dân Qùynh Lu dới
dạng khái quát.
+ Cuốn "Quỳnh Lu cải tiến sự lãnh đạo và chỉ đạo nông nghiệp trong
hoàn cảnh vừa sản xuất vừa chiến đấu " của Trơng Văn Kiện .Trong đó có đề
cập đến một số thắng lợi của nhân dân Quỳnh Lu trong chiến đấu và sản xuất
từ năm (1965 -1968).
Ngoài ra một số báo cáo, tổng kết các nghị quyết và tập san đặc biệt của
Đảng uỷ, HĐND huyện, đã đánh giá tổng kết sơ lợc những thành tựu của
Quỳnh Lu trong thời kỳ(1965 - 1973 ).
Nhìn chung các tác phẩm và tài liệu trên chỉ mới đề cập đợc từng khía
cạnh riêng lẻ cuả vấn đề đang còn dới dạng sơ lợc, cha làm nổi bật đợc những

thắng lợi, những đóng góp to lớn của Quỳnh Lu trong cuộc chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại của Mỹ. Để có một công trình chuyên khảo về "Quỳnh
Lu trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ(1965-1973)", đòi hỏi
cần phải có sự đầu t công phu và chu đáo hơn, đầu t thời gian nghiên cứu một
cách sâu sắc toàn diện về Quỳnh Lu trong giai đoạn lịch sử oanh liệt và hào

** 2 **


hùng này, nhằm làm toát lên những thắng lợi và đóng góp to lớn của nhân dân
Quỳnh Lu trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nớc. Trong khoá luận này, tôi cố
gắng hệ thống hoá nguồn tài liệu thu thập đợc để phần nào tái hiện lại những
thắng lợi và đóng góp của nhân dân Quỳnh Lu trong hai cuộc chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
3. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu.
Đề tài "Quỳnh Lu trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
(1965 - 1973)". Nhằm đi sâu nghiên cứu những đóng góp và thắng lợi của
nhân dân Quỳnh Lu trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ(1965 - 1973).
Với mục đích đó, trớc hết khoá luận đề cập đến những điều kiện tự
nhiên, điều kiện lịch sử của huyện Quỳnh Lu và những tiền đề về chính trị kinh tế - xã hội của huyện trong 10 năm xây dựng Quỳnh Lu theo định hớng
xã hội chủ nghĩa từ (1954 - 1964), là những yếu tố có tác động mạnh mẽ đến
cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của nhân dân Quỳnh Lu.
Trọng tâm nghiên cứu của khoá luận chủ yếu đi sâu tìm hiểu những
đóng góp, những thắng lợi to lớn của nhân dân Quỳnh Lu đợc thể hiện trên
các mặt: chiến đấu và phục vụ chiến đấu, sản xuất, đảm bảo giao thông vận
tải, phát triển văn hoá - giáo dục - y tế và chi viện sức ngừơi, sức của cho
chiến trờng miền Nam trên địa bàn huyện trong thời kỳ chống chiến tranh phá
hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.
4. Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu.

Để nghiên cứu "Quỳnh Lu trong hai cuộc chiến tranh phá họai của đế
quốc Mỹ(1965 - 1973)" chúng tôi tập trung khai thác các nguồn tài liệu sau
đây:
Các tài liệu thành văn: gồm những tác phẩm viết về Quỳnh Lu của các
nhà nghiên cứu lịch sử và các đồng chí hoạt động chính trị, quân sự. Một số
báo cáo tổng kết của Đảng bộ huyện qua các kỳ đại hội trong thời kỳ chiến
tranh phá hoại, đợc lu tại phòng tuyên giáo huyện. Một số cuốn "lịch sử văn
hoá truyền thống" của các xã, đặc biệt là các xã ven biển, dọc tuyến quốc lộ
1A, nơi chiến tranh xảy ra ác liệt.

** 3 **


Tài liệu dới dạng hồi ký của những ngời tham gia cách mạng, các đồng
chí trong ban lãnh đạo huyện thời kỳ (1965 - 1973) đã ghi lại hoạt động của
mình.
Tài liệu điều tra điền dã, là kết quả của quá trình tiếp cận những nhân
chứng lịch sử, những đồng chí nguyên là lãnh đạo của huyện trong thời kỳ
chống chiến tranh phá hoại .
Trên cơ sở những nguồn tài liệu đó, thực hiện khoá luận này chúng tôi
dùng phơng pháp lịch sử và phơng pháp logic, đồng thời áp dụng những phơng
pháp điều tra, phân tích, thống kê, đối chiếu, so sánh... khoá luận đợc kết hợp
chặt chẽ giữa t liệu thành văn và t liệu thực tế để góp phần làm rõ những thắng
lợi, những đóng góp của nhân dân Quỳnh Lu trong cuộc chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1965 - 1973).
5. Bố cục của đề tài.
Khoá luận tốt nghiệp đợc trình bày trong 70 trang, gồm 3 phần, trong
đó ngoài phần dẫn luận và kết luận, nội dung khoá luận đợc trình bày trong ba
chơng:
Chơng I: khái quát về mảnh đất, con ngời Quỳnh Lu và những tiền đề

về chính trị - kinh tế - xã hội của huyện trớc cuộc chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mỹ.
Chơng II: Quỳnh Lu trong cuộc chiến tranh phá hoại thứ nhất của đế
quốc Mỹ(1965 - 1968).
Chơng III : Quỳnh Lu sản xuất và chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ(1969 1/1973)
Hoàn thành khoá luận này tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của
ban tuyên giáo huyện uỷ Quỳnh Lu đã giúp đỡ tôi về mặt t liệu. Tôi xin chân
thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo huyện, các thầy cô giáo trong khoa đã tận
tình chỉ dẫn. Khoá luận đợc hoàn thành dới sự hớng dẫn trực tiếp của Thạc Sỹ
Nguyễn Khắc Thắng, cán bộ giảng dạy khoa lịch sử trờng Đại Học Vinh.
Do khả năng nghiên cứu còn hạn chế, điều kiện t liệu và thời gian có
hạn ,chắc chắn khoá luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi xin

** 4 **


chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của tất cả mọi ngời quan tâm đến vấn
đề này.

Phần B: nội dung.
chơng I:
khái quát về mảnh đất, con ngời Quỳnh Lu và những
tiền đề chính trị - kinh tế - xã hội của huyện trớc
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên .
Quỳnh Lu huyện địa đầu xứ Nghệ, thuộc phía Bắc của tỉnh Nghệ An,
khoảng cách từ huyện lỵ Cầu Giát đến tỉnh lỵ Thành phố Vinh khoảng 60 km.
Phía Bắc giáp huyện Tĩnh Gia (Thanh Hoá), với ranh giới tự nhiên là khe nớc
lạnh dài 24 km. Phía Nam và Tây Nam giáp huyện Diễn Châu và Yên Thành

với ranh giới khoảng 31 km. Phía Tây giáp huyện Nghĩa Đàn với ranh giới 33
km. Phía Đông giáp biển với đờng bờ biển dài 34 km. Huyện có diện tích đất
tự nhiên là 586,4 km2 chiếm 38,5% diện tích đất toàn tỉnh. Địa hình Quỳnh Lu
thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Đó là địa hình đa dạng, đất
đai tự nhiên đợc cấu tạo khác nhau, tạo thành 3 vùng rõ rệt.
Vùng ven biển: từ Đồng Hồi xã Quỳnh Lập đến xã Quỳnh Thọ, đây là
vùng đất hẹp ven biển, đợc ngăn cách tự nhiên bởi bờ biển đến kênh nhà Lê.
Địa hình vùng có độ chênh thấp dần từ Tây sang Đông, có độ cao trung bình
khoảng 3m so với mực nớc biển. Đất đai phân làm 2 loại rõ rệt: chủ yếu là đất
phù sa và đất sét nên dễ bị bào mòn hàng năm do thiên tai. Tính chất thổ nhỡng nh vậy tạo điều kiện cho vùng trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày,
ngoài ra còn có thể phát triển nghề muối và nuôi trồng thuỷ sản.
Vùng đồng bằng: đợc tính từ lãnh thổ xã Quỳnh Xuân đến xã Quỳnh
Giang, đây là vùng đất thuộc 15 xã nằm hai bên quốc lộ 1A. Vùng đất tơng đối
bằng phẳng, có độ cao trung bình 4m so với mực nớc biển , rất thuận lợi cho việc
sản xuất nông nghiệp trồng luá nớc và đợc coi là vựa thóc của toàn huyện

** 5 **


Vùng rừng núi trung du và bán sơn địa, chạy dài theo triền Bắc và Tây
của huyện, chiếm hơn 70% diện tích toàn huyện. Với hai hệ thống núi và đồi
chạy thoải dần xuống phía Đông và phía Nam tạo nên vùng bán sơn địa: Tân
Sơn, Quỳnh Tam, Quỳnh Châu, Quỳnh Thắng. Vùng đồi núi chủ yếu là đất đỏ
bazan và một phần đất đá vôi ở chân núi nên có thể hình thành ở đây vùng
chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, ngoài ra còn có thể trồng cây lơng
thực, rau màu. Nhìn chung đồi núi Quỳnh Lu là nơi chứa đựng nhiều tập đoàn
cây rừng cũng nh các loại động vật quý. Song trải qua nhiều biến thiên, trử lợng
rừng cũng nh các loại động vật tự nhiên của huyện giảm đi đáng kể.
Hệ thống sông ngòi Quỳnh Lu khá phong phú, Sông Thái bắt nguồn từ
Bào Giang ở phía Tây của huyện chạy về phía Đông đổ ra cửa biển Lạch Thơi.

Sông Hoàng Mai có thợng nguồn từ xã Quỳnh Thắng phía Tây - Bắc rồi đổ ra
cửa Lạch Cờn. Huyện còn có hệ thống kênh mơng dày đặc nh: kênh nhà Lê,
kênh Mơ các cửa sông ở Quỳnh Lu tạo ra thế gắn bó giao lu giữa vùng đồng
bằng, bán sơn địa với vùng biển, đồng thời tạo nguồn thuỷ sản phong phú. Với
3 cửa lạch: Lạch Cờn, Lạch Quèn và Lạch Thơi, các cửa lạch này thuộc loại
bồi lắng hàng năm và nớc mặn dâng lên xa, có nhiều dãy núi ăn lan ra biển tạo
cho Quỳnh Lu những bãi cát dài bằng phẳng, là điều kiện để phát triển ngành
du lịch.
Quỳnh Lu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, đồng thời lại chịu ảnh hởng
khí hậu biển thờng xuyên có gió mùa Đông - Bắc, lạnh vào mùa Đông, ảnh hởng
gió Lào thổi mạnh nhất từ tháng 5 đến tháng 8. Quỳnh Lu có 4 mùa : Xuân - Hạ
- Thu - Đông rõ rệt , còn gọi là mùa nóng và mùa lạnh. Mùa nóng kéo dài từ
tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình 30oC. Mùa này cũng là mùa giông tố,
bão và hay xảy ra gió xoáy gây nhiều thiệt hại. Mùa lạnh từ tháng 11 năm trớc
đến tháng 4 năm sau, thờng có gió mùa Đông - Bắc lạnh, ma ít bầu trời nhiều
mây, buổi sáng thờng có sơng mù, sơng muối. Lợng ma trung bình hàng năm
1599 ml, nhiệt độ là 23,80C, độ ẩm 87% [2 , 19].
Hệ thống đờng giao thông ở Quỳnh Lu khá dày và phong phú. Tuyến
đờng sắt Bắc - Nam chạy qua địa bàn huyện với chiều dài 30 km. Ngoài ra còn
có tuyến đờng sắt Tây - Bắc chạy từ Cầu Giát lên Nghĩa Đàn dài 15 km. Đờng
bộ ngoài tuyến quốc lộ 1A lớn nhất, còn có quốc lộ 48 chạy qua phía Tây của
huyện, tỉnh lộ 37 từ Lạch Quèn đến Tuần nối với quốc lộ 48. Đồng thời giữa
các xã đều có tuyến đờng giao thông xuyên suốt có ý nghĩa lớn cho sự phát

** 6 **


triển kinh tế, an ninh quốc phòng nh : đờng từ Quỳnh Bá đến An Hoà(7km), từ
Tiến Thuỷ lên Quỳnh Phơng (10km).
Nh vậy, quanh trục quốc lộ 1A đờng ở Quỳnh Lu đã tạo ra hệ thống "đờng xơng cá", từ hệ thống đờng xơng cá này lại tạo ra đờng "bàn cờ " tức là đờng liên xã liên thôn (hiện nay có khoảng 200 đờng). Bên cạnh đó các tuyến

đờng sông đờng Biển cũng đã góp phần không nhỏ cho nhân dân giao lu giữa
các vùng, các xã và giao lu với các tỉnh phía Bắc, phía Nam.
Với hệ thống sông ngòi khá dày cho nên ở Quỳnh Lu có nhiều cầu nh :
Cầu Khe Son, Cầu Giát, Cầu Quỳnh Nghĩa... đây là những trọng điểm, những
"chảo lửa " đánh phá ác liệt của Mỹ trong thời kỳ chiến tranh phá hoại.
Nhìn một cách tổng quát, điều kiện tự nhiên của Quỳnh Lu nổi lên
những đặc điểm sau đây:
Quỳnh Lu có vị trí quan trọng về cả kinh tế và an ninh quốc phòng, bởi
vì huyện ở vào vị thế "Nam Thanh - Bắc Nghệ" có các đờng giao thông chiến
lợc chạy qua, có địa thế thông ra biển đông và là bàn đạp ra Bắc, vào Nam. Có
các cửa biển quan trọng tạo tính chiến lợc về quân sự, án ngự đờng biển Bắc Nam. Có thể nói Quỳnh Lu đã nhiều lần trở thành nơi chiến địa, ngời xa đã có
câu "Quỳnh Lu chiến địa, Mai Giang huyết hồng" .
Điều kiện tự nhiên Quỳnh Lu nhìn chung có nhiều mặt thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế. Với địa hình đa dạng có rừng núi, biển, sông ngòi, có
các vùng đất khác nhau và hệ thống giao thông thuỷ bộ thuận tiện. Chính vì
thế đã tạo cho Quỳnh Lu có điều kiện để phát triển nhiều loại cây trồng vật
nuôi, cũng nh phát triển nhiều ngành nghề trên địa bàn huyện. Quỳnh Lu có
nhiều danh lam thắng cảnh nổi lên một tiềm năng du lịch đang đợc đầu t tồn
tạo, khai thác.
Bên cạnh những tiềm năng, thế mạnh Quỳnh Lu cũng nh nhiều huyện
khác của miền Trung, ở vào vùng thời tiết khắc nghiệt. Quỳnh Lu không phải
là huyện thuần đồng bằng mà là rừng biển gần nhau dễ bị gây ra ngập úng về
mùa ma và hạn hán về mùa khô. Quỳnh Lu là huyện ở cuối nguồn thuỷ lợi nên
đất chua mặn, hay bị bào mòn, rửa trôi, có 3 cửa biển nhng lại không thành thơng cảng.
Những nét cơ bản về đặc điểm tự nhiên trên đây, chứng tỏ huyện Quỳnh
Lu có nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng một nền kinh tế đa ngành, phát

** 7 **



triển sản xuất, đem lại đời sống ấm no cho nhân dân địa phơng. Nhờ có điều
kiện tự nhiên thuận lợi cùng với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng bộ huyện sẽ là
cơ sở để xây dựng Quỳnh Lu thành một huyện giàu mạnh trong tỉnh.
1.2. Đặc điểm lịch sử xã hội.
Quỳnh Lu là vùng đất cổ c dân sinh sống từ lâu đời, qua một số phát
hiện của khảo cổ học đã minh chứng điều đó. Di chỉ văn hoá Quỳnh Văn đã
ghi lại dấu tích con ngời đã sống quần tụ ở vùng biển Quỳnh Lu cách ngày
nay khoảng 6 nghìn năm [2 , 25]. C dân nguyên thuỷ Quỳnh Lu đã sống
thành từng bộ lạc ở những vùng lõm, đầm lầy dọc biển. Với phơng thức hái lợm và săn bắn, những c dân cổ đã từng bớc hoàn thiện bản thân mình, cùng
với sự phát triển của công cụ sản xuất, đời sống của c dân đợc nâng cao, xuất
hiện ngành trồng trọt, chăn nuôi, ngoài ra họ còn biết dệt vải.
Chính bằng lao động, những chủ nhân cổ xa trên mảnh đất Quỳnh Lu
đã "khai thiên phá thạch ", vật lộn với thiên nhiên tạo nên một kỳ tích hình
thành vùng đất và hình thành cộng đồng c dân xa xa.
Cái tên "Quỳnh Lu" xuất hiện vào thế kỷ thứ XV thời nhà Lê (1430) có
cơng vực từ biển Đông lên tận Quỳ Châu gồm 7 tổng ở phía trên (thuộc huỵên
Nghĩa Đàn ngày nay ) và 4 tổng thuộc Quỳnh Lu ngày nay.
Từ năm 1430 đến đời nhà Nguyễn, dới thời vua Minh Mệnh thứ 12,
Quỳnh Lu là một đơn vị hành chính thuộc phủ Diễn Châu của tỉnh Nghệ An
gồm 11 tổng. Từ năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) về đại thể lãnh thổ Quỳnh Lu
giống nh hiện nay thuộc phủ Diễn Châu. Đến thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nớc
ta, năm 1919 Quỳnh Lu trở thành đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh. Sau cách
mạng tháng 8/1945 địa giới Quỳnh Lu cho đến ngày nay về cơ bản không có
gì thay đổi lớn .
Hiện nay huỵên Quỳnh Lu gồm 43 đơn vị hành chính cơ sở (42 xã và
một thị trấn), dân số của huyện là 340725 ngời trong đó 168784 nam và
171941 nữ (theo số liệu điều tra ngày 1/4/1999) [2 , 29]. Quỳnh Lu có khỏang
1590 ngời thuộc dân tộc thiểu số, chủ yếu là dân tộc Thái sống ở phía Tây của
huyện. Đồng thời với cộng đồng c dân bản địa thì ở Quỳnh Lu có nhiều c dân
ở nơi khác đến định c ở đây. Dù nguồn gốc từ đâu, nhng đã sống trên đất này,

cộng đồng c dân mang một sắc thái bản địa rõ rệt, một tình cảm quê hơng sâu
nặng của đất Quỳnh xứ Nghệ, tạo nên ở Quỳnh Lu một nền kinh tế đa dạng,

** 8 **


trong đó sản xuất nông nghiệp là thế mạnh của huyện từ lâu đời. Các ngành
kinh tế khác cũng có xu thế phát triển nh kinh tế biển, đó cũng là một trong
những lợi thế của huyện do có đờng bờ biển dài và 3 cửa lạch quan trọng. Việc
khai thác nguồn hải sản từ biển đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, nói đến kinh
tế biển không thể không nói đến ngành Diêm Nghiệp, sản phẩm đợc trao đổi
khắp cả nớc. Bên cạnh đó nghề thủ công rất phong phú nh : nghề làm muối,
dệt vải, đan lát , nghề mộc, gạch ngói...
Nằm vào vị thế giao thông thuận lợi cho nên việc buôn bán sớm đợc
hình thành và phát triển, xuất hiện nhiều phờng buôn bán lớn nh Cầu Giát,
Quỳnh Xuân, Quỳnh Văn, hàng hoá đợc đem đi trao đổi nhiều nơi tạo nên các
chợ làng, chợ huyện thêm sầm uất.
Quỳnh Lu là huyện có nhiều thành phần c dân sinh sống, có cả ngời
theo đạo Phật và đạo Thiên Chúa Giáo. Song họ sống gần gũi, đùm bọc tạo
nên khối đoàn kết cộng đồng sâu đậm tình làng nghĩa xóm. Cuộc sống bình
lặng dới những luỹ tre xanh, chân núi và làng chài sóng vỗ quanh năm, ngời
dân Quỳnh Lu bao thế hệ đã chung lng đấu cật tạo nên một nền văn hoá bản
địa sâu sắc. Các sáng tác và sinh hoạt văn hoá dân gian nh một dòng chảy nối
liền quá khứ với hiện tại, tơng lai, nó nh bầu sữa mẹ truyền vào các thế hệ con
ngời Quỳnh Lu, làm nên tính cách : cần cù, thông minh, quảng giao mến
khách.
Từ lâu Quỳnh Lu đã nỗi tiếng là đất học với những kỳ danh khoa bảng,
những "ông đồ xứ Nghệ " lừng danh trong Nam ngoài Bắc. Đất học nổi tiếng
nhất và đỗ đạt cao qua các kỳ thi dới thời phong kiến là xã Quỳnh Đôi. Truyền
thống hiếu học, tôn s trọng đạo đợc giữ gìn và phát triển qua các thời kỳ lịch

sử, Quỳnh Lu có hàng nghìn ngời thi đậu từ bậc tú tài đến tiến sĩ (trong đó có
19 ngời đậu đại khoa). Dới thời Nguyễn, Quỳnh Lu có 87 ngời đậu cử nhân,
đặc biệt xã Quỳnh Đôi tính từ thời Lê Thánh Tông đến thời Nguyễn có trên 1
nghìn ngời đậu tú tài trở lên [2 , 37], đồng thời Quỳnh Lu có nhiều vị tớng tài.
Dới thời phong kiến nhiều Nho đồ Quỳnh Lu rong ruổi và có mặt trên khắp
các nẻo đờng đất nớc, đem nguồn trí thức, ánh sáng văn hoá truyền đạt cho
nhiều thế hệ học trò ở vùng thôn quê. Bên cạnh việc dạy chữ họ còn dạy cả
đạo lý làm ngời, truyền thống yêu quê hơng đất nớc.

** 9 **


Trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, nhân dân Quỳnh Lu đã cùng
với nhân dân cả nớc lập nên những chiến công hiển hách bảo vệ quê hơng, giữ
gìn và lu truyền bản sắc văn hoá.
Sau khi nớc ta rơi vào ách thống trị của các thế lực phong kiến phơng
Bắc, suốt nghìn năm Bắc thuộc, nhân dân Quỳnh Lu cùng với nhân dân vùng
lân cận tham gia nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại sự chiếm đóng của giặc
ngoại xâm. Trong cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan năm 722 chống ách đô
hộ của nhà Đờng, nhân dân đã hởng ứng tham gia xây dựng Thành Vạn An và
các công trình phòng ngự, đấu tranh bảo tồn nền văn hoá bản địa.
Đến thời kỳ đầu độc lập, Quỳnh Lu giữ vai trò quan trọng là nơi cung
cấp quân lơng cho một số cuộc kháng chiến. Từ địa bàn huyện có thể ứng phó
kịp thời cho cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc, đặc biệt là chống quân
xâm lợc Tống , đồng thời đây cũng là nơi xuất phát cho cuộc đấu tranh chống
xâm lấn đất đai của phong kiến phơng Nam.
Dới thời Lý - Trần, Quỳnh Lu đã góp sức xây dựng hàng chục kho tàng
cất giữ quân lơng, kho vũ khí và là nơi luyện quân chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến chống quân xâm lợc Nguyên - Mông. Năm 1285, trong cuộc kháng chiến
chống Nguyên - Mông lần thứ hai, quân dân Quỳnh Lu đã lập chiến công chống

quân của Toa Đô kéo từ phía Nam ra ở cảng Xớc (Quỳnh Lập).
Thế kỷ XV dới ách thống trị của giặc Minh, nhân dân Quỳnh Lu đã thực
hiện lối đánh du kích, phục kích tiêu hao quân địch. Khi Lê Lợi phát động cuộc
khởi nghĩa tại Lam Sơn Thanh Hoá năm 1814, hởng ứng cuộc khởi nghĩa, quân
dân Quỳnh Lu rầm rộ đứng lên phá phủ, ủng hộ nghĩa quân cả về nhân lực và vật
lực. Nhiều ngời con Quỳnh Lu đã trở thành tớng lĩnh tài ba của cuộc khởi nghĩa
nh : Nguyễn Bá Lai, Hồ Hán, Nguyễn Tu, Hoàng Lữ ...
Đến thế kỷ thứ XVIII phong trào Tây Sơn bùng nổ, nhân dân Quỳnh Lu đã góp sức cùng với nghĩa quân kéo ra Bắc đánh tan gần 20 vạn quân Thanh,
giải phóng thành Thăng Long, đất Bắc Hà.
Cuối thế kỷ thứ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp thu các phong trào nh phong
trào "Đông Du" của Phan Bội Châu và phong trào "Duy Tân" của Phan Châu
Trinh. Năm 1905 Quỳnh Lu đã có phân hội "Triều Dơng Thơng Quán" đặt tại
Cầu Giát, tiêu biểu trong phong trào xuất dơng tìm đờng cứu nớc ở Quỳnh Lu

** 10 **


có Hồ Ngọc Lâm, Hồ Tùng Mẫu... sau này đều trở thành những nhà cách
mạng cốt cán của đất nớc.
Ngày20/4/1930 tại Sơn Hải, Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam huyện
Quỳnh Lu ra đời. Sự ra đời của Đảng bộ huỵên đánh dấu một b ớc ngoặt đối
với phong trào cách mạng Quỳnh Lu. Dới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
Quỳnh Lu tiếp tục đấu tranh dành thắng lợi lớn. Trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp, nhân dân Quỳnh Lu đã lập nên thành tích xuất
sắc.Tháng 8 /1945, toàn dân nổi dậy cớp chính quyền ở Quỳnh Lu, góp
phần khai sinh ra nuớc Việt Nam dân chủ cộng hoà. Thời kỳ toàn quốc
kháng chiến, thế hệ thanh niên Quỳnh Lu nô nức lên đờng chiến đấu bảo vệ
quê hơng đất nớc, anh dũng chiến đấu trên khắp các chiến trờng, đặc biệt
tháng 10/1949 làm nên chiến thắng vĩ đại đánh bại trận càn của Pháp trên
đất Quỳnh Lu. Sau này mặc dù đế quốc Mỹ với một tiềm lực kinh tế, quân

sự hùng mạnh trong hai lần chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, nhng nhân
dân Quỳnh Lu đã cùng với nhân dân miền Bắc đánh bại chúng góp phần chi
viện cho chiến trờng Miền Nam, hoàn thành sự nghiệp thống nhất nớc nhà.
Nh vậy, mảnh đất Quỳnh Lu vốn "địa linh nhân kiệt ", con ngời Quỳnh
Lu đợc tắm mình trong truyền thống dựng nớc và giữ nớc oanh liệt của dân
tộc từ bao đời, lại đợc rèn đúc trong quá trình xây dựng quê hơng đã sớm tạo
cho con ngời Quỳnh Lu đức tính dũng cảm, chịu thơng, chịu khó và nhạy bén
trớc thời cuộc. Nơi đây đã sản sinh ra những nhân tài cho đất nớc nh : Hồ Quý
Ly, Hồ Xuân Hơng, Hồ Tùng Mẫu... Với truyền thống tốt đẹp đó sẽ là tiền đề
vững chắc cho nhân dân Quỳnh Lu trong thời kỳ lịch sử mới.
1.3. Những tiền đề về chính trị - kinh tế - xã hội Quỳnh Lu trớc khi bớc
vào cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (5/1954), hiệp định Giơnevơ đợc ký kết
(7/1954), miền Bắc chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam
tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Trong những năm từ 1954 - 1964 cùng với miền Bắc, nhân dân Quỳnh
Lu bớc vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới: cách mạng xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện hoà bình, chính quyền cách mạng ngày càng trởng thành và đợc tôi luyện trong chiến tranh . Bên cạnh những thuận lợi đó, Quỳnh Lu còn

** 11 **


phải đơng đầu với những khó khăn thách thức, tuy không phải là chiến trờng
trực tiếp song Quỳnh Lu bị máy bay địch đánh phá nhiều trận gây tổn thất lớn,
làm đảo lộn cuộc sống nhân dân. Việc khắc phục khó khăn đó không phải là
một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có nhiều thời gian và sức lực, thêm vào đó
thiên tai mất mùa xảy ra thờng xuyên, ngay sau khi hoà bình lập lại các thế
lực thù địch bên ngoài cấu kết chống phá, lật đổ chính quyền cách mạng.
Quỳnh Lu vốn là huyện có thành phần c dân phức tạp, số ngời theo đạo
Thiên Chúa đông, các thế lực thù địch đã dựa vào đây để chia rẽ khối đoàn kết

trong cộng đồng c dân, gây nên mâu thuẫn giữa giáo - lơng. Năm 1954 chúng
đã lợi dụng chính sách tập kết của chính phủ ta để xúi dục đồng bào Thiên
Chúa Giáo di c vào miền Nam theo chiêu bài "Chúa đã vào Nam". ở Quỳnh
Lu không ít ngời đã nghe theo, tập kết tại Quỳnh Nghĩa để vào Nam, đã gây
nên những xáo trộn nghiêm trọng trong xã hội. Trớc tình hình đó, Đảng bộ
huyện phối hợp với bộ đội địa phơng và lực lợng an ninh đập tan âm mu kẻ
thù, trấn an quần chúng.
Năm 1955, cùng với 3 huyện khác trong tỉnh Nghệ An, huyện Quỳnh Lu thực hiện cải cách ruộng đất đợt 3 và đã thu đợc nhiều thắng lợi. Tịch thu
một khối lợng lớn tài sản, hàng ngàn mẫu ruộng của địa chủ đợc chia cho dân
cày nghèo không có ruộng. Bà con nông dân đã hồ hởi nhận ruộng và chăm lo
sản xuất trên những thửa ruộng của mình. Trong sản xuất dấy lên phong trào
"khai hoang phục hoá" trên cả 3 vùng: đồng bằng, ven biển, miền núi, đa diện
tích canh tác tăng thêm 1680 ha (1957). Bên cạnh đó việc áp dụng kỷ thuật
mới trong sản xuất đợc chú trọng, công việc làm thuỷ lợi trở thành khâu then
chốt nhằm đảm bảo tới tiêu cho nhiều cánh đồng lúa và hoa màu trong huyện.
Thời kỳ này hệ thống thuỷ lợi từ đập hồ đến kênh mơng đợc tu sửa và làm
thêm nhiều hồ chứa nớc ở vùng bán sơn địa: Quỳnh Châu, Quỳnh Tam, Quỳnh
Thắng. Nhờ vậy sản lợng lơng thực tăng lên góp phần khắc phục nạn đói diễn
ra thờng xuyên ở huyện.
Thực hiện nghị quyết của Hội nghị Trung ơng lần thứ 14 năm 1958, về
việc cải tạo chủ nghĩa xã hội và kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế(1958 1960). Cùng với các địa phơng khác trong tỉnh, nhân dân Quỳnh Lu bớc vào
thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế - văn hoá, Quỳnh Lu đã thành lập đợc
các hợp tác xã trong nông nghiệp và thủ công nghiệp, hầu hết các xã trong
huỵên đều có hợp tác xã thu hút sự tham gia của đông đảo nông dân. Tính

** 12 **


toàn huyện có đến 10567 hộ vào hợp tác xã chiếm 85%, ở vùng ven biển
thành lập hợp tác xã đánh cá và hợp tác xã làm muối [1 , 113]. Các trung tâm

thơng nghiệp của huyện nh : Cầu Giát, Hoàng Mai đã thành lập hợp tác xã
theo ngành nghề. Chính con đờng làm ăn tập thể dới hình thức hợp tác xã dẫn
đến quan hệ sản xuất mới đợc hình thành, đa năng suất lao động tăng lên.
Năm 1959 năng suất lúa bình quân ở Quỳnh Lu đạt 3 tấn/ha/năm, năm 1960
tăng lên 4 tấn /ha /năm, đã đa sản lợng lúa toàn huyện từ 28438 tấn lên 33761
tấn, sản lợng muối không ngừng tăng lên từ 22000 tấn (1959) lên 23600 tấn
(1960) [2 , 173].
Cùng với những thắng lợi trên mặt trận sản xuất, công tác giáo dục y tế
cũng có những bớc tiến đáng kể, nạn mù chữ đợc đẩy lùi trên toàn huyện,
ngành bình dân học vụ có nhiều thành tích đợc huyện uỷ khen thởng. Hệ
thống trờng lớp đợc xây dựng khang trang, ở các xã đều có trờng cấp I, đến
năm 1960 toàn huyện có 3 trờng cấp II quốc lập và 1 trờng t thục ở xã Quỳnh
Tiến hoàn chỉnh chơng trình học từ lớp 5 đến lớp 7. Bên cạnh đó công việc
chăm lo sức khoẻ cho nhân dân đợc quan tâm hơn, năm 1958, bệnh viện
huyện đợc khởi công xây dựng, đồng thời ở các xã đều có trạm xá, nhà hộ
sinh. Phong trào vệ sinh phòng bệnh đợc tuyên truyền và thực hiện ở nhiều xã,
có một số xã đạt kết quả tốt nh: Cầu Giát, Quỳnh Giang, Quỳnh Bá. Quỳnh Lu
luôn chú ý đến công tác xây dựng và kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp,
các ban ngành đoàn thể ,xây dựng khối đoàn kết trong Đảng, thờng xuyên tổ
chức các lớp huấn luyện bồi dỡng t tởng, đạo đức cho những đoàn viên u tú
kết nạp vào Đảng, kiên quyết loại bỏ Đảng viên thái hoá, biến chất. Nhờ đó
niềm tin của nhân dân đối với Đảng luôn đợc giữ vững, chủ trơng đờng lối của
Đảng đợc toàn dân hởng ứng thực hiện.
Trong việc thực hiện kế hoạch nhà nớc 5 năm lần thứ nhất từ 19611965, nhân dân Quỳnh Lu đã hăng hái sản xuất, tiếp tục đẩy mạnh công tác
thuỷ lợi, phân bố nguồn lao động trên địa bàn huyện. Vì thế nhiều vùng đất bỏ
hoang ở miền Tây của huyện đợc khai hoang đa vào sản xuất với 1425 ha.
Đồng thời kết hợp với việc vận động quản lý các hợp tác xã, huấn luyện bồi dỡng trình độ kỷ thuật cho cán bộ và nhân dân. Năng suất lúa năm 1965 đạt 4,3
tấn /ha, diện tích canh tác đợc mở rộng từ 16330 ha (1961) lên 16725 ha
(1965). Tổng sản lợng lơng thực quy ra thóc năm 1965 đạt 32192 tấn [2 , 116].


** 13 **


Ngoài ra một số ngành thủ công bớc đầu sản xuất có hiệu quả, trong hợp tác
xã thủ công nghiệp thu hút sự tham gia của đông đảo nhân dân.
Công tác giáo dục có bớc khởi sắc, năm 1961 huyện xây dựng đợc một
trờng cấp III đóng trên địa bàn Cầu Giát. Nhiều xã có trờng cấp II, bình quân
cứ 2 đến 3 xã thì có một trờng cấp II. Huyện tổ chức bồi dỡng các lớp bổ túc
văn hoá cả cấp II và cấp III, hoàn thành kế hoạch phổ cập cấp I cho toàn dân.
Mạng lới y tế đợc mở rộng, mỗi trạm y tế hộ sinh ở xã có từ 2 đến 3 cán bộ
chuyên trách.
Trong khi đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - văn hoá,
Quỳnh Lu luôn coi trọng nhiệm vụ bảo vệ và cũng cố quốc phòng, trật tự trị
an, tăng cờng xây dựng cơ sở Đảng ở trong nông thôn, tăng cờng công tác
kiểm tra canh gác, động viên huấn luyện lực lợng dân quân dự bị tại địa phơng, sẵn sàng đối phó với tình hình mới trong mọi tình huống.
Trong 10 năm (1954 - 1964) xây dựng hậu phơng toàn diện về mọi mặt,
trong đó xây dựng kinh tế - chính trị - xã hội là nhiệm vụ hàng đầu, đã tạo cho
Quỳnh Lu thế và lực mới vững vàng bớc vào cuộc chiến đấu gay go, quyết liệt
với gịăc Mỹ trong hai cuộc chiến tranh phá hoại trên quê hơng, đồng thời làm
tròn nhiệm vụ hậu phơng lớn đối với tiền tuyến miền Nam.

** 14 **


CHƯƠNG II:
Quỳnh Lu trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ
nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968).
2.1. Tình hình chính trị - xã hội, yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng
đặt ra cho huyện Quỳnh Lu .
Đầu năm 1965 ,chiến lợc "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ có nguy cơ phá

sản hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế, chúng quyết định tăng cờng lực lợng quân
viễn chinh cùng với vũ khí và phơng tiện chiến tranh vào miền Nam nhằm
thực thi chiến lợc "chiến tranh cục bộ", đồng thời tiến hành chiến tranh phá
hoại miền Bắc nhằm cắt đứt nguồn chi viện của hậu phơng miền Bắc cho
chiến trờng miền Nam .
áp dụng chiến lợc"chiến tranh cục bộ", Mỹ hi vọng sẽ đè bẹp đợc miền
Nam Việt Nam, nhng Mỹ không thoát khỏi "vết xe đổ" đã liên tiếp thất bại.
Thua ở miền Nam, ngày 05/8/1964 bằng việc dựng lên sự kiện vịnh Bắc Bộ,
chúng bắt đầu đa máy bay, tàu chiến đánh phá ra miền Bắc bằng chiến dịch
"sấm rền" (02/1965 ). Ngày 03/2/1965 máy bay Mỹ ném bom bắn phá từ khu
vực Vĩnh Linh đến đảo Cồn Cỏ và các địa điểm khác của tỉnh Nghệ An .
Sau hơn 10 năm hoà bình cùng với nhân dân miền Bắc, quân và dân Nghệ
An phải bớc vào cuộc chiến tranh mới với những nhiệm vụ cách mạng mới.
Là một trong những địa bàn xung yếu của tỉnh Nghệ An đối với Quỳnh
Lu, giặc Mỹ có những hoạt động khiêu khích phá hoại từ trớc đó. Chỉ tính
riêng 1963 đã có tới 47 lần máy bay Mỹ xâm nhập vùng trời Quỳnh Lu và 17
lần Mỹ cho tàu chiến xâm phạm vùng biển quấy rối thuyền đánh cá [18 , 15].
Đầu năm 1965, Mỹ ném bom ồ ạt miền Bắc, Quỳnh Lu là một trong những
trọng điểm bắn phá của chúng.Từ đó cho đến năm 1968, không còn xã nào,
làng nào không bị máy bay Mỹ bắn phá. Cả Quỳnh Lu trở thành một "toạ độ
lửa khốc liệt". Thị trấn Cầu Giát và 17 làng của 43 xã bị đánh phá nặng, trong
đó có 4 làng bị phá huỷ rất nặng, 8 xã ở Hoàng Mai và các xã ở trục đờng sắt,
quốc lộ 1A, các cầu cống, các công trình công cộng bị bắn phá h hỏng nặng.
Bệnh viện phong ở Quỳnh Lập, nhà thờ Thiên Chúa Giáo ở Quỳnh Tam bị san
phẳng. Tính ra ở Quỳnh Lu từ năm 1965 - 1968 mỗi ngày phải chịu 12 trận
đánh phá bằng máy bay và pháo kích, cứ 5 ngời dân phải chịu 1 quả bom và
2434 ngời của Quỳnh Lu bị bom giết hại [1 , 118].

** 15 **



Tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, kẻ thù muốn dùng sức
mạnh tàn bạo để bắt nhân dân ta phải khuất phục, Mỹ đã huy động tất cả vũ
khí chiến tranh hiện đại tối tân, tiến hành đánh phá suốt ngày đêm. Ngoài việc
đánh tập trung các mục tiêu có chọn lọc, chúng đánh phong toả khắp nơi gây
ra tổn thất lớn, đồng thời thủ đoạn chiến tranh tâm lý cũng đợc chúng ráo riết
thực hiện. Bằng các phơng tiện thông tin hiện đại, chủ yếu là phát sóng truyền
thanh kết hợp với máy bay rải truyền đơn, hàng tâm lý, xuyên tạc chủ trơng đờng lối của Đảng, hòng làm cho nhân dân ta giảm lòng tin đối với Đảng, ca
ngợi sức mạnh quân sự "bất khả xâm phạm " của Hoa Kỳ. Dùng thủ đoạn trên
rõ ràng Mỹ muốn kéo miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá. Nhng Mỹ đã lầm! Dới sự
lãnh đạo và chỉ đạo kịp thời của Đảng, nhân dân miền Bắc nói chung và nhân
dân Quỳnh Lu nói riêng đã cùng nhau đoàn kết chung sức chung lòng cùng
với nhân dân miền Nam từng bớc đánh bại giặc Mỹ.
Cuộc chiến tranh không quân và hải quân nhằm phá hoại miền Bắc của
Mỹ đã làm cho tình hình một nửa nớc có chiến tranh, một nửa nớc có hoà bình
biến thành tình hình cả nớc có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau
ở mỗi miền. Đứng trớc tình hình mới, Ban chấp hành trung ơng Đảng đã họp
hội nghị lần thứ 11(27/3/1965), hội nghị lần thứ 12 ( 12 /12/1965), khẳng
định: "quyết tâm đánh bại chiến tranh xâm lợc của đế quốc Mỹ trong bất kỳ
tình huống nào... hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong
cả nớc, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nớc nhà" [21 , 65]. Đồng thời
chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách của miền bắc lúc này là: " phải ra sức xây dựng chủ
nghĩa xã hội và tăng cờng lực lợng quốc phòng, kịp thời chuyển hớng nền kinh
tế, ra sức tăng cờng phòng thủ trị an, bảo vệ miền Bắc, kiên quyết đánh bại kế
hoạch ném bom bắn phá, phong toả miền Bắc, ra sức chi viện cho cách mạng
miền Nam" [21 , 113] . Phơng châm xây dựng và bảo vệ miền Bắc lúc này là:
vừa xây dựng kinh tế, vừa chiến đấu .
Trong tình hình và điều kiện của cách mạng cả nớc ngày 21/1/1965,
tỉnh uỷ Nghệ An thông qua đề án "chuyển hớng xây dựng kinh tế 3 năm 19651967" .Đề án nêu rõ cần "hết sức coi trọng xây dựng cơ sở vật chất, kỷ thuật
của chủ nghĩa xã hội, tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất, đẩy mạnh kinh tế, đặc

biệt là sản xuất nông nghiệp, tăng cờng tiềm lực quốc phòng, xây dựng hậu
phơng vững mạnh" [19 , 134]. Tiếp đó ngày 27/2/1965 ban thờng vụ tĩnh uỷ

** 16 **


Nghệ An ra chỉ thị tăng cờng công tác t tởng và tổ chức ra sức chuẩn bị chiến
đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống.
Dới ánh sáng của nghị quyết trung ơng Đảng, thực hiện chủ trơng của
tỉnh uỷ cùng với các huyện khác trong tỉnh, Quỳnh Lu đã nhanh chóng chuyển
mọi hoạt động trên địa bàn huyện từ thời bình sang thời chiến. Huyện uỷ
Quỳnh Lu đã mở các hội nghị đi sâu nghiên cứu nắm vững thực tiễn địa phơng, nghiêm chỉnh chấp hành đờng lối chủ trơng của Đảng để đẩy mạnh sản
xuất, bảo đảo làm tròn nghĩa vụ trớc những yêu cầu ngày càng lớn lao của sự
nghiệp chống Mỹ cứu nớc. Theo sự chỉ đạo của tỉnh uỷ Nghệ An, Huyện uỷ
Quỳnh Lu đã xác định rõ hơn đặc điểm của huyện để đề ra nhiệm vụ phù hợp
với ba vùng: đồng bằng, miền biển, miền núi và bán sơn địa, trên cơ sở nhiệm
vụ chung nhất là phát triển sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh thâm canh, tăng
năng suất cây trồng vật nuôi .
Đại hội đại biểu Đảng bộ Quỳnh Lu lần thứ X (23/9/1967) đã xác định
rõ những nhiệm vụ cụ thể của huyện trong thời kỳ này là:
+ Tổ chức chiến đấu cũng nh phòng tránh máy bay địch ném bom bắn
phá nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, đồng thời bảo vệ sản suất.
+ Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất - kỷ thuật cho nông nghiệp
nhất là các công trình thuỷ lợi, đồng thời đẩy mạnh thâm canh.
+ Xúc tiến điều chỉnh sức lao động giữa các vùng trong huyện, ra sức
nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp.
Ba nhiệm vụ này có mối quan hệ biện chứng với nhau trong lúc cách
mạng thời bình chuyển sang thời chiến, vừa đẩy mạnh sản xuất vừa chiến đấu,
tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi viện cho miền Nam, cần phải tăng cờng
cơ sở vật chất, tăng cờng quốc phòng. Quá trình phát triển kinh tế trong thời

chiến, vấn đề đặt ra là: sản xuất, bảo vệ thành quả lao động, bảo vệ thành quả
xây dựng kinh tế, với ý nghĩa đó Quỳnh Lu đề ra chủ trơng phù hợp.
2.2. Quỳnh Lu trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế
quốc Mỹ (1965 - 1968).
2.2.1.Trên mặt trận chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Trớc sự phá sản của chiến lợc "chiến tranh đặc biệt ", Giôn Xơn nhanh
chóng đa ra kế hoạch mới, chiến lợc "chiến tranh cục bộ" với sự tham gia trực

** 17 **


tiếp của quân Mỹ trên chiến trờng miền Nam và tiến hành cuộc chiến tranh
bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Nghệ An là một trong những địa
điểm nằm trong tầm ngắm chiến lợc của Mỹ. Nơi đây đợc xem là "cổ họng "
nối liền Nam - Bắc, mà Quỳnh Lu là huyện địa đầu của tỉnh giữ một vị trí
quân sự quan trọng, trở thành túi bom của Mỹ trong quá trình chiến tranh
leo thang ra miền Bắc. Chính vì vậy mà giặc Mỹ đã trút xuống đây hàng
ngàn tấn bom đạn các loại, tàn phá nặng nề, 43 xã trong huyện đều bị bom
đạn Mỹ giày xéo, có xã bị san phẵng hoàn toàn. Chúng không kể ngày hay
đêm, thời tiết tốt hay xấu, tiếng máy bay gầm rú, quần đảo liên tục trên bầu
trời Quỳnh Lu. Những trận ma bom của Mỹ đã tàn phá nặng nề, gây thiệt
hại lớn về của cải vật chất và cớp đi hàng nghìn sinh mạng con ngời, sự
sống và cái chết chỉ là trong khoảng khắc, không khí cuộc chiến tranh bao
phủ toàn huyện. Nhân dân Quỳnh Lu lại tiếp tục bớc vào một cuộc chiến
đấu mới.
Đứng trớc tình hình đó, nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân
Quỳnh Lu là phải đứng lên chiến đấu đánh trả máy bay và tàu chiến Mỹ, bảo
vệ quê hơng, góp phần cùng với nhân dân miền Bắc làm tròn nhiệm vụ hậu
phơng đối với tiền tuyến lớn.
Nhận rõ sứ mệnh của mình cùng với sự chỉ đạo kịp thời, sáng tạo của

Đảng bộ huyện, quân dân Quỳnh Lu nhanh chóng chuyển mọi hoạt động từ
thời bình sang thơì chiến. Công tác đầu tiên và hết sức quan trọng là chuẩn bị
chiến đấu và chiến đấu, vừa đề ra phơng án đánh trả địch, đồng thời phải biết
cách phòng tránh nhằm hạn chế tổn thất cho nhân dân. Bằng cách khảo sát
thực tế địa phơng, huyện uỷ Quỳnh Lu đã xác định các địa điểm có tính chiến
lợc trên địa bàn huyện. Từ đó chỉ thị cho các xã bố trí trận địa chiến đấu, các
đơn vị pháo cao xạ, 75 ly, súng máy 12 ly7 đợc bố trí kiên cố tại địa điểm
xung yếu nh : Rú Rồng (Quỳnh Nghĩa), Hoàng Mai, dọc tuyến quốc lộ 1A và
các xã ven biển: Quỳnh Long, Quỳnh Thuận, Quỳnh Liên. Tại các điểm có độ
cao có thể phát hiện và đánh trả địch nh: mỏ đá Hoàng Mai, Rú Vin (Quỳnh
Giang) đều đợc đặt đài quan sát báo hiệu kịp thời và xây dựng trận địa pháo.
Mỗi xã trong huyện đợc xem là một trận địa chiến đấu có trang bị vũ khí và
xây dựng lực lỡng chiến đấu thành các trung đội dân quân "vừa sản xuất vừa
chiến đấu". Lực lợng dân quân này khi không có máy bay địch đánh phá, họ
bám đồng bám ruộng hăng say sản xuất, ngoài ra họ còn tập trung luyện tập

** 18 **


chiến đấu vào buổi tối, hầu hết đợc trang bị súng trờng. Mỗi khi máy bay địch
đến gây rối họ sẵn sàng bớc vào hàng ngũ chiến đấu, trên trận tuyến dân quân
phối hợp chặt chẽ với bộ đội địa phơng lập nhiều chiến công xuất sắc.
Xác định cuộc chiến đấu khốc liệt và lâu dài, những tổn thất hy sinh do
kẻ thù gây ra không kể xiết. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả chiến đấu, công
tác huấn luyện và trang bị vũ khí cho nhân dân luôn là vấn đề đợc quan tâm
hàng đầu của Đảng bộ huyện. Nhiêù đồng chí cán bộ huyện cùng với các
chiến sĩ bộ đội thờng xuyên tổ chức hớng dẫn nhân dân cách sử dụng các loại
vũ khí chiến đấu. Nhờ đó trong thời kỳ (1965-1968), hầu hết dân quân các xã
đã sử dụng thành thạo các loại vũ khí tơng đối nặng, một số xã đã biết sử dụng
súng máy 12 ly 7. Công tác vũ trang trong nhân dân đợc thực hiện tốt đã tạo

điều kiện để nhân dân Quỳnh Lu vững vàng trong chiến trận lập nên những
chiến công to lớn ngay trên mảnh đất quê hơng .
Trong cuộc chiến này Mỹ đã sử dụng nhiều loại vũ khí hiện đại có sức
công phá lớn, các loại máy bay tàu chiến nh : " thần sấm" "con ma " chở khối
lợng lớn bom đạn trút xuống miền Bắc. Đế quốc Mỹ đã từng rêu rao "sức
mạnh không lực Hoa Kỳ ", song dới bầu trời Quỳnh Lu chúng bị đánh bại
nhiều trận. Nhân dân Quỳnh Lu với vũ khí thông thờng, thô sơ: súng trờng,
súng bộ binh và các công cụ sản suất hàng ngày của ngời nông dân cũng đợc
dùng để bắt sống giặc lái. Dù thua kém kẻ thù về nhiều mặt nhng với phơng
châm: lấy ít đánh đông ,lấy thô sơ đánh hiện đại, bám thắt lng địch mà đánh.
Nhân dân Quỳnh Lu không quản hi sinh gian khổ anh dũng chiến đấu lập nên
chiến công lừng lẫy, hạ nhiều máy bay, bắt sống giặc lái ngay trên mảnh đất
quê hơng.
Trong thời gian từ 1965 - 1968 bộ đội địa phơng và dân quân Quỳnh Lu
đã bắn tan xác 101 máy bay, bắn cháy 6 tàu chiến và làm nhiều tàu khác bị thơng, riêng dân quân tự vệ đã bắn rơi 9 chiếc máy bay và bắt sống 13 tên giặc
lái [1 , 120]. Nhân dân các xã hăng hái xông pha trận mạc, bằng súng bộ binh
bắn rơi máy bay Mỹ trở thành một kỳ tích trong lịch sử, điển hình nh các xã
Quỳnh Trang, Quỳnh Thiện, Quỳnh Hồng, Quỳnh Long, Quỳnh Thuận,
Quỳnh Lập, Quỳnh Hng, Quỳnh Nghĩa. Ngày càng có nhiều máy bay Mỹ bị
bắn rơi trên đất liền, vùng lãnh hải của huyện tàu chiến Mỹ đánh phá ác liệt,
nhân dân các xã ven biển phối hợp với các đơn vị pháo cao xạ, pháo 75 ly dọc
bờ biển đánh trả quyết liệt dành thắng lợi lớn.

** 19 **


Bớc sang năm 1966, cuộc chiến ngày càng ác liệt trong Nam cũng nh
ngoài Bắc, máy bay và tàu chiến Mỹ đánh phá với mức độ ác liệt hơn nhiều,
chỉ tính đầu năm 1966 số lợng bom đạn Mỹ trút xuống bằng cả năm 1965.
Nhận thấy đánh vào ban ngày bị ta bắn rơi nhiều, địch chuyển rang đánh vào

ban đêm là chủ yếu, chỉ cần phát hiện thấy một ánh sáng le lói ở một địa điểm
nào đó, ngay lập tức chúng cho máy bay ném bom, xả đạn ồ ạt. Thông thờng
cứ theo sau những lần đánh bom của máy bay là những đợt pháo kích từ biển
vào, tàn phá nhà cửa, làng mạc các xã ven biển. Hành động phá hoại dồn dập
của kẻ thù hòng gây nên tâm lý căng thẳng, mệt mỏi trong nhân dân. Trong
chiến tranh đau thơng mất mát là thờng, nhân dân Quỳnh Lu quyết tâm biến
đau thơng thành hành động cách mạng. Toàn huyện dấy lên phong trào "nhằm
thẳng máy bay địch mà bắn", phấn đấu hạ nhiều máy bay, bắt sống nhiều tên
giặc lái. Ngoài các đơn vị trực chiến, các trận địa pháo cao xạ và các đơn vị
dân quân, nhân dân các xã đều tự trang bị vũ khí sẵn sàng đánh trả máy bay
địch khi chúng đến phá hoại quê hơng. Vì thế, trong cuộc chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại của Mỹ lần thứ nhất nhiều đơn vị dân quân cùng với nhân
dân các xã lập nên những chiến công to lớn.
Ngày 9/4/1965, tại Hoàng Mai trận địa pháo cao xạ phối hợp với dân
quân và nhân dân các xã đánh trả cuộc tấn công của máy bay Mỹ, với 185 quả
bom dội xuống cầu đờng và kho tàng, đã hạ đợc hai chiếc máy bay F4 của Mỹ.
Tiếp đến vào ngày 19/4/1965, tiểu đoàn 14 s đoàn 341, tiểu đoàn 8 và đồn
công an ở Lạch Quèn cùng với dân quân Quỳnh Lu đã bắn gục 3 chiếc máy
bay và bắt sống 3 tên giặc lái. [23 , 91].
Trên địa bàn các xã, các cấp chính quyền cùng với nhân dân tổ chức các
trận địa chiến đấu lập công, tiêu biểu: ngày 3/2/1966, tiểu đoàn 14 s đoàn 341
ở Cầu Giát có sự phối hợp của dân quân tự vệ bắn rơi 3 chiếc máy bay, trong
đó có chiếc A3J rơi tại chỗ, tên giặc lái nhảy dù xuống biển, cách bờ biển
Quỳnh Bảng khoảng 5 km. Đơn vị dân quân và nhân dân xã Quỳnh Bảng lập
tức lên thuyền ra khơi vây bắt giặc lái. Cuộc chiến đấu giữa một bên là thuyền
đánh cá trang bị súng bộ binh với một bên là các loại máy bay trang bị hiện
đại đã diễn ra quyết liệt, sau 1 tiếng đồng hồ dành dật trên biển kẻ thù buộc
phải rút lui, nhân dân đã tóm gọn tên giặc lái. Đây là chiến công lớn đầu tiên
của nhân dân Quỳnh Bảng có ý nghĩa mở đầu cho phong trào săn bắt giặc lái
trên biển cũng nh trên bộ. Chiến thắng này góp phần cổ vũ lớn lao tinh thần


** 20 **


chiến đấu cuả nhân dân các xã trong toàn huyện. Ngày 7/2/1966, nhân dân xã
Quỳnh Yên bắt sống một tên giặc lái trên địa bàn xã, số xã bắt đợc từ 1 đến 2
giặc lái ngày càng tăng lên nh : Quỳnh Lập, Quỳnh Phơng, Quỳnh Trang,
Quỳnh Tiến. Trong 2 ngày 4 và 5/5/1967 nhân dân Quỳnh Liên đã bắt sống
hai tên biệt kích trên vùng biển của xã, thắng lợi của nhân dân càng làm tăng
thêm quyết tâm, niềm tin trong đánh Mỹ. Trong khói lửa chiến tranh, nhân
dân Quỳnh Lu đợc rèn luyện và trởng thành về nhiều mặt, chiến đấu có hiệu
quả hơn, số lần chiếc máy bay Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời Quỳnh Lu cũng
tăng lên, điển hình: ngày 20/9/1966, nhân dân xã Quỳnh Thuận đã dùng 25
viên đạn trung liên hạ máy bay AD 6. Cùng ngày, nhân dân xã Quỳnh Liên sử
dụng 14 viên đạn đại liên bắn rơi một chiếc máy bayF4H. Năm 1967, xuất
hiện nhiều xã bắn rơi máy bay Mỹ, các loại máy bay F 4, AD6, A4, A4D lần lợt
bị bắn rơi trên địa bàn các xã Quỳnh Hồng, Quỳnh Thiện, Quỳnh Trang, với
thắng lợi này 4 xã trên đã đợc nhà nớc trao tặng Huân chơng chiến công, hạng
3. Dới bom đạn kẻ thù, các đơn vị dân quân không quản hi sinh, bám lấy trận
địa, phối hợp với bộ đội địa phơng và bộ đội chủ lực đánh trả máy bay địch
dành thắng lợi lớn.
Năm 1965, dân quân tự vệ Quỳnh Lu đã phối hợp với đơn vị D 14, D17
bắn rơi 6 máy bay F4 và A4D, năm 1966 hạ thêm 10 chiếc A4D, F4, F8 và 3
chiếc khác bị thơng. Năm 1967, dân quân tự vệ phối hợp với bộ đội địa phơng
hạ 10 chiếc may bay mang hiệu A4 và F4 [28 , 4]. Với ý đồ đè bẹp Bắc Việt
Nam bằng mọi giá, càng thua Mỹ càng cố gắng tìm cách dành thắng lợi trên
chiến trờng, Mỹ tăng cờng đánh phá ác liệt hơn. Vì thế một trong những
nhiệm vụ hết sức quan trọng là phải đánh trả máy bay địch, nhng cũng phải
biết cách phòng tránh nhằm giảm thiệt hại về ngời và của cho nhân dân. Dới
sự chỉ đạo trợc tiếp của Đảng bộ huyện, công tác phòng không đợc thực hiện

khắp nơi, đặc biệt tại những địa điểm địch đánh phá ác liệt. Huyện đã huy
động toàn dân với hàng vạn ngày công đóng góp sửa chữa, tu bổ và làm nhiều
hầm mới, hệ thống hào chiến đấu xuyên suốt giữa các xã đến công sự chiến
đấu. Trong nhân dân vang lên khẩu hiệu "hầm hào cha đủ, ăn ngủ cha yên",
"mở rộng nhà bếp thu xếp nhà to chăm lo hầm hào", đã có tác dụng động viên
phong trào rất kịp thời. Chỉ trong một thời gian ngắn, Quỳnh Lu đã xây dựng
đợc hàng nghìn cái hầm chữ A và nhiều loại hầm khác, nhà nhà trong huyện
đều có hầm trú ẩn đúng tiêu chuẩn, quy cách, nhiều gia đình đã tự giở nhà để

** 21 **


làm hầm chữ A kiên cố. Để đảm bảo an toàn tính mạng cho nhân dân trong
quá trình lao động sản xuất, trên khắp các cánh đồng đều đợc xây dựng hệ
thống hầm, hào dọc các tuyến đờng giao thông, dày đặc các loại hầm nhất là
dọc tuyến quốc lộ 1A từ Hoàng Mai đến Yên Lý, cứ khoảng 20 m có một hầm
trú ẩn. Hệ thống hào với độ sâu từ 1 đến 1,5 m đợc đào hai bên đờng và cả
những tuyến đờng dẫn ra trận địa chiến đấu Dọc bờ biển Quỳnh Lu, tại các
cửa lạch quan trọng nơi tàu thuyền chở hàng chi viện thờng xuyên cập bến.
Nhân dân đã xây dựng nhiều cái hầm lớn để kịp thời cất dấu hàng hoá và hầm
trú ẩn của ng dân. Trong các cơ quan nh :bệnh viện, trờng học cũng đợc xây
dựng hầm và hệ thống giao thông đờng hào để di chuyển học sinh khi có
chiến sự xảy ra.
Phong trào phòng không nhân dân đợc toàn dân hởng ứng, hăng hái
tham gia các chiến dịch xây dựng hầm hào trên toàn huyện. Đến năm 1967,
nhân dân Quỳnh Lu đã xây dựng đợc 300.000 hầm chữ A và hơn 2000 hầm
các loại nh : hầm chiến thuật, hầm tròn ...[2 , 217]. Công tác ngụy trang đợc
đẩy mạnh khắp nơi, các xã phát động phong trào trồng cây xanh. Năm 1965
,toàn huyện đã trồng đợc 3,5 triệu cây, 1966 trồng thêm đợc 1 triệu cây. Nhờ
làm tốt công tác phòng không cho nên trong cuộc chiến ác liệt này, Quỳnh Lu

phần nào đã hạn chế sự thiệt hại cho nhân dân. Trong thời gian từ ngày 25 29/9/1966, Mỹ đã xuất kích 117 máy bay đánh phá 100 trận, thả 418 quả bom,
phóng 720 quả bom mẹ và 200 phát rốc két nhng chỉ làm 8 ngời hi sinh, 10
ngôi nhà bị sập [18 , 29]. Sở dĩ sự thiệt hại của nhân dân đợc hạn chế là nhờ
tại các địa điểm địch bắn phá, nhân dân đã có đủ hầm hào, luôn sẵn sàng
chiến đấu và lới lửa của chiến tranh nhân dân đã ngăn chặn sự phá hoại của
giặc.
Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, Mỹ không từ bỏ bất cứ mục
tiêu nào, chúng cho máy bay bắn phá ác liệt, có những hành động hết sức man
rợ, tiêu biểu: vụ Mỹ ném bom bắn phá nhà thơng Quỳnh Lập ngày 12/6/1965
làm chết 179 ngời, bị thơng 115 ngời gồm bệnh nhân, bác Sĩ và nhân viên làm
việc trong bệnh viện, làm cho họ lâm vào cảnh đổ nát, không có nhà ở, không
có tiện nghi điều trị [19 , 143].
Từ trong đau thơng mất mát, tinh thần cách mạng của nhân dân đợc
khơi dậy hào hùng. Cuộc chiến đấu chống trả hành động phá hoại của kẻ thù
trên quê hơng Quỳnh Lu đã huy động đợc sự tham gia chiến đấu và phục vụ

** 22 **


chiến đấu của mỗi tầng lớp nhân dân bất kể già trẻ, gái trai, hễ có giặc đến là
sẵn sàng đứng lên đánh bại chúng. Thời kỳ này, xuất hiện nhiều tấm gơng "trẻ
xông pha già mẫu mực", anh dũng chiến đấu bảo vệ quê hơng, điển hình nh
Cụ Nguyễn Cao Viên (ở Quỳnh Liên), mặc dù tuổi đã ngoài 60 vẫn xung
phong tham gia đội thuyền của xã ra khơi vây bắt giặc lái, nguyện đóng góp
phần sức lực còn lại của mình cho quê hơng, cho tổ quốc. Các chị, các mẹ
không ngại khó khăn, vất vả ngoài việc lao động sản xuất trên đồng ruộng,
còn tình nguyện phục vụ cơm nớc nuôi quân. Ngày hăng say sản xuất, đêm
đến các chị tham gia vận chuyển đạn dợc, kéo pháo lên các trận địa. Những
đơn vị bộ đội chiến đấu trên địa bàn huỵên hay các chiến sĩ hành quân vào
chiến trờng, nghỉ chân tại đây đợc nhân dân đón tiếp nồng hậu, thể hiện tình

quân dân sâu sắc. Trong chiến tranh không ít gia đình đã tự nguyện dùng ngôi
nhà của mình làm kho chứa lơng thực, vũ khí của nhà nớc nh :gia đình ông
Bình (Quỳnh Nghĩa), bà Vi(Quỳnh Châu)... địch đánh phá ác liệt, nhiều tuyến
đờng giao thông h hỏng nặng, có những đoạn đờng bùn lầy lội, xe cộ qua lại
khó khăn, nhân dân đã chặt cây, giỡ cột nhà, cánh cửa dùng để lát đờng cho xe
qua.
Phát huy truyền thống tốt đẹp của ông cha, thế hệ nam nữ thanh niên
Quỳnh Lu xông pha trên khắp các chiến trờng . Nhiều trận địa chiến đấu, săn
máy bay Mỹ chủ yếu là nữ thanh niên nh : trận địa pháo 75 ly ở Quỳnh Liên
gồm 23 đồng chí đã dũng cảm chiến đấu lập nhiều chiến công xuất sắc trên
địa bàn xã. Ngoài ra đơn vị pháo Quỳnh Liên còn phối hợp với các xã bạn
chiến đấu bảo vệ vùng biển quê hơng. Trung đội nữ dân quân xã Quỳnh Long
luôn đạt danh hiệu là đơn vị sản xuất và chiến đấu giỏi. Năm 1967, đơn vị đã
phối hợp với dân quân Quỳnh Thuận bắn rơi 1 máy bay F 4 và 2 chiếc F8 , đơn
vị dân quân Quỳnh Long còn phối hợp với đơn vị pháo mặt đất bắn cháy một
tàu chiến, bắt sống tên giặc lái ngoài biển. Các đồng chí trong đội trực chiến
Quỳnh Long đã xung phong vào Nghi Lộc phối hợp với huyện bản chiến đấu.
Lực lợng dân quân và nhân dân huyện đã tham gia hàng vạn ngày công
để đảm bảo giao thông vận tải trên địa bàn huyện. Các tuyến đờng giao thông
chiến lợc qua huyện, địch đánh phá làm h hỏng nặng, nhân dân nhanh chóng
chuyển đất đá, gỗ ,san lấp hố bom kịp thời cho xe chạy qua. Ngay cả những
em đang độ tuổi học sinh lớp 6, lớp 7 cũng tham gia công tác nguỵ trang cho

** 23 **


xe, pháo. Cứ sau mỗi lần có xe chạy qua các em đã dùng chổi quét sạch dấu
vết, tránh tình trạng địch phát hiện chặn đánh.
Vào thời điểm năm 1966 - 1967 cuộc chiến ở miền Nam vô cùng khốc
liệt, lực lợng thanh niên, trai tráng ở Quỳnh Lu lên đờng chiến đấu. Nhng

không phải vì thế mà công việc sản xuất và chiến đấu tại quê hơng bị ngng trệ,
ngợc lại chính những ngời phụ nữ vốn tần tạo, đảm đang ,chất phác sẵn sàng
nhận mọi nhiệm vụ về mình ,làm thay công việc của chồng con. Họ vừa chăm
chỉ, cần cù trong lao động sản xuất, lại hăng hái tham gia phục vụ chiến đấu ở
Quỳnh Lu để chồng con yên tâm vào chiến trờng miền Nam đánh Mỹ. Không
ít chị em phụ nữ huyện đã tham gia chiến đấu trong các đợn vị pháo, dân quân
du kích và đi dân công hoả tuyến lập nhiều thành tích.
Ngày 19/3/1965, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã phát động phong
trào "ba đảm đang chống Mỹ cứu nớc và xây dựng chủ nghĩa xã hội". Quỳnh
Lu là một trong 4 huyện có số chị em phụ nữ đăng ký thực hiện phong trào
đông nhất ,cả huyện có 43 xã thì có đến 39 xã tham gia với số lợng là 31230
hội viên [26 , 210]. Nhờ đợc học tập và rèn luyện trong phong trào mà nhiều
chị em không những làm tốt nhiệm vụ của mình mà còn đảm nhiệm tốt công
việc thay chồng, điển hình nh chị Kích (Quỳnh Lập) đã thay chồng phát động
bà con trong xã cứu cánh đồng muối đang nguy cơ bị ngập nớc.
Trong suốt cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
với khẩu hiệu "tiếng hát át tiếng bom", các đội văn nghệ của huyện và các xã
đã tiến hành đi biểu diễn nhiều đêm trên khắp các trận địa, phục vụ các chiến
sĩ bộ đội, các đơn vị dân quân nhằm khích lệ tinh thần chiến đấu, làm vơi đi sự
mệt nhọc sau những ngày lao động vất vả của nhân dân.
Nh vậy, trong cuộc chiến tranh leo thang ra miền Bắc lần thứ nhất của
đế quốc Mỹ, với phơng châm toàn dân đánh giặc, Quỳnh Lu đã đánh bại cuộc
tập kích bằng không quân và hải quân của Mỹ trên địa bàn huyện. Thắng lợi
to lớn này là tiền đề vô cùng quan trọng để nhân dân Quỳnh Lu tiếp tục chiến
đấu với âm mu tiếp theo của Mỹ, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa công việc sản
xuất, chi viện cho chiến trờng miền Nam.
2.2.2. Trên mặt trận sản xuất.

** 24 **



Đồng thời với công cuộc đấu tranh chống lại hành động phá hoại của giặc
Mỹ, bảo vệ quê hơng. Quỳnh Lu bớc vào thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất, từng bớc ổn định đời sống nhân dân, chi viện cho chiến trờng miền Nam.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của mình trong cuộc chiến chống chiến
tranh phá hoại của Mỹ, Đảng bộ và nhân dân Quỳnh Lu nêu cao quyết tâm
"vừa chiến đấu vừa sản xuất ", góp phần cùng với nhân dân cả nớc hoàn thành
sự nghiệp thống nhất nớc nhà. Đẩy mạnh sản xuất đã trở thành một chiến lợc
đợc toàn dân hởng ứng nồng nhiệt. Bởi thế dù chiến tranh có ác liệt đến đâu,
máy bay Mỹ ném bom ồ ạt, gây nhiều đau thơng tổn thất, dới sự lãnh đạo trực
tiếp của Đảng bộ huyện, nhân dân Quỳnh Lu phát huy truyền thống cần cù
sáng tạo, chịu khó trong lao động, quyết tâm vợt qua mọi hoàn cảnh, quyết
sinh tử với kẻ thù. Trong khung cảnh bom nổ xé trời vẫn vang lên khẩu hiệu
"tay cày tay súng " "tay búa tay súng " "một tấc không đi một ly không rời",
bám đồng bám ruộng để sản xuất. Thời kỳ này, việc đẩy mạnh sản xuất nông
nghiệp đợc xem là chiến lợc kinh tế của huyện, bởi lẻ nó tạo nguồn lơng thực,
thực phẩm cung cấp cho hơn 17 vạn dân trong huyện, ngoài ra còn phục vụ
cho bộ đội và cả chiến trờng miền Nam, đồng thời việc phát triển nông nghiệp
củng phát huy thế mạnh của huyện .Vì thế nông nghiệp đợc chú trọng đầu t,
mà trớc hết là công tác thuỷ lợi trở thành khâu then chốt, quan trọng bậc nhất
góp phần quyết định sản lợng của ngành. Huyện đã phát động chiến dịch toàn
dân làm thuỷ lợi, với khối lợng đào đắp là 1.790.000 m3 .Năm 1965, huyện đã
xây dựng đợc 64 hồ chứa nớc dùng để cung cấp nớc cho đồng ruộng ,bên cạnh
đó các biện pháp kỷ thuật đợc áp dụng trong sản xuất, đặc biệt là việc bố trí
lại nguồn nhân lực giữa các vùng trong huyện. Một bộ phận c dân ở đồng
bằng ven biển đợc điều lên miền núi phía Tây của huyện phát triển vùng kinh
tế mới .Năm 1965, đã khai phá đợc 1451 ha đất canh tác, năm 1968 toàn
huyện có hơn 6000 ha đợc khai phá với 3 vạn ngời lên sinh cơ lập nghiệp ở
miền núi [28, 19]. Nhờ vậy sản lợng lơng thực không ngừng tăng lên, nếu năm
1963 chỉ có hợp tác xã đạt năng suất xấp xỉ 4 tấn/ha, thì năm 1965, sản lợng
thóc đạt 35000 tấn và đa năng suất lúa lên 4,5 tấn /ha .

Từ năm 1965 trở đi đế quốc Mỹ tăng cờng phá hoại, bom đạn rải khắp
nơi , lao động ban ngày địch phát hiện đánh phá, nhân dân tiến hành làm việc
vào ban đêm với phơng châm " một ngời bằng hai, bằng ba". Mặc dù chiến
tranh ác liệt nhng công việc sản xuất vẫn đợc duy trì, đời sống nhân dân đợc

** 25 **


×