Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

LUẬN VĂN:Quá trình đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên bang pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.79 KB, 105 trang )











LUẬN VĂN:
Quá trình đấu tranh củng cố nền độc lập
dân tộc của Liên bang Malaixia từ 1957
đến 2005





Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lựa chọn con đường phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ là vấn đề rất lớn, không chỉ đi tới mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, đời sống
nhân dân được ấm no, phồn vinh, hạnh phúc, mà còn là sự tiếp tục bảo vệ, củng cố, giữ
gìn độc lập dân tộc một cách vững chắc nhất. Các nước mới giành được độc lập nhận
thức rằng, độc lập về chính trị chưa phải là độc lập hoàn toàn, nguy cơ trở lại kiếp sống
nô lệ dưới nhiều hình thức có thể trở thành hiện thực. Các thế lực thực dân đế quốc
không dễ dàng từ bỏ quyền lợi của họ ở các thuộc địa cũ, cũng chẳng hân hoan đón chào
những người dân ở xứ "bảo hộ" ngày trước nay được tự do, hạnh phúc, được xếp ngang
hàng với mình. Thời đại đã thay đổi, các nước thực dân, đế quốc không thể thống trị


trắng trợn, trực tiếp như trước đây, mà họ đã sử dụng các cách thức mới với chiêu bài
nhân quyền, viện trợ và đầu tư phát triển. Hơn nữa, sự gia tăng của toàn cầu hóa, khu vực
hóa và chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức cũng đang đặt ra không ít thách thức đối
với việc duy trì chủ quyền và bản sắc quốc gia dân tộc. Song song với tiến trình hội nhập,
xây dựng một xã hội hài hòa, đoàn kết và khoan dung, thì xu hướng ly khai dân tộc, áp
đặt "dân chủ", "chia để trị" trên thế giới cũng có chiều hướng gia tăng. Trong khi ở một
số nước phát triển nhanh về kinh tế, ổn định xã hội, chủ quyền an ninh quốc gia được
đảm bảo thì nhiều quốc gia khác trở nên tồi tệ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu con đường,
cách thức đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc trong bối cảnh quốc tế mới hiện nay luôn
là đề tài hấp dẫn.
Malaixia (trong công trình này, chúng tôi sử dụng nhiều loại thuật ngữ khác
nhau liên quan đến người Malaixia và đất nước Malaixia; trước 1963, nước này gọi là
Malaya hay Malaia; sau 1963, Liên bang Malaya được đổi thành Malaysia hay
Malaixia; thuật ngữ Malayu hay Melayu là tên gọi tộc người Malai; người Malaixia là
chỉ tất cả công dân sống trên lãnh thổ Malaixia, không phân biệt họ là tộc người nào.
Chính vì vậy trong công trình sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau chỉ về đất nước, con

người, các cộng đồng dân tộc của Malaixia qua từng thời kỳ lịch sử), từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến, hết sức đa dạng về cấu trúc văn hóa - tộc người,
lại bị chia cắt thành nhiều vùng lãnh thổ với trình độ phát triển khác nhau, từ sau khi
được trao trả độc lập cho tới nay đã vươn lên trở thành một quốc gia tương đối phát triển
với một nền kinh tế năng động, có sức cạnh tranh khá cao, một xã hội ổn định và ngày
càng có uy tín cao trên trường quốc tế. Đây là một trong những trường hợp khá điển hình
trong số các nước đang phát triển nói chung, ở Đông Nam á nói riêng về sự kết hợp
tương đối hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã xã hội và hài hòa dân tộc,
giữa củng cố nền độc lập dân tộc với hội nhập khu vực và quốc tế. Vì vậy, nghiên cứu
con đường phát triển hiện đại của Malaixia nói chung, củng cố nền độc lập và đoàn kết
quốc gia - dân tộc nói riêng kể từ khi nước này giành được độc lập cho tới nay không chỉ
là vấn đề học thuật, mà có ý nghĩa thực tiễn chính trị lớn, góp phần cung cấp thêm cứ liệu
khoa học và bài học kinh nghiệm cho việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển

của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: " Quỏ trỡnh đấu tranh củng cố nền
độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia từ 1957 đến 2005" để viết Luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Lịch sử phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc, mã
số: 62 22 52.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu quá trình đấu tranh và củng cố nền độc lập dân tộc, xây dựng bản sắc
quốc gia - dân tộc của các nước đang phát triển dưới thời chiến tranh lạnh và trong bối
cảnh gia tăng của toàn cầu hóa và chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức hiện nay luôn là
chủ đề hấp dẫn đối với các học giả và giới chính trị trong và ngoài nước. Trên thế giới đã
không ít tài liệu, các công trình khoa học bàn luận các khía cạnh khác nhau về vấn đề
trên, trong đó liên quan đến con đường phát triển hiện đại của Malaixia. Trong số trên phải
kể đến các cuốn sách "Malaysian Politics & Government" của Jayum A. Jawan (2004);
"Malay Political Leadership" của Anthony S. K. Shome (2002); "Mahathir
administration: leadership and change in a multiracial society" của Chung Kek Yoong

(1987); "Malaysia in transiton: Politics and Society" của Abdul R. Baginda (2003);
"Managing the Malaysia Economy: Challenges & Prospect" của Ranmon V. Navarantnam
(1997) v.v Các công trình trên không chỉ nói lên sự lựa chọn con đường phát triển kinh
tế - xã hội và thể chế chính trị của Malaixia, mà quan trọng hơn là chỉ ra vai trò của chính
sách kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội và hài hòa dân tộc, giữa nội
lực và ngoại lực đối với củng cố nền độc lập và thống nhất quốc gia - dân tộc trong bối
cảnh mới.
ở Việt Nam, trong thập niên gần đây vấn đề trên được nhiều người quan tâm
nghiên cứu. Đã có không ít công trình liên quan đến con đường phát triển của Malaixia
đã được bảo vệ cấp thạc sĩ, tiến sĩ và xuất bản thành sách; Trong số này phải kể đến các
công trình như "Kinh tế Malaixia" của Đào Lê Minh và Trần Lan Hương (2001); "Đặc
điểm con đường phát triển kinh tế - xã hội của các nước ASEAN" (trong đó có phần
Malaixia) do Phạm Đức Thành chủ biên); "Chính sách Kinh tế mới với vấn đề hòa hợp
dân tộc ở Malaixia giai đoạn 1971-1990" (luận văn cao học của Lý Tường Vân, 2002);

"Mahathir Mohamad với vấn đề dân tộc và tôn giáo của Malaixia" (Luận văn cao học
của Lê Thị Huyền, 2005), "Sự tiến triển trong chính sách dân tộc của Malaixia từ 1957 đến
2000" (luận văn cao học của Võ Thị Thu Nguyệt, 2005 v.v Tuy nhiên, hiện nay chưa có
một công trình nghiên cứu chuyên sâu dành riêng xem xét con đường, biện pháp đấu tranh
củng cố nền độc lập dân tộc của Malaixia kể từ khi nước này giành được độc lập từ tay
người Anh (1957 đến nay (2005).
Tài liệu để viết luận văn cao học này là khá phong phú, đa dạng, bằng nhiều thứ
tiếng, nhất là tiếng Việt và tiếng Anh. Ngoài các chuyên luận, sách báo, các bài tạp chí,
còn có các văn bản pháp quy như Hiến pháp, pháp luật của nhà nước, các bài diễn văn,
báo cáo của các đảng phái chính trị, các nhân vật cấp cao trong bộ máy nhà nước, các văn
kiện ký kết trong và ngoài nước.
Nhìn chung, trong các công trình và bài viết nêu trên, đấu tranh củng cố nền độc
lập dân tộc của Liên bang Malaixia từ năm 1957 đến 2005 tuy đã phản ánh trên nhiều
khía cạnh, nhưng chưa mang tính hệ thống, chuyên sâu, cũng chưa trở thành đối tượng

nghiên cứu độc lập của một công trình khoa học nào ở trong cũng như ngoài nước, đặc
biệt trên quy mô luận văn thạc sĩ
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở những dữ kiện, tài liệu chính thức được công bố về Liên bang Malaixia,
luận văn đi sâu nghiên cứu làm rõ quá trình đấu tranh củng cố nền độc lập, đoàn kết và
thống nhất quốc gia - dân tộc của Liên bang Malaixia khi nước này giành được độc lập từ
tay thực dân Anh (1957) đến nay (2005), để từ đó rút ra triển vọng và bài học kinh
nghiệm đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia trong gần 50 năm
qua.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Phân tích những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh củng cố nền độc lập
dân tộc của Malaixia;
- Phân tích các biện pháp chủ yếu đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên

bang Malaixia từ năm 1957 đến 2005;
- Đánh giá triển vọng và bài học kinh nghiệm đấu tranh củng cố nền độc lập dân
tộc của nước Liên bang Malaixia trong gần 50 năm qua.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình đấu tranh củng cố nền độc
lập dân tộc của Liên bang Malaixia trong gần 50 năm qua, thông qua các biện pháp thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng đỡ, tạo dựng cộng đồng doanh nghiệp người bản địa,
khuyến khích hợp tác kinh tế và hòa hợp dân tộc, thúc đẩy hội nhập quốc tế và những
thuận lợi, khó khăn đang đặt ra đối với độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia
- Về thời gian: Trọng tâm nghiên cứu là thời gian từ khi Liên bang Malaixia
giành độc lập đến nay (1957 đến 2005)

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin về hình thái kinh tế - xã hội, về nhà nước và giai cấp, dân tộc, thời đại, Đảng cầm
quyền trong hệ thống chính trị.
Đồng thời vận dụng những quan điểm cơ bản trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh, văn kiện của Đảng và Nhà nước ta về cuộc đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc
trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu: Những nguyên lý, phương pháp luận cơ bản của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, hệ thống phương pháp luận sử
học mácxít là cơ sở hình thành phương pháp nghiên cứu luận văn. Tác giả sử dụng
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh lịch sử, đặc biệt là phương pháp lịch sử và
logic; kết hợp với phương pháp phân tích hệ thống và lý thuyết phát triển để nghiên cứu
và trình bày nội dung luận văn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đánh giá những bước đi, cách thức và thành tựu và khó khăn trong đấu tranh
củng cố nền độc lập dân tộc của Malaixia từ sau 1957 đến 2005 trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác và các lý thuyết phát triển khác (như lý luận về toàn cầu hóa và khu vực hóa
v.v ).

- Nêu lên một số bài học kinh nghiệm về cuộc đấu tranh củng cố nền độc lập dân
tộc có thể tham khảo đối với Việt Nam trong bối cảnh mới hiện nay
7. ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lí luận: Thông qua phân tích các biện pháp đấu tranh củng cố nền độc
lập dân tộc của Liên bang Malaixia gần 50 năm qua, luận văn góp phần cung cấp thêm cứ
liệu khoa học và một số bài học kinh nghiệm để tham khảo xung quanh vấn để bảo vệ và
củng cố nền độc lập dân tộc trong giai đoạn hiện nay

- Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy trong các trường đại học, học viện về các môn thuộc chuyên ngành
của khoa học lịch sử,, nhất là lịch sử phong trào giải phóng dân tộc.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.




Chương 1
Những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của
Liên bang Malaixia

1.1. Khái quát về lịch sử đấu tranh giành độc lập và sự hình thành nhà nước
Liên bang Malaixia
1.1.1. Về đất nước và con người
Liên bang Malaixia nằm ở vị trí khá trung tâm của Đông Nam á có diện tích
330.252 km
2
(tương đương với Việt Nam) với dân số trên 25 triệu người và 13 đơn vị
hành chính gọi là Bang. Lãnh thổ nước này nằm gần sát xích đạo, giữa 1

0
và 7
0
vĩ bắc,
100
0
và 119
0
kinh đông và được chia ra làm hai miền. Miền Tây thuộc bán đảo Malaixia
kéo dài từ kênh Kra ở phía bắc đến eo biển Joho ở phía Nam, được chia thành 9 bang và
2 vùng lãnh thổ Liên bang với diện tích gần 131.794 km
2
với dân cư đông đúc trên 20
triệu người; Miền Đông gồm hai bang (Sabah và Sarawak) nằm ở phía bắc đảo
Kalimantan đất đai rộng lớn, phì nhiêu (198.000 km
2
), dân cư thưa thớt, chỉ chiếm
khoảng 1/5 (khoảng 4,7 triệu) dân số cả nước (số liệu 2004). Hai vùng lãnh thổ Đông - Tây
của Malaixia bị chia cắt bới vùng biển Đông rộng khoảng 750 km. Nước này có đường
biên giới với các quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan ở phía Bắc, Xingapo ở phía
nam bán đảo Malaccca, Inđônexia và Brunei ở phía Đông. Là quốc gia hải đảo nên
Malaixia có đường bờ biển dài tới 4.300 km [6].
Malaixia nằm ở khu vực khí hậu xích đạo, nắng lắm, mưa nhiều, đất đai màu
mỡ. Khí hậu nhiệt đối đã đem lại cho đất nước này một thế giới thực, động vật phong
phú. Có tới 70% diện tích lãnh thổ là rừng nhiệt đới xanh tốt quanh năm. Trong những
năm 70 - 80 của thế kỷ XX, Malaixia đã xuất khẩu gỗ chiếm tới khoảng trên dưới 10%
tổng giá trị xuất khẩu của cả nước (nguồn xuất khẩu gỗ là nguồn thu ngoại tế lớn thứ
ba); thổ nhưỡng ở đây chủ yếu là đất đỏ bazan, rất thích hợp cho nhiều loại cây trồng
có giá trị, trước hết là cao su, dầu cọ và dừa. Tài nguyên trong lòng đất cũng hết sức


giàu có và đa dạng. Ngoài dầu mỏ và khí đốt, tại nước này còn có sắt, bốcxít, mănggan,
vàng và đặc biệt là thiếc với trữ lượng đạt tới 1.200.000 tấn, đứng thứ 3 ở Đông Nam á,
nhưng về khai thác luôn đứng hàng đầu của khu vực [24, tr. 225-231], [31, tr. 11-14]. Với
những điều kiện tự nhiên trên, Malaixia có khả năng phát triển một nền kinh tế toàn diện,
một xã hội khá giả. Cũng do điều kiện thuận lợi đó, từ lâu trong lịch sử, mảnh đất này trở
thành nơi du nhập và hội tụ của các nền văn hóa, tôn giáo và văn minh lớn trên thế giới.
Đây là tiền đề tạo dựng một xã hội đa nguyên và mở cửa hội nhập quốc tế của Liên bang
Malaixia ngày nay.
Malaixia là quốc gia đa dân tộc, tôn giáo và nhiều sắc thái văn hóa. Có 3 nhóm
cộng đồng dân tộc chính gồm người Melayu (Malayu) và các tộc người bản địa khác như
Senang, Senoi, Jakun, Dusune, Bajan, Klemantan, Melânn v.v. (hay thường gọi là
Bumiputera), người Hoa (người di cư từ Trung Quốc và con cháu của họ) và người ấn
(chủ yếu là người Tamil, di cư từ miền Nam ấn Độ). Theo số liệu thống kê năm 2004,
người Malayu chiếm 58,1%, người Hoa - 24,3%, người ấn 6,9%; Số còn lại là các nhóm
cộng đồng khác, trong đó có các tộc người thiểu số ở hai bang miền Đông thuộc Sarawak
và Sabah, và người lai Âu - á (Số liệu tính đến 2003) [45, tr. 30].
Người Melayu và các tộc người thiểu số địa phương khác được coi là người bản
địa (Bumiputera), là nhóm dân tộc lớn nhất, nhưng không phải là đa số. Phần lớn họ sinh sống
ở nông thôn và theo Hồi giáo. Xét về huyết thống và ngôn ngữ, họ có quan hệ mật thiết với
các tộc người bản địa ở Inđônêxia, miền Nam Philipin và Thái Lan. Xét theo địa vị xã hội
họ có ảnh hưởng chính trị và văn hóa lớn nhất tại quốc gia này, nhưng vai trò kinh tế thì thua
kém cộng đồng người Hoa.
Người Hoa là cộng đồng dân di cư từ Trung Quốc và con cháu của họ, chủ yếu
theo Phật giáo và Đạo giáo cùng với thờ cúng tổ tiên. Họ đến xứ sở này từ thế kỷ XV -
XVII, nhưng chủ yếu là từ thế kỷ XIX. Phần lớn họ sống ở đô thị, làm nghề buôn bán và
hoạt động chế tác công nghiệp. Họ có địa vị kinh tế nổi trội và ảnh hưởng lớn trong chính
trường chính trị của nước này.

Còn cộng đồng người ấn Độ chủ yếu đến Malaixia từ thế kỷ XIX. khi thực dân
Anh biến nước này thành thuộc địa. Phần lớn trong số họ là người Tamil, theo Hindu

giáo; còn một bộ phận khác di cư từ phía Bắc ấn Độ theo đạo Xích. Cũng giống như
người Hoa, phần lớn trong số họ làm nghề buôn bán, sống ở đô thị, nhưng lại tham gia
đắc lực vào bộ máy cảnh sát và quân đội. So với các nhóm dân nhập cư khác, quá trình
hiện đại hóa về đời sống tinh thần của cộng đồng người ấn Độ ở nước này diễn ra chậm
chạp. Họ được nuôi dưỡng và giáo dục sâu sắc về tôn giáo và văn hóa ấn Độ. Tuy là cộng
đồng số ít, nhưng cộng đồng này cũng có tiếng nói khá quan trọng trong đời sống chính
trị cũng như quan hệ quốc tế của Malaixia [26, tr. 134-172].
Malaixia là một nước quân chủ lập hiến. Người đứng đầu Liên bang được gọi là
Yang di - Pertuan Agong (Quốc vương Liên bang) được bầu trong số 9 nhà đứng đầu
(Vương thần) của các Bang (như Perlis, Kedah, Perak, Selangor, Negeri, Sembilan,
Johor, Pahang, Trengganu và Kelantan) tại Hội nghị các nhà lãnh đạo, với nhiệm kỳ 5
năm. Các vương thần của 9 bang hay Sultan (Tiểu vương Hồi giáo) này kế nhiệm theo
kiểu cha truyền con nối, là người lãnh đạo chính đối với cộng đồng Hồi giáo ở bang
mình. Các nhà lãnh đạo của 3 bang và 2 lãnh thổ Liên bang còn lại là Melaka, Pulau
Pinang (đảo Penang), Sabah, Sarawak, Kuala Lumpur và Labuan do Quốc vương Liên
bang bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm. Quốc vương Liên bang đồng thời là người đứng đầu
Hồi giáo Liên bang.
Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Malaixia độc lập ban hành vào năm 1957 quy
định Quốc vương không chỉ là người đứng đầu Liên bang mà còn là người đứng đầu Nhà
nước. Có quyền bác bỏ các dự luật, có thể giải tán nghị viện. Nhưng theo Hiến pháp sửa
đổi năm 1994, thì quyền hạn của Quốc vương bị hạn chế và chỉ đóng vai trò cố vấn cho
Thủ tướng. Quốc vương lập ra Hội đồng quản trị gồm những người đứng đầu bang. Hội
đồng này làm tham mưu trong việc bầu Hội đồng thẩm phán, Hội đồng bầu cử, ủy ban
công vụ v.v
Nghị viện của Malaixia tổ chức theo lưỡng viện, gồm có thượng viện và Hạ viện.
Thượng viện (Dewan Negara) có 70 thành viên, trong đó có 40 người là người đứng đầu

các đơn vị hành chính (Bang) được chỉ định (thường do Quốc vương chỉ định) và từ 30
người được bầu từ các bang. Mỗi bang được chọn ra 2 nghị sĩ làm thành viên của Hội
đồng lập pháp với nhiệm kỳ 3 năm. Hạ viện hay là Viện dân biểu (Dewan Rakyat) gồm

219 thành viên, được lựa chọn từ các khu vực bầu cử trong nước với nhiệm kỳ 5 năm.
Quốc vương có thể giải tán Quốc hội (Viện dân biểu) sớm hơn nếu có yêu cầu của Thủ
tướng Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu cơ quan hành pháp, được Quốc vương
bổ nhiệm người của Đảng nào có nhiều ghế nhất trong Hạ viện. Thủ tướng lập ra Hội
đồng Bộ trưởng hay nội các. Hiện nay Malaixia có 25 Bộ trưởng trong nội các Chính phủ
và một số cơ quan ngang bộ
ý chí và nguyện vọng xây dựng đất nước độc lập, thống nhất, ổn định, dân chủ và
thịnh vượng của Liên bang Malaixia được thể hiện ở Tuyên bố "Rukunegara" (tiếng
Melayu có nghĩa là "Nền tảng quốc gia"). Đây là hệ tư tưởng chính thống, cương lĩnh
hành động mà đất nước này theo đuổi từ đó cho tới nay. Nội dung chính của nó là đề cao
tính thống nhất quốc gia, công bằng xã hội và hài hòa giữa các dân tộc, đồng thời nhấn
mạnh đến bổn phận và trách nhiệm của người dân đối với tổ quốc, đức tin và pháp luật
(về vấn đề này sẽ được đề cập nhiều hơn ở chương tiếp theo).
Malaixia cũng như nhiều quốc gia khác theo thể chế đa nguyên về kinh tế, chính
trị cũng như văn hóa. Sự đa sắc tộc và tôn giáo cũng như sự pha trộn và đan xen các hình
thái kinh tế - xã hội đã tác động sâu sắc đến quá trình trên. Từ sau khi Malaixia giành
được độc lập cho tới nay, Mặt trận Quốc gia (National Front), trong đó hạt nhân chính là
Tổ chức dân tộc thống nhất Malay (UMNO) là tổ chức chính trị có uy tín và sức mạnh
lớn nhất tại quốc gia này. Đây là một liên minh chính trị của 3 đảng phái lớn nhất hiện
nay của quốc gia này là UMNO, Hiệp hội người Hoa Malaixia (MCA) và Đại hội ấn
Malaixia (MIC) [19, tr. 11-13], [31, tr. 18-19] .
1.1.2. Khái quát về lịch sử đấu tranh chống thực dân Anh và quân phiệt
Nhật của các dân tộc ở Malaya trước 1946

Cũng như nhiều quốc gia khác trong khu vực, Malaixia trải qua các biến cố thăng
trầm của lịch sử. Trước khi thực dân phương Tây xâm chiếm và biến đất nước này thành
thuộc địa, tại Malaixia đã từng tồn tại và chứng kiến sự thịnh vượng của các vương quốc
ấn Độ, sau đó là các tiểu vương quốc Hồi giáo; Đạo Hồi xâm nhập vào xứ sở này từ thế
kỷ XIII - XIV, và đến khoảng giữa thế kỷ XV chiếm vị trí độc tôn, trở thành quốc đạo

của Malaixia - Trung tâm Hồi giáo lớn nhất Đông Nam á.
Do tài nguyên thiên nhiên giàu có, vị trí địa chiến lược trong thương mại đường biển
giữa ấn Độ Dương và Thái Bình Dương nên từ lâu bán đảo Malacca trở thành nơi nhòm ngó,
tranh chấp và biến thành thuộc địa của phương Tây. Từ đầu thế kỷ XVI (1511) thực dân Bồ
Đào Nha đánh chiếm Malacca; đến giữa thế kỷ XVI (1541), Hà Lan chiếm lại Malacca và
vùng đất mới là Johor; và đến từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX lần lượt chiếm các
điểm tiền tiêu quan trọng nhất, án ngữ eo biển Malacca như thành phố Malacca, đảo Penang, và
đảo Xingapo. Đến cuối thế kỷ XIX, toàn bộ Malaixia ngày nay trở thành thuộc địa Anh.
Chính sách khai thác tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu mà thực dân Anh đã
thi hành đã không làm cho đất nước này trở thành một nước có nền kinh tế phát triển.
Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Sản phẩm nông nghiệp chiếm tới 40% tổng thu nhập
nội địa; trong đó khu vực chế biến, chế tạo chỉ chiếm hơn 10%. Hầu hết những ngành
kinh tế chủ đạo, có khả năng xuất khẩu đều do tư bản Anh kiểm soát, như ngành xuất khẩu
thiếc, cao su, dầu cọ, dứa v.v Tư bản Hoa Kiều khống chế gần như toàn bộ lĩnh vực
Thương mại [18, tr. 69].
Sau khi hợp pháp hóa quyền cai trị của mình tại xứ sở Malaya (tên này được gọi
cho đến tận 1963, sau đó gọi là Malaixia, và bao gồm cả Xingapo), thực dân Anh sát
nhập ba đơn vị hành chính gồm đảo Penang, thành phố Malacca và đảo Xingapo thành
một đơn vị hành chính mới (vào năm 1826) gọi là "Cụm dân cư eo biển" (The Straits
Settlements) độc lập với các tiểu vương quốc còn lại của Malaixia. Người Anh áp dụng
chế độ cai trị gián tiếp tại các tiểu vương quốc, tiếp tục duy trì chế độ quân chủ và các
luật tục của Hồi giáo. Tuy vậy các luật lệ của người Anh, đặc biệt là Luật Thương mại đã
trở nên thông dụng tại nước này. Khác với sự cai trị của người Hà Lan ở Inđônêxia,

người Anh thi hành chính sách mở cửa, chào đón các nhà buôn dưới mọi sắc cờ đến miền
đất này, nhất là đến "Cụm dân cư eo biển". Kết quả là Xingapo, đảo Penang và thành phố
Malacca từ nửa sau thế kỷ XIX trở thành những trung tâm buôn bán chuyển khẩu mậu
dịch và phân phối lao động lớn nhất Đông Nam á. Từ những nơi này, cao su, thiếc được
khai thác ở các vùng trung tâm của Malaya, nhất là vùng Kuala Lumpur được tái xuất
khẩu sang thị trường Châu Âu và hàng hóa tiêu dùng từ phương Tây được phân phối lại

cho thị trường các tiểu vương quốc và các nước khác trong khu vực. Cùng với sự phát
triển nhanh chóng của buôn bán chuyển khẩu và tái xuất khẩu, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ
thuật được xây dựng tại Malaixia khá hoàn chỉnh. Nhiều trường dạy nghề, dạy chữ cho
con em các quan cai trị người Anh và tầng lớp quý tộc người bản địa ra đời. Bên cạnh đó
hệ thống giáo dục Hoa ngữ cũng được thiết lập. Đây là một trong những di sản lịch sử mà
chế độ thực dân để lại, có ảnh hưởng sâu sắc đến các xu hướng chính trị - xã hội cũng
như phát triển kinh tế của Malaixia sau ngày độc lập [12, tr. 21-25].
Cũng giống như nhiều nước trong khu vực, từ những thập niên đầu của thế kỷ
XX, Malaixia cũng bị cuốn hút vào các cuộc chiến đế quốc (cụ thể là thế chiến lần thứ
nhất 1914-1918) và bị tác động bởi Cách mạng tháng Mười Nga. Tại xứ thuộc địa
Malaya, giới cầm quyền các tiểu vương quốc Hồi giáo ủng hộ nước Anh, quyên góp tiền
giúp nước này trong việc phát triển các căn cứ hải quân, nhất là tại cảng Xingpo. Còn dân
chúng, nhất là giới thợ thuyền tại các thành phố lớn đình công, phản đối chiến tranh,
chống bóc lột. Còn tầng lớp quý tộc và giới sinh viên, trí thức cũng bắt đầu ý thức giác
ngộ tinh thần dân tộc, chống lại thuộc địa.
Cần lưu ý rằng, sự thức tỉnh tinh thần dân tộc và tinh thần đấu tranh chống thuộc
địa tại Malaya lúc đó bị tác động mạnh mẽ bởi phong trào cách mạng diễn ra tại khu vực,
nhất là tại nước Hồi giáo láng giềng Inđônexia, nơi có truyền thống chống thực dân
phương Tây. Tại Inđônexia từ đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một số tổ chức của sinh viên
có xu hướng chống thuộc địa; tiếp đến là "Liên minh Hồi giáo" ra đời vào năm 1912. Đặc
biệt, sự ra đời của Đảng Cộng sản Inđônexia vào năm 1920 có ảnh hưởng lớn đến ý thức
giai cấp của các tầng lớp nhân dân lao động không chỉ của Inđônexia mà cả của Malaya.
Việc một số nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Inđônexia (như Tan Malaka, Aliman,

Jâmlludin v.v ) chạy sang Malaya sau sự thất bại của cuộc khởi nghĩa vào cuối năm 1926-
1927 là một trong những yếu tố thúc đẩy phong trào cách mạng và sự ra đời của Đảng
Cộng sản Malaya sau đó. Ngoài ra, các sinh viên Malaya và Inđônexia học ở trường Đại
học tổng hợp Cairo (Ai Cập) đã xuất bản chung một số tờ báo như "Seruan Azhar" (tiếng
nói Azhar) và "Pilihan Timur" (sự lựa chọn của phương Đông", trong đó đề cập đến
những nhiệm vụ chung của nhân dân Inđônexia và Malaya, nhấn mạnh đến sự cần thiết

liên kết giữa hai nước trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc [31, tr. 40-42].
Sự ảnh hưởng của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc từ bên ngoài, đặc biệt
từ Inđônexia đã làm khuấy động tình thần dân tộc, chống thuộc địa trong nước Malaya.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX đã xuất hiện khá nhiều tờ báo có tại các thành phố
lớn như ở đảo Penang, đảo Xingapo xu hướng bênh vực cho người địa phương. Vào Năm
1926, lần đầu tiên tại Malaya xuất hiện một tổ chức chính trị - xã hội đầu tiên của người
Malaya gọi là "Hiệp hội người Malaya ở Xingapo" do Mohammad Yunos Bin Abdulah
đứng đầu. Hiệp hội này lên tiếng bảo vệ quyền lợi kinh tế của người Malaya, tuyên
truyền thức tỉnh quần chúng tích cực tham gia vào đời sống chính trị-xã hội. Chẳng bao
lâu những tổ chức tương tự được thành lập ở các tiểu vương quốc, vùng lãnh thổ khác
như ở Penang, Selangor, Negri-Sembilan v.v Tham gia vào các hiệp hội này không chỉ
tầng lớp tri thức, mà còn cả giới quý tộc và quan cai trị người bản địa. Mặc dầu các nhà
hoạt động của hiệp hội có quan điểm tương đối ôn hòa, mang tính chất cải lương, nhưng
sự ra đời và ảnh hưởng của các tổ chức này đã thúc đẩy ý thức giác ngộ và hoạt động
chính trị của nhân dân Malaya. Chính những hiệp hội này đã góp phần quan trọng trong
việc tập hợp lực lượng, củng cố tình đoàn kết của người Malaya.
Từ những năm 30 trở đi, trước tác động của bối cảnh quốc tế mới như cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, của phong trào cộng sản tế và của cuộc đấu tranh
vì hòa bình, chống chủ nghĩa phát xít, phong trào yêu nước, chống thuộc địa của nhân dân
Malaya trở nên mạnh mẽ hơn. Vào năm 1938, tại nước này xuất hiện một tổ chức chính
trị mang màu sắc dân tộc có tính cấp tiến hơn là "Liên minh thanh niên Malaya". Liên
minh đòi tiến hành cải cách xã hội về cơ bản và giải phóng Malaya khỏi ách thống trị của

thực dân Anh, đòi thống nhất Malaya với Inđônexia. Năm 1941, chính quyền thực dân
Anh đã cấm tổ chức này hoạt động và bắt giam các nhà lãnh đạo của Liên minh.
Ngoài phong trào mang tính dân tộc và yêu nước của người bản địa, phong trào
cách mạng, chống thuộc địa cũng nổi lên khá mạnh mẽ trong cộng động người Hoa và
người ấn Độ. Trước tác động của hoạt động cách mạng của lãnh tụ Tôn Dật Tiên (ông
này nhiều lần tới Xingapo để gây dựng phong trào trong giới người Hoa Kiều), phong
trào chống thực dân, đế quốc trong cộng đồng người Hoa tại Malaya trong những thập

niên đầu của thế kỷ XX phát triển khá mạnh mẽ. Tiếp đến là phong trào phong trào đình
công, bãi khóa, đòi tăng lương, giảm giờ làm của giới công nhân, thợ thuyền, nhất là
trong cộng đồng người ấn Độ. Tuy nhiên, các cuộc đấu tranh trên phần lớn mang tính tự
phát và không có tổ chức vì lúc đó trong công nhân người ấn Độ chưa có tổ chức công
đoàn và Đảng Cộng sản. Trái lại, tầng lớp trên của người ấn Độ từ 1906 đã lập nên Hiệp
hội kinh doanh của mình. Hiệp hội này đứng ra bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản ấn
Độ tại Malaya. Năm 1937, "Hiệp hội trung ương người ấn Độ ở Malaya" chính thức được
thành lập và có quan hệ mật thiết với đảng Quốc đại ở ấn Độ. Tổ chức này ra đời góp
phần đáng kể tăng thêm sức ép đấu tranh đòi thực dân Anh trao trả độc lập cho Malaixia sau
này.
Một sự kiện quan trong, đánh dấu bước phát triển quan trọng của phong trào
công nhân, cộng sản và đấu tranh giải phóng dân tộc của Malaixia là sự ra đời của Đảng
Cộng sản Malaya vào ngày 30-4-1930. Tuy nhiên mãi đến tháng 3-1933, đảng này mới
thông qua điều lệ. Đến năm 1939, số đảng viên của đảng đã tăng lên tới 37.000 người và
có các chi bộ ở hầu khắp trên lãnh thổ Malaya lúc đó, bao gồm cả Xingapo. Đa phần
trong số họ là người Hoa, nhưng cũng có đại diện của các cộng đồng sắc tộc khác tham
gia. có quan hệ mật thiết với các đảng cộng sản khác, đặc biệt với đảng cộng sản Trung
Quốc [22, tr. 378-380].
Phong trào chống thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc khỏi ngoại bang tại
Malaixia được dấy lên bởi sự xâm lược và chiếm đóng của phát xít Nhật trong chiến
tranh thế giới lần thứ II. Vào cuối năm 1941 Nhật tràn vào Malaixia. Khoảng trong vòng

1 tháng, Nhật Bản đã đánh bại Anh, chiếm giữ quyền kiểm soát tất cả các bang của
Malaixia, kể cả vùng Sabah và Sarawak. Sự xuất hiện của quân đội Nhật ở Malaixia đã
gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ của nhân dân Malaixia. Tuy nhiên, sự chống đối đó
diễn ra theo những sắc thái và mức độ khác nhau ở mỗi cộng đồng sắc tộc. Đối với cộng
đồng người Malaya bản địa, người Nhật đã thực hiện một chính sách mị dân nhằm lôi
kéo người Malaya ủng hộ chính sách của Nhật. Cụ thể là chế độ chính trị của các tiểu
vương quốc không bị xóa bỏ, mà ngược lại được công nhận có địa vị danh giá hơn.
Những người đứng đầu tôn giáo được hưởng các khoản trợ cấp như trước đây. Hơn nữa,

nhiều vị trí quan chức hành chính quan trọng trước đây do người Anh chiếm giữ thì sau
đó Nhật Bản thay bằng người Malaya. Cùng với khẩu hiệu mị dân về xây dựng "khu vực
thịnh vượng đại Đông á", chính quyền Nhật Bản phần nào chiếm được cảm tình của
người Malaya bản địa vốn nhiều năm chịu sự đô hộ của thực dân Anh. Thậm chí một số nhà
yêu nước người Malaya đã có ý định dựa vào Nhật để chống lại Anh, giành độc lập. Tiêu
biểu cho tư tưởng này là ngài Ibrahim Yabkob, lãnh tụ của phong trào thanh niên, một
trong những người sáng lập ra "Liên minh thanh niên Malaya" vào năm 1938. Năm 1940
ông cùng các lãnh tụ khác của Liên minh bị thực dân Anh bắt giam và được thả tự do khi
Nhật Bản tràn vào chiếm đóng Malaixia vào năm 1941. Sau khi ra tù ông trở thành chỉ huy
của "Đội quân bảo vệ tổ quốc" được sự ủng hộ của Nhật. Cuối năm 1945, sau khi Nhật
Bản đầu hàng, thực dân Anh trở lại cai trị thì Ibrahim Yabkob và đồng sự của ông ta phải
chạy trốn ra nước ngoài [31, tr. 46-47]. Có thể nói rằng, chính chính sách "chia để trị"
cùng với những nhận thức lệch lạc của một số nhà chính trị người Malaya trên đã góp
phần làm phân liệt phong trào chống thuộc địa, đoàn kết và đấu tranh giải phóng dân tộc
của Malaixia.
Cũng giống như cộng đồng người Malaya, một số nhà lãnh đạo của cộng đồng
người ấn Độ đã chủ trương hợp tác với Nhật để chống lại ách cai trị của Anh. Họ đã
thành lập "Liên đoàn độc lập của ấn Độ" tại Malaixia, và sau đó cả "Quân đội quốc gia
ấn Độ" và "Chính phủ lâm thời ấn Độ tự do" vào năm 1943 tại Xingapo với mục tiêu
không những chống lại quân đội Anh tại Malaixia, mà quan trọng hơn là giải phóng ấn

Độ khỏi ách thống trị của người Anh. Sau khi Nhật đầu hàng, chính quyền Anh đã đàn
áp các tổ chức này.
Khác với hai cộng đồng trên, Nhật Bản thực hiện chính sách đàn áp người Hoa.
Chính vì vậy, cộng đồng người Hoa là lực lượng nòng cốt của phong trào kháng Nhật do
Đảng Cộng sản Malaya lãnh đạo. Đảng Cộng sản đã nhiều lần đề nghị cùng hợp tác với
chính quyền Anh để chống Nhật nhưng không được chấp thuận. Trước tình thế đó, Đảng
Cộng sản đã tự mình tập hợp lực lượng, tổ chức các đội du kích quân, tuyên chiến với Nhật.
Sau khi Nhật đầu hàng, du kích quan do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã tham gia giải giáp
quân Nhật và "quân đội quốc gia ấn Độ" do Nhật dựng lên. Từ thời điểm này, Đảng Cộng

sản Malaya lần đầu tiên công khai hoạt động và chủ trương dùng bạo lực để cướp chính quyền.
Sau khi Nhật đầu hàng, tháng 9-1945 quân Anh trở lại Malaixia và thiết lập lại
chế độ cai trị của họ cho đến năm 1957 khi buộc phải trao trả độc lập cho người
Malaixia. Từ giai đoạn này, phong trào đấu tranh giành độc lập của Malaixia bước sang
một giai đoạn mới, trong đó có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân, từ tầng
lớp trên có quan hệ khá mật thiết với chế độ thực dân do các tư sản lãnh đạo cho đến đội
ngũ công nhân, thợ thuyền do đảng cộng sản lãnh đạo. Hơn nữa, sức ép của cao trào cách
mạng thế giới bởi ba dòng thác cách mạng diễn ra mạnh mẽ sau thế chiến lần thứ hai
buộc Anh phải điều chỉnh chính sách thuộc địa của mình, từng bước nhượng bộ, trao trả
độc lập cho người bản xứ.
1.1.3. Tiếp tục đấu giành độc lập dân tộc và sự hình thành nhà nước Liên bang
Malaixia từ 1946 đến 1957
Để duy trì quyền cai trị lâu dài và "hợp pháp" của mình tại thế giới Malaya, đồng
thời đối phó với cao trào đấu tranh ngày càng dâng cao, chống lại sự chiếm đóng của
Nhật, Bộ thuộc địa Anh từ tháng 2-1943 đã bắt đầu soạn thảo chương trình cho một thể
chế chính trị mới tại Malaya. Tất nhiên việc làm này được tiến hành không có sự tham
gia của phía các đảng phái chính trị hay lực lượng đối lập với Anh. Tuy nhiên, sự việc
trên bị gián đoạn bởi chiến tranh và chính sách thuộc địa của Nhật.

Ngay sau khi tiếp quản trở lại Malaya từ tay người Nhật, ngày 10-10-1945, Quốc hội
Anh tuyên bố kế hoạch thành lập Liên hiệp Malaya. Tiếp đến ngày 22-1-1946, chính phủ
Anh công bố sách trắng, trong đó trình bày bản Hiến pháp của nhà nước Liên hiệp Malaya.
Theo Hiến pháp này thì Liên hiệp Malaya gồm 9 tiểu vương và 3 đơn vị hành chính là
Penang, Malacca và Xingapo. Chính phủ của các Quốc vương phụ thuộc vào chính phủ
trung ương và nằm dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Thống đốc Anh. Việc công bố bản
Hiến pháp này đã gây ra làn sóng phản đối mới chống lại thực dân Anh. Đánh dấu cho
cuộc đấu tranh mới này là sự ra đời và hoạt động sôi nổi của hàng loạt các đảng phải
chính trị, trong đó có "Tổ chức dân tộc thống nhất Malaya" (UMNO). Đảng chính trị này
ra đời vào tháng 3 năm 1946 và chính thức ra mắt vào ngày 11-5-1946. Hạt nhân của
UMNO chủ yếu là giới trí thức, tầng lớp quý tộc, tiểu tư sản dân tộc người Malaya bản địa.

Do khai thác được tâm lý dân tộc và dựa vào ảnh hưởng lớn của giới quý tộc các địa
phương cũng như ngay từ đầu chủ trương liên minh với các chính đảng khác nhằm mục
tiêu là giành độc lập cho đất nước Malaixia nên trong một thời gian ngắn UMNO đã trở
thành một chính đảng lớn nhất, thu hút được sự ủng hộ đông đảo của người dân trong
nước. UMNO đã tích cực tuyên truyền, phản đối bản dự thảo Hiến pháp thành lập Liên
hiệp Malaya đưa ra vào năm 1946.
Ngoài UMNO, tại Maliaxia từ cuối 1945 cũng xuất hiện nhiều đảng chính trị
khác. Hoạt động của chúng cũng có tác động mạnh đến sự trao trả độc lập cho Malaixia
sau nay. Ví dụ như Đảng dân tộc Malaya (MNP) được thành lập vào tháng 11-1945 với
thành phần chủ yếu là tiểu tư sản và trí thức người Hoa. Đảng này chủ trương thống nhất
Malaya với Inđônexia nên không gây được ảnh hưởng lớn tại chính trường nước này.
Còn Đảng "Liên hiệp dân chủ Malaya" được thành lập vào tháng 12-1945 lại có xu
hướng đi theo cánh tả kiểu Đảng lao động của Anh, không thu hút được sự ủng hộ của
quần chúng lao động và các nhà cách mạng có tư tưởng dân tộc, nhưng ít nhiều cũng làm
khuấy động phong trào đòi độc lập của Malaixia. Tiếp đến là sự ra đời của "Đại hội của
người ấn Malaixia" (MIC) vào tháng 8-1946. Đây là đảng phái chính trị đại diện cho
quyền lợi của người gốc ấn, có quan điểm chống thực dân Anh vì một nền độc lập cho
Malaya.

Bất chấp làn sóng phản đối, thực dân Anh vấn tiếp tục thực hiện kế hoạch đã
định. Ngày 1-4-1946, Anh tuyên bố thành lập Liên hiệp Malaya và tách Xingapo thành
thuộc địa riêng bắt đầu có hiệu lực. Cùng với việc làm này, người Anh tiếp tục củng cố
quyền cai trị của họ tại hai bang phía Đông là Sabah và Sarawak. Điều này tạo ra làn
sóng mới, trong đó có việc các tiểu vương quốc không tham gia dự lễ kỷ niệm nhận chức
của thống đốc đầu tiên của Anh ở Liên hiệp Malaya này. Nhân sự kiện này đảng UMNO
và những người thân đảng đã tuyên bố để tang một tuần.
Trước tình thế trên, chính quyền Anh buộc phải đồng ý xem xét lại bản Hiến
pháp với UMNO. Một ủy ban hỗn hợp đã được lập ra gồm có đại diện của Liên hiệp
Malaya, các tiểu vương quốc và UMNO. UMNO đòi thực hiện thay Liên hiệp thành Liên
bang bao gồm cả phần "cụm dân cư eo biển" (Xingapo, Malacca và Penang), đồng thời

phải khôi phục các quyền của Quốc vương và hạn chế quyền công dân không phải là
người Malaya. Chính quyền Anh đã nhượng bộ và bản Hiến pháp mới ra đời vào ngày 1-
2-1948, trong đó Liên hiệp Malaya đổi tên thành Liên bang Malaya và đơn vị hành chính
Malacca và Penang thuộc về Liên bang, còn Xingapo vẫn là thuộc địa riêng. Cũng theo
Hiến pháp mới này thì những cư dân không phải là người Malaya sinh ra ở Liên bang,
muốn trở thành công dân của Liên bang thì phải nói tiếng Malaya và tuân theo tập quán
Malaya. Quyền hành pháp Liên bang do Cao ủy Anh mắm giữ [12, tr. 27-28], [31, tr. 52-
55].
Việc thành lập Liên bang Malaya chứng tỏ rằng cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc của nhân dân Malaya đã bước sang một giai đoạn mới, có nhiều thuận lợi hơn lúc nào
hết. Vào cuối những năm 40, đầu những năm 50 của thế kỷ ba dòng thác cách mạng,
trong đó có sự hình thành hệ thống chủ nghĩa xã hội từ Âu sang á đã cổ vũ nhân dân các
nước thuộc địa vùng lên đấu tranh. Các nước thuộc khu vực Đông và Đông Nam á láng
giềng như Việt Nam, Inđônexia, Mianma, ấn Độ, Trung Quốc v.v lần lượt giành được
độc lập và đang đấu tranh để bảo vệ thành quả đó. Nguồn cổ vũ lớn lao này làm tăng
thêm ý thức dân tộc và tinh thân đấu tranh vì độc lập trong các tầng lớp nhân dân Malaya.
Trong cao trào đó tại nước này như đã đề cập ở trên đã xuất hiện các đảng phái chính trị
bênh vực quyền lợi cho các nhóm cộng đồng dân tộc tại nước này; đó là đảng UMNO đại

diện cho người Malaya bản địa, MIC đại diện cho người gốc ấn. Còn đối với người Hoa
thì đã sẵn có Đảng Cộng sản Malaya (MCP). Những năm đầu sau thế chiến lần thứ hai,
do đi tiên phong trong phong trào kháng Nhật nên đảng này chiếm được uy tín lớn và sự
ủng hộ rộng rãi của quần chúng lao động người Hoa. Đảng đã lập ra các tổ chức Công
đoàn, thanh niên, nông dân và phụ nữ và lãnh đạo họ đứng lên chống lại giới chủ bằng
các cuộc đình công, bãi khóa v.v Trong khi đó giới thượng lưu, tầng lớp nhà buôn
người Hoa lại có quan hệ chặt chẽ với Phòng thương mại người Hoa. Phòng thương mại
này không chỉ đảm nhận chức năng kinh tế mà còn cả chức năng xã hội, trong đó đứng ra
đầu tư phát triển văn hóa, giáo dục cho cộng đồng và lo toan các mối quan hệ với các
cộng đồng khác và với quan chức chính phủ. Sau khi Đảng Cộng sản bị đặt ra ngoài vòng
pháp luật (ngày 23-7-1948) và phải rút vào hoạt động ở rừng núi, giới công thương

trong cộng đồng người Hoa mới tiến hành các biện pháp, tranh giành ảnh hưởng với
Đảng Cộng sản trong giới người Hoa và lập nên chính đảng riêng của họ. Và như vậy
vào tháng 2-1949 "Hiệp hội Hoa kiều Malaya" (MCA được thành lập. Mục tiêu của
MCA không chỉ bảo vệ quyền lợi chính đáng của người Hoa, mà còn có quan điểm xây
dựng một nước Malaixia phát triển hài hòa giữa các cộng đồng dân tộc. Đây là tổ chức
chính trị có quyền lực trong giới người Hoa và có ảnh hưởng lớn trong chính trường của
Malaixia từ những năm 50 trở đi [41, tr. 84-85].
Cần nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Malaya mà phần lớn đảng viên là người
Hoa đã không lôi kéo được đông đảo các tầng lớp lao động của người Melayu bản địa.
Chính quyền, với sự trợ giúp đắc lực của các tổ chức xã hội tư sản, các đại diện có ảnh
hưởng của giới thượng lưu phong kiến, các hoạt động tôn giáo đã reo rắc được vào tiềm
thức dân chúng Melayu khái niệm về Đảng Cộng sản Malaya là của người Hoa và mục
đích mà đảng theo đuổi xa lạ và thù địch với lợi ích của người Melayu. Trong bối cảnh
đó, trước sự tấn công mạnh mẽ của quân đội chính phủ và sự tranh giành ảnh hưởng do
MCA chủ trương (MCA cũng công khai tuyên bố chống lại Đảng Cộng sản Malaya),
Đảng Cộng sản Malaya hầu như bị cô lập hoàn toàn ở các đô thị và phải lùi sâu vào vùng
rừng núi và hoạt động du kích. Để tiến hành kháng chiến lâu dài, họ đã thành lập "Quân
giải phóng nhân dân Malaya" vào tháng 2-1949. Tuy là mất sự hậu thuẫn và mất dần ảnh

hưởng ở các vùng đô thị, nhưng hoạt động của lực lượng du kích cộng sản đã góp phần
quan trọng, làm cho chính quyền thực dân nhanh chóng hơn trong việc trao trả độc lập
cho Malaixia.
Trong hoàn cảnh khi mà Đảng Cộng sản bị suy yếu thì vai trò lãnh đạo trong đấu
tranh giành độc lập thuộc về các đảng phái mang tính chất tư sản và dân tộc. Mặc dù các
đảng phái như UMNO, MCA, MIC được xây dựng và hoạt động trên cơ sở cộng đồng
sắc tộc, song giữa họ có một điểm chung liên kết với nhau là đấu tranh vì một Malaya
độc lập và thống nhất. Dù có các quyền lợi khác nhau, nhưng các bên đều ý thức là cố
tránh xung đột. Để đạt mục tiêu chung, vào năm 1950, dưới sự chủ trì của UMNO, một
Liên minh (gọi là "Đảng hay Khối Liên minh") của 3 đảng là UMNO, MCA và MIC được
thành lập. Sự kiện này được sự ủng hộ rộng rãi của mọi tầng lớp, giai tầng và sắc tộc bên

trong Malaya. Hơn nữa, giới cầm quyền Anh cũng thông qua sự hợp tác giữa các đảng
phái này để ngăn chặn sự trỗi dậy Đảng Cộng sản Malaya.
Dưới sức ép ngày càng lớn đòi độc lập, thực dân Anh từng bước nhượng bộ Khối
Liên minh, trong đó cho phép tổ chức các cuộc phổ thông đầu phiếu thành lập Hội đồng
lập pháp và chính quyền cả cấp Bang và Liên bang. Trong cuộc bầu cử diễn ra vào ngày
9-7-1955, Khối Liên minh 3 đảng mà trong tuyên truyền vận động bầu cử với khẩu hiệu
"Con đường tiến tới độc lập" đã giành thắng lợi vang dội giành tới 51 trong tổng số 52
ghế của Hội đồng lập pháp Liên bang. Thủ lĩnh UMNO là ngài Abdul Rahman trở thành
bộ trưởng thống nhất Hội đồng hành pháp Liên bang. Tuy nhiên, Theo Hiến pháp 1955,
chỉ có 5 trong số 10 thành viên của Hội đồng Hành pháp là đại biểu được bầu. còn 5 đại
biểu khác là do Cao ủy Anh bổ nhiệm, và Cao ủy vẫn có quyền phủ quyết mọi dự luật.
Chính vì vậy, ngay từ khi trúng cử UMNO đứng đầu là Abdul Rahman đã đề nghị với
người Anh thay đổi Hiến pháp.
Cùng với sức ép bởi cuộc đấu tranh võ trang do Đảng Cộng sản Malaya lãnh đạo,
những yêu sách đòi điều chỉnh Hiến pháp và thắng lợi của phái dân tộc chủ nghĩa trong
bầu cử Hội đồng lập pháp Liên bang và sự lớn mạnh chưa từng thấy của ba dòng thác

cách mạng đã thúc ép chính quyền thuộc địa Anh buộc phải trao trả độc lập cho nước
này.
Thỏa thuận về trao trả độc lập cho Malaya đã đạt được trong cuộc đàm phán kéo
dài từ ngày 18-1 đến 18-2-1956 tại Luân Đôn giữa Chính phủ Anh và đoàn đại biểu của
Khối Liên minh và các tiểu vương quốc do Abdul Rahman dẫn đầu. Hai bên đã thỏa
thuận là vào tháng 8-1957 Anh sẽ trao trả độc lập cho Liên bang Malaya. Ngày 15-8-
1957 Hội đồng lập pháp Liên bang Malaya thông qua Hiến pháp mới. Lễ chính thức
tuyên bố độc lập được tiến hành vào ngày 31-8-1957 tại sân vận động "Độc lập" ở Kuala-
Lumpur. Theo Hiến pháp, Liên bang Malaya là một nước quân chủ lập hiến nằm trong
Khối Thịnh vượng chung thuộc Anh. Người đứng đầu Liên bang được gọi là Yang di -
Pertuan Agong (Quốc vương Liên bang) được bầu trong số những người đứng đầu
(Vương thần) của các bang với nhiệm kỳ 5 năm. Các vương thần của Bang hay Sultan
(Tiểu vương Hồi giáo) này kế nhiệm theo kiểu cha truyền con nối, là người lãnh đạo

chính đối với cộng đồng Hồi giáo ở bang mình. Đứng đầu ở hai vùng lãnh thổ là Malacca
và Penang là thống đốc do Quốc vương Liên bang bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm. Quốc
vương Liên bang đồng thời là người đứng đầu Hồi giáo Liên bang.
Đến 1963, Liên bang Malaya sát nhập thêm 3 đơn vị hành chính mới là Xingapo,
Sabah và Sarawak và đổi tên thành Liên bang Malaixia với thủ đô là Kuala Lumpur
(thuộc Bang Selangor). Đến năm 1965, Xingapo tách ra thành quốc gia độc lập. Năm
1974, Bang Selangor trao phần đất Kuala Lumpur của mình cho Chính phủ Liên bang.
Năm 1984, Bang Sabah chao đảo Labuan cho chính phủ Liên bang. Kuala Lumpur và
đảo Labuan trở thành những đơn vị hành chính độc lập, trực thuộc Liên bang, gọi là lãnh
thổ Liên bang. Như vậy, Liên bang Malaixia hiện nay có 13 đơn vị hành chính, gồm 11
bang và 2 phần lãnh thổ Liên bang [19, tr. 126-141], [22, tr. 428-433], [36, tr. 46-47].
Như vậy, trải qua một chặng đường đấu tranh lâu dài, bằng nhiều hình thức, cả
đấu tranh chính trị lẫn vũ trang, cuối cùng nhân dân Malaixia đã giành lại được nền độc
lập của mình. Từ chỗ lực lượng chống đế quốc, thực dân là những nhà yêu nước mang
tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, chủ yếu xuất thân trong giới quý tộc cộng đồng người

Melayu, thì từ những năm 30 trở đi, đặc biệt từ khi Nhật chiếm đóng Malaixia thì đã lôi
cuốn đông đảo mọi giai tầng xã hội và cộng đồng sắc tộc, bao gồm cả giới công nhân
thợ thuyền, nông dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo và các nhóm cộng đồng dân nhập cư
như người Hoa, người ấn Độ do các tổ chức Hiệp hội hay tổ chức Cộng đồng của họ
lãnh đạo. Cùng với cuộc đấu tranh bên trong, cả nghị trường của giai cấp tư sản và võ
trang do Đảng Cộng sản lãnh đạo, sức ép mạnh mẽ từ ba dòng thác cách mạng thế giới
diễn ra mạnh mẽ sau 1945 đã buộc thực dân Anh phải trao trả độc lập cho Malaixia.
Đây là một trong những trường hợp khá điển hình về tính phức tạp và đa dạng của liên
minh, liên kết, tập hợp lực lượng chống thực dân đế quốc tại Malaixia, trong đó yếu tố
tôn giáo, sắc tộc chi phối khá sâu sắc. Hơn nữa, chính sách "chia để trị" của thực dân
Anh, sau đó là quân phiệt Nhật đã góp phần chia rẽ, phân liệt cuộc đấu tranh chống
thuộc địa và giai cấp tại nước này. Chính vì những lý do trên làm cho vai trò của giai
cấp công nhân và Đảng Cộng sản trong đấu tranh chống thuộc địa không được nổi trội.
Trong khi đó giai cấp tư sản dân tộc ngày càng mạnh lên, đóng vai trò chi phối phong

trào và họ đã giành được quyền lãnh đạo dân tộc từ tay người Anh. Điều này đã ảnh
hưởng sâu sắc đến sự lựa con đường và phương pháp đấu tranh củng cố nền độc lập của
quốc gia này từ sau khi giành được độc lập cho tới nay.
1.2. Những yếu tố tác động đến con đường phát triển kinh tế - xã hội, chính
trị và đấu tranh củng cố nền độc lập dân tộc của Liên bang Malaixia từ sau 1957
1.2.1. Yếu tố khách quan
Đông Nam á nói chung, Malaixia nói riêng luôn có vị trí quan trọng trong bàn cờ
địa - chính trị của các nước lớn, trước hết là các nước thực dân, đế quốc. Nơi đây không
chỉ có eo biển Malacca, tuyến đường thương mại và điểm phòng thủ lợi hại trên con
đường giao lưu giữa ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Đông Nam á lục địa và
Đông Nam á hải đảo, mà còn là một đất nước tiếp nhận và chứa đựng nhiều nền văn hóa,
văn minh cũng như các nhóm tộc người trên thế giới. Hơn nữa, vùng đất này lại giàu có
về tài nguyên thiên nhiên, nhất là các khoảng sản và nhiên liệu quý. Cho nên các nước
phương Tây, trước hết là thực dân Anh trao trả độc lập cho Malaixia mà không rằng buộc

hay ít ra lại không tiên đoán được tương lai chế độ chính trị -xã hội của đất nước này tiếp
tục có lợi cho họ. Hơn nữa, thời đại đã thay đổi, các đế quốc thực dân cũng trở nên thực
dụng, điều chỉnh chính sách thuộc địa, từng bước trao quyền chính trị cho người bản địa
để nhằm làm dịu mâu thuẫn dân tộc và giai cấp, tập hợp lại lực lượng để đối phó hay
ngăn chặn sự phát triển mạnh mẽ của chế độ xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng
dân tộc sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Điều này góp phần giải thích tại sao một số
thuộc địa ở Đông Nam á lại được người Anh, người Mỹ "sẵn sàng" trao trả độc lập cho
người xứ "bảo hộ" một cách tương đối nhẹ nhàng như vậy.
Cần nhấn mạnh rằng, sự đối đầu ý thức hệ chính trị-tư tưởng và quân sự giữa hai
siêu cường Liên Xô và Mỹ và mâu thuẫn của tam giác chiến lược Mỹ - Trung - Xô dưới
thời chiến tranh lạnh đã tác động sâu sắc không chỉ đến cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
của nhân dân Malaixia, mà còn cả đến lựa chọn con đường phát triển kinh tế - xã hội và
chính trị của nước này.
Như đã từng biết, sau chiến tranh thế giới lần thứ II, chủ nghĩa xã hội nhanh
chóng trở thành một hệ thống, kéo dài từ Âu sang á. Hàng loạt các nước Đông Âu dưới

sự giúp đỡ của Liên Xô, vùng lên đấu tranh giải phóng khỏi sự chiếm đóng của phát xít
Đức, lập nên các nhà nước dân chủ nhân dân do các đảng mácxít lãnh đạo. ở châu á,
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á. ở khu vực Đông Bắc á, sự ra đời của
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hòa (chiếm với 1/4 diện tích ở châu á và 1/4 dân số của
thế giới) vào năm 1949 đã phá vỡ một khâu quan trọng nữa trong hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa thực dân, cổ vũ, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc và làm cho chủ nghĩa
xã hội nối liền từ Âu sang á. ở Nam á, trước áp lực đấu tranh của quần chúng dưới sự
lãnh đạo của Đảng Quốc đại, thực dân Anh đã buộc trao trả độc lập cho ấn Độ vào năm
1947, và đến năm 1950 thì quốc gia lớn thứ hai về dân số này trên thế giới trở thành quốc
gia độc lập hoàn toàn. Đặc biệt, từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, phong trào giải
phóng dân tộc không chỉ dừng lại ở châu á, mà lan nhanh sang các nước ở châu Phi và
Mỹ la tinh. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc tan ra từng mảng trong những năm
1954-1960. Cùng với sự hình thành hệ thống chủ nghĩa xã hội từ Âu sang á, sự sụp đổ

của chế độ thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới đã làm thay đổi tương quan lực lượng,
khiến chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ trở nên lo sợ, đã nhanh điều chỉnh chính sách,
thực hiện chủ nghĩa thực dân mới và chống lại chủ nghĩa xã hội một cách kịch liệt. Bằng
chính sách thực dân mới, Mỹ đã thắng lợi ở nhiều nơi, trong đó ở một số nước Đông
Nam á. Mỹ ra sức viện trợ và đứng đằng sau chính quyền Sài Gòn, chính quyền
Philippin, Thái Lan v.v Mục tiêu chính của Mỹ và đồng minh là không chỉ ngăn chặn
sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản, và chống lại phong trào giải phóng dân tộc, mà còn
để giành dật, chiếm giữ thị trường nguyên liệu ngay trong lòng các nước vốn trước đây là
thuộc địa, lôi kéo các nước này đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản dạng lệ thuộc. Rõ
ràng, Malaixia nói riêng, Đông Nam á nói chung nằm ở vị trí chiến lược, vì vậy khó có
thể nằm ngoài sự chú ý và "chăm sóc" của các nước đế quốc, trước hết là Anh - Mỹ.
Thông qua viện trợ kinh tế, thương mại và đầu tư phát triển, các nước tư bản từng bước
lôi kéo các nước này vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. ở những nơi giai cấp vô sản còn
yếu kém, bị phân liệt, giai cấp tư sản nắm quyền hay đóng vai trò nổi trội trong giành độc
lập dân tộc như trường hợp Malaixia thì chính sách thực dân mới có cơ hội để phát triển.

Từ giữa những năm 60, tình hình quốc tế và khu vực Đông Nam á có những
chuyển biến lớn, ảnh hướng không nhỏ đến chính sách phát triển nội tại và quan hệ quốc
tế của Malaixia. Vào thời điểm đó, Mỹ phát động rầm rộ chiến tranh chống lại ba nước
Đông Dương; Trung Quốc tiến hành "cách mạng văn hóa vô sản" và chủ trương xuất
khẩu chủ nghĩa Mao-ít ra nước ngoài, trước hết là Đông Nam á, làm cho khu vực này trở
thành một trong những điểm nóng nhất, nơi hội tụ tương đối rõ nét nhất những mâu thuẫn
cơ bản, đối đầu của chiến tranh lạnh. Hơn nữa, tình hình chính trị nội bộ của các nước
Đông Nam á cũng hết sức phức tạp. Tháng 9-1965, cuộc đảo chính lật đổ chế độ
Xucácnô ở Inđônexia nổ ra đã làm cho mâu thuẫn xã hội, sắc tộc tại nước này trở nên
trầm trọng. Mặc dầu phái quân sự đứng đầu là Tổng thống Xuhactô từ tháng 2-1967 đã
kiểm soát được tình hình trong nước, nhưng các hoạt động của các phân tử mao-it trong
giới người Hoa ở nước này còn rất mạnh và có xu hướng lan tỏa sang các nước láng
giềng, nhất là sang Malaixia, nơi có khoảng 30% người Hoa. Thêm vào đó, sự gia tăng
hoạt động của các du kích cộng sản Malaixia tại các vùng rừng núi (chủ yếu là người

×