Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền ở hoằng hoá, thanh hoá ( 1939 1945 )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.73 KB, 96 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
trờng đại học vinh
===============

Lê thị thanh thuỷ

quá trình đấu tranh giành và giữ chính
quyền
ở Hoàng hoá, thanh hoá (1939 1945)

luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử
mã số: 60.22.54

ngời hớng dẫn:
TS. Trần văn thức

vinh - 2008
Lời cảm ơn
Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới Tiến sĩ Trần Văn Thức
- Ngời thầy đã tận tình hớng dẫn giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình
nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Lịch sử,
khoa sau Đại học trờng Đại học Vinh đã tận tình giúp đỡ, động viên tác
giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trờng.

1


Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn ông Lê Trung Tấn (nguyên là
cán bộ ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Tỉnh Thanh Hoá), Phòng lu
trữ ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử tỉnh Thanh Hoá. Ban tuyên giáo


Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Ban tuyên giáo huyện Hoằng Hoá, Bảo tàng và th
viện tỉnh Thanh Hoá, Trung tâm chính trị huyện Hoằng Hoá, Bảo tàng
huyện Hoằng Hoá, văn phòng Đảng uỷ các xã Hoằng Ngọc, Hoằng phúc,
Hoằng Đạo, Hoằng Thắng đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình
su tầm t liệu và hoàn thành đề tài luận văn.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, ngời thân và bạn bè
đã tạo điều kiện động viên tác giả hoàn thành luận văn này.
Trong quá trình thực hiện, đề tài không tránh khỏi những hạn chế.
Rất mong đợc sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và những những ngời
tâm huyết với đề tài.
Vinh, Tháng 12 năm 2008
Tác giả

Lê Thị Thanh Thuỷ

Mục lục
4

Mở đầu
1.

Lý do chọn đề tài

4

2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

6


3.

Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

9

4.

Nguồn t liệu và phơng pháp nghiên cứu

10

5.

Bố cục của đề tài

11

Chơng 1. Khái quát phong trào cách mạng ở Hoằng Hoá thời kỳ
1930-1939

12

1.1.

Vị trí địa lý và đặc điểm c dân Hoằng Hoá

12


1.2.

Truyền thống yêu nớc và cách mạng

18

1.3.

Khái quát phong trào cách mạng ở thời kỳ 1930-1939

26

2


Chơng 2: Quá trình chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ở
Hoằng Hoá thời kỳ 1939-1945
35
2.1.

Tình hình cách mạng Hoằng Hoá sau khi Nhật xâm lợc

2.1.1. Chính sách cai trị của Nhật Pháp

35
35

2.1.2 Vai trò, của Hội phản đế cứu quốc và ban Việt Minh Hoằng Hoá trong
cao trào chuẩn bị khởi nghĩa .
39

2.2.

Sự tái lập chi bộ Đảng ở Hoằng Hoá 6 - 1944

50

2.3.

Hoằng Hoá sau ngày Nhật đảo chính Pháp

57

Chơng 3 : Cuộc khởi nghĩa giành và giữ chính quyền ở Hoằng
Hoá năm 1945

69

3.1. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hoằng Hoá (24 - 7 - 1945)
3.1.1. Điều kiện khách quan và chủ quan cho một cuộc khởi nghĩa

69
69

3.1.2. Diễn biến, kết quả của cuộc khởi nghĩa

72

3.1.3. Sự sáng tạo, linh hoạt của cấp bộs Đảng và Ban Việt Minh Hoằng Hóa
trong khởi nghĩa giành chính quyền ngày 24 - 7 - 1945.
78

3.2 Đấu tranh chống khủng bố giữ vững chính quyền cách mạng sau ngày
24 - 7 - 1945 ở Hoằng Hoá
82
3.2.1. Uỷ ban dân tộc giải phóng tổng, làng, xã ra đời 27- 7 - 1945

82

3.2.2 Đấu tranh đập tan âm mu khủng bố của Nhật, kiên quyết giữ vững
thành quả cách mạng.
86
3.3.

Một vài nhận xét về khởi nghĩa giành chính quyền ở Hoằng Hoá

93

Kết luận

98

Tài liệu tham khảo

103

Phụ lục

3


Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

Đã hơn 60 năm lùi vào quá khứ, nhng khi nhắc đến những sự kiện tiêu
biểu nhất của thế kỷ XX ở Việt Nam, ngời ta không quên nhắc đến Cách
mạng tháng Tám năm 1945, một sự kiện vĩ đại nhất, dấu ấn sâu đậm nhất
trong dòng chảy của lịch sử dân tộc.
Có thể khẳng định rằng, Cách mạng tháng Tám 1945 là một sự kiện có
ý nghĩa, mang tính thời đại và bớc ngoặt lớn của dân tộc Việt Nam, nó không
những chỉ có ý nghĩa với quốc gia, dân tộc mà còn mang ý nghĩa quốc tế nh là
sự phổ quát học thuyết Mác - Lênin và Cách mạng tháng Mời Nga trên toàn
thế giới.
Đối với lịch sử dân tộc, Cách mạng tháng Tám đã đa nhân dân ta từ thân
phận nô lệ lên làm ngời tự do, làm chủ xã hội, từ địa vị là thần dân trở thành
những công dân. Xoá bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm trong lịch
sử, xoá bỏ ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật hàng thế kỷ.
Với tầm quan trọng đó nên cách mạng tháng Tám đã thu hút nhiều sự
quan tâm chú ý của giới nghiên cứu sử học trong và ngoài nớc.
Để có đợc những thắng lợi vĩ đại và ít đổ máu, Cách mạng tháng Tám đợc chuẩn bị trong một quá trình 15 năm tôi luyện, phấn đấu, trởng thành của
Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn thể ngời dân Việt Nam yêu nớc.
Những thắng lợi đó có sự đóng góp vô cùng to lớn của tất cả các địa phơng trên toàn quốc. Trong đó có sự đóng góp không nhỏ của nhân dân Hoằng
Hoá.
Hoằng Hóa là một huyện lớn cách thành phố Thanh Hóa 3 km về phía
Đông Bắc nằm trên đờng quốc lộ 1A. Là một huyện có bề dày truyền thống
trong lịch sử dựng nớc và giữ nớc, trong suốt chiều dài lịch sử, Hoằng Hóa đã
góp phần viết nên những trang sử hào hùng của dân tộc, đặc biệt từ khi Đảng
4


ra đời truyền thống yêu nớc và phong trào cách mạng của Hoằng Hóa càng đợc khơi dậy.
Trong cách mạng tháng Tám năm 1945, Hoằng Hóa đợc xem là địa phơng có những đóng góp quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, để lại nhiều

bài học kinh nghiệm quý giá cho những nhà lãnh đạo cách mạng của tỉnh
Thanh Hóa nói riêng và cả nớc nói chung trong bối cảnh bấy giờ. Bởi lẽ việc
giành và giữ chính quyền ở Hoằng Hóa đợc xem là một hiện tợng độc đáo xét
ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất: Hoằng Hóa là một trong những địa phơng giành chính quyền
sớm nhất trong cả nớc, là huyện đi tiên phong vận dụng theo Chỉ thị 12/
03/1945 của Ban Thờng vụ trung ơng Đảng, vừa khởi nghĩa từng phần vừa
tổng khởi nghĩa trong phạm vi một huyện. Trong khi các địa phơng khác nh
Đông Sơn, Hà Trung, thành phố Thanh Hóa phải đợi đến gần một tháng sau
đó, tổng khởi nghĩa mới diễn ra. Có thể nói hành động đó là một sự táo bạo,
quyết liệt khi đứng trớc điều kiện lịch sử thuận lợi của ban Việt minh.
Thứ hai: Hoằng Hóa giành và giữ chính quyền trong điều kiện kẻ thù
dày đặc và xen kẽ lẫn nhau theo thế cài răng lợc, nhng quá trình giành và
giữ chính quyền diễn ra một cách nhanh chóng và không đổ máu.
Thứ ba: Kẻ thù ba lần dốc toàn lực hòng bóp nát thành quả cách mạng
mà nhân dân Hoằng Hóa giành đợc nhng dới sự lãnh đạo của cấp bộ Đảng và
ủy ban giải phóng dân tộc, tất cả nhân dân Hoằng Hóa đã đoàn kết và đập tan
đợc âm mu chống phá chính quyền cách mạng của kẻ thù, giữ vững nó cho
đến ngày cách mạng tháng Tám thành công trong cả nớc.
Thứ t: Với quá trình giành và giữ chính quyền ở Hoằng Hóa đã để
lại những đóng góp to lớn trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Đặc biệt, đối với
Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Giành chính quyền đã khó song giữ chính quyền lại càng khó gấp bội
lần. Do đó việc đi sâu nghiên cứu vấn đề này có một giá trị to lớn nhằm làm
sáng tỏ những vấn đề diễn ra trong Cách mạng tháng Tám giúp chúng ta có
một cái nhìn toàn diện và đầy đủ hơn về diện mạo của Cách mạng tháng Tám
1945 ở Hoằng Hóa, góp phần vào việc giảng dạy lịch sử địa phơng và hun đúc
lòng yêu quê hơng đối với những thế hệ học sinh về truyền thống của dân tộc
mình, về những hy sinh mất mát mà dân tộc ta phải nếm trải. Góp phần đánh
giá lại một cách tổng quát, khách quan về những sự kiện của Hoằng Hoá trong

Cách mạng tháng Tám, giúp cho những nhà lãnh đạo nhìn nhận đợc vai trò,
5


tầm quan trọng về truyền thống và vị trí, về sức mạnh trong việc huy động sức
dân phục vụ cho công cuộc đổi mới xây dựng quê hơng ngày càng giàu mạnh.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên, chúng tôi lựa chọn và đi sâu
nghiên cứu, Quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền ở Hoằng Hóa,
Thanh Hóa (1939 - 1945).
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Trong khoảng 10 năm gần đây, việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử
địa phơng đợc quan tâm và trở thành một nhu cầu thực sự quan trọng của
những nhà nghiên cứu lịch sử. Bởi xét cho cùng, lịch sử địa phơng là một phần
máu thịt không thể tách rời của lịch sử dân tộc, chính lịch sử của nhiều địa phơng đã làm nên lịch sử dân tộc, cho nên việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử
địa phơng trở thành mối quan tâm của nhiều cấp, ngành và các nhà sử học.
Cách mạng tháng Tám 1945 sự kiện đánh dấu bớc ngoặt của lịch sử dân
tộc Việt Nam. Xét trên phạm vi toàn quốc, có rất nhiều công trình nghiên cứu
đã đợc công bố nh: Cách mạng tháng Tám (1945) - Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng Trung ơng, NXB Sự thật, Hà Nội, 1971; Cách mạng tháng Tám của
Viện Sử học, Hà Nội, 1960; Trần Văn Giàu, Sự phát triển của t tởng Việt
Nam từ thế kỷ 19 đến Cách mạng tháng Tám, nhà xuất bản chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1997
2.2. Khi nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa nói chung và Cách mạng tháng
Tám ở Thanh Hóa nói riêng, Hoằng Hóa đợc xem là một trong những địa phơng đợc các nhà nghiên cứu lu tâm nhiều nhất, bởi trong lịch sử hình thành và
phát triển của Thanh Hóa thì Hoằng Hóa luôn đóng góp một phần xứng đáng.
Đặc biệt, giai đoạn (1939 -1945) là giai đoạn lịch sử đợc hầu hết các
công trình nghiên cứu của Tỉnh và các cuộc hội thảo giành một phần đề cập
đến Hoằng Hóa ở mức độ nhiều hay ít.
Hiện nay, chúng tôi tiếp cận đợc nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập
đến cuộc vận động và giành chính quyền ở Hoằng Hoá đợc công bố nh: Ban

Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Đảng bộ Thanh Hoá, Lịch sử Thanh Hoá,
tập 5, 1930-1945, nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 1996; Ban Chỉ huy
Quân sự tỉnh Thanh Hoá (1990), Thanh Hoá lịch sử kháng chiến chống
Pháp xâm lợc 1945-1954 (sơ thảo); Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thanh
Hoá (1978), Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Thanh Hoá 1925-1945, nhà
xuất bản Thanh Hoá; Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ (1985), Khởi nghĩa tháng Tám
ở Thanh Hoá NXB Thanh Hoá; Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Thanh Hoá,
6


Sơ giản lịch sử Cách mạng tháng Tám ở tỉnh Thanh Hoá (1939-1945), nhà
xuất bản Thanh Hoá; Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh uỷ Thanh Hoá
(1976), Vơn tới cao trào, tập 1,2 nhà xuất bản Thanh Hoá.
Các công trình trên đều phản ánh một cách sơ lợc, khái quát quá trình
vận động và phát triển tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân
Hoằng Hoá dới sự lãnh đạo của Đảng. Các công trình đó cha đi sâu vào phân
tích một cách toàn diện về quá trình giành và giữ chính quyền ở Hoằng Hoá.
Đặc biệt các công trình nói trên hầu nh cha đề cập đến tại sao Hoằng Hoá lại
giành và giữ đợc chính quyền trong điều kiện bị đàn áp khốc liệt.
Cuốn sách đáng chú ý nhất là: Khởi nghĩa tháng 24 - 7- 1945 ở Hoằng
Hoá, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Thanh Hoá, xuất bản 1977 đề cập tơng đối
toàn diện về cuộc khởi nghĩa nhng cũng cha làm nổi bật đợc đặc thù riêng biệt
của Hoằng Hóa trong bối cảnh chung của Thanh Hóa lúc bấy giờ.
2.3. Đối với Hoằng Hóa, giai đoạn (1939 - 1945) cũng đợc tái hiện
trong các công trình nghiên cứu nh: Ban Chấp hành Đảng bộ và uỷ ban nhân
dân huyện Hoằng Hóa, Địa chí văn hoá Hoằng Hoá, nhà xuất bản khoa
học xã hội, Hà Nội 2000; Ban Chấp hành Đảng bộ và uỷ ban nhân dân huyện
Hoằng Hoá (1995), Lịch sử Đảng bộ và phong trào cách mạng của nhân
dân Hoằng Hoá tập 1 (1930-1975), Nhà in báo Thanh Hoá 1995; Ban Chấp
hành Đảng bộ và ủy ban nhân dân huyện Hoằng Hóa, 55 năm hoạt động của

Đảng bộ và nhân dân huyện Hoằng Hoá, nhà xuất bản Thanh Hoá (1985) đề
cập đến Hoằng Hoá trong giai đoạn (1939- 1945), Những sự kiện lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Hoằng Hoá (1925-1954) nhà xuất bản
Thanh Hoá (1982), cũng trình bày những sự kiện lịch sử tiêu biểu ở Hoằng
Hoá thời kỳ (1935-1945).
2.4. Ngoài ra, tính đến nay nhiều xã trong huyện cũng đã tiến hành tốt
công việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử của địa phơng mình. Chính vì vậy
việc giành chính quyền cũng nh việc giữ chính quyền ở các địa phơng trong
huyện cũng đợc tái hiện lại một cách khái quát thông qua những sự kiện và
nhân vật liên quan đến việc giành và giữ chính quyền ở Hoằng Hoá, có thể kể
ra nh :
Ban Chấp hành Đảng bộ và Uỷ Ban nhân dân xã Hoằng Ngọc, Lịch sử
phong trào cách mạng và nhân dân xã Hoằng Ngọc (1945 1995), công ty
in Thơng Mại - Bộ Thơng Mại, xuất bản 1997.

7


Đảng uỷ và Uỷ Ban nhân dân xã Hoằng Đạo, Lịch sử phong trào cách
mạng và nhân dân xã Hoằng Đạo (1930 2005), nhà in báo Thanh Hoá,
xuất bản 2005.
Đảng Cộng Sản Việt Nam, Lịch sử Đảng bộ xã Hoằng Lộc (1953
2005), nhà in báo Thanh Hoá, xuất bản 2005.
Đảng bộ xã Hoằng Thắng, Lịch sử Đảng bộ và phong trào Cách
mạng nhân dân xã Hoằng Thắng (1945 2005), nhà xuất bản Thanh
Hoá 2005.
Đảng uỷ- Hội Đồng nhân dân - Uỷ Ban nhân dân xã Hoằng Phúc,
Lịch sử phong trào cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Hoằng
Phúc (1930 2005, nhà in báo Thanh Hoá, xuất bản 2005.
Ban Chấp hành Đảng bộ xã Hoằng Tiến - huyện Hoằng Hoá - Tỉnh

Thanh Hoá" Lịch sử phong trào cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã
Hoằng Tiến " (1945 - 2000 ),Sở Văn Hoá thông tin Thanh Hoá, xuất bản
2002...
Do các công trình trên đợc biên soạn dới sự chỉ đạo của các cấp uỷ
Đảng, từ Tỉnh uỷ cho đến các Huyện uỷ. Nên nội dung mới chỉ dừng lại ở việc
tái hiện các sự kiện lịch sử có liên quan đến vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
phong trách cách mạng của nhân dân Hoằng Hoá.
Nét chung của các công trình nghiên cứu trên dù nhiều hay ít, trực tiếp
hay gián tiếp đã đề cập đến nhiều khía cạnh của đề tài mà chúng tôi lựa chọn
nghiên cứu. Tuy nhiên cha có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống và sâu sắc về quá trình giành và giữ chính quyền ở Hoằng Hoá trong
thời kỳ 1939 - 1945. Nhiều vấn đề vẫn cha đợc đánh giá thoả đáng và sáng tỏ.
Cha thấy đợc những đóng góp của Hoằng Hoá trong vai trò ngời đi tiên phong
và để lại những bài học kinh nghiệm cho các địa phơng khác trong tỉnh và cả
nớc xem xét.
Tuy nhiên, những công trình trên là nguồn t liệu vô cùng quý giá cho
chúng tôi khi tiếp cận và nghiên cứu vấn đề của mình một cách toàn diện hơn.
Nhờ nguồn t liệu quý giá đó mà chúng tôi có thể kế thừa để góp phần làm rõ
hơn nữa về quá trình giành và giữ chính quyền ở Hoằng Hoá thời kỳ 1939
- 1945.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tợng nghiên cứu

8


Trong đề tài Quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền ở Hoằng
Hóa, Thanh Hóa (1939 - 1945) mong muốn của chúng tôi là sẽ xem xét cuộc
khởi nghĩa trên tất cả các lĩnh vực có ảnh hởng đến cuộc cách mạng nh bối
cảnh xã hội, quá trình vận động tiến tới khởi nghĩa, quá trình chuẩn bị lực lợng, diễn biến, kết quả, ý nghĩa, thời kỳ 1939 - 1945. Tuy nhiên, điểm mấu

chốt quan trọng nhất mà tôi muốn nghiên cứu và trình bày đó là: Tại sao trong
điều kiện cả nớc cha chín muồi về thời cơ, Hoằng Hoá lại giành và giữ đợc chính quyền thành công, trong điều kiện bị khủng bố liên tiếp 3 lần cho
đến ngày tổng khởi nghĩa. Nó có đợc xem nh là một điểm riêng biệt của cách
mạng Hoằng Hoá so với các địa phơng khác hay không. Đóng góp của cách
mạng Hoằng Hoá đối với tỉnh Thanh Hoá.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đối tợng nghiên cứu đã đợc xác định ở trên, đề tài trớc hết đề cập
đến vị trí địa lý, truyền thống cách mạng, điều kiện tự nhiên của Hoằng Hoá,
trong đó trọng tâm là khởi nghĩa ở Hoằng Hoá trong giai đoạn từ 1939-1945,
thời điểm bắt đầu (từ tháng 11/1939) với Nghị quyết Trung ơng 6 đến tháng
8/1945.
Đề tài đợc xác định không gian là huyện Hoằng Hoá, nhng khi nghiên
cứu chúng tôi xem xét nó không tách rời không gian cách mạng của tỉnh
Thanh Hoá, để tăng thêm sáng tỏ cho đề tài đồng thời chúng tôi còn tiến hành
so sánh khái quát sơ lợc với một số địa phơng khác trong tỉnh nh thành phố
Thanh Hoá, Hậu Lộc, Hà Trung... nhằm đa ra những nhận xét, đánh giá mang
tính khách quan đối với sự kiện lịch sử mà chúng tôi quan tâm.
Trọng tâm nghiên cứu của đề tài sẽ đợc chúng tôi nghiên cứu và tiến
hành trên ba nội dung: Quá trình chuẩn bị, quá trình khởi nghĩa, thành công
trong việc bảo vệ chính quyền ấy cho đến ngày tổng khởi nghĩa trên toàn
quốc.
4. Nguồn t liệu và phơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn t liệu
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu đạt kết quả tốt, chúng tôi tiến hành
su tầm nguồn tại liệu từ:
Thứ nhất: Loại tài liệu có ở các cơ quan lu trữ nh: Ban Nghiên cứu Lịch
sử Đảng Thanh Hoá, Ban tuyên giáo tỉnh ủy Thanh Hóa Trung tâm Lu trữ
Thanh Hoá, Trung tâm Lu trữ Hoằng Hoá, Th viện tỉnh Thanh Hoá, Th viện
huyện Hoằng Hoá, Bảo tàng tỉnh Thanh Hoá, Bảo tàng huyện Hoằng Hoá, Ban
Tuyên giáo huyện Hoằng Hoá, Huyện uỷ Hoằng Hoá, Trung tâm Chính trị

huyện Hoằng Hoá, phòng lu trữ của các xã... Đây là nơi cung cấp những
9


nguồn tài liệu mà tôi đã thu thập đợc trong quá trình nghiên cứu. Những tài
liệu hết sức có giá trị, giúp chúng tôi xây dựng những luận cứ, luận điểm của
đề tài.
Các tác phẩm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, văn kiện của Trung ơng Đảng
giai đoạn 1930- 1945, giúp cho chúng tôi dựa vào để đánh giá một cách đúng
đắn về mặt thực tiễn cũng nh lý luận của cách mạng Thanh Hoá nói chung và
Hoằng Hoá nói riêng.
Thứ hai: Nguồn tài liệu là chúng tôi thu thập đợc ở địa phơng nh các
công trình: Nghiên cứu lịch sử của xã, làng có liên quan đến đề tài nghiên cứu,
giúp chúng tôi thâu tóm đợc các chuỗi sự kiện để đánh giá một cách tổng
quát.
Thứ ba: Các lời kêu gọi, các chỉ thị của Đảng, của Tổng bộ Việt Minh,
trát truy nã những nhân vật của Đảng Cộng sản giúp chúng tôi đánh giá và
nhìn nhận rõ giai đoạn tiền khởi nghĩa, những khó khăn mà Đảng ta gặp phải
trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, giành và giữ chính quyền trong giai
đoạn (1939 1945).
Thứ t: Chúng tôi tiến hành gặp gỡ, trao đổi với những nhân chứng lịch
sử nh: các lão thành cách mạng, những tập thể anh hùng, những ngời trực tiếp
tham gia kháng chiến, bút ký, hồi ký của những chiến sĩ cách mạng nhằm
giúp chúng tôi xác minh cụ thể những vấn đề đã diễn ra trong lịch sử một cách
chính xác và khách quan.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu đề tài nghiên cứu thành công, chúng tôi đã lựa chọn phơng
pháp nghiên cứu chính cho đề tài đó là: phơng pháp lịch sử, phơng pháp logíc.
Ngoài ra để nâng cao tính khoa học và chính xác của đề tài chúng tôi còn tiến
hành thêm một số biện pháp khác nh: Điền dã, phỏng vấn, liệt kê, so sánh,

tổng hợp, khái quát và xác minh t liệu.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục đề tài
gồm ba chơng:
Chơng 1: Khái quát phong trào cách mạng ở Hoằng Hóa thời kỳ
1930 - 1939.
Chơng 2: Quá trình chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ở
Hoằng Hóa 1939 - 1945.
Chơng 3: Cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền ở Hoằng Hóa
năm 1945.

10


Chơng 1
khái quát phong trào cách mạng ở Hoằng Hoá
thời kỳ 1930-1939
1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm c dân Hoằng Hoá
Nằm trên quốc lộ 1A, mảnh đất gắn bó máu thịt với Xứ Thanh, Hoằng
Hoá có vị trí rất quan trọng trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.
Là một khu vực thuộc đồng bằng ven biển, nằm ở hạ lu con sông Mã.
Phía đông giáp biển, phía bắc giáp huyện Hậu Lộc, phía tây giáp huyện Thiệu
Hoá, Yên Định và Vĩnh Lộc, phía nam giáp huyện Quảng Xơng, thành phố
Thanh Hoá và một phần huyện Đông Sơn.
Hoằng Hoá nằm ở vĩ tuyến 1905050 Bắc ở Lạch Trào đến 1903030
vĩ độ Bắc ở núi Sơn Trang và từ kinh độ 105 05959 ở ngã ba Bông đến
10505930 ở Lạch Trờng.
Bờ biển của Hoằng Hoá dài 12km giáp hai cửa lạch:
Lạch Trờng (cửa sông Mã cũ) và Lạch Trào (Cửa sông Mã hiện tại). Hai
cửa lạch này là cửa ngõ lớn của tỉnh Thanh Hoá ở phía Đông. Sử cũ từng ghi:

Thanh Hoá có nhiều cửa biển, nhng chỉ có hai cửa Lạch Trào (Hội Triều) và
Lạch Trờng (Y Bích) là đờng biển phải đi qua để thông lên sông Mã và sông
Lơng. Nếu có việc cần kíp thì hai huyện Hoằng Hoá và Hậu Lộc giữ vị trí
xung yếu [16, 8].

11


Đoạn quốc lộ 1A và đoạn đờng sắt Bắc Nam chạy song song
xuyên qua lòng huyện 11km có cầu Hàm Rồng (nay có thêm tuyến cầu Vợt
mới xây dựng Hoàng Long) thông thơng với thành phố, cùng với cầu Tào
thông thơng hai vùng trong huyện và cũng là trục giao thông chính vào Nam,
ra Bắc rất thuận lợi. Quan sát địa hình Hoằng Hoá (trừ phía Đông là biển)
còn ba bề đều có sông Mã bao bọc, theo các nhà địa chất học thì đây là một
vùng châu thổ đợc bồi đắp bởi sự bào mòn của nền đất cũ, của hiện tợng biển
lùi và sự lắng đọng của phù sa sông Mã, sông Chu. Sông Lạch Trờng ngày nay
chính là dòng chính của sông Mã đời xa, các sách sử mà địa chí cũng gọi là
Ngu Giang là khúc sông này cuối đời Lê ở ngã ba Ngu Giang, một nơi sông
Mã hợp lu với sông Lạch Trờng hiện tại còn có Tuần Ti gọi là tuần Ngu để
đánh thuế những thuyền bè từ sông Mã ra biển và từ biển vào sông Mã do
khúc sông ấy [16, 30].
Hoằng Hoá là một trong những địa bàn chiến lợc quan trọng của tỉnh
Thanh Hoá, là một huyện hội tụ đầy đủ các yếu tố cần thiết cho sự phát triển,
có các tuyến sông lớn lại nhiều thế mạnh và tiềm năng nh sông Mã, sông Lạch
Trờng (còn có tên gọi khác là sông Ngu) sông Cung (sông Choán) sông Đằng,
sông Trà... có chiều dài bờ biển lên tới 12km, có các dãy núi lớn: núi Kim Trà
(còn có tên gọi là núi Sơn Trang hay Nghĩa Trang) với nhiều ngọn núi chạy
dài từ ngữ Ba Bông (tây bắc Hoằng Hoá) đến xã Hoằng Trung (đông nam
Hoằng Hoá) ngọn núi cao nhất là 217m. Theo sách cũ chép Lái buôn đi
thuyền biển nói: ái Châu (Thanh Hoá) các núi liền biển, duy chỉ có núi Kim

Trà là cao, đờng biển trông vào đấy để làm tiêu chí. [30, 26].
Dãy núi Linh Trờng (còn có tên gọi khác là Kim Chuế), hay núi Trờng
Lệ) dãy núi này còn có tên khác mà nhân dân cho là núi Hà Rò nằm ngay bên
hữu ngạn sông Lạch Trờng, trải dài trên địa phận các xã Hoàng Yến, Hoằng
Hải, Hoằng Trờng, gồm có 7 ngọn nối liền nhau, ngọn cao nhất là 205m với
nhiều mỏ đá ăn ra biển. Dãy núi này có nhiệm vụ cực kỳ quan trọng là ngăn
chặn xu hớng chuyển dịch của Lạch trờng về phía Nam ở bờ Biển Hoằng Hoá.
Theo những dấu tích của Thành D phát còn lại ở bên kia núi Linh Trờng chứng
tỏ cửa biển Lạch Trờng này đã từng là một thơng cảng, nơi ngời Việt giao lu
buôn bán với ngời Trung Hoa. Cũng tại khúc sông Lạch Trờng (Ngu Giang) có
núi Linh Trờng này vào năm 1380 Hồ Quý Ly đã dựa vào thế núi đánh tan đạo
quân của Chế Bồng Nga [31, 29] và cũng chính nơi đây trong cuộc kháng

12


chiến chống Mỹ cứu nớc của các cụ lão dân quân Hoằng Trờng đã dựa vào thế
đất này rồi bắn rơi Thần sấm con ma của đế quốc Mỹ.
Dãy núi Hàm Rồng là một trong những huyền thoại đẹp của con ngời
Hoằng Hoá, nó trải dài theo bờ sông Mã, thân hình uốn lợn tựa thế rồng cuộn,
gồm 99 khúc đầu của núi Hàm Rồng nằm ngay sát sông Mã, dựa vào thế núi
này mà nhân dân ta bảo vệ đợc cầu Hàm Rồng, con đờng huyết mạch Bắc
Nam. Và cũng chính nơi đây, đã để lại nhiều huyền thoại trong cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc ta.
Với địa thế rồng cuộn, hổ nằm nh vậy nên nó cắt nghĩa cho sự thăng
hoa về đỗ đạt, khoa danh của đất Hoằng Hoá.
Thiên tích thông minh Hoằng Hoá dục
Thành phù công dụng Đạt Tài năng.
(Câu đối của tổng đốc Thanh Hoá Vơng Duy Trinh đề ở Văn chỉ làng Đạt Tài
- Hoằng Hà )

(Trời phú thông minh, Hoằng Hoá tiến phát
Thánh phò công dụng, Đạt Tài lừng danh)
Hàm Rồng, sông Mã còn là một thắng cảnh đẹp, vừa hùng tráng nhng
đậm chất chữ tình, làm say lòng những thi nhân, mặc khách khi dừng chân tại
nơi này. Họ đã làm những bài thơ ca ngợi nh Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông
năm 1470, Lê Hiến Tông năm 1502,... Nguyễn Thợng Hiền, Tản Đà, Cao Thị
Ngọc Anh (con gái của Đông Các đại học Sỹ Cao Xuân Dục Nghệ An)...
Ngoài thế núi, thế sông, thế biển Hoằng Hoá cũng hội tụ đủ các tuyến đờng giao thông. Đờng bộ, đờng sắt, đờng thủy, nằm trên tuyến giao thông
xuyên Việt lại giáp thành phố Thanh Hoá với trung tâm chính trị văn hóa khoa
học của Tỉnh.
Xét theo cách chia hiện đại, Hoằng Hoá có thể chia làm 5 vùng: vùng
ven biển (Ngọc Chuế cũ), vùng Đông Nam, vùng 17 xã ven sông, vùng giữa,
vùng quốc lộ 1A.
Theo cách chia trớc đây Hoằng Hoá đợc chia làm 2 vùng chính:
Vùng ven biển: Gồm các xã Hoằng Đông, Hoằng Thanh, Hoằng Ngọc,
Hoằng Phụ, Hoằng Tiến, Hoằng Yến, Hoằng Hải, Hoằng Trờng thuộc tổng
Ngọc Chuế cũ, theo nhiều nghiên cứu vùng ven biển này đợc hình thành bởi
các dòng Hải lu do các đợt sóng mạnh, do phù sa sông Mã hình thành nên.
Theo quá trình hình thành ấy, các dải cồn cát đợc dần dần hình thành, rộng
13


hẹp không đều, độ màu mỡ không đều, sâu vào cách biển đó là những vùng
đồng trũng với những cánh đồng tơng đối màu mỡ, tạo nên hỗn hợp đan xen,
trù phú đa dạng của một vùng ven biển. Điều đó cho ta hiểu tại sao các xã
Hoằng Ngọc, Hoằng Đông, Hoằng Yến và một phần phía trong của xã Hoằng
Phụ, Hoằng Tiến, Hoằng Hải, Hoằng Thanh, Hoằng Trờng đất đai tơng đối
màu mỡ thích hợp cho trồng lúa, trồng lạc, trồng khoai, trồng đậu và các loại
rau màu [33, 21].
Trong quá trình kiến tạo, các giải cồn cát hình thành đến đâu thì c dân

đều lập làng sinh sống đến đấy, nhiều tên làng còn mang dấu tích đó rất đậm
nét nh : Cồn Định, Cồn Tán, Cồn Tiền, ...
Vùng đồng bằng: Bao gồm tất cả các xã còn lại của huyện Hoằng Hoá,
theo tác giả cuốn Địa chí văn hoá Hoằng Hoá cho rằng: Những giải thích
về vùng biển Hoằng Hoá cũng có thể cắt nghĩa cho cả địa bàn Hoằng Hoá.
Vùng đất cao của Hoằng Hoá không đáng kể, chỉ có mấy làng ở ven núi
Sơn Trang nh Trà Mỹ, Trà La (Hoằng Khánh), Xa Vệ, Tự Nhiên (Hoằng
Trung).
Ngoài vùng đất cao thì vùng trũng chiếm diện tích khá lớn thuộc 3 tổng:
Lỗ Hơng, Dơng Sơn, Dơng Thuỷ. ở các tổng này, vùng đồng trũng chủ yếu
nằm ở các xã Hoằng Lý, Hoằng Phú, Hoằng Quý, Hoằng Kim, Hoằng Quỳ,
Hoằng Cát. Do vùng này ở gần Sông Mã thời kỳ cha có đê, mỗi khi lũ kéo về
đợc phù sa bồi đắp nên để lại những cánh đồng màu mỡ. Vùng đồng trũng này
chính là vựa lúa của Hoằng Hoá. Đặc biệt ở hai xã Hoằng Lý và Hoằng Quỳ
có di chỉ của nền văn hoá Đông Sơn.
Nhìn chung, khi xem xét địa hình Hoằng Hoá vùng ven biển có các dải
cồn cát kéo dài xen lẫn vùng trũng hẹp và thấp, vùng đồng bằng chiếm phần
lớn diện tích. Nên địa hình Hoằng Hoá tơng đối bằng phẳng, phì nhiêu bộ
mặt địa hình ấy không phải do thiên nhiên tạo ra, phần lớn cảnh quan của
đồng bằng, độ màu mỡ của đồng bằng, sự sầm uất, trù mật của xóm làng ở các
địa bàn khá đông dân c này đều mang dấu vết bàn tay, trí não của con ngời
Hoằng Hoá, ròng rã bao thế kỷ chống chọi với thiên nhiên [33, 26].
Về vị trí địa lý hành chính: Thời Văn Lang - Âu Lạc Hoằng Hoá là đất
của bộ Cửu Chân. Đến theo Đất nớc Việt Nam qua các đời của Đào Duy
Anh cho rằng thời thuộc Hán, Hoằng Hoá là đất của huyện T Phố, thời Tam
Quốc và Lỡng Tấn đây là vùng đất của huyện Kiến Sơ và Cao An... sang đời
Tuỳ (581- 618) đổi là Long An [33, 12].
14



Địa danh Hoằng Hoá đợc thay đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử cùng với
những biến cố. Thời Đinh Tiền Lê khi đất nớc giành lại đợc quyền tự chủ
thì Thanh Hoá có tên gọi là ái Châu. Hoằng Hoá gọi là Giáp Cổ Hoằng. Đến
đời Trần Anh Tông (1293-1314) Giáp Cổ Hoằng đổi thành huyện Cổ Đằng.
Năm 1397 Cổ Đằng đợc đổi thành huyện Cổ Linh. Năm Quang Thuận thứ X
(1469) Cổ Đằng đợc đổi thành huyện Hoằng Hoá, (thuộc phủ Hà Trung) tên
Hoằng Hoá tồn tại từ đó đến nay.
Về huyện lị theo Theo tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XX Hoằng
Hoá có 7 tổng và 161 xã, thôn trang, sở đến năm 1945 có 8 tổng, 169 xã,
thôn.
Tên phủ và huyện trong thời kỳ lịch sử dài Hoằng Hoá vẫn thuộc phủ
Hà Trung.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công các phủ, huyện, châu
đều đợc gọi là huyện. Hoằng Hoá vẫn giữ nguyên 8 tổng cũ. Chỉ sáp nhập
thêm một làng của huyện Hậu Lộc là Trung Hoà vào xã Hoằng Trinh. Cho đến
nay, Hoằng Hoá có 47 xã và 2 thị trấn (Bút Sơn và Tào Xuyên).
Chính nhờ những điều kiện vừa thuận lợi vừa khó khăn về vị trí địa lý,
địa hình nên c dân Hoằng Hoá trong quá trình phát triển của mình mang
những đặc điểm riêng biệt (không có nghĩa là khác biệt). Nhờ sự trù phú của
vùng đất này mà dân số Hoằng Hoá tăng trởng rất nhanh:
Năm 1945 là 104.617 ngời
Năm 1950 là 123.673 ngời
Năm 1960 tăng lên 184.529 ngời . Sau năm 1960, Hoằng Hoá có chủ trơng đa
nhiều gia đình đi xây dựng vùng kinh tế mới ở Cẩm Thuỷ, Thạch Thành... lên
tới 100.000 ngời. Nhng đến năm 1980, dân số vẫn tăng lên 189.174 ngời, năm
1990 tăng lên 225.627.Trung bình mỗi năm dân số Hoằng Hóa tăng khoảng
5.000 ngời [33, 16].
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn cha xác định đợc vùng nào, làng
nào có c dân bản địa cổ sơ nhất Hoằng Hoá.
Theo những di chỉ tìm thấy ở Gò Trũng (Hậu Lộc) và Hoa Lộc (Hậu

Lộc) qua những hiện vật các nhà khảo cổ học cho rằng: C dân sinh sống ở đây
cách chúng ta 4000 năm. Nhng hai di chỉ này cách Hoằng Hoá không xa
khoảng 2-3 km đờng chim bay. Một câu hỏi đặt ra là liệu ở Hoằng Hoá trong
thời kỳ này có c dân sinh sống không. Nhng một điều chắc chắn là thời kỳ

15


các vua Hùng trị vì quốc gia Văn Lang đã có c dân tại địa bàn Hoằng Hoá. Bởi
có di chỉ văn hoá Quỳ Chử [33, 64].
Đến thời kỳ văn hoá Đông Sơn, có tới 14 di chỉ thuộc xã Hoằng Quỳ,
trên 30 di chỉ quanh các xã Hoằng Lý, Hoằng Phú, Hoằng Quý, Hoằng Phợng
chứng tỏ c dân sinh sống. Trong quá trình tìm hiểu và xét quá trình lịch sử c
dân Hoằng Hoá xa xa nhất ở địa bàn Hoằng Hoá cho đến nay, các di chỉ khảo
cổ học chứng minh đợc là Quỳ Chử... cách chúng ta ngày nay trên 27 thế kỷ.
Quỳ Chử vì thế còn có tên gọi khác là Kẻ Tổ.
C dân Hoằng Hoá định c chủ yếu dọc ven sông Mã và tản ra các vùng
xung quanh những nhánh sông khác nh sông Cung, sông Gòng, sông Dọc...
Từ thời Lý trở đi, làng xã ở Hoằng Hoá tơng đối ổn định. Tuy nhiên,
trong c dân Hoằng Hoá ngoài ngời gốc Hoằng Hoá - Thanh Hoá còn có những
ngời di c từ nơi khác đến. Thậm chí còn có cả dòng họ Trung Hoa nh họ Hắc ở
Hoằng Ngọc, họ Tống ở Tào Xuyên cũng đến sinh sống.
Sống trong điều kiện tự nhiên của Hoằng Hoá, con ngời Hoằng Hoá đã
biết vơn lên làm chủ thiên nhiên, chế ngự và lợi dụng đợc thiên nhiên. C dân
Hoằng Hoá rất năng động và sáng tạo trong lao động và học tập đa Hoằng
Hoá thoát khỏi vùng tự cung tự cấp của làng xã Việt Nam vốn tồn tại lâu đời.
Nhiều tài liệu cho thấy dân Hoằng Hoá ít phiêu tán trong những đại nạn mà họ
vẫn kiên trì bám đất, bám làng để an c lập nghiệp.
Trong học hành, những con ngời Hoằng Hoá luôn luôn có tinh thần học
hỏi trong cuộc sống cũng nh trong xã hội mẹo mực Quảng Xơng, văn

chơng Hoằng Hoá. Hoằng Hoá các sĩ tử đỗ đạt nhiều, làm quan thanh liêm.
C dân Hoằng Hoá là những con ngời cần cù trong lao động, hào hùng
trong đấu tranh, năng động trong việc công việc làng, hoạt bát trong ứng xử,
thông minh trong học hành, phóng khoáng trong ăn ở, nghĩa tình trong cách
sống, thắm thiết đối với quê hơng đất nớc, hâm mộ anh hùng, trọng danh dự,
trọng khí tiết, trọng vẻ đẹp thiên nhiên [33, 91]. Những điều tởng chừng nh
giản dị đó là cả một quá trình hun đúc của núi, của sông, của quá trình lao
động, quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Quá trình tiếp thu những ảnh hởng
bên ngoài c dân Hoằng Hoá đã tạo cho mình những nét riêng đẹp đẽ đến vậy.
1.2. Truyền thống yêu nớc và cách mạng
Hoằng Hoá là một vùng đất trù phú, với vị trí địa lý nằm bên con đờng
thiên lý Bắc Nam. Hai cửa Lạch Trờng và Lạch Trào là con đờng giao
16


thông quan trọng. Có dòng sông Mã chảy quanh nên suốt chiều dài lịch sử của
mình, Hoằng Hoá với tỉnh Thanh Hoá trở thành hậu phơng đóng góp sức ngời,
sức của của công cuộc chống ngoại xâm bảo vệ đất nớc, cũng nh tinh thần
đoàn kết chống cờng quyền áp bức. Suốt thời kỳ chống Bắc Thuộc, Hoằng
Hoá không chỉ tỏ rõ vai trò quan trọng của một hậu phơng trong xây dựng, mà
trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, ngời Hoằng Hoá đều có mặt
trong cuộc kháng chiến chống xâm lợc[33, 183].
Từ năm 179 trớc công nguyên đến năm 905 trong số những dòng phát
triển khác nhau của lịch sử dân tộc, chúng ta thấy có hai dòng luôn đối nghịch
nhau một cách quyết liệt trên đất nớc ta đó là: Bắc Thuộc và chống Bắc Thuộc.
Sau hơn 1000 năm đối đầu không khoan nhợng cuối cùng dòng chống Bắc
Thuộc đã thắng đó là sự thắng lợi của cả một quá trình đấu tranh lâu dài và
gian khổ.
Vào thế kỷ thứ I, một viên tớng tên là Đô Dơng đợc cử vào bộ Cửu Chân
xây dựng căn cứ Hoàng Sơn (Nông Cống Thanh Hoá ngày nay) nhằm xây

dựng một bộ máy chính quyền ở đây để chống lại áp bức của Đông Hán.
Nghĩa binh ở Hoằng Hoá đã có mặt đầu tiên ở trung tâm cuộc khởi nghĩa để
giúp hai Bà Trng: Trng Trắc, Trng Nhị là đàn bà mà hô một tiếng cũng có thể
khiến đợc các quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cùng 65
thành ở Lĩnh Ngoại hởng ứng....
Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại Đô Dơng đã trở về quê hơng bản quán
tiếp tục cuộc kháng chiến chống lại sự đàn áp của Mã Viện. Từ cửa biển Lạch
Trờng đến ngã ba Bông, nhân dân Hoằng Hoá đã anh dũng chiến đấu cản đờng tiến quân của giặc.
Theo thần tích của làng nghĩa Lộ (Yên Nghĩa Hoài Đức), làng Phú
Hạng (Tân Phúc Quốc Oai) Hà Tây còn ghi chép rõ: Ông Nguyễn Viên ở
Hoằng Hoá giữ chức trởng doanh ở Cổ Châu lấy bà Trần Thị Lẫm, sinh đợc A
Lã sau đổi là Làng Đê và ngời con trai là Quốc đã theo hai bà khởi nghĩa và
mất tại Cấm Khê [33, 183].
Ngay từ buổi đầu của thời Bắc Thuộc, nhân dân Hoằng Hoá đã cùng với
nhân dân cả nớc đứng lên chống lại chính quyền Bắc Thuộc trong suốt cả một
thời gian dài của lịch sử từ: Triệu, Hán, Ngô, Nguỵ, Tấn, Tống, Tề, Lơng, Tuỳ,
Đờng...
Tiếp theo đó là cuộc khởi nghĩa của cô gái họ Triệu ở vùng núi Na
(Triệu Sơn Thanh Hoá) vào năm 248. Cái uy lực của ngời con gái 19 tuổi
17


xuân đã làm chấn động cả Giao Chỉ. Nhân dân Hoằng Hoá lại một lần nữa
trực tiếp tham gia cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu, bằng tất cả những gì vốn có
của quê hơng mình. Từ núi, sông, đồng ruộng đều trở thành chiến luỹ. Trong
trận tấn công thành T Phố nghĩa quân Hoằng Hoá nô nức tham gia, thừa thắng
nghĩa quân kéo xuống Phú Điền (Hậu Lộc) Hoằng Giang, Hoằng Lý, Hoằng
Hợp hiện nay. Trớc đây có ngã ba sông Tuần Ngu còn có các cồn gọi là cồn
Binh, bãi Binh Là nơi đóng quân và tập kết của bà Triệu. Trong dân gian đến
nay vẫn còn lu truyền lại nhiều câu ca nói lên khí tiết của những con ngời

Hoằng Hoá trong việc tham gia chống quân Ngô với bà Triệu Thị Trinh, nh ở
làng Quỳ Chử (Hoằng Quỳ).
Phờng ta phờng Tổ, Tổ Tiên
Nuôi quân bà Triệu đã quen từng ngày
Voi, ngựa chú ở mả này
Mỗi khi xung trận đánh rày quân Ngô
[26, 32].
Hay trong nhân dân xã Hoằng Trinh, Hoằng Phợng vẫn còn lu truyền lại
câu đối nh:
Thiệu phợng tinh anh, vạn nhẫn thanh sơn hiền thánh
Nữ trung hào kiệt, thiên thu bạch tợng truyền thần.
Đất nớc ta lại tiếp tục trong đêm trờng Bắc thuộc cho đến năm 542 nổ ra
cuộc khởi nghĩa của Lý Bí. Ông dựng cờ khởi nghĩa (vùng Tây Sơn ngày nay)
Nghĩa quân Hoằng Hoá nô nức nhập nghĩa quân, không đầy 3 tháng thành
Long Biên thủ phủ của quân xâm lợc bị nghĩa quân chiếm giữ ái Châu đợc
giải phóng [33, 186]. Nhng trong thời gian ngắn ngủi ấy một tiểu quốc gia
phía Nam tên là Lâm ấp tiến đánh Nhật Nam, Lý Bí cử Triệu Quang Phục (tức
Triệu Túc) và tớng Phạm Tu đem quân vào Nhật Nam để đánh Lâm ấp. Khi
đến ngách sông Tây Hà ông cho dừng quân để tuyển mộ thêm binh lính và
chuẩn bị lơng thảo: con em ở vùng Hoằng Hoá ở các làng xã Phú Trờng
Trang (Phú Khê) Mộc Gia Trang (Nghĩa Trang) Cổ Điển Trang (Trinh Nga)...
nô nức đăng lính theo ông đánh giặc thắng lợi [26, 33]. Đến nay, công lao của
Triệu Quang Phục đợc nhân dân Hoằng Hoá lu truyền và lập đền thờ ông với
lòng tôn kính. Một số nơi còn lu lại dấu tích của nghĩa quân nh: đồng Bản Phủ
(nơi Triệu Quang Phục đóng đại quân) đồng Hà Mã, đờng Cán Cờ, hang
Trống, hang Chiêng... tại Nghè Trinh Hà còn lu truyền câu đối:

18



Dạ trạch tơng phù, long trảo vĩnh lu Nam Việt sử
Tây Hà trấn Lữ, đầu mâu trực phá Bắc lơng binh.
(Dạ trạch là nơi đánh giặc, ngọn lửa long chảo oai hùng còn lu mãi
trong sử Nam Việt
Tây Hà là nơi đóng quân, ngọn đấu mâu thẳng tốc phá quân Lơng bạo
tàn phía Bắc).
Cùng với thời gian ngời Việt ngày càng có ý thức rõ hơn về chủ quyền
dân tộc, về sự tàn bạo của kẻ thù, cuộc đấu tranh này thất bại lại nối tiếp bằng
cuộc đấu tranh khác để giành độc lập. Nhân dân Hoằng Hoá cũng không nằm
ngoài quỹ đạo đó. Vào năm 938, Ngô Quyền tiến đánh quân Nam Hán trên
sông Bạch Đằng, nhân dân Hoằng Hoá đôi bờ sông Ngu đã động viên cổ vũ
khuyến khích đoàn thuỷ quân Ngô Quyền trong lúc ra Bắc diệt quân Nam Hán
đã có rất nhiều con em Hoằng Hoá đặc biệt là những binh sĩ giỏi sông nớc, có
tài bơi lặn đợc đăng binh lính theo đoàn quân của Ngô Quyền. Hiện nay ở các
xã Hoằng Giang, Hoằng Xuân, Hoằng Hợp còn những địa danh mà tuyên
truyền lại rằng đó là đồn binh của Ngô Quyền (những xã này nằm tả ngạn
sông Mã).
Nớc ta bớc vào thời kỳ tự chủ, trải qua các triều đại Đinh - Tiền Lê - Lý
theo các sử sách để lại nhân dân Hoằng Hoá đợc sống trong cảnh thanh bình
là chủ yếu. Đến đời lý (1010-1225) trung tâm T Phố đợc chuyển về Duy Tinh
(huyện Lỵ cũ của Hậu Lộc) do đó cửa biển Linh Trờng trở thành một vị trí
xung yếu về phát triển cũng nh xây dựng và bảo vệ đất nớc. Giặc Chiêm
Thành nhiều lần đã tiến đánh cửa biển Linh Trờng để giữ yên mặt phía Nam
của đất nớc, các triều đại đều tiến hành chinh phạt Chiêm Thành, nhất là vơng
Triều Lý [26, 34]. Đóng góp to lớn nhất cho Vơng Triều Lý đó là ngời con
của vùng đất Hoằng Hoá Lê Phụng Hiểu, ông ngời hơng Băng Sơn (nay là
vùng Xuân Sơn xã Hoằng Xuân), với tài năng và đức độ của mình ông bảo
vệ sự ổn định Vơng Triều Lý trong loạn tam vơng (1028). Năm 1044 ông
cùng Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành [33, 190].
Nhân dân nhớ tài đức của ông nên còn lu truyền lại nhiều câu đối, bài

thơ ca ngợi về ông.
Dẹp loạn tam vơng
Ruột thịt sao đành đổ máu xơng
Kinh thành náo động loạn tam vơng

19


Lỡi gơm trung dũng phò vua mới
Chính nghĩa xua tan lũ bạo cờng [33, 328].
Hay còn nhiều tấm gơng trung kiên nh Nguyễn Tuyên ngời con u tú
của Trang Đơng Bột đã trở thành Đại tớng Quân vị công thần triều Lý có
công giúp Lý Thái Tông (1028-1054) tuyển quân sĩ tại quê hơng chỉ huy đánh
giặc Chiêm Thành [25, 35] .
Cũng dới thời Lý, một hiện tợng hết sức đặc biệt diễn ra trên đất Hoằng
Hoá đó là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn, ngời đã lãnh đạo đông đảo quần chúng
nhân dân Hoằng Hoá chống lại sự thối nát dới sự trị vì của Lý Cao Tông (suốt
từ những năm 1176 - 1210). Sở dĩ nói nó là một hiện tợng độc đáo vì: Suốt
hai thế kỷ từ nửa đầu thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIII (kết thúc triều Lý
1225), ở Thanh Hoá không có cuộc khởi nghĩa nào đợc ghi nhận, duy chỉ có
cuộc khởi nghĩa của Lê Văn [26, 35]. Sự kiện đó chứng tỏ tinh thần quật khởi
không sợ cờng quyền áp bức bất công, gắn liền với lòng yêu quê hơng đất nớc
của nhân dân Hoằng Hóa.
Đến thời nhà Trần (1226-1400), nớc ta 3 lần phải đối đầu với vó ngựa
của quân Mông Nguyên tràn tới. Đi suốt chiều dài 30 năm của cuộc kháng
chiến chống quân Mông Nguyên (1258-1288), Hoằng Hoá đã cùng với hào
khí nhà Trần đóng góp to lớn cho cuộc kháng chiến. Hai lần nhà Trần bỏ trống
Thăng Long rút lui chiến lợc vào Thanh Hoá để làm giảm bớt uy lực của kẻ
thù đồng thời bảo toàn lực lợng nhằm phản công trở lại Thăng Long. Vua tôi
Nhà Trần đã ngợc sông Ngu và sông Mã, nhân dân Hoằng Hoá lại tiếp tục ủng

hộ quân lơng, thực hiện vờn không nhà trống cùng nhà Trần chống giặc
thắng lợi.
Tiêu biểu cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông cũng nh
giặc Chiêm Thành đó là những con ngời đầy khí phách nh Nguyễn Công Đàn
xã Hành Vỹ, lập đợc nhiều công trạng nên đợc vua Trần phong Phụ ký lang
Hầu đô thống, hiện nay, đền thờ của ông đợc xây dựng tại xã Hoằng Thịnh
hay ông Lê Bá Thành ở Tế Độ (Hoằng Phúc) đã đi giết giặc đợc vua Trần
phong chức Tả Dực tớng quân [28, 23].
Đỗ Hành ngời thôn Nhân Ngọc (Hoằng Ngọc) làm quan nội hầu trong
Dinh Thái Thợng Hoàng đã có công bắt đợc Ô Mã Nhi. Theo lịch sử phong
trào cách mạng của Đảng bộ nhân dân xã Hoằng Ngọc trích Đại Việt Sử ký
Toàn th tập 2, kỷ nhà Trần (trang 67) nh sau: Nội minh t Đỗ Hành bắt đợc ô
Mã Nhi và Phàn Tiếp dâng vua Thợng Hoàng mừng lắm cho lên thuyền ngự
20


thởng rợu [20, 12]. Hay vào cuối triều Trần, Hoằng Hoá ghi vào lịch sử một
danh tớng là Hoàng Phụng. Con ngời Hoằng Hoá từ văn quan, võ Tớng cho
đến nhân dân đều hết lòng yêu quê hơng đất nớc và truyền thống chống ngoại
xâm.
Trong 10 năm của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1428) nếm mật
nằm gai, không ít các chiến sĩ vô danh và nhân dân Hoằng Hoá có mặt trong
đoàn quân của Lê Lợi, bên cạnh đó, có những con ngời kiệt xuất đợc ghi danh
nh Nguyễn Công Duẩn (cha rõ làng xã) Lê Viện (làng Dơng Thành xã
Hoàng Thành) trở thành những tớng tâm phúc của Lê Lợi. Ngoài ra còn rất
nhiều giai thoại , truyền thuyết phản ánh những tấm lòng của những con ngời
Hoằng Hoá với khởi nghĩa Lam Sơn, nh giai thoại về bà Quốc Mẫu (Hoằng
Anh) đã có công đánh lừa quân giặc Lê Lợi chạy trốn khi bị quân Minh truy
đuổi hay bà lão ở Quỳ Chử (Hoằng Quỳ) cũng là ngời tiếp đãi bữa cơm đạm
bạc trong lúc Lê Lợi chạy giặc. Thiên hạ thái bình lên ngôi hoàng đế, Lê Lợi

nhớ lại chuyện trong những ngày khốn đốn, cho đặt lại là làng Quỳ Chử (bến
rau Quỳ ) làng Quỳ Chử bắt đầu có tên từ ngày ấy. [33, 179].
Trong những ngày tháng suy vi Lê - Mạc phân tranh Hoằng Hoá cũng
nh các huyện khác ở ven bờ sông Mã luôn là những chiến trờng đẫm máu.
Cửa biển Linh Trờng cũng là nơi giao tranh ác liệt giữa họ Lê - Mạc. Thời kỳ
này Hoằng Hoá có nhiều ngời tuấn kiệt giúp sức vào việc phò Lê diệt Mạc.
Trong tâm thức của họ, nhà Lê là chính thống, chính nghĩa còn nhà Mạc là
nguỵ tà phản nghịch, nên họ dốc lòng giúp nhà Lê, nổi lên rất nhiều ngời hiền
tài nh Lê Tuấn Kiệt (Hoằng Tân) Lơng Hữu Khánh (Hội Triều Hoằng Phong),
Lê Ngọc Xích (Hạ Vũ Hoàng Đạt) Lê Trung Giang (Đô Du Hoằng
Ngọc)... họ là những con ngời có lòng trung bất khuất, xả thân vì sự nghiệp
của họ Lê.
Đến thể kỷ thứ XVIII dới thực quyền của chúa Trịnh và sự suy vong
của các vua Lê, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra. Nổi lên ở Thanh
Nghệ là cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật (tôn thất nhà Lê) thì Hoằng Hoá là
một trong những căn cứ chiến thuật của ông. Nhân dân Hoằng Hoá đặc biệt
là nhân dân nghèo đã tham gia đông đảo [33, 205]. Đặc biệt trong cuộc khởi
nghĩa nông dân Tây Sơn, nhân dân Hoằng Hoá chứng kiến cuộc hành binh
thần tốc, oai phong của quân đội Tây Sơn ra Bắc về Nam vợt Sông Mã ở bến
đò Chiêng (Hoằng Giang) 3 lần [2, 40]. Và trong lần hội quân ở Tam Điệp

21


ngày 20 - 12 - 1788, trai tráng Hoằng Hoá hăng hái đầu quân. Nhân dân cung
cấp lơng thảo, thuyền bè... cho đại quân.
Trong phong trào Cần Vơng cứu nớc. Hoằng Hoá đã nổi lên là một
trong những địa phơng tiêu biểu cho tinh thần kiên trung, ái quốc và tài ba
dũng cảm chiến đấu hy sinh vì đất nớc [26, 43]. Tại Hoằng Hoá có cử nhân
Nguyễn Huy Vũ (Hoằng Lộc) cùng con trai Nguyễn Huy Thiệp, cử nhân Võ

Lê Quang cùng Nguyễn Hách, Nguyễn Thiệu Thông, Lê Huy Bổng, Lê Huy
Đạo, Lê Huy Châu, Quyền Thạc tập hợp nghĩa binh rèn sắm vũ khí. ở Hoằng
Đạo có Mai Hàm, Mai Quán, (hai anh em đều đậu tú tài), tập hợp nghĩa binh
phối hợp với nghĩa quân Nguyễn Đôn Tiết (Hoằng Đức). ở Hoằng Đạt có Lê
Văn ái, Nguyễn Văn Dân tập hợp nghĩa quân ở làng Hạ Đạt Tài, Trù Ninh,

Hà Thái phối hợp với nghĩa quân của Hoàng Bật Đạt ở Hậu Lộc và nghĩa
quân ở Bút Sơn... ở Hoàng Giang có Cao Điển, cùng Trần Xuân Soạn về
Thanh Hoá tập hợp nghĩa binh thành một lực lợng lớn từ ngã ba Bông, ngã ba
Giàng đến Hàm Rồng. ở Hoằng Lý, có Lý Xuân, ở Tào Xuyên cùng Nguyễn
Đôn Tiết, ở Thọ Vực (Hoằng Đức) Lê Chí Trực (Phú Khê) là lực lợng hậu
thuẫn cho bố chánh Nguyễn Khoa Luận dự định chống quân Pháp khi chúng
đánh thành Thanh Hoá (tháng 11/1885) [ 14, 735-736].
Phong trào khởi nghĩa Cần Vơng thất bại nhng họ đã Tử nhi vô tử, tử
quốc sự, tử vi vinh (Chết mà không chết, chết vì việc nớc, chết cũng là vinh)
mặc dù anh hùng để hận nghìn thu nhng cái chết của họ làm cho tổ quốc họ
sống lại, lòng can đảm của họ bất diệt.
Trong phong trào Đông Du và Duy Tân, những Tân Th cũng đã
truyền tay đến các sĩ phu Hoằng Hoá cùng với cả nớc trí thức Hoằng Hoá hăm
hở truyền nhau t tởng Duy Tân nh Lơng Tái Tạo (Hội triều) Nguyễn Đôn
Dự (Hoằng Phúc) Nguyễn Văn Tiên, Nguyễn Viết Xuân (Hoằng Đạt...) đã tích
cực cổ động Duy Tân. Nhng rồi tất cả những con đờng và hành động yêu nớc
đó bị chặn đứng không có lối thoát. Tấm lòng yêu nớc của họ vẫn mãi bế tắc
phải đợi đến xu hớng cách mạng mới đờng lối cứu nớc mới đợc sáng tỏ. Tinh
thần yêu nớc đó đợc tiếp nối bằng tinh thần cách mạng quật khởi của nhân dân
Hoằng Hoá trong những năm 1930-1939. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã
chứng minh rằng: Nếu ngọn cờ Cần Vơng của các sỹ phu yêu nớc đã lỗi thời
thì ngọn cờ cứu nớc theo đờng lối dân chủ t sản cũng bị bế tắc, giữa lúc ấy
cuốn sách Đờng kách mệnh của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc từ Quảng Châu


22


(Trung Quốc) truyền về Việt Nam, trên cơ sở đó, phong trào cách mạng của cả
nớc nói chung và Hoằng Hoá nói riêng mới có đờng đi rõ ràng.
Đó chính là khuynh hớng cứu nớc mới. Khuynh hớng vô sản do Nguyễn
ái Quốc tìm hiểu và lựa chọn. Sau nhiều năm bôn ba ở nớc ngoài, Nguyễn ái
Quốc đã về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp tham gia và lãnh đạo Cách
mạng Việt Nam, mở lớp đào tạo để trang bị lý luận cho các chiến sĩ yêu nớc
Việt Nam, tháng 6/1925 Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đợc thành lập.
Đây là một tổ chức yêu nớc tổ chức tiến bộ đợc nhiều thanh niên yêu nớc theo
đuổi. Ngời Hoằng Hoá đầu tiên tham dự lớp huấn luyện cách mạng của
Nguyễn ái Quốc ở Quảng Châu, tháng 10 1926 và gia nhập tổ chức Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên là Lê Mạnh Trinh (Hoằng Lộc).
ở Hoằng Hoá trong thời gian này cùng với những hoạt động của Lê Hữu
Lập, tháng 10/1926 Hội đọc sách báo cách mạng bí mật đầu tiên đợc thành lập
tại thôn Cự Đà (Hoằng Minh), gồm 10 ngời thờng gọi là thập nhân chi hội.
Đồng chí Lê Viết Phồn ở Cự Đà đợc cử phụ trách, lúc này tất cả các tài liệu
nh cuốn Đờng kách mệnh hay báo Thanh niên từ Quảng Châu đã đợc các
hội viên bí mật truyền tay nhau đọc và giác ngộ cho những ngời khác.
Nh vậy những hạt giống cách mạng đầu tiên ở Hoằng Hoá đã nảy mầm
và phát triển nhanh, mạnh lan toả nh những làn sóng giao thoa trong các tầng
lớp thanh niên bởi vì mỗi hội đọc sách báo đợc tổ chức bao gồm 10 ngời, và
cứ mỗi ngời lại có nhiệm vụ vận động xây dựng một tổ chức mới gồm 10 ngời
khác nữa... [9, 45].
Nhờ sự giác ngộ về t tởng nên tháng 2 - 1927, Lê Hữu Lập đã xây dựng
đợc tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở làng Cự Đà (Hoằng
Minh) ban đầu gồm 5 ngời đó là: Lê Viết Phồn, Hoàng Minh Phụng, Hoàng
Minh Việt, Trơng Khắc Cần, Trơng Khắc Khoan do đồng chí Lê Viết Phồn
làm tổ trởng. Để cho tiểu tổ Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Cự Đà hoạt

động công khai tránh sự kiểm soát của kẻ thù, tháng 10/1927, hội lập một
tiểu chi điếm Hng nghiệp hội xã. Công khai hoạt động buôn bán hàng nội
hoá, tạo điều kiện tài chính cho hoạt động của tiểu tổ Việt Nam Cách mạng
Thanh niên. Đồng thời nhằm mục đích tập hợp quần chúng giác ngộ cách
mạng để mở rộng tiểu tổ Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Với những hoạt
động sôi nổi, đầu năm 1929 tiểu tổ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đợc Tỉnh uỷ nhất trí chuyển thành chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
do đồng chí Lê Viết Phồn làm bí th, trực thuộc Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách
23


mạng Thanh niên. Sự kiện đó đánh dấu bớc chuyển mình quan trọng trong
phong trào cách mạng của các tầng lớp nhân dân Hoằng Hoá. Cùng với Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên tổ chức Tân Việt cách mạng Đảng cũng
có cơ sở ở Hoằng Hoá [33, 226]. Tổ chức Tân Việt cũng có hoạt động theo
những tôn chỉ mục đích chịu ảnh hởng rất lớn từ tổ chức Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên từ phơng châm cũng nh cách thức hoạt động. Tân Việt cũng
đợc tiếp thu nội dung Đờng kách mệnh cũng nh chủ trơng vô sản hoá...
Vậy là, trong cùng một thời gian, hai tổ chức tiền thân của Đảng ở
Hoằng Hoá ra đời nhanh chóng, đã đáp ứng đòi hỏi khách quan của lịch sử
trong việc chuẩn bị xây dựng một Đảng tiền phong lãnh đạo Cách mạng. Điều
này đã tạo ra tiền đề chính trị, t tởng và tổ chức cho sự thành lập chi bộ Đảng
Cộng sản Việt Nam tại Hoằng Hoá.
1.3. Khái quát phong trào cách mạng ở thời kỳ 1930-1939
Ngày 03/ 02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đây là một sự kiện
có ý nghĩa chính trị lớn lao trong lịch sử dân tộc, là bớc ngoặt lịch sử vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ giai cấp vô sản ta
đã trởng thành đủ sức lãnh đạo cách mạng. Từ đây, dới sự chỉ đạo của Trung
Ương Đảng, nhiều đảng bộ địa phơng đã đợc tổ chức khắp Bắc, Trung, Nam
cũng nh các cơ sở trong đồng bào Việt Kiều. Tháng 7/1930 Đảng bộ Đảng
Cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá đợc thành lập [16, 57].

Trong lúc vừa ra đời, thì bị kẻ thù theo dõi phát hiện ra các cơ sở của
Đảng. Cơ sở bị khủng bố, bị đánh phá dữ dội . Những ngời lãnh đạo của Tỉnh
bộ lúc bấy giờ hầu hết bị sa lới kẻ thù. Mặc dù bị địch đánh phá dữ dội, nhng
bằng nhiều mối liên lạc khác nhau một số chi bộ ở Thanh Hoá cũng đợc thành
lập nh: chi bộ Hà Trung, chi bộ Vĩnh Lộc.
ở Hoằng Hoá, mặc dù lúc này cha bắt mối đợc với Đảng bộ cấp trên thì
các đồng chí còn lại nh Lê Viết Phồn, Trơng Khắc Cần, Trơng Khắc Khoan đã
bí mật liên hệ với nhau, duy trì những hoạt động tuyên truyền cách mạng
trong quần chúng, nhằm đón thời cơ thành lập chi bộ cộng sản [16, 57].
Sau một thời gian móc nối, năm 1930 đồng chí Lê Hữu Lập đợc cử về
nớc bắt mối tự xây dựng cơ sở Đảng. Tháng 8/1930 đồng chí Lập về bắt mối
liên lạc với đồng chí Lê Viết Phồn ở làng Cự Đà, hội viên Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên cũ, nhằm xây dựng cơ sở Đảng ở Hoằng Hoá [2;
16]. Tháng 9/1930, tại đây, đồng chí Lê Hữu Lập đã tuyên truyền giác ngộ
thành lập đợc một chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Hoằng Hoá gồm 3 đảng
24


viên: Lê Viết Phồn, Trơng Khắc Cần và Trơng Khắc Khoan do đồng chí Lê
Viết Phồn làm bí th [16, 58] - Còn gọi là chi bộ Cự Đà.
Sự kiện chi bộ Hoằng Hoá ra đời đánh dấu một bớc ngoặt về tổ chức
phong trào cách mạng của Hoằng Hoá, từ đây phong trào đấu tranh của nhân
dân Hoằng Hoá đã có ánh sáng của Đảng Cộng sản soi đờng và ngày càng
phát triển.
Chi bộ Đảng ra đời khẩn trơng liên lạc với cơ sở Đảng ở nớc ngoài để
nhận tài liệu hoạt động. Sau khi thành lập chi bộ đã cử đồng chí Trơng Khắc
Khoan và đồng chí Lê Hữu Lập sang Xiêm để nhận tài liệu về hoạt động
[2,16].
Trên đờng đi, các đồng chí đã phải vợt qua nhiều trạm gác của địch, nửa
tháng sau, các đồng chí mới đến đợc tỉnh Sa van na khẹt (Lào). Nhng cuối

cùng, cũng bị khám xét gắt gao tại trạm Đông Hen. Đồng chí Lập phải vợt
rừng sang Xiêm, đồng chí Khoan phải quay về.
Khi Đảng bộ ra đời đã kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh. Điển
hình là phong trào đấu tranh của nhân dân vùng phụ cận Hàm Rồng ủng hộ
công nhân Nhà máy Diêm Hàm Rồng đòi tăng lơng, tổ chức rải truyền đơn hởng ứng kỷ niệm cách mạng tháng Mời Nga và ủng hộ Xô Viết Nghệ
Tĩnh [33, 227].
Trong lúc chi bộ Cự Đà đang xúc tiến tổ chức đi lần thứ hai sang Xiêm
thì bị địch phát hiện ra đờng dây liên lạc, nó tiến hành khủng bố và đánh phá
dữ dội. Cuối tháng 10 năm 1930, bọn địch đã huy động lính tuần sai và bắt ép
một số tuần phu đến bao vây làng Cự Đà, làng Thanh Ngoạn để lùng bắt đảng
viên cộng sản. Các đồng chí trong chi bộ đã bị bọn thống trị bắt đa vào Nhà
lao Thanh Hoá, chúng dùng nhiều cực hình tra tấn, nhng các đồng chí đều giữ
đợc khí tiết của ngời cách mạng [2, 17]. Qua đợt khủng bố này của địch,
quần chúng ở các nơi thấy rõ dã tâm của bọn đế quốc phong kiến, do đó họ
càng hăng hái tham gia hoạt động Cách mạng.
Nh vậy, chi bộ Cự Đà là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên đợc thành lập ở
Hoằng Hoá, tuy thời gian ra đời và hoạt động cha đợc bao lâu nhng nó đã mở
ra thời kỳ mới của phong trào cách mạng huyện nhà và trên cơ sở đó, các tổ
chức cách mạng của quần chúng đợc nhen nhóm ngày càng mở rộng, tiến lên
dới sự lãnh đạo của Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu Cách mạng trong thời kỳ lịch
sử vẻ vang của mình. Từ đây, phong trào Cách mạng ở Thanh Hoá không có
Đảng chỉ đạo trong suốt một thời gian dài. Mặc dù tháng 1 - 1931, Đảng bộ
25


×