Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 luyện tập văn miêu tả đồ vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.05 KB, 93 trang )

Trêng ®¹i häc vinh
Khoa GIÁO DỤC
===  ===

MAI THỊ THÚY

KHãA LUËN tèt nghiÖp
§Ò tµi:

PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 4 LUYỆN
TẬP VĂN MIÊU TẢ ĐỒ VẬT
CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT
Líp: 49A – Giáo dục Tiểu học

Giảng viên hướng dẫn: TS. Chu Thị Hà Thanh

VINH - 2012

1


LỜI NÓI ĐẦU
Với đề tài nghiên cứu “Phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 luyện
tập văn miêu tả đồ vật”, chúng tôi đã đề cập đến vấn đề dạy văn miêu tả nói
chung và văn miêu tả đồ vật nói riêng ở nhà trường tiểu học. Trong đó có nói
đến thực trạng dạy học văn miêu tả đồ vật, mặt khác chúng tôi cũng đã trực
tiếp trao đổi, tham khảo và tiếp thu một số ý kiến của các giáo viên có kinh
nghiệm trong nghề. Từ đó có những biện pháp cụ thể giúp giáo viên và học
sinh khắc phục một phần nào đó những khó khăn trong quá trình dạy và học
văn miêu tả đồ vật.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo TS. Chu Hà Thanh, người đã


luôn tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Đồng thời
cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo trong khoa GD – Trường
Đại học Vinh, tập thể giáo viên và học sinh trường tiểu học Lê Mao và trường
tiểu học Hà Huy Tập II đã tạo điều kiện giúp đỡ và có những ý kiến đóng góp
chân thành, giúp tôi thực hiện được đề tài này một cách thuận lợi.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài không tránh khỏi những sai sót và hạn
chế. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của tất cả các thầy cô giáo và
các bạn sinh viên.
Vinh, ngày 2 tháng 5 năm 2012
Sinh viên
Mai Thị Thúy

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GV:

Giáo viên

HS:

Học sinh

SGK:

Sách giáo khoa

NXB:


Nhà xuất bản

TV:

Tiếng Việt

3


MỤC LỤC
Trang
................................................................................................................................................1
MỞ ĐẦU................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu..........................................................................................................5
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu....................................................................................5
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................................................................5
6. Giả thuyết khoa học............................................................................................................5
7. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................................6
8. Bố cục đề tài.......................................................................................................................6
Chương 1................................................................................................................................7
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.....................................................................................7
1.1. Cơ sở lý luận...................................................................................................................7
1.1.1. Miêu tả trong văn học...................................................................................................7
1.1.2. Văn miêu tả trong nhà trường tiểu học.......................................................................17
1.1.3. Đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học với quá trình dạy học văn miêu tả................21
1.2. Cơ sở thực tiễn..............................................................................................................23
1.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên...........................................................................24
1.2.2. Thực trạng nhận thức của học sinh.............................................................................27

1.2.3. Thực trạng bài viết của học sinh................................................................................30
1.2.4. Nguyên nhân của thực trạng trên...............................................................................32
Tiểu kết chương 1.................................................................................................................34
Chương 2..............................................................................................................................35
PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 4.........................................................35
LUYỆN TẬP VĂN MIÊU TẢ ĐỒ VẬT.............................................................................35
2.1. Phương pháp hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả......................................35
2.1.1. Quan sát......................................................................................................................35
2.1.2. Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả........................................................36
2.2. Phương pháp hướng dẫn học sinh liên tưởng, tưởng tượng..........................................44
2.2.1. Liên tưởng..................................................................................................................44
2.2.2. Tưởng tượng...............................................................................................................49
2.3. Phương pháp hướng dẫn học sinh lập dàn ý..................................................................53
2.3.1. Vai trò của việc lập dàn ý trong văn miêu tả đồ vật...................................................53
2.3.2. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho bài văn miêu tả đồ vật.........................................54
2.4. Phương pháp hướng dẫn học sinh lựa chọn và sử dụng từ ngữ....................................58
2.5. Hướng dẫn học sinh sử dụng các biện pháp tu từ.........................................................61
2.5.1. So sánh.......................................................................................................................61
2.5.2. Nhân hóa.....................................................................................................................65
2.6. Phương pháp hướng dẫn học sinh liên kết đoạn thành bài trong văn miêu tả đồ vật....66
Tiểu kết chương 2.................................................................................................................69
Chương 3..............................................................................................................................70
THỬ NGHIỆM SƯ PHẠM..................................................................................................70
3.1. Mục đích thử nghiệm....................................................................................................70
3.2. Đối tượng thử nghiệm...................................................................................................70

4


3.3. Nội dung thử nghiệm.....................................................................................................70

3.4. Tổ chức thử nghiệm.......................................................................................................70
3.5. Kết quả thử nghiệm.......................................................................................................71
KẾT LUẬN..........................................................................................................................77
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................80

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Môn Tiếng Việt là môn học công cụ trong nhà trường phổ thông.
Tức là môn Tiếng Việt trang bị cho học sinh công cụ để giao tiếp và phát triển
tư duy, tạo tiền đề và cơ sở cho việc học tập các môn khác. Môn Tiếng Việt
bao gồm 7 phân môn (Học vần, Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Luyện từ và câu,
Kể chuyện và Tập làm văn), các phân môn này có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nó là môn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình tiểu học. Trong đó
Tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp cao, nó dựa trên kết quả nghiên
cứu của nhiều khoa học khác như Tâm lý học, Tâm lý ngữ học, Ngôn ngữ
học, Lí luận văn học…
Phân môn Tập làm văn có nhiệm vụ cơ bản là rèn năng lực tạo lập ngôn
bản đồng thời góp phần rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách cho học
sinh.
1.2. Miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm
cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật,
cảnh vật.
Khi làm một bài văn, học sinh phải vận dụng một cách tổng hợp các kiến
thức về cuộc sống, về ngôn ngữ và về văn hóa để trình bày vấn đề được đặt ra
theo tình cảm, tư tưởng, cách nhìn, cách nghĩ của chính mình. Do đó, qua bài
tập làm văn ta có thể thấy được thái độ và tình cảm của học sinh đối với các
sự vật và hiện tượng. Đồng thời ta cũng thấy được năng lực vận dụng ngôn

ngữ của các em qua cách dùng từ, đặt câu. Chính vì vậy mà hiệu quả của các
phân môn Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập đọc đều thể hiện đầy đủ
và rõ ràng qua phân môn Tập làm văn.
1.3. Trong chương trình Tiểu học, thể loại văn miêu tả gồm có miêu tả đồ
vật, tả cây cối, tả con vật, tả người, tả cảnh. Trong đó văn miêu tả đồ vật là
1


một trong những kiểu bài gần gũi và quen thuộc với học sinh. Đối tượng của
văn miêu tả đồ vật ở lớp 4 là những vật học sinh thường thấy trong đời sống
hàng ngày, gần gũi với các em vì vậy cũng dễ trở thành thân thiết với các em.
Đó có thể là cái trống, cái bút, quyển vở, cái cặp sách, cái bàn, cái đồng hồ…
Chúng là những đồ vật vô tri, vô giác nhưng gần gũi và có ích đối với học
sinh. Đồ vật lại thường gắn liền với cuộc sống con người nên khi miêu tả học
sinh sẽ thể hiện được tình cảm yêu mến, gắn bó của mình với chúng như vậy
đồ vật sẽ hiện lên một cách sinh động và có hồn.
1.4. Đối với học sinh lớp 4, phân môn Tập làm văn là một môn khó đối
với các em. Bởi lẽ đây là môn học đòi hỏi sự sáng tạo, các em phải độc lập
suy nghĩ, đặc biệt là với thể loại văn miêu tả, cụ thể ở đây là văn miêu tả đồ
vật. Để viết được bài văn miêu tả đồ vật, học sinh phải biết quan sát, thể hiện
bằng những từ ngữ, hình ảnh so sánh, độc đáo, đặc biệt là thể hiện được tình
cảm của mình trong đó.
Thực tế việc này còn gặp nhiều khó khăn. Các em không biết phải làm
gì, viết gì nếu không được hướng dẫn cặn kẽ, chu đáo dẫn đến các em thiếu tự
tin, không làm tốt bài làm của mình. Một số giáo viên còn vội trong việc
truyền thụ kiến thức, xem nhẹ thực hành nên học sinh thiếu chủ động, không
hứng thú với giờ học Tập làm văn, giáo viên chưa nắm vững lí thuyết về văn
miêu tả đồ vật một cách toàn diện.
Từ những lý do trên cũng như tầm quan trọng của việc dạy và học văn
miêu tả đồ vật của phân môn Tập làm văn nên tôi quyết định chọn đề tài:”

Phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 rèn luyện văn miêu tả đồ vật”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về văn miêu tả và dạy – học văn miêu tả là vấn đề cũng được rất
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
2.1. Về văn miêu tả đã có một số công trình nghiên cứu đề cập như
1. Dạy Tập làm văn ở tiểu học – Nguyễn Trí
2


Công trình này đã giới thiệu về văn miêu tả, đặc điểm của văn miêu tả,
giới thiệu quy trình làm các kiểu bài làm văn miêu tả cũng như phương pháp
dạy các kiểu bài đó. Mặc dù sách đã đề cập đến vấn đề văn miêu tả, những nét
đặc sắc của sự vật, hiện tượng khi miêu tả, song cũng chỉ nói qua, chưa hình
thành và chưa đề cập đến cụ thể từng kiểu văn miêu tả trong trường tiểu học,
đặc biệt là văn miêu tả đồ vật.
2. Văn miêu tả và kể chuyện – Vũ Tú Nam, Phạm Hổ, Bùi Hiển, Nguyễn
Quang Sáng. Về cấu trúc, sách gồm 2 phần:
Phần 1: Giới thiệu các bài viết của các nhà văn về suy nghĩ, kinh nghiệm
của bản than khi viết văn miêu tả và kể chuyện.
Phần 2: Là những đoạn văn tả và kể chọn lọc của nhiều cây bút khác
nhau.
Công trình này chỉ mới đề cập những nét chung nhất của một bài văn
miêu tả, những vấn đề đưa ra vẫn còn là trừu tượng đối với giáo viên và học
sinh. Vì thế giáo viên khó vận dụng vào quá trình dạy – học văn miêu tả ở lớp
4, 5.
3. Bài tập luyện viết văn miêu tả ở tiểu học – Vũ Khắc Tuân.
Trong tác phẩm này, tác giả đi sâu vào giới thiệu các bài tập thuộc các
loại bài của văn miêu tả và một số kinh nghiệm của các nhà văn trong việc
làm văn miêu tả, một số giai thoại trong việc dùng câu chữ khi viết văn.
4. Văn miêu tả trong nhà trường phổ thông – Đỗ Ngọc Thống, Phạm

Minh Diệu. Cuốn sách gồm 3 chương và phần phụ lục:
Chương 1. Phân tích chỉ ra những đặc điểm và yêu cầu của văn miêu tả.
Chương 2. Giới thiệu một số ý kiến và một số trang văn miêu tả của các
nhà văn, chủ yếu là các nhà văn viết cho thiếu nhi, có nhiều tác phẩm được
đưa và nhà trường.
Chương 3. Giới thiệu văn miêu tả trong nhà trường phổ thong theo yêu
cầu của chương trình SGK mới. Đặc biệt tác giả còn giới thiệu hệ thống 95
3


bài tập và 20 đề văn miêu tả với yêu cầu kết hợp với các phương thức biểu đạt
khác.
Phần phụ lục: Gồm 50 đoạn văn, bài văn miêu tả được lấy từ các nguồn
khác nhau, sau đó bình giảng một số đoạn văn miêu tả của các nhà văn.
Đây là cuốn sách giới thiệu về văn miêu tả tương đối đầy đủ song vẫn chưa
phải là cuốn sách về phương pháp dạy học văn miêu tả cho học sinh tiểu học.
2.2. Về phương pháp dạy văn miêu tả ở tiểu học có một số công trình
nghiên cứu như
1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học – Lê Phương Nga, Nguyễn
Trí.
Phần đầu cuốn sách bàn về những vấn đề chung của dạy tiếng Việt ở tiểu
học và sau đó đi sâu vào các phương pháp dạy học các phân môn cụ thể.
Công trình này cũng bàn nhiều về phương pháp dạy Tập làm văn – văn miêu
tả, đề cập đến những tồn tại và đưa ra những kiến nghị trong dạy học văn
miêu tả. Tuy nhiên những kiến nghị và giải pháp mà công trình đưa ra còn ở
góc độ khái quát, chưa vận dụng được vào thực tiễn dạy - học văn miêu tả ở
nhà trường tiểu học hiện nay.
2. Văn miêu tả và phương pháp dạy văn miêu tả ở tiểu học – tác giả
Nguyễn Trí.
Cuốn sách này gồm 2 phần:

Phần đầu: Tác giả đề cập đến khái niệm văn miêu tả và các kiểu bài
miêu tả ở tiểu học.
Phần sau: Tác giả giới thiệu một số phương pháp dạy văn miêu tả trong
trường tiểu học.
Đây là một cuốn sách rất hữu ích cho giáo viên ở tiểu học khi dạy văn
miêu tả. Tuy nhiên cuốn sách mới chỉ đề cập chung đến các vấn đề liên quan
đến các kiểu bài văn miêu tả và một số phương pháp dạy văn miêu tả áp dụng
chung cho tất cả các thể loại miêu tả.
4


Như vậy, vấn đề hướng dẫn học sinh lớp 4 luyện tập thực hành văn miêu
tả đồ vật trong Tập làm văn miêu tả ở tiểu học đang là một vấn đề chưa được
chú trọng nghiên cứu chuyên sâu. Do đó việc có một quy trình hướng dẫn học
sinh lớp 4 luyện tập về văn miêu tả đồ vật là rất cần thiết nhằm nâng cao chất
lượng dạy học văn miêu tả ở trường tiểu học.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 luyện tập văn miêu
tả đồ vật góp phần nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả ở trường tiểu
học.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học văn miêu tả ở tiểu học.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp hướng dẫn HS lớp 4 luyện tập văn miêu tả đồ vật
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý thuyết về văn miêu tả đồ vật ở lớp 4 trong dạy học
Tập làm văn ở tiểu học.
5.2. Tìm hiểu thực trạng dạy – học của giáo viên và học sinh về văn miêu
tả đồ vật ở lớp 4.

5.3. Đưa ra hệ thống phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 luyện tập về
văn miêu tả ở tiểu học.
5.4. Tổ chức thử nghiệm để kiểm tra tính cần thiết và tính khả thi của các
vấn đề đã đề xuất.
6. Giả thuyết khoa học
Trong quá trình dạy học văn miêu tả ở tiểu học, nếu đưa ra được các
phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 luyện tập văn miêu tả đồ vật một cách
khoa học, phù hợp với đặc trưng phân môn và ứng dụng linh hoạt các phương
pháp đó trong các tiết học thì sẽ nâng cao được chất lượng dạy và học.
5


7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phân tích, khái quát, thu thập các thông tin liên quan đến đề tài nghiên
cứu: lý thuyết văn miêu tả, khảo sát và đánh giá nội dung dạy học văn miêu tả
theo chương trình SGK Tiếng Việt.
7.2. Phương pháp quan sát – điều tra
Nghiên cứu thực tế dạy học văn miêu tả ở tiểu học, đặc biệt là văn miêu
tả đồ vật lớp 4 để phát hiện ra những vấn đề cần nghiên cứu, cần có giải pháp
khắc phục.
7.3. Phương pháp thử nghiệm
Kiểm tra tính cần thiết và hiệu quả của các đề xuất.
8. Bố cục đề tài
Ngoài các phần: mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung chính của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Phương pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 luyện tập văn miêu
tả đồ vật
Chương 3: Thử nghiệm sư phạm


6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Miêu tả trong văn học
1.1.1.1. Khái niệm văn miêu tả
Theo từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh thì miêu tả là “lấy nét vẽ
hoặc câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật ra”. Tức là trong văn
miêu tả, người ta không dùng ngôn ngữ thường ngày để miêu tả, không đưa ra
những lời nhận xét chung chung, những lời đánh giá cụ thể về sự vật hoặc
hiện tượng nào đó như: cái cặp này cũ, cái bàn này hỏng hoặc trời mưa to
quá… Văn miêu tả vẽ ra các sự vật, hiện tượng, con người bằng ngôn ngữ
một cách sinh động, cụ thể. Qua đó giúp người đọc có thể cảm nhận một cách
sâu sắc hơn và rõ hơn về đối tượng mà tác giả miêu tả, có thể tưởng tượng ra
được hình ảnh sống động của những sự vật và hiện tượng đó. Tuy nhiên, hình
ảnh một cánh đồng, một dòng sông, cảnh hoàng hôn, cảnh biển hay hình ảnh
một con người, con vật do miêu tả vẽ lên không phải là một bức ảnh được
chụp lại, không phải là sự sao chép lại một cách tỉ mỉ khô cứng. Nó là sự kết
tinh của những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc bên trong tâm hồn
nhạy cảm của người viết khi quan sát cuộc sống xung quanh mình.
Chúng ta hãy thử cảm nhận hình ảnh một dòng sông qua đoạn văn miêu
tả: “Con sông như một dải lụa trắng mềm mại vắt qua cánh đồng xanh mướt
lúa khoai rồi chảy qua làng tôi. Dòng sông như lặng đi trước vẻ đẹp của xóm
làng, nó trầm ngâm phản chiếu những hàng tre đổ bóng mát rượi xuống đôi
bờ.Những buổi trưa hè nắng đổ xuống mặt sông lấp loá. Dòng sông lúc đó
như một tấm gương dài phẳng lặng soi bóng mây trời. Trên mặt sông, một vài
chiếc thuyền lá tre tí hon bồng bềnh trôi đi mãi theo dòng nước trong xanh.

Thỉnh thoảng lại có một chú bói cá lông xanh biếc hay một chú cò trắng như
7


vôi đậu trên cành tre, mắt lim dim ngắm bóng mình dưới nước. Có những
trưa, lũ trẻ chúng tôi rủ nhau ra sông tắm. Chúng tôi bơi lội, quẫy tòm tõm
làm nước bắn tung toé khiến lũ chim cũng phải thảng thốt giật mình, vỗ cánh
bay đi. Sông như người mẹ hiền ôm ấp, vuốt ve những đứa trẻ chúng tôi.
Sông còn như người bạn tâm tình của tôi. Mỗi buổi chiều khi hoàng hôn
buông xuống mặt sông lại nhuốm màu hồng rực. Đây đó, dưới lòng sông lại
vọng lên tiếng gõ lanh canh của bác thuyền chài đánh cá làm rộn rã cả một
khúc sông. Buổi tối, khi ông trăng tròn vắt ngang qua ngọn tre, soi bóng
xuống mặt sông lấp lánh. Mặt sông lại lung linh như được dát vàng, dát
bạc.Thật là đẹp!”...
Nếu không phải là người yêu quê hương tha thiết, yêu cảnh vật nơi mình
ở và nếu như không có một tâm hồn nhạy cảm, sự quan sát tinh tế thì không
thể viết lên những câu văn mềm mại như vậy khi miêu tả về con sông nơi tác
giả sinh sống. Đoạn văn miêu tả con sông như “một dải lụa trắng mềm vắt
qua cánh đồng xanh mướt lúa khoai...” hoặc có khi “như một tấm gương dài
phẳng lặng soi bóng mây trời...”. Con sông đã gắn bó với tuổi thơ của tác giả,
những kỉ niệm thời thơ ấu cũng được tác giả gửi gắm vào trong những câu
văn chứa đựng tình cảm sâu lắng và xúc động.
Ở trong văn miêu tả đồ vật thông qua việc tả những điểm đặc sắc của đồ
vật cần gợi lên mối quan hệ của nó với đời sống tình cảm con người. Đồ vật
được vẽ ra gắn liền với cảm xúc của người miêu tả.
Nói tóm lại “miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh,
của người, của vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối
tượng ấy” (theo SGK TV4, tập 1 – chương trình TV hiện hành).
1.1.1.2. Đặc điểm của văn miêu tả
• Văn miêu tả là thể sáng tác


8


Trong làm văn miêu tả, quan sát là điều kiện cần thiết. Song chỉ quan sát
thôi thì chưa đủ mà người viết phải biết quan sát kết hợp với tưởng tượng,
liên tưởng. Quan sát phải ghi chép lại để khi viết kết hợp với các biện pháp
nhân hóa, so sánh, ẩn dụ… tạo ra lời văn miêu tả sinh động. Văn miêu tả
không chấp nhận kiểu sao chép một cách máy móc, khô khan. Mỗi bài văn là
một sản phẩm không lặp lại, nó mang dấu ấn chủ quan của mỗi học sinh trước
đối tượng miêu tả. Có nghĩa là cùng một đối tượng miêu tả nhưng mỗi người
có một cách tả, diễn đạt suy nghĩ khác nhau thông qua lăng kính chủ quan của
mình. Từ đó mới tạo nên cái nét riêng trong phong cách viết văn của mỗi
người. Nếu nói về mồ hôi mà ai cũng đều tả “mồ hôi nhễ nhại”, khi diễn tả
cảm xúc về chiếc cặp sách mà lúc nào cũng “em rất yêu quý chiếc cặp này”…
thì thật là nhàm chán. Nếu không biết sáng tạo, thiếu cảm xúc thì miêu tả mới
dừng lại ở mức độ miêu tả khoa học.
Vich-to Huy-go nhìn một bầu trời đầy sao thấy như một cánh đồng chín,
Mai-a-cốp-xki thì lại thấy ngôi sao như giọt nước mắt của người da đen đang
khóc Lênin khi biết ông vừa mới qua đời. Còn I-ga-ga-rin thì lại thấy vì sao
như những hạt giống mới mà loài người bay vào vũ trụ…Cả ba hình ảnh về
những vì sao đều được liên tưởng miêu tả rất khác nhau nhưng chúng đều
hay, đều là sự sáng tạo của mỗi tác giả để làm nên cái riêng của mình.
Hoặc có học sinh nhìn trời mưa thấy như một vòi phun khổng lồ, còn có
em thì lại tưởng tượng ra một con rồng trên trời đang phun nước xuống.
Do đó có thể khẳng định rằng, văn miêu tả là một thể văn sáng tác. Mỗi
bài văn miêu tả là một sáng tác nghệ thuật.
• Văn miêu tả mang tính sinh động và tạo hình
Có thể nói đây là một đặc điểm nổi bật của văn miêu tả. Như đã nói ở
trên, miêu tả không phải là sự sao chép, chụp lại hình ảnh một đối tượng miêu

tả nào đó mà đó là sự quan sát nhạy bén và sự nhận xét tinh tế của tác giả
9


thông qua việc sử dụng những từ ngữ sinh động và chắt lọc. Một bài văn miêu
tả được coi là sinh động, tạo hình khi các sự vật, đồ vật, hiện tượng…được
miêu tả qua những từ ngữ, những câu văn như trong cuộc sống thực. Và qua
đó ta có thể cầm nắm được, nhìn ngắm hoặc “sờ mó”…Làm nên sự sinh
động, tạo hình của văn miêu tả là những chi tiết sống gây ấn tượng. Tước bỏ
chúng đi, bài miêu tả sẽ trở nên mờ nhạt, vô vị.
Trong đoạn văn miêu tả chiếc cần trục của Phong Thu:
“Bến cảng lúc nào cũng đông vui. Tàu mẹ, tàu con đậu đầy mặt nước.
Xe anh, xe em tíu tít nhận hang về và chở hàng ra. Tất cả đều bận rộn. Nhưng
hăng hái nhất và khỏe nhất là bác cần trục. Người bác không cao to, tiếng
bác không ầm ĩ, chỉ có cánh tay của bác thật là đặc biệt.
Cái cánh tay ấy vươn lên, sừng sững và chuyển động rất chậm. Tàu nào
có hàng cần bốc lên là cần trục vươn tới. Hòm nhỏ, hòm to, cần trục xách
một tay cứ như không. Cả những xe ô tô, những cỗ máy lớn, cần trục cũng chỉ
khẽ cúi xuống, vươn tay ra móc lấy sợi dây chằng rồi từ từ nhấc lên.”
Đọc đoạn văn lên, chúng ta nhận ra ngay cảnh hoạt động sôi nổi của cả
khu bến cảng và “bác” cần trục. Miêu tả cái cần trục, nhà văn đã chọn đúng
thời điểm hoạt động của nó tại bến cảng. Nhờ vậy mà ông đã ghi nhận được
không chỉ hình dáng chiếc cần trục mà còn cả sự đóng góp tích cực của nó
vào hoạt động của bến cảng. Đó là kinh nghiệm quan sát một đồ vật để miêu
tả được đúng và sinh động. Tác giả đã nhân hóa chiếc cần trục, gọi cần trục là
“bác” như gọi một con người gần gũi, thân thiết. Tác giả dùng các từ chỉ hoạt
động của con người khi nói về các hoạt động của cần trục: cúi xuống, vươn
tay, nhấc lên… Biện pháp nhân hóa đã giúp cho hoạt động của cần trục trở lên
sinh động, linh hoạt hơn, làm cho nó trở lên có hồn và gần gũi.
Trong văn miêu tả, người ta không chỉ sử dụng biện pháp nhân hóa mà

còn so sánh liên tưởng đối tượng được miêu tả. Như trong bài “Quê nội” của
nhà văn Võ Quảng, hình ảnh những con thuyền như hiển hiện trước mắt
10


người đọc nhờ tác giả đã sử dụng được biện pháp so sánh. Những hình ảnh so
sánh thật chân thực, đầy tính biểu cảm mà cũng thật sáng tạo: hai cái sừng
trước mũi thuyền được ví với đôi sừng của con trâu (Thuyền nào ở đằng mũi
cũng có hai cái sừng giống đôi sừng trâu), xuồng con nằm ở bến bên thuyền
mẹ được ví như bầy lợn trong chuồng (Xuồng con đậu quanh thuyền lớn
giống như bầy con nằm quanh bụng mẹ), chuyển động của xuồng con trước
những làn gió được nhìn một cách ngộ nghĩnh như bầy lợn đòi bú (Khi có
gió… đám xuồng con lại húc húc vào mạn thuyền mẹ như đòi bú).
Chính hình thức so sánh chọn lọc, đúng và sáng tạo đã làm cho đoạn văn
như một đoạn phim nghệ thuật đưa người đọc đến bên bến sông đông vui của
vạn chài Hòa Phước.
Tuy nhiên khi miêu tả, chúng ta cần chú ý không nên đưa vào bài quá
nhiều chi tiết làm cho bài miêu tả trở nên rườm rà theo kiểu liệt kê đơn điệu.
Người viết cần phải biết gạt bỏ đi những chi tiết thừa không có sức gợi tả hay
gợi cảm để làm cho bài văn miêu tả gọn và giàu chất tạo hình. Muốn làm
được điều đó người viết không chỉ biết quan sát mà cần phải quan sát có chọn
lọc, thu lượm, tích lũy những kinh nghiệm sống trong cuộc sống hằng ngày.
Có như vậy bài văn mới sinh động, tạo hình và hấp dẫn người đọc.
Chẳng hạn như trong bài “Cái cối tân” (sách TV4 - tập 1- trang 134) nhà
văn Duy Khánh đã chọn lọc và miêu tả các chi tiết sau ở cái cối: cái vành, cái
áo cối (đều làm bằng tre nan); tai cối (hai cái, bằng tre già màu nâu, mỗi tai có
một lỗ tròn); dăm cối (hai hàm, bằng gỗ dẻ); cần cối (dài, bằng tre đực, vàng
óng, đầu cần có cái chốt bằng tre, móc vào tai cối); tay cầm (gắn vào đầu cần
cối, có thừng buộc vào xà nhà).
• Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mĩ, chứa đựng tình cảm của

người viết.
Đối tượng của văn miêu tả rất đa dạng và phong phú, bất kỳ một sự vật,
hiện tượng nào trong thực tế khách quan cũng có thể trở thành đối tượng của
11


văn miêu tả. Đó có thể là đồ vật, cây cối, con người hay cảnh vật, vì thế mà
người ta chia ra thành các thể loại miêu tả ở tiểu học: tả đồ vật, tả cây cối, tả
con vật, tả cảnh, tả người. Nhưng không phải bất kỳ một hiện tượng miêu tả
nào cũng trở thành văn miêu tả. Văn miêu tả phải là những câu văn giàu cảm
xúc, đó là những rung động trong tâm hồn người viết, sự quan sát tinh tế, sáng
tạo nhằm mục đích thông báo thẩm mĩ. Người đọc qua văn bản miêu tả nhận
thức thực tế khách quan không phải bằng con đường lý trí mà chủ yếu bằng
những cảm xúc, những rung động mạnh mẽ trong tâm hồn. Cho dù có tả một
chiếc cần trục, một con lợn đất, một con người, một cảnh vật nào đó hay thậm
chí là cái liềm… bao giờ người viết cũng đánh giá chúng theo một quan điểm
thẩm mĩ, cũng gửi vào bài viết ít nhiều những tình cảm hay ý kiến đánh giá
bình luận của mình. Do vậy từng chi tiết của văn miêu tả bao giờ cũng mang
ấn tượng, cảm xúc chủ quan của người viết.
Ví dụ: Đoạn văn miêu tả chiếc bánh khúc của Ngô Văn Phú:
“Ngủ một giấc dậy, tôi đã thấy dì mang chõ bánh lên. Vung vừa mở ra,
hơi nóng bốc nghi ngút. Những cái bánh màu rêu xanh lấp ló trong áo xôi
nếp trắng được đặt vào những miếng lá chuối hơ qua lửa thật mềm, trông đẹp
như những bông hoa. Nhân bánh là một viên đậu xanh giã nhỏ vàng ươm,
xen một thỏi mỡ xinh xắn, pha hạt tiêu. Cắn một miếng bánh thì như thấy cả
hương đồng, cỏ nội gói vào trong”.
Tả chiếc bánh khúc, tác giả không chỉ tả những gì trông thấy, nhìn thấy
(những cái bánh màu rêu xanh lấp ló trong áo xôi nếp trắng được đặt vào
những miếng lá chuối) (trông đẹp như những bông hoa) mà còn giúp ta nhận
ra hương vị của nó qua sự nhớ lại những lần được ăn bánh. Tác giả không chỉ

ghi lại những gì quan sát trực tiếp mà còn bổ sung bằng những hiểu biết về
việc làm ra chiếc bánh (lá chuối hơ qua lửa thật mềm), (nhân bánh là một
viên đậu xanh giã nhỏ vàng ươm, xen một thỏi mỡ xinh xắn, pha hạt tiêu),
12


bằng những cảm nhận của bản thân khi thưởng thức miếng bánh (Cắn một
miếng bánh thì như thấy cả hương đồng, cỏ nội gói vào trong).
Tác giả đã quan sát trực tiếp kết hợp với quan sát gián tiếp khi miêu tả
chiếc bánh. Và khi quan sát để miêu tả, tác giả đã sử dụng không chỉ một giác
quan mắt (thị giác) mà còn bằng cả tâm hồn, tình cảm của mình.
Hay như trong “Tiếng mưa” của Nguyễn Thị Như Trang có đoạn tả về
mưa mùa xuân: “Mưa mùa xuân xôn xao, phơi phới. Những hạt mưa bé nhỏ
mềm mại, rơi mà như nhảy nhót. Hạt nọ nối tiếp hạt kia đan xuống lá cây ổi
cong mọc lả xuống mặt ao. Mùa đông xãm xịt và khô héo đã qua. Mặt đất
bỗng kiệt sức bỗng thức dậy, âu yếm đón lấy những giọt mưa ấm áp trong
ngày. Đất trời lại dịu mềm, lại cần mẫn tiếp nhựa cho cây. Mưa mùa xuân đã
đem lại cho chúng cái sức sống ứ đầy, tràn lên các nhánh lá mầm non. Và
cây trả nghĩa cho mưa bằng cả mùi hoa thơm, trái ngọt.”...
Đặc điểm này của văn miêu tả làm cho miêu tả trong văn học khác hẳn
miêu tả trong khoa học. Nếu miêu tả trong khoa học là sự chính xác, khô khan
đến lạnh lùng thì miêu tả trong văn học bao giờ cũng chứa đầy tình cảm của
người viết.
• Ngôn ngữ văn miêu tả giàu cảm xúc và hình ảnh
Do đặc điểm của văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mĩ, chứa đựng
tình cảm và cảm xúc của người viết, bài văn bao giờ cũng mang tính sinh
động và tạo hình nên yêu cầu đặt ra cho ngôn ngữ của bài văn miêu tả phải
giàu cảm xúc và hình ảnh. Chỉ có thể như vậy, bài văn mới có khả năng diễn
tả cảm xúc của người viết và vẽ nên sự sinh động, tạo hình cho đối tượng
miêu tả. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là sự phong phú đa dạng của các từ ngữ

gợi tả, các từ ngữ hình ảnh, đặc biệt là các tính từ trong vốn từ vựng phong
phú và đa dạng của tiếng Việt. Như trong đoạn tả chiếc bánh khúc ở trên, có
các từ gợi thị giác (nghi ngút, lấp ló, vàng ươm, thỏi mỡ xinh xắn), đoạn tả
13


chiếc cần trục (tíu tít, sừng sững); các từ gợi thính giác đoạn tả những con
thuyền (cót két, rền rĩ).
Chúng ta hãy cùng đọc đoạn văn miêu tả con lợn đất của Nghiêm Toản:
“Một hôm mẹ em đi chợ về, mua cho em một con lợn đất. Con lợn dài độ
gang tay, béo tròn trùng trục, toàn thân nhuộm đỏ, hai tai màu xanh lá mạ,
cái đuôi vắt chéo ngang hông. Hai mắt lợn lim dim, ti hí, đen lay láy. Cái
mõm nhô ra như lúc đang dũi ở trong chuồng. Nhưng lợn của em luôn ngoan
ngoãn nằm yên. Bốn chân nó quặp lại dưới cái bụng phệ phẳng lì. Phía bên
phải gần cuối mông có một khe hở dài bằng hai đốt ngón tay.
Mẹ em bảo:“Mua lợn về cho con nuôi đấy”. Rồi mẹ “mở hàng lấy may”.
Cho lợn ăn luôn hai nghìn. Mẹ dặn có tiền bán trứng, bán rau thì nhớ bỏ vào
cho lợn nó ăn. Em vâng lời mẹ. Mỗi khi có tiền bán trứng hoặc bán rau, em
đều nhét vào bụng lợn.
Em nuôi lợn ở góc tủ. Thỉnh thoảng em lại nhìn qua khe hở để xem bụng
lơn đã no chưa. Em hi vọng đến cuối năm, khi làm thịt lợn, em có đủ tiền mua
những cuốn sách mà em ao ước”.
Đoạn văn kể về niềm vui của cô bé được chăm sóc con lợn tiết kiệm mẹ
cho. Niềm vui thể hiện ở con mắt nhìn con lợn đất của cô bé: thấy ở con lợn
đất cái gì cũng đẹp. Tình cảm của cô bé đối với con lợn tiết kiệm thể hiện ở
hành động “nhìn qua khe hở để xem lượn đã no chưa”. Hành động đó thể
hiện sự trông đợi đến suốt ruột của cô bé về “sự lớn lên” của lợn. Nó ẩn chứa
một kì vọng, một sự gửi gắm mà cô bế đã nói ở cuối câu: “đến cuối năm...có
đủ tiền mua những cuốn sách mà em ao ước”.
Qua đoạn văn giúp người đọc nắm bắt được cảm xúc, suy nghĩ và niềm

vui của cô bé. Đoạn văn cho thấy vai trò của cảm xúc trong văn miêu tả. Văn
miêu tả đòi hỏi người viết phải bộc lộ tình cảm của mình đối với từng chi tiết
chọn đưa vào trong bài văn.
14


Ngôn ngữ miêu tả là giai điệu chủ đạo trong bài văn miêu tả, ngoài ra
còn kết hợp với việc sử dụng phép nhân hóa, so sánh, ẩn dụ... gợi lên trong
lòng người đọc những cảm xúc, tình cảm, ấn tượng, hình ảnh về sự vật được
miêu tả. Có thể thấy tất cả những chi tiết đó đã tạo thành những “chùm sáng
ngôn ngữ lung linh” cho bài văn miêu tả.
Ví dụ: Đoạn văn miêu tả cái đèn:
Cái đèn nhà tôi làm bằng một thứ đồng đỏ ối như vàng, bóng lộn có thể
soi gương. Bình dầu hình trụ, nom bè bè ở giữa đánh đai tròn và chứa được
đến gần nửa lít dầu. Trên miệng ống bấc có chụp một cái mũ làm cho ngọn
lửa tỏa ra như hoa sen cum cúp để tăng ánh sáng. Thông phong thổi bằng
pha lê trong vắt.
Tối đến, tôi rót dầu và thắp đèn. Ngọn lửa bốc to, tôi vặn bấc thấp xuống
cho vừa. Ánh sáng tỏa ra khắp trong phòng. Đèn để giữa làm chúng tôi quây
quần lại: mẹ tôi khâu vá, cha tôi đọc sách, còn em tôi hăm hở đọc tiếp chuyện
Tấm Cám. (Theo Nghiêm Toản).
Đánh giá về đoạn văn trên theo sách Văn miêu tả tuyển chọn, NXB Giáo
dục, trang 110 đã có lời bình: “Cái đèn được tả kĩ đến mức có thể theo lời mà
vẽ thành tranh. Thêm một vài động tác thắp đèn nữa, là ta đã có một hình
dung đầy đủ về cây đèn dầu ngày xưa. Các chi tiết được tả rành mạch và có
thứ tự, như một lời chỉ dẫn mộc mạc”.
Cách sử dụng ngôn ngữ trong đoạn văn trên mang tính nghệ thuật cao.
Ngôn ngữ trong bài ngoài tính chính xác (thông phong, bình dầu, ống bấc, ở
giữa bánh đai..) còn có tính gợi tả (bóng lộn có thể soi gương, pha lê trong
vắt). Ngoài ra tác giả còn dùng biện pháp so sánh nghệ thuật để làm tăng tính

hình tượng: đồng đỏ ối như vàng, ngọn lửa tỏa ra như hoa sen cum cúp.
1.1.1.3. Đặc điểm văn miêu tả đồ vật

15


Tả đồ vật là dùng lời văn có hình ảnh gợi cho người đọc như thấy cụ thể
trước mắt đồ vật đó hình dạng thế nào, kích thước thế nào, màu sắc ra sao,
gắn bó với người làm ra hoặc đang sử dụng nó như thế nào.
Văn miêu tả đồ vật cũng là một thể loại văn miêu tả mang đầy đủ các đặc
điểm như đã trình bày ở trên. Nhưng khi miêu tả đồ vật cần chú ý rằng việc
miêu tả đồ vật không nhằm vào giới thiệu những tri thức thuần túy về sự vật:
cấu tạo, công dụng, ích lợi của nó. Đó là công việc của người bán hàng, của
nhà kĩ thuật. Văn miêu tả đồ vật thông qua việc tả những điểm đặc sắc của đồ
vật cần gợi lên mối quan hệ của nó với đời sống tình cảm con người. Đồ vật
được vẽ ra gắn liền với cảm xúc của người miêu tả. Các đồ vật học sinh tiểu
học tả thường là những đồ vật quen thuộc với các em: cái cặp sách, cái bàn
ngồi học, cái đồng hồ, cái bút, cái trống trường..
Mỗi đồ vật có nhiều bộ phận, từ đơn giản đến phức tạp. Đơn giản như cái
bàn, quyển lịch cũng không phải chỉ có một, hai bộ phận. Đến các đồ vật
phức tạp có thể chuyển động được như cái xe lu, chiếc cần trục, chiếc ô tô...
thì các bộ phận của nó lại càng phong phú. Văn miêu tả không nhằm miêu tả
cho đủ các bộ phận đó như có người lầm tưởng. Tả các đồ vật phải tránh lối
liệt kê cho hết các bộ phận, miêu tả đủ các bộ phận. Bài miêu tả đồ vật chỉ
nhằm vào những chi tiết, bộ phận có thể khắc họa hình ảnh đồ vật ấy rõ nét
hoặc có liên quan đến cảm xúc của các em.
Khi tả bộ phận cũng như tả bao quát đồ vật, người ta không chỉ chú ý đến
hình dáng, khối lượng, màu sắc mà còn chú ý đến các hoạt động hoặc việc sử
dụng đồ vật đó của con người. Tuy nhiên cũng chỉ chọn các ích lợi và công
dụng cần thiết gắn với ý định miêu tả. Đặc biệt phải lưu ý xen kẽ các nhận xét

đánh giá, cảm nghĩ thành thật của người viết, không chờ đến phần kết luận
mới nói. Nhờ vậy các chi tiết miêu tả mới bớt được vẻ lạnh lùng khô khan.
16


Đồ vật là vô tri, vô giác. Vì vậy để tả cho sinh động, thường phải sử dụng
phép nhân hóa. Có thể dùng các đại từ hay từ xưng hô: anh, chị, chú, bác, anh
chàng, cô nàng...khi đứng ở ngôi thứ ba để tả hoặc dùng các đại từ nhân xưng
ngôi thứ nhất (tớ, tôi..). Tuy vậy biện pháp nhân hóa nếu dùng không đúng
chỗ có thể làm cho việc tả đồ vật mất tính chân thực. Trong những trường hợp
đó tốt nhất là dùng ngôn ngữ sát hợp, chính xác, gợi hình ảnh để tả cho đúng
đồ vật.
Ví dụ: Với đoạn văn miêu tả con lợn tiết kiệm của nhà văn Nghiêm Toản
ở trên ta thấy: Những chi tiết miêu tả từng bộ phận con lợn có màu sắc tươi
vui (thân nhuộm đỏ, tai xanh lá mạ, mắt đen lay láy), có đường nét dễ thương
(béo tròn trùng trục, đuôi vắt chéo ngang hông, hai mắt lim dim, cái mõm
như đang dũi, bụng phệ phẳng lì, ngoan ngoãn nằm yên..). Giọng văn của tác
giả đã hòa nhịp với lời kể thong thả, hồn nhiên của cô bé trong bài văn. Nó
giúp người đọc có thể nắm bắt được cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ và niềm vui
của cô bé.
1.1.2. Văn miêu tả trong nhà trường tiểu học
Hiện nay văn miêu tả được đưa vào chương trình phổ thông ngay từ các
lớp đầu bậc Tiểu học. Từ lớp 2, khi tập quan sát để trả lời câu hỏi, các em đã
bắt đầu làm quen với văn miêu tả. Như vậy có thể thấy học sinh được làm
quen với thể loại văn này từ rất sớm. Học văn miêu tả, học sinh có thêm điều
kiện để tạo nên sự thống nhất giữa tư duy và tình cảm, ngôn ngữ và cuộc
sống, con người với thiên nhiên, với xã hội, để khêu gợi ra những tình cảm,
cảm xúc, ý nghĩ cao thượng, đẹp đẽ. Một nhà giáo dục Xô Viết cho rằng: việc
học sinh tiếp xúc với thiên nhiên, việc dạy các em miêu tả cảnh vật nhìn thấy,
nghe thấy... là con đường có hiệu quả nhất để giáo dục và phát triển ngôn ngữ

ở trẻ.
17


Ở bậc tiểu học, căn cứ vào đối tượng miêu tả, người ta chia thể loại văn
miêu tả thành năm kiểu bài: tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật (lớp 4); tả cảnh, tả
người (lớp 5).
* Nội dung chương trình văn miêu tả lớp 4, 5:
Số tiết dạy

Kiểu bài văn miêu tả
Học kì 1

Học kì 2

Cả năm

Chương trình văn miêu tả lớp 4
Khái niệm văn miêu tả

1

1

*Miêu tả đồ vật

6

Cấu tạo của bài văn miêu tả đồ vật


1

1

Luyện tập miêu tả đồ vật

2

2

Quan sát miêu tả đồ vật

1

1

Đoạn văn trong bài văn miêu tả đồ vật

1

1

Luyện tập xây dựng đoạn văn

1

4

10


2

3

Kiểm tra viết

1

1

Trả bài

1

1

*Miêu tả cây cối

11

11

Cấu tạo của bài văn miêu tả cây cối

1

1

Luyện tập quan sát cây cối


1

1

Luyện tập miêu tả bộ phận của cây cối

2

2

Đoạn văn trong bài văn miêu tả cây cối

1

1

Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây

3

3

Luyện tập miêu tả cây cối

1

1

Kiểm tra viết


1

1

Trả bài

1

1

*Miêu tả con vật

8

8

cối

18


Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật

1

1

Luyện tập quan sát con vật

1


1

Luyện tập miêu tả các bộ phận của con

1

1

Luyện tập xây dựng đoạn văn

3

3

Kiểm tra viết

1

1

Trả bài

1

1

vật

Chương trình văn miêu tả lớp 5

*Tả cảnh

15

15

Cấu tạo của bài văn tả cảnh

1

1

Luyện tập tả cảnh

10

10

Kiểm tra viết

2

2

Trả bài

2

2


*Tả người

8

Cấu tạo của bài văn tả người

1

1

Luyện tập (quan sát và chọn lọc chi tiết)

1

1

Luyện tập tả ngoại hình

2

2

Luyện tập tả hoạt động

2

2

Kiểm tra viết


1

1

2

Trả bài

1

1

2

Luyện tập xây dựng đoạn văn

2

2

Ôn tập về miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả

10

10

4

12


con vật, tả cảnh, tả người)
* Qua khảo sát, phân tích nội dung chương trình SGK Tiếng Việt chúng
tôi rút ra các nhận xét sau:
Xét về mặt thời lượng chương trình tiếng Việt hiện hành đã dành 72 tiết
(72 bài) cho nội dung dạy học văn miêu tả ở lớp 4, 5. Trong khi đó chương
19


trình cải cách giáo dục chỉ dành 63 tiết cho nội dung này. Trong đó có 5 tiết
dành cho ôn tập và kiểm tra học kì. Điều này chứng tỏ rằng chương trình
tiếng Việt hiện hành đã nhấn mạnh tới yếu tố thực hành, coi trọng việc rèn
luyện các kĩ năng.
Chương trình chú trọng luyện tập và thực hành nhằm rèn luyện các kĩ
năng bộ phận, đồng thời bước đầu hình thành những tri thức sơ giản về văn
bản (kết cấu 3 phần: mở đầu, kết thúc, phần chính của văn bản; đặc điểm,
phương pháp làm bài theo thể loại..
Qua thống kê ở trên, chúng ta thấy rằng, vấn đề dạy văn miêu tả ở lớp 4,
5 chương trình tiếng Việt hiện hành được triển khai trên hai kiểu bài: Hình
thành kiến thức mới và Luyện tập thực hành.
Ở kiểu bài Hình thành kiến thức mới, có cấu tạo ba phần (Nhận xét, Ghi
nhớ, Luyện tập), riêng phần Nhận xét và Luyện tập được xây dựng dưới dạng
bài tập. Phần Ghi nhớ chỉ bao gồm những vấn đề lý thuyết khái quát được rút
ra từ phần Nhận xét và sẽ được củng cố thêm ở phần Luyện tập.
Các bài tập ở phần Nhận xét có mục đích chính là giúp học sinh phân
tích ngữ liệu để rút ra các khái niệm hoặc quy tắc cần ghi nhớ. Mỗi bài tập ở
phần này sẽ tương đương với một bộ phận tri thức lí thuyết ở phần Ghi nhớ.
Đối với kiểu bài Luyện tập thực hành thường bao gồm một tổ hợp bài
tập. Các bài tập của kiểu bài Luyện tập thực hành và các bài tập ở mục Luyện
tập của kiểu bài Hình thành kiến thức mới đều có mục đích và hình thức
giống nhau. Chúng bao gồm hai loại: bài tập nhận diện và bài tập vận dụng.

Bài tập nhận diện có mục đích giúp học sinh củng cố các kiến thức lý
thuyết đã được hình thành trong bài (với các bài tập ở phần Luyện tập)
và các liến thức lý thuyết học sinh đã học ở những tiết trước (với các kiểu bài
tập ở bài Luyện tập thực hành).
Bài tập vận dụng có mục đích giúp học sinh ứng dụng lý thuyết về các
kiểu bài của văn miêu tả, ứng dụng cách trình bày nói và viết các phần trong
20


×