BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGÔ QUANG LONG
SỬ DỤNG HOẠT ĐỘNG NHÓM ĐỂ DẠY HỌC
PHẦN SINH VẬT VÀ MÔI TRƯỜNG BẬC TRUNG
HỌC CƠ SỞ
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
VINH - 2011
2
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa.....................................................................................................i
Lời cảm ơn........................................................................................................ii
Mục lục..............................................................................................................1
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt..............................................................3
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................4
2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................5
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu...............................................................5
4. Giả thuyết khoa học.......................................................................................5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................................5
6. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................6
7. Những đóng góp của đề tài............................................................................8
8. Cấu trúc của luận văn....................................................................................8
PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................9
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài...........................................9
1.1. Cơ sở lý luận của đề tài..............................................................................9
1.1.1. Lịch sử vấn đề cần nghiên cứu................................................................9
1.1.2. Hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học..................11
1.1.3. Tổ chức hoạt động học tập bằng hình thức hoạt động nhóm...............12
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài.........................................................................21
1.2.1. Thực trạng của việc sử dụng các phương pháp dạy học của giáo viên
Sinh học ở các trường THCS hiện nay..................................................21
3
1.2.2. Học tập theo nhóm của học sinh......................................................... 24
1.2.3. Cấu trúc nội dung, chương trình Sinh học lớp 9................................. 25
Chương 2: Các biện pháp tổ chức dạy học theo nhóm để giảng dạy phần
Sinh vật và môi trường - Sinh học 9 THCS................................................ 30
2.1.Hệ thống các kiến thức sinh học có thể sử dụng để tổ chức dạy học theo
nhóm ………………………………………………………………………30
2.2. Thiết kế các hình thức tổ chức dạy học kiến thức Sinh vật và môi trường
theo các loại nhóm học tập......................................................................34
2.3. Các biện pháp sử dụng hoạt động nhóm để nâng cao hiệu quả dạy học
phần Sinh vật và môi trường...........................................................................54
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm...............................................................60
3.1. Mục đích thực nghiệm..............................................................................60
3.2. Phương pháp thực nghiệm........................................................................60
3.3. Kết quả thực nghiệm sư phạm..................................................................61
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..........................................................68
1. Kết luận.......................................................................................................68
2. Kiến nghị.....................................................................................................68
Tài liệu tham khảo...........................................................................................70
Phụ lục ............................................................................................................73
4
5
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ĐC :
Đối chứng
GV:
Giáo viên
HS:
Học sinh
KHTN:
Khoa học tự nhiên
TB:
Tế Bào
NXB:
Nhà xuất bản
SH:
Sinh Học
SGK:
Sách giáo khoa
SV:
Sinh vật
THCS:
Trung học cơ sở
THPT:
Trung học phổ thông
TN:
Thực nghiệm
VSV:
Vi sinh vật
MT:
Môi trường
6
MỞ ĐẦU
1.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Để đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, đưa đất nước đi lên bắt
kịp thời đại, đòi hỏi ngành giáo dục phải tạo ra những con người vừa năng
động, vừa sáng tạo, vừa biết tiếp thu những kiến thức giáo viên truyền thụ vừa
biết vận dụng kiến thức đó vào cuộc sống và tự mình tìm ra những tri thức
mới, đó là những thế hệ trẻ tương lai có thể làm chủ đất nước.
Phương pháp dạy học của giáo viên góp một phần quan trọng trong việc
hình thành nhân cách, kĩ năng tưởng cho học sinh. Một giáo viên dạy giỏi
không chỉ đơn thuần là họ có kiến thức sâu rộng về chuyên môn mà quan
trọng là phương pháp dạy học của giáo viên đó làm thế nào mà người học
sinh phát huy được hết khả năng học tập của mình, học sinh không chỉ hiểu
những kiến thức giáo viên truyền thụ mà từ đó say mê khám phá ra những tri
thức mới. Chính vì vậy mà những năm gần đây phương pháp dạy học cũng có
những đổi mới “tư tưởng dạy học tập trung vào người học” (Learner centred
teaching) tức là “dạy học vì học sinh và được thực hiện bởi học sinh” (học
sinh là mục đích và học sinh là chủ thể)
Vấn đề đó đã được khẳng định ở điều 24 của luật giáo dục nước ta:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với từng đặc điểm của lớp học, môn
học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng ứng dụng vào thực
tiễn tác động vào tình cảm, đem lại niềm vui và hứng thú học tập cho học
sinh”. Vì vậy, người giáo viên không chỉ trau dồi chuyên môn tốt mà còn phải
luôn quan tâm đến phương pháp của mình, không chỉ đơn thuần là cung cấp
nội dung cho học sinh, không phải người giáo viên đóng vai trò chủ đạo mà
phải quan tâm đến cách học chủ động, lấy học sinh làm trung tâm, làm sao
cho học sinh phát huy được tính tích cực của mình.
Hoạt động nhóm là một trong những phương pháp dạy học đáp ứng được
những yêu cầu trên. Thông qua hoạt động nhóm các em có thể tự tìm tòi,
7
mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình, các em có thể tham khảo ý kiến lẫn nhau,
từ đó có thể học tập lẫn nhau, hình thành một thói quen tự suy nghĩ, tự học
tập, tự nghiên cứu, giúp các em có hứng thú trong học tập và học tập một cách
hiệu quả nhất.
Sinh học là một bộ môn rất gần gũi với các em trong cuộc sống vì vậy
kiến thức về sinh học các em rất dễ tự tìm hiểu, nâng cao trình độ của mình
nếu các em biết tự học, tự khám phá, tự tìm tòi. Đặc biệt phần "Sinh vật và
môi trường" - Sinh học lớp 9 có nội dung rất rộng và mang tính thực tiễn
cao, là những vấn đề mới không thuộc lĩnh vực sinh học cơ thể đã được đề
cập từ Sinh học lớp 6 đến Sinh học lớp 8, vì vậy giúp mở rộng nhận thức cho
HS khám phá thế giới thiên nhiên xung quanh.
Từ những nhận định trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Sử dụng hoạt động
nhóm để dạy học phần Sinh vật và môi trường bậc THCS”
2.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đề xuất các cách tổ chức hoạt động nhóm thích hợp nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học phần "Sinh vật và môi trường" - Sinh học 9.
3.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Hoạt động học tập theo nhóm phần "Sinh vật và môi trường" - Sinh học 9.
4.
GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu biết lựa chọn và tổ chức hợp lý các kiểu hoạt động nhóm trong giảng dạy
phần Sinh vật và môi trường thì không những nâng cao nhận thức mà còn góp
phần rèn luyện kỹ năng học tập cho học sinh.
5.
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài.
Xác định hệ thống các kiến thức có thể tổ chức dạy học theo nhóm và sử
dụng quy trình dạy học theo nhóm.
8
Xác định phương pháp và biện pháp tổ chức giờ học theo nhóm tại lớp
để nâng cao hiệu quả nhận thức cho học sinh từ đó thiết kế các cách thức tổ
chức dạy học theo nhóm.
TN sư phạm để kiểm tra hiệu quả của việc tổ chức dạy học theo nhóm.
6.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được tiến hành bằng cách sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học giáo dục.
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến luận văn như:
- Lý luận về dạy học Sinh học.
- Tài liệu, sách, báo liên quan đến hình thức dạy học theo nhóm
- Tài liệu hướng dẫn chuyên môn, sách giáo khoa...
- Các công trình nghiên cứu về cải tiến phương pháp dạy học.
6.2. Phương pháp điều tra
Lập phiếu điều tra để tìm hiểu về thực trạng dạy học chương trình Sinh
học nói chung và chương trình Sinh học lớp 9 nói riêng.
Điều tra về việc học tập theo nhóm tại lớp môn Sinh học của học sinh.
6.3. Phương pháp chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi với những chuyên gia có trình độ cao về lĩnh vực nghiên
cứu để được tư vấn, thu thập thông tin định hướng cho việc triển khai nghiên
cứu đề tài.
6.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Tiến hành thực nghiệm bằng phương pháp thực nghiệm chéo ở 2 trường
THCS, mỗi trường chọn 2 lớp thực nghiệm, 2 lớp đối chứng có số lượng, chất
lượng tương đương nhau.
+ Ở lớp thực nghiệm, giáo án thiết kế theo hướng sử dụng các hoạt động
khám phá.
+ Ở lớp đối chứng, giáo án được thiết kế theo phương pháp dạy học
truyền thống.
9
- Các lớp thực nghiệm và đối chứng ở mỗi trường do một GV giảng dạy,
đồng đều về thời gian, nội dung kiến thức, điều kiện dạy học và hệ thống câu
hỏi đánh giá sau mỗi tiết học.
- Trong quá trình thực nghiệm, có thảo luận với giáo viên bộ môn ở các
trường để thống nhất nội dung và phương pháp giảng dạy.
6.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng một số công thức toán học để xử lí các kết quả điều tra và thực
nghiệm sư phạm:
- Phần trăm (%)
- Trung bình cộng:
X =
1
n
- Phương sai:
S2 =
1
( X i − X ) 2 ni
∑
n −1
∑X n
i i
- Độ lệch chuẩn S (đo mức độ phân tán của số liệu quanh giá trị trung
bình):
(
)
2
1
X i − X ni
∑
n −1
S cho biết mức độ phân tán quanh giá trị X , S càng bé độ phân tán càng ít.
S
- Hệ số biến thiên: Cv% = 100%
X
S
- Sai số trung bình cộng: m =
n
S= ±
Khi có hai số trung bình cộng khác nhau, độ lệch chuẩn khác nhau thì phải
xét đến hệ số biến thiên (Cv).
+ Cv=0-10%
: Dao động nhỏ, độ tin cậy cao.
+ Cv=10-30%
: Dao động trung bình.
+ Cv=30-100% : Dao động lớn, độ tin cậy nhỏ.
- Kiểm định độ tin cậy sai khác giữa 2 giá trị trung bình:
X1 − X 2
td =
S12 S 22
+
n1 n2
Trong đó:
Xi: Giá trị của từng điểm số (theo thang điểm 10).
ni: Số bài có điểm Xi.
X 1 , X 2 : Điểm số trung bình của 2 phương án: thực nghiệm và đối
chứng.
n1, n2: Số bài trong mỗi phương án.
S12 và S 22 là phương sai của mỗi phương án.
10
Sau khi tính được td, ta so sánh với giá trị t α được tra trong bảng phân
phối Studen với mức ý nghĩa α =0,05 và bậc tự do f= n1+n2-2.
+ Nếu td ≥ tα: Sự khác nhau giữa X 1 và X 2 là có ý nghĩa thống kê.
+ Nếu td < tα: Sự khác nhau giữa X 1 và X 2 là không có ý nghĩa thống
kê.
7.
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Xác định hệ thống các kiến thức có thể tổ chức dạy học theo nhóm
của phần Sinh vật và môi trường - Sinh học 9.
Thiết kế các cách tổ chức dạy học theo nhóm phần Sinh vật và
môi trường - Sinh học 9 nhằm nâng cao hiệu quả nhận thức của
học sinh.
Các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học theo nhóm phần Sinh
vật và môi trường - Sinh học 9.
8.
CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Tổ chức dạy học phần Sinh vật và môi trường - Sinh học 9
bằng hình thức hoạt động nhóm.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
11
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Dạy học theo nhóm nhỏ có một lịch sử lâu đời. Người khởi xướng
phương pháp này là nhà triết học cổ Hi Lạp Socrate. Vì vậy gọi là phương
pháp Socrate hay phương pháp hội thoại - trò chuyện với đặc trưng chủ yếu là
dùng hội thoại, tranh luận để tìm tòi, phát hiện ra chân lý. Phương pháp này
đưa người học đến chỗ tự mình phát hiện ra được cái mình chưa biết và tự đi
đến cái cần biết...Ý nghĩa quan trọng của phương pháp Socrate đối với quá
trình dạy học hiện đại là ở chỗ: người học phải cùng với người dạy làm chủ
quá trình lĩnh hội tri thức, rồi sau đó mới có được tri thức, tức là làm chủ
được tri thức bản thân.
Hình thức học tập theo nhóm bắt đầu được áp dụng ở Đức, ở Pháp vào
thế kỷ XVIII. Ở Anh vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX hình thức này
được sử dụng dưới hình thức dạy học hướng dẫn viên được gọi là hình thức
dạy học tương trợ, do linh mục Bel và giáo viên D.Lancaster đề ra và sau đó
được Girar phát triển với sắc thái khác.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, với việc xây dựng “kiểu nhà trường
hoạt động”, vấn đề học tập cộng đồng đã được nhiều nhà giáo dục học, tâm lý
học phương Tây chú ý nghiên cứu. Trong số đó, John Dewey đã chú ý phát
triển hình thức học tập theo nhóm và đã đề ra lý thuyết học tập nhóm. Theo
ông, môi trường có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển nhân cách của trẻ, do đó
càng tạo cho trẻ một môi trường càng gần với đời sống càng tốt. Một trong số
môi trường đó là môi trường làm việc chung sẽ tạo cho trẻ thói quen trao đổi
kinh nghiệm, có cơ hội phát triển lý luận.
Sau này Kershensteiner cố gắng sử dụng hình thức học tập này vào cuộc
cải cách nhà trường trung và tiểu học, cho rằng hoạt động chung làm khơi dậy
tinh thần trách nhiệm cá nhân trong lương tâm của mỗi người, loại bỏ những
12
hành động do động cơ ích kỷ. Nhưng ông chỉ ra rằng nếu sử dụng không đúng
đôi khi có thể dẫn tới một hình thức đặc thù của “tính ích kỷ cộng đồng”. Vì
sau một thời gian làm việc chung, nhóm có thể trở thành một cá thể, và vì
quyền lợi của nhóm, vì ganh đua cá thể đó mà trở nên ích kỷ.
Roger Cousinet, nhà giáo dục người Pháp, một phần chịu ảnh hưởng của
nhà xã hội học người Đức, Durkheim, cho giáo dục như là một phương thức
để xã hội hoá Tư tưởng giáo dục của John Dewey cho rằng phải tổ chức nhà
trường trở thành một môi trường mà trẻ có thể sống. Đối với vấn đề này, theo
ông sự làm việc chung thành từng nhóm sẽ là giải pháp thoả đáng về mặt sư
phạm. Ông đã nghiên cứu một cách cụ thể về ý nghĩa của hình thức học tập
theo nhóm, cơ cấu của nhóm, đặc điểm của nhóm học tập, cách sử dụng nhóm
học tập để đạt được hiệu quả.
Hình thức học tập theo nhóm sau này đã được Peterson, Dottre (Thuỵ Sĩ), Elsa
(Áo), A.Jakul (Ba Lan), Kôtôv (Nga) và những nhà giáo dục khác đã nghiên cứu
vận dụng và phát triển. Hình thức dạy học này được sử dụng rất phổ biến ở các
nước phương Tây.
Ở Nga sau cách mạng tháng Mười đã sử dụng hình thức dạy học này
dưới dạng theo hình thức đội - thí nghiệm một cách không đúng đã dẫn tới hạ
thấp vai trò của người giáo viên và xem nhẹ việc học tập cá nhân của từng
học sinh. Do đó đã bị phê bình và loại bỏ khỏi nhà trường Xô viết lúc
bấy giờ.
Ở Việt Nam hình thức học tập theo nhóm đã có từ lâu. Ông cha ta đã có
câu: “Học thầy không tày học bạn”. Đặc biệt sau Cách mạng tháng Tám,
trong nhà trường chúng ta có phong trào học tập dân chủ, học tập nhóm.
Phong trào đó tồn tại và phát triển trong suốt những thập kỷ vừa qua dưới
những hình thức khác nhau.
Tại khoá tập huấn từ 4/3/2000 đến 10/3/2000 tổ chức ở 67 Cửa Bắc Hà
Nội trong khuôn khổ dự án quản lý nhà trường của trường bồi dưỡng cán bộ
giáo dục Hà Nội và tổ chức VVOB, ông Hugo Staes - thanh tra giáo dục
13
vương quốc Bỉ đã sử dụng phương pháp nhóm chuyên gia và được những
người tham gia nhiệt liệt hưởng ứng.
Hiện nay trước yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục nhằm
đào tạo những con người chủ động sáng tạo, thích nghi với môi trường luôn
biến động, nhằm đáp ứng được sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, hình thức học tập theo nhóm
trong tiết học đang được đặt ra một cách cấp thiết. Tuy nhiên, việc vận dụng
để hình thức dạy học này cho có hiệu quả tốt đòi hỏi chúng ta phải có sự
nghiên cứu tiếp tục. Vì vậy, việc vận dụng tổ chức hoạt động học tập theo
nhóm vào giải quyết nâng cao chất lượng giảng dạy môn học ở một cấp học
cụ thể là điều hoàn toàn mới và rất có ý nghĩa.
1.1.2 Hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học
Xét về một phương diện nào đó, dạy học tức là tổ chức quá trình nhận
thức. Quá trình nhận thức là sự phản ánh một cách tích cực thế giới khách
quan vào ý thức con người. Việc giảng dạy một khoa học thực nghiệm như
sinh học phải bắt đầu bằng các sự kiện (sự vật, hiện tượng, quá trình, quan
hệ) và dựa trên các kiến thức sự kiện để xây dựng các kiến thức lý thuyết
(khái niệm, định luật, học thuyết…). Do vậy, để tổ chức tốt quá trình dạy học,
chúng ta cần chú ý đến những đặc điểm tâm lý của học sinh như sự phát triển
trí tuệ, khả năng tự điều chỉnh, tự tổ chức, tự ý thức, tự đánh giá mà phát triển
khả năng nhận thức cho học sinh. Cụ thể ta nên chú ý đến các hướng cơ bản
sau:
Sử dụng phương pháp dạy học mang tính chất nghiên cứu, kích thích
được hoạt động nhận thức, rèn luyện tính độc lập trong tư duy học sinh. Ví dụ
như phương pháp dạy học nêu vấn đề, dạy học bằng trò chơi mô phỏng, dạy
học chương trình hoá, dạy học theo nhóm…
Hình thành và phát triển ở học sinh năng lực giải quyết vấn đề, tăng
cường tính độc lập trong học tập. Bởi vì trong phương pháp học thì cốt lõi là
phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kỹ
14
năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực
vốn có trong mỗi người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Như vậy,
giáo viên cần phải dạy cho học sinh biết cách lập kế hoạch làm việc của mình,
lựa chọn một chế độ làm việc tối ưu hàng ngày, phân phối và sử dụng thời
gian hợp lý thông qua việc giải quyết các nhiệm vụ học tập, bài tập cụ thể
trong từng môn học.
Cần chú ý tổ chức trong giờ học các hình thức hoạt động tập thể của học
sinh. Trong các hoạt động này, mỗi học sinh sẽ thể hiện cách nhìn nhận của
mình khi giải quyết các vấn đề học tập. Điều đó sẽ thúc đẩy sự mở rộng phát
triển tư duy, các quan hệ xã hội, tình bạn và trách nhiệm trong mỗi học sinh.
Sử dụng hợp lý các phương tiện dạy học sẽ tạo điều kiện phát triển tư
duy, hứng thú học tập cho học sinh.
Như vậy, hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học cũng
là quá trình nhận thức khách quan thông qua quá trình nhận thức cảm tính và
lý tính. Đồng thời quá trình nhận thức học tập cũng được thực hiện qua các
thao tác tư duy cơ bản. Song hoạt động nhận thức của học sinh cũng có những
nét đặc thù nhất định. Trong dạy học sinh học, giáo viên điều khiển quá trình
học nhằm tích cực hoá được hoạt động nhận thức của học sinh. Một trong
những phương pháp có thể đáp ứng được yêu cầu trên là tổ chức hoạt động
nhóm trong dạy học.
1.1.3. Tổ chức hoạt động học tập theo nhóm nhằm nâng cao hiệu quả
nhận thức cho học sinh
Hầu hết sự học tập của chúng ta đều có gốc từ sự thành công thu được
thông qua hợp tác. Cùng với những người khác, chúng ta có thể làm được
nhiều hơn và thu được nhiều hơn chúng ta làm một mình. Học sinh có thể học
tập được tốt nhất khi chúng tiếp cận với năng lực phát động của những người
xung quanh. Cơ sở của sự thành công qua người khác là ngôn ngữ và truyền
đạt. Chính là thông qua truyền đạt hiệu quả mà những thiết chế lớn, các tổ chức
xã hội và các nhóm công tác nhỏ đạt được thành công .
15
Trong học tập, không phải mọi tri thức, kỹ năng, thái độ đều được hình
thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp
thầy- trò, trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con
đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập
thể, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người
học nâng mình lên một trình độ mới.
1.1.3.1. Khái niệm dạy học theo nhóm
Theo các các tác giả Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức, Trần Bá Hoành,
Trần Hồng Tâm, Trịnh Thị Bích Ngọc: Dạy học theo nhóm là một hoạt động
học tập có sự phân chia học sinh theo từng nhóm nhỏ với đủ thành phần khác
nhau về trình độ, cùng trao đổi ý tưởng, một nguồn kiến thức dựa trên cơ sở là
hoạt động tích cực của từng cá nhân. Từng thành viên của nhóm không chỉ có
trách nhiệm với việc học tập của mình mà còn có trách nhiệm quan tâm đến
việc học tập của bạn bè trong nhóm. Cũng có thể hiểu dạy học theo nhóm hợp
tác là việc sử dụng những nhóm nhỏ, qua đó học sinh cùng nhau làm việc để
mở rộng tối đa việc học của họ và của cả các thành viên khác trong nhóm.
1.1.3.2 Đặc điểm dạy học theo nhóm
- Hoạt động dạy học vẫn được tiến hành trên quy mô cả lớp, như mô
hình giờ học truyền thống.
- Việc phân chia nhóm học sinh vừa tuân theo đặc điểm tâm lý-nhận thức
của học sinh vừa phụ thuộc vào nhiệm vụ học tập học sinh phải giải quyết.
- Trong mỗi nhóm phải có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, phải cùng
hợp tác giải quyết nhiệm vụ chung của nhóm.
- Học sinh phải trực tiếp tham gia các hoạt động, giải quyết các nhiệm vụ
học tập được đặt ra cho mỗi nhóm.
- Giáo viên trong các giờ học tổ chức theo nhóm phải là người tổ chức,
hướng dẫn hoạt động cho học sinh chứ không phải làm thay, không áp đặt.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo viên trong các giờ học này là phải căn cứ
vào nhiệm vụ của giờ học mà thiết kế các nhiệm vụ học tập cụ thể và các hoạt
16
động để học sinh giải quyết trong mỗi nhóm, đồng thời thiết kế các yêu cầu
cụ thể cho mỗi nhóm, thiết kế các bài tập trắc nghiệm để kiểm tra lại mức độ
hiểu, kỹ năng thực hành, hành vi thái độ cần hình thành ở học sinh.
- Có thể hiểu tổ chức giờ học theo nhóm là một kiểu tổ chức giờ học trên
lớp, nhưng tuỳ từng nhiệm vụ của mỗi giai đoạn giờ học, nếu thoả mãn một
số điều kiện, có thể tổ chức học sinh thành các nhóm, tiến hành các hình thức
học tập khác nhau để giải quyết bài tập của nhóm mình, qua đó đạt mục tiêu
giờ học.
- Trò- chủ thể tích cực chủ động sáng tạo của hoạt động học tập: Dạy
học theo nhóm là sự tác động trực tiếp giữa học sinh với nhau, sự cùng phối
hợp hoạt động của họ. Với hình thức học tập theo nhóm không diễn ra sự tiếp
xúc trực tiếp giữa giáo viên với học sinh. Chỉ trong trường hợp cần thiết
người giáo viên mới tham gia vào công việc của nhóm riêng rẽ. Vai trò của
người giáo viên thông qua sự chỉ dẫn bằng ngôn từ được đề ra trước khi tiến
hành công tác của nhóm. Trong trường hợp giáo viên tham gia vào công tác
của nhóm nhỏ đó thì sự giao tiếp mang tính chất cá nhân hơn là tính chất công
việc như trong hình thức dạy học chung toàn lớp.
Công tác với toàn lớp trong điều kiện học tập nhóm tại tiết học có tính
chất hoàn toàn khác. Nhóm báo cáo trước toàn lớp công việc của mình. Nội
dung từng báo cáo đó đối với những học sinh của nhóm khác có thể là những
thông tin mới. Điều đó có nghĩa là những nhóm khác và từng học sinh riêng
rẽ nắm tốt tài liệu đến mức nào phụ thuộc vào chất lượng thực hiện nhiệm vụ
của mỗi nhóm. Với sự thảo luận các báo cáo, cả tính chất tác động lẫn nhau
trong lớp cũng biến đổi. Nếu với công tác dạy học toàn lớp như thường lệ sự
tiếp xúc trực tiếp giữa học sinh ít, thì bây giờ khả năng tiếp xúc như vậy tăng
lên đáng kể. Và sự đánh giá lẫn nhau trong công tác với toàn lớp nay có vai
trò rất lớn.
Từ đó có thể nói công tác với toàn lớp trong điều kiện học tập nhóm tại
lớp là công tác có tính tập thể như là hình thức công tác độc lập.
17
- Giáo viên - “người thức tỉnh” tổ chức và đạo diễn: Trong giờ học theo
nhóm, giáo viên dẫn dắt học sinh khám phá, lĩnh hội kiến thức qua từng bước
nhận thức, tổ chức hoạt động tương hỗ giữa học sinh với học sinh, để các
nhóm học sinh tự tiến hành các hoạt động của họ, qua đó có thể rút ra các tri
thức cần thiết cho mình. Giáo viên từ vai trò là người chủ của giờ học trở
thành người tổ chức, điều khiển học sinh tự tiến hành các hoạt động. Tuy
nhiên, để giúp học sinh tránh những sai lầm, trong tổ chức giờ học theo nhóm,
cần có một khoảng thời gian để giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc, thảo
luận chung cả lớp.
- Nhóm học tập - môi trường, phương tiện để lĩnh hội tri thức, phát triển
trí tuệ và nhân cách của học sinh: Nhóm học tập là nơi hội tụ và phát huy tiềm
năng trí tuệ của tập thể, trong các nhóm học tập, việc học tập cá nhân cũng có
những nét mới. Đó không còn là sự lĩnh hội tài liệu học tập xuất phát từ hứng
thú cá nhân, hoặc do sợ kiểm tra, mà lĩnh hội có tính tới công tác phối hợp sau
này. Vì vậy mà phương hướng học tập cá nhân thay đổi, nó có phương hướng
xã hội nhiều hơn.
1.1.3.3. Vai trò của hình thức học tập theo nhóm
- Sự nỗ lực của học sinh
Sự hợp tác trong việc hoàn thành mục tiêu chung là yếu tố thúc đẩy mọi
thành viên cùng tiến bộ. Các em học hỏi lẫn nhau và phấn đấu vì mục tiêu
chung của cả nhóm. Các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng khi học sinh cùng
hợp tác học, thành tích và năng suất sẽ cao hơn so với khi học sinh cạnh tranh
hay làm việc riêng lẻ.
- Quan hệ tốt đẹp giữa các học sinh
Việc học hợp tác yêu cầu mỗi thành viên phải có tinh thần trách nhiệm
đối với công việc chung của cả nhóm. Qua đó đã tạo giữa các em mối quan hệ
có trách nhiệm, đây cũng là yếu tố cần thiết góp phần vào sự thành công của
các em sau này. Trong quá trình hợp tác, tiếp xúc mặt đối mặt, cùng trao đổi
thông tin, sự quan tâm, giúp đỡ nhau đã vun đắp cho các em tình bạn tốt đẹp.
18
Trong quá trình này mọi học sinh đều được đối xử như nhau, không có sự
phân biệt về trình độ học lực, các học sinh yếu vẫn có thể được yêu mến, coi
trọng. Chính những điều này sẽ tạo cho các em cảm giác được các bạn cùng
lớp chấp nhận, góp phần tạo nên bầu không khí học tập trong lớp học, đây là
yếu tố ảnh hưởng lớn đến thái độ và sự nhận thức tích cực về học tập của học
sinh, mà không ai có thể không thừa nhận rằng: “học sinh sẽ khó có thể thành
công trong học tập nếu thiếu thái độ và sự nhận thức tích cực trong học tập”.
- Sự lành mạnh thoải mái về mặt tâm lý
Việc cùng nhau hợp tác học tập sẽ tạo cho các em sự vui tươi, thoải mái,
điều chỉnh được cái tôi sao cho phù hợp với tập thể. Học sinh có điều kiện
thực hành, rèn luyện các kĩ năng giao tiếp hợp tác trong nhóm, nó đòi hỏi học
sinh phải hiểu và tin nhau, truyền đạt thông tin một cách chính xác, chấp nhận
và ủng hộ nhau, biết giải quyết xung đột theo cách xây dựng. Qua đó giúp học
sinh phát triển khả năng giao tiếp, phát huy lòng tự trọng, khả năng đương đầu
với mọi khó khăn trở ngại và sự căng thẳng.
- Phát triển toàn diện
Học tập theo nhóm tạo cơ hội cho học sinh sử dụng các phương pháp,
nguyên tắc diễn đạt ngôn ngữ. Các học sinh nhút nhát, thường là ít phát biểu
trong lớp sẽ có môi trường động viên để tham gia xây dựng bài. Hơn thế nữa,
hầu hết các các hoạt động nhóm đều mang trong nó cơ chế tự sửa lỗi và học
sinh dạy lẫn nhau, theo đó các lỗi sai đều được giải đáp, mà thường là trong
bầu không khí rất thoải mái. Với việc thảo luận cùng với các thành viên khác
trong lớp và nhóm, nhiệm vụ học tập được giải quyết dễ dàng hơn. Thông
qua trao đổi trong nhóm kết hợp được sức mạnh của từng cá nhân, dẫn đến sự
hỗ trợ và giúp đỡ nhau trong học tập. Trên cơ sở những hoạt động chung sẽ
khơi dậy tinh thần tập thể, vì lợi ích của nhóm, của cộng đồng và xã hội.
1.1.3.4. Các hình thức tổ chức dạy học theo nhóm
Tuỳ thuộc vào nội dung và thời lượng của tiết học, giáo viên có thể sử
dụng các hình thức tổ chức dạy học nhóm sau:
19
* Làm việc theo cặp 2 học sinh
Đây là hình thức học sinh trao đổi với bạn ngồi kế bên để giải quyết
tình huống do giáo viên nêu ra, trong quá trình giải quyết các tình huống, học
sinh sẽ thu nhận kiến thức một cách tích cực. Nhóm này thường được sử dụng
khi giao cho HS chấm bài, sửa bài cho nhau (qua phiếu học tập, qua các bài
tập lựa chọn trong sách giáo khoa...). Ưu điểm của hình thức tổ chức này là
không mất thời gian tổ chức, không xáo trộn chỗ ngồi mà vẫn huy động được
HS làm việc cùng nhau.
* Làm việc theo nhóm 4-5 hoặc 7-8 học sinh
Nhóm 4-5 hoặc 7-8 học sinh cùng trao đổi một chủ đề mà giáo viên nêu
ra. Trong quá trình này các nhóm có thể trao đổi nội dung cho nhau để phản
biện, để so sánh, góp ý cho nhau.
* Nhóm chuyên gia hay nhóm chuyên sâu
Trước hết, giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm (nhóm xuất phát hay
nhóm gốc). Nhóm gốc gồm những học sinh có trách nhiệm cùng nhau tìm
hiểu về những thông tin đầy đủ, trong đó mỗi học sinh được phân công tìm
hiểu một phần của các thông tin đó. Sau đó lập nhóm chuyên sâu (nhóm
chuyên gia). Nhóm chuyên gia tập hợp những học sinh ở trong những nhóm
xuất phát khác nhau có cùng chung một nhiệm vụ tìm hiểu sâu một phần
thông tin.
20
Như vậy, một học sinh sẽ nhận nhiệm vụ từ nhóm xuất phát và cùng làm
việc, trao đổi kỹ ở nhóm chuyên sâu và sau đó lại trở về nhóm xuất phát để
trình bày kết quả về các thông tin mình đã thu thập được.
Nhóm chuyên sâu
AA
AA
BB
BB
AB
CD
CC
CC
Nhóm chuyên sâu
Nhóm chuyên sâu
Nhóm xuất phát
DD
DD
Nhóm chuyên sâu
Ưu điểm của nhóm chuyên gia là việc báo cáo công việc của các nhóm
sẽ do tất cả các thành viên của nhóm đảm nhận chứ không phải chỉ do một học
sinh khá giỏi đảm nhận. Mỗi học sinh sẽ nắm một mảng thông tin để lắp ghép
thành một thông tin hoàn chỉnh và sẽ không có một học sinh nào đứng ngoài
hoạt động của lớp học.
* Nhóm kim tự tháp
Đây là cách tổng hợp ý kiến tập thể của lớp học về một vấn đề của bài
học. Đầu tiên giáo viên nêu một vấn đề cho các học sinh làm việc độc lập.
Sau đó ghép 2 học sinh thành một cặp để các học sinh chia sẻ ý kiến của
mình. Kế đến các cặp sẽ tập hợp thành nhóm 8, nhóm 16…Cuối cùng cả lớp
sẽ có 1 bảng tổng kết các ý kiến hoặc một giải pháp tốt nhất để giải quyết một
vấn đề. Như vậy, bất kỳ ý kiến cá nhân nào cũng đều dựa trên ý kiến của số
đông.
21
* Hoạt động trà trộn
Trong hình thức này, tất cả các học sinh trong lớp phải đứng dậy và di
chuyển trong lớp học để thu thập thông tin từ các thành viên khác. Sự di
chuyển khỏi chỗ ngồi cố định làm cho các học sinh cảm thấy thích thú, năng
động hơn. Đối với các học sinh yếu thì đây là cơ hội cho họ hỏi nhiều người
khác nhau cùng một câu hỏi mà không cảm thấy xấu hổ. Cũng bằng cách học
này, họ sẽ thấy rằng có thể có nhiều câu trả lời đúng, nhiều ý kiến, nhiều quan
điểm khác nhau cho cùng một vấn đề. Có thể coi hoạt động trà trộn là bảng
“trưng cầu ý kiến” và “khảo sát ý kiến” của tập thể. Hoạt động này thường
được dùng trong phần mở đầu của tiết học nhằm “khởi động” hoặc kích thích
nhận thức của học sinh trước khi học bài mới.
1.1. 3.5. Quy trình tổ chức dạy học theo nhóm
Quy trình tổ chức giờ học theo nhóm bao gồm 4 bước cơ bản:
- Điểm xuất phát: Giáo viên
↔
Học sinh
- Bước 1:
Hướng dẫn – Tự nghiên cứu
- Bước 2:
Tổ chức
–
↔
–
Nhóm : HS ↔ HS
Đối tượng học tập
Kinh nghiệm cá nhân
– Kinh nghiệm cá nhân
22
(hợp tác, thảo luận)
- Bước 3:
Tổ chức – Nhóm ↔ Nhóm
–
Nội dung học tập
(hợp tác, thảo luận)
- Bước 4:
Trọng tài, – Tự điều chỉnh kiến – Tri thức cá nhân
cố vấn
thức thu nhận được
Trong 4 bước trên, cần lưu ý trong bước 2 và bước 3, HS làm việc theo
nhóm, còn bước 1 và bước 4 là bước làm việc cá nhân, HS tự suy nghĩ, tìm
tòi. Bước 4 giúp HS tự lĩnh hội, tự điều chỉnh tri thức thu nhận được. Nó giúp
cho kiến thức HS được lĩnh hội vững chắc hơn. Điều này được thể hiện rõ qua
các bước trong quy trình sau:
Các
Giáo viên (GV)
Học sinh (HS)
bước
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm - Nhận xét, phát hiện vấn đề.
vụ nhận thức.
Bước 1
- Tổ chức các nhóm, giao - Tham gia vào các nhóm, tổ
nhiệm vụ cho các nhóm.
chức nhóm.
- Hướng dẫn cách làm việc - Thu thập thông tin, tái hiện tri
theo nhóm.
thức chuẩn bị làm việc trong
nhóm.
- Khích lệ HS làm việc, khuyến - Tự đặt mình vào các tình
khích sự tham gia của mỗi cá huống, tự sắm vai đưa ra cách
nhân HS vào các hoạt động học xử lý tình huống, trao đổi ý
Bước 2
tập chung của nhóm.
kiến, thảo luận trong nhóm, xử
lý thông tin.
- Đưa ra những câu hỏi gợi ý -Tự ghi lại ý kiến theo chủ kiến
khi thảo luận bế tắc hoặc đi của mình, khai thác những gì đã
chệch hướng.
hợp tác với bạn hoặc tham khảo
thêm ý kiến của GV để bổ sung
sản phẩm ban đầu của mình
- Yêu cầu mỗi nhóm báo cáo - Đại diện các nhóm trình bày, bảo
23
kết quả.
Bước 3
vệ sản phẩm của mình trước lớp.
- Ghi lại những điểm nhất trí và chưa - Tỏ thái độ trước những ý kiến
nhất trí, những khía cạnh mà các của các nhóm khác.
nhóm bỏ qua.
- Tổ chức thảo luận toàn lớp
- Khai thác bổ sung ý kiến của
các nhóm khác, điều chỉnh sản
phẩm của nhóm mình.
- So sánh, đối chiếu kết luận của
- Tóm tắt từng vấn đề.
Bước 4
- Đưa ra những nhận xét đánh GV và của các bạn với sản
giá về kết quả của từng nhóm, phẩm ban đầu của mình.
từ đó đưa ra các kết luận khoa - Tự sửa sai, bổ sung, điều chỉnh
học
những gì cần thiết.
- Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề - Tự rút kinh nghiệm về cách
tiếp theo
học, cách sử lý tình huống, cách
giải quyết vấn đề của mình.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Thực trạng sử dụng các phương pháp dạy học của giáo viên
Để tìm hiểu thực trạng giảng dạy sinh học ở trường THCS, chúng tôi đã
tiến hành quan sát sư phạm, dự giờ, trao đổi với các giáo viên đang dạy sinh
học của 2 trường THCS ở huyện Diễn Châu.
Chúng tôi đã tiến hành điều tra về việc sử dụng phương pháp dạy học
của giáo viên ở 2 trường THCS tại huyện Diễn Châu - Nghệ An (THCS Diễn
Kỷ, THCS Diễn Hồng). Kết quả thể hiện ở bảng 1.1
Bảng1.1. Mức độ sử dụng các phương pháp dạy học của giáo viên sinh học
STT Tên phương pháp
Sử dụng
thường
xuyên
Sử dụng Ít
không
dụng
thường
xuyên
sử Không
sử dụng
24
SL TL% SL
TL
%
12 54,5
10
45,5
SL TL% SL TL%
1
Thuyết trình
2
Hỏi đáp tái hiện
16 72,7
thông báo
6
27,3
3
Thực hành
0,0
4
18,2
18
81,8
4
Làm việc với SGK,
4
tài liệu
18,2
11
50,0
2
9,1
5
22,7
5
Dạy học đặt và giải
6
quyết vấn đề
27,3
8
36,4
7
31,8
1
4,5
6
Hỏi đáp tìm tòi
11 50,0
7
31,8
4
18,2
7
Dạy học hợp tác
0
theo nhóm
1
4,5
7
31,8
14
63,6
0
0,0
Qua số liệu trên cho thấy còn rất ít giáo viên sử dụng phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Sử dụng hoạt động nhóm
trong dạy học đã được áp dụng nhưng với tỷ lệ thấp, chủ yếu chỉ ở những tiết
học ngoại khoá, các tiết thực hành và giao bài tập về nhà cho từng nhóm với
mục đích giúp học sinh dễ hoà nhập, học hỏi lẫn nhau và khơi dậy tinh thần
tập thể.
Một số ít giáo viên đã cố gắng cải tiến phương pháp, chú ý sử dụng các
thí nghiệm, các phương tiện dạy học trong dạy học sinh học, chú ý phát huy
tính tích cực của học sinh qua hệ thống câu hỏi đàm thoại, gợi mở dẫn dắt tư
duy học sinh. Tuy nhiên tình trạng phổ biến là giáo viên dạy chay với lời
thuyết giảng làm tiết học kém hấp dẫn, mất tính sinh động.
Trong dạy học sinh học, giáo viên mới chỉ quan tâm chủ yếu đến quá
trình dạy của giáo viên nên tâm thế của học sinh trong các giờ học là chờ đón
kiến thức do giáo viên truyền thụ và chỉ quan tâm ghi nhớ những kiến thức
nào cần phải học thuộc. Học sinh hoàn toàn chưa có thói quen đón nhận
những công việc, các nhiệm vụ cần hoàn thành trong giờ sinh học để tự tìm ra
kiến thức mới.
25
Bảng 1.2: Đánh giá của giáo viên về việc tổ chức dạy học theo nhóm
Đánh giá
Rất cần thiết
Cần thiết
11
50,0
10
45,5
1
4,5
Không cần
thiết
Từ bảng 1.2 cho ta thấy: Các giáo viên đều xác nhận rằng dạy học theo
nhóm là cần thiết nên được sử dụng trong dạy học sinh học, đặc biệt với nội
dung chương trình sinh học lớp 9 hiện nay, việc tổ chức dạy học theo nhóm
tại lớp là rất phù hợp. Với hình thức dạy học này, giáo viên có cơ hội tận dụng
được ý kiến, kinh nghiệm người học, tạo cơ hội cho học sinh trình bày, rèn
luyện và hoàn thiện các kỹ năng khi phát biểu, kích thích tính năng động,
sáng tạo của người học...
Tuy nhiên, các giáo viên lại rất ngại tổ chức dạy học theo kiểu này vì các lý
do sau:
- Một số học sinh ở trạng thái luôn thụ động.
- Giáo viên khó giữ được trật tự lớp vì sĩ số HS nhiều.
- Phải chuẩn bị cho tiết dạy rất công phu và khó tổ chức. Dễ bị "cháy"
giáo án nếu không giới hạn được thời gian cho thảo luận…., nói chung là giáo
viên gặp nhiều khó khăn trong tổ chức cho học sinh học tập theo nhóm.
Ngoài ra, qua khảo sát giáo án và trao đổi trực tiếp với giáo viên, chúng
tôi nhận thấy nhiều giáo viên gặp khó khăn trong việc chuẩn bị bài giảng theo
hình thức tổ chức hoạt động nhóm trong lớp. Một trong những nguyên nhân
của vấn đề này là thực tế thiếu một mô hình tiếp cận khái quát cùng với những
bài giảng hướng dẫn thực hiện các công việc để giáo viên có thể vận dụng cho
các kiến thức có thể tổ chức hoạt động nhóm và các biện pháp tổ chức dạy học
theo nhóm hiệu quả.
1.2.2. Học tập theo nhóm của học sinh